Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 sẽ trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả của quốc gia, khu vực và thế giới. Đây là mục tiêu được đề ra trong Quy hoạch vùng đầu tiên giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, triển khai theo Luật Quy hoạch của Việt Nam và được công bố tại thành phố Cần Thơ ngày 21/06/2022.

dbscl1

Đồng bằng sông Cửu Long đối mặt với biến đổi khí hậu. Ảnh minh họa ngày 04/03/2014. © Flickr / Georgina Smith / CIAT

Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long được giám đốc Ngân Hàng Thế Giới tại Việt Nam đánh giá (1) là "một cột mốc quan trọng" cho chính phủ Việt Nam. Bản quy hoạch "nêu bật được tư duy và tầm nhìn mới cho khu vực""đưa ra được những cơ hội to lớn để tạo ra các giá trị mới và mang lại sự chuyển đổi, cũng như tiềm năng tăng trưởng xanh, bền vững, đồng đều và thịnh vượng lâu dài trong khu vực".

Vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn được coi là vựa thóc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và đóng góp lớn cho nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, tỉ lệ huyện có số hộ nghèo so mức trung bình trên cả nước lại tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2015-2019, đặc biệt do các vấn đề biến đổi khí hậu và gần đây là hệ quả của đại dịch Covid-19. Lượng người di cư từ vùng này chiếm khoảng 37% tổng số người di cư trong cả nước vào năm 2020, theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới.

Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 23/06, tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch kiêm giám đốc Quỹ Bảo tồn Mekong (Mekong Conservancy Foundation, MCF), giải thích thêm những bất cập mà đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt :

"Bản quy hoạch này ra đời đúng vào lúc mà sự phát triển của đồng bằng sông Cửu Long đã tới "ngưỡng". "Ngưỡng" ở đây có hai ý nghĩa. Nghĩa thứ nhất về mặt diện tích, hiện nay diện tích đất canh tác trên đầu người ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ được 0,7 hecta. Với diện tích nhỏ như vậy, người nông dân bắt buộc phải tăng vụ, thâm canh hay phải làm rất nhiều vụ một năm mới đủ ăn, đủ xài. Tiếp theo, năng suất cây trồng, ví dụ cây lúa, năng suất hiện giờ đang đạt tới đỉnh, nghĩa là được tối đa 7-8 tấn/hecta một vụ. Thâm canh làm 2-3 vụ/năm nên đất đai cũng đến lúc bị kiệt quệ.

Yếu tố thứ hai là Quy hoạch của Đồng bằng sông Cửu Long. Bấy lâu nay chưa có Luật Quy hoạch, do đó mỗi tỉnh tự quy hoạch theo tỉnh, mỗi ngành tự quy hoạch theo ngành cho nên trong quá khứ, những quy hoạch đó bị chồng chéo nhau, thậm chí có những cái chọi nhau. Điều này làm cho người dân, kể cả chính quyền địa phương của nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian qua phải đối phó với rất nhiều bất cập, đôi khi rất lúng túng.

Ngoài ra, điều quan trọng là nhiều quy hoạch chồng chéo, không được minh bạch, rõ ràng, khiến phải điều chỉnh, sửa sang liên tục, làm cho các định chế tài chánh quốc tế, như Ngân Hàng Thế Giới hoặc Ngân Hàng Phát Triển Châu Á lúng túng khi muốn đầu tư hoặc cho vay tiền… Họ không biết dự án đó sẽ được làm hay không làm. Và quan trọng nhất là đối với giới đầu tư, những người muốn bỏ tiền làm ăn lâu dài với người dân ở đồng bằng, họ không biết phải đầu tư vô chỗ nào".

Bỏ tư tưởng chỉ tập trung vào cây lúa để bảo đảm an ninh lương thực

Tiến sĩ Dương Văn Ni nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Luật Quy hoạch năm 2017 tạo nền móng cho Quy hoạch cấp vùng đầu tiên của Việt Nam và tạo bộ khung cho thành phố Cần Thơ, cùng với 12 tỉnh trong vùng phát triển. Ngoài ra, Quy hoạch lần này mang tính khách quan, do được nhiều định chế nước ngoài tư vấn, tổng hợp hết những yêu cầu phát triển của các ngành, các địa phương, tính cả những yếu tố bất lợi như áp lực từ các nước thượng nguồn sông Mê Kông, biến đổi khí hậu toàn cầu…

"Trước đây, trong thời gian dài, nền nông nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long chịu áp lực rất lớn từ chính sách an ninh lương thực, thực ra chỉ là trồng lúa. Do đó, chúng ta làm bằng mọi giá, gần như là mọi nơi, mọi chỗ, mọi nguồn lực của xã hội từ vốn liếng đến các chính sách đều tập trung để phát triển cây lúa. Ngay cả những vùng không thuận lợi lắm cũng cố gắng trồng thật nhiều lúa, thành thử ra nó đẩy người dân vào tình huống rất khó khăn, lúc hạn hán hay xâm nhập mặn thì lại thiếu nước ngọt, làm cho việc sản xuất hàng ngày của người dân gặp rất nhiều khó khăn.

Tháo gỡ đầu tiên có thể nói chính là từ nghị quyết 120, được phê chuẩn cuối năm 2017. Nghị quyết đó lần đầu tiên xác định lại vai trò quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long, dựa trên ba trụ cột chính. Trụ cột thứ nhất là dựa trên thủy sản. Trụ cột thứ hai là trên cây ăn trái. Thứ ba mới là lúa gạo. Trong đó, lúa gạo là vấn đề số 1 vì lúa gạo bảo đảm về vấn đề an ninh lương thực.

Nói như vậy để thấy nền nông nghiệp phải chuyển dịch theo chiều sâu. Có nghĩa là bây giờ không sản xuất quá nhiều số lượng nữa, mà phải chú ý vào chất lượng, bởi vì chất lượng mới có thể làm tăng thu nhập của người dân. Đó là điểm mấu chốt".

Nguồn nước : Biến bất lợi thành ưu điểm để định hình ba trụ cột

Điểm khác biệt quan trọng nhất là Quy hoạch lần này đặt trọng tâm vào nguồn nước ở đồng bằng sông Cửu Long. Tiến sĩ Dương Văn Ni giải thích tiếp :

"Từ việc dựa trên ba trụ cột là thủy sản, cây ăn trái và lúa gạo, việc quy hoạch đồng bằng lần này phải bám sát vào mục tiêu của nghị quyết 120, do đó chia đồng bằng theo những vùng sinh thái dựa trên vấn đề cốt lõi nhất là nguồn nước, một trong những tài nguyên chủ lực : Có nguồn nước thì mới tính đến chuyện sản xuất.

Cũng nghị quyết 120 cũng cởi trói cho chúng tra về nguồn nước. Hồi trước, mình nhìn nước lũ hay nước mặn như kẻ thù nên phải tìm mọi cách để chống trọi. Còn trong nghị quyết 120 thì khẳng định lại : nước lũ, nước lợ hay nước mặn đều là tài nguyên. Và từ chuyển dịch về khái niệm đó nên mới chia đồng bằng thành ba vùng : Vùng thượng là vùng nước ngọt quanh năm ; thứ hai là vùng xen lẫn mặn-ngọt, hay còn gọi là vùng nước lợ ; thứ ba là vùng ven biển có nước mặn gần như quanh năm.

Dựa trên trụ cột từ ba nguồn nước đặc thù của đồng bằng sông Cửu Long, ở mỗi Châu thổ vùng như vậy, người ta chia ra thành những tiểu vùng sinh thái mang tính đặc thù dựa trên tài nguyên đất và chất lượng của nguồn nước, thời gian thay đổi nguồn nước đó trong năm chẳng hạn. Từ những tiểu vùng sinh thái đó, chúng ta sẽ vực dậy cho vấn đề sản xuất cho mạnh hơn. Những vùng có nước ngọt quanh năm, chúng ta có thể nghĩ đến sản xuất lúa, cây trồng, chăn nuôi thích nghi với nước ngọt. Còn ở những vùng có nước mặn nhiều, chúng ta sử dụng cây trồng, vật nuôi thích nghi với nước mặn".

Cải thiện môi trường để phát triển du lịch sinh thái

Trong tương lai, vùng đồng bằng sông Cửu Long dành "1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao nhằm nâng cao giá trị, thu nhập của người dân, bảo đảm an ninh lương thực và phục vụ chế biến, xuất khẩu" (2). Chỉ thị số 10/CT-Tg được phó thủ tướng Lê Văn Thành ký ngày ngày 18/06 nhấn mạnh đến ưu tiên phát triển các sản phẩm chủ lực, đặc sản. Mục tiêu đề ra là phát triển đồng bằng sông Cửu Long trở thành thương hiệu quốc tế về du lịch nông nghiệp-nông thôn, du lịch sinh thái. Về điểm này, tiến sĩ Dương Văn Ni giải thích thêm :

"Bây giờ nông nghiệp không còn nhìn vào điểm cố gắng đạt nhiều sản lượng nữa, mà nhìn vào chiều sâu, vào hiệu quả kinh tế. Do đó, nó lồng ghép thêm những khả năng tăng thu nhập cho người dân, ví dụ làm du lịch. Khi chúng ta giữ gìn sinh thái tốt, chọn lựa cây trồng, vật nuôi cho phù hợp, kiểu canh tác không gây ô nhiễm, độc hại đến cây trồng, vật nuôi thì đồng nghĩa với việc chúng ta phục hồi hệ sinh thái thì chúng ta mới có cơ may khai thác du lịch. Như vậy, trong quy hoạch kỳ này, chúng ta tìm mọi cách, thứ nhất là để phục hồi lại hệ sinh thái của đồng bằng, thứ hai là làm sao để phát huy hết nội lực của tài nguyên đồng bằng".

Quy hoạch còn chú trọng đến việc cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông với mục tiêu đến năm 2030 xây mới và nâng cấp khoảng 830 km đường bộ cao tốc, khoảng 4.000 km đường quốc lộ. Ngoài mục tiêu biến đồng bằng sông Cửu Long thành nơi đáng sống đối với người dân, mọi nỗ lực trong Quy hoạch còn hướng đến việc quản lý sử dụng tài nguyên một cách hợp lý để cải thiện sức khỏe môi trường nhằm ứng phó tốt hơn với biến đổi khí hậu, theo giải thích của tiến sĩ Dương Văn Ni :

"Điểm đặc biệt là quy hoạch này được chuẩn bị chu đáo từ mặt chính sách cho đến hướng dẫn về cách thực hiện quy hoạch này, kể cả chuẩn bị về vấn đề tiền bạc để thực hiện. Đặc biệt là chúng ta có rất nhiều nhà tài trợ hoặc là những định chế tài chính hay là Ngân Hàng Thế Giới, Ngân Hàng Châu Á…, họ rất sẵn sàng hỗ trợ, cho Việt Nam vay để phát triển Quy hoạch này. Đây là điểm đặc biệt so với những quy hoạch trước đây. Về những quy hoạch trước đây, nhiều khi quy hoạch rồi nhưng không biết lấy tiền ở đâu để làm. Lần này thì có cả cơ chế, chính sách, kinh phí. Nói như vậy để chúng ta thấy việc thực thi quy hoạch này có khả năng thành công rất lớn".

Ngân Hàng Thế Giới, một đối tác hỗ trợ chính phủ Việt Nam trong việc lập Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cam kết tiếp tục hỗ trợ khi Quy hoạch được triển khai. Cụ thể là các cán bộ của định chế tài chính này đã bắt đầu chuẩn bị một chương trình tổng hợp để thực hiện Quy hoạch vùng. Tuy nhiên, "chuyển từ tầm nhìn và quy hoạch sang thực hiện luôn là một thách thức" cho nên khi phát biểu tại lễ công bố ngày 21/06, bà giám đốc quốc gia Ngân Hàng Thế Giới tại Việt Nam đã nêu ba điểm quan trọng mà phía Việt Nam cần cân nhắc khi tiến hành : Thứ nhất, đảm bảo tập trung cao độ vào hiệu quả và hiệu lực ; thứ hai, đảm bảo sự phối hợp theo chiều dọc và chiều ngang ; thứ ba, đảm bảo quy hoạch vùng luôn được cập nhật. (3)

Theo tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch kiêm giám đốc Quỹ Bảo tồn Mekong, vì là quy hoạch cấp vùng đầu tiên được thực hiện theo Luật Quy hoạch năm 2017 nên Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long có thể không hoàn hảo 100%, nhưng đặt nền tảng để tiếp tục phát triển hoàn thiện hơn.

"Về điểm yếu, chúng ta đang làm ở mức độ cấp vùng, nên chưa đi vào ngóc ngách, vào thực tế của người dân cho nên sẽ phải cần rất nhiều sự sáng tạo, thông tin cập nhật và chính xác của từng địa phương. Rồi địa phương mới bắt đầu làm một quy hoạch chi tiết cho việc minh bạch. Cho nên còn cần thêm một bước nữa mà bước này cần vào sự quyết tâm của chính quyền địa phương và kể cả người dân ở địa phương đó. Chúng ta phải chia sẻ những kinh nghiệm, đặc biệt là vốn sống, những tri thức bản địa. Nếu tích hợp được đầy đủ những yếu tố đó, tôi tin rằng bản Quy hoạch cuối cùng cho từng địa phương, từng tỉnh sẽ tiếp cận tốt hơn vào đời sống thực tế của người dân".

Thu Hằng

Nguồn : RFI, 27/06/2022

(1) (3) Bài phát biểu của bà Carolyn Turk, giám đốc quốc gia Ngân Hàng Thế Giới tại Việt Nam tại Lễ Công bố Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thành phố Cần Thơ, ngày 21/06/2022.

(2) Báo Chính phủ, ngày 18/06/2022.

Published in Diễn đàn

Sử dụng nước ngầm quá mức

Theo B Tài nguyên và Môi trường Vit Nam, Đng bng sông Cu Long đang st lún mt cm mi năm, trong khi mc nước bin dâng là 3-5mm/năm. Trong đó, có mt s đa phương tc đ st lún trung bình lên ti 5,7cm/năm.

dbscl1

Ảnh minh họa chụp tại tỉnh An Giang trước đây. AFP Photo

"Nếu tình trng này tiếp tc din ra mà không có bin pháp khc phc thì trong tương lai, vùng đng bng s nm dưới mc nước bin", đó là mt trong nhng kết lun ca các chuyên gia môi trường nêu ra ti Hi tho chia s thông tin v d án ‘Qun tr st lún đt và qun lý nước ngm ti khu vc Đng bng sông Cu Long ’ din ra ngày 26/11/2021.

RFA hôm 30/11 liên lc Thc sĩ Nguyn Hu Thin, chuyên gia nghiên cu đc lp v sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long, người đã tham d bui Hi tho nêu trên và được ông cho biết v thc trng st lún ti Đồng bằng sông Cửu Long :

"Đồng bằng sông Cửu Long đang đi din rt là nhiu vn đ, trong đó có hai nhóm. Mt nhóm nh hưởng đến sn xut sinh hot, như xâm nhp mn, hòa nhp đô th, ô nhim... Nhưng có mt loi khác là đe da đến s tn ti ca Đồng bằng sông Cửu Long, đó là st l, mt đt và st lún... St lún thì tc đ rt nhanh, trung bình 1cm/mt năm, trong khi nước bin dâng có ba mm, st lún gp ba bn ln, có nơi mười my hai chc ln, 5,7cm là cao nht".

Theo ông Nguyn Hu Thin, có hai nguyên nhân chính, mt là do nén t nhiên. Ông gii thích, vì đng bng nào cũng nén do phù sa. Còn nguyên nhân th hai, ông đưa ra là do s dng nước ngm quá mc. Trong đó, nguyên nhân th hai, theo ông Nguyn Hu Thin, là rt nguy him.

Ý kiến ca ông Nguyn Hu Thin cũng nhn được s đng tình t Tiến sĩ Lê Anh Tun, Phó vin trưởng Vin biến đi khí hu Đi hc Cn Thơ khi ông tr li RFA cũng v đ tài v st lún vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Tiến sĩ Anh Tun cho biết thêm, Đng bng sông Cu Long là vùng đa cht rt non tr, không chc chn, khi tng nước ngm h xung thì d gây lún st. Ông phân tích k hơn :

"Ngăn chn khai thác nước ngm hin nay khá nan gii, vì đó là nhu cu s dng nước hàng ngày. Hin nay tôi cũng đang kiến ngh là tn dng nước mưa, các nơi tn dng ao h tr nước mưa, đ gim áp lc s dng nước ngm. Ngoài ra phi coi li chuyn sn xut cùng Đng bng sông Cu Long. Mùa khô thì không nên trng các loi s dng nước nhiu như cây lúa, v.v mà chuyn sang nuôi trng thy sn nước l hay nước mn chng hn".

Người dân : không "tương tác"

Đng bng sông Cu Long là khu vc sn xut nông nghip ln nht ca Vit Nam. Hu hết vic sn xut go ca quc gia, nuôi trng thy sn và sn xut trái cây được đt ti khu vc này.

T chc Future Direct International ca Úc vào năm 2020 cũng đã công b phân tích cho thy, st lún đt ti Đng Bng Sông Cu Long đang đe da va lương thc ca Vit Nam.

dbscl2

Nuôi thy sn ti Đng bng sông Cu Long, nh minh ha chp trước đây. AFP.

Đ tìm hiu tình hình thc tế, RFA hôm 30/11 liên lc ông Hai Lúa Cn Thơ, và được ông cho biết :

"Chc là so vi trước kia chc nó lún cũng khong mt tc (10cm), ch không ít đâu. Vì my năm trước khi nước nhiu thì ngp b bao, gi nước không ngp thì chc nó lún…".

Còn anh Năm Tân, mt người trng Su Riêng Tin Giang cho RFA biết hôm 30/11 rng, nếu có lún thì không th nhn biết bng mt thường, còn nước lũ triu cường tăng có th do mc nước bin dâng :

"St lún thì chc không phi, biến đi khí hu thì nước nó lên... ch lún thì không đến ni lún... chc do triu cường cao nên mi năm nước nó mi lên...".

Theo thông tin t d án Qun tr st lún đt và qun lý nước ngm ti khu vc Đng bng sông Cu Long, tc đ st lún Đng bng sông Cu Long cao hơn mc nước bin dâng tuyt đi. Điu này cho thy tc đ mc nước bin tương đi ch yếu là do st lún đt. Nếu không khc phc, phn ln din tích ca đng bng có th s nm dưới mc nước bin trung bình vào cui thế k 21.

Chính phủ : khai triển không đồng bộ

Gii pháp cp bách hin nay là gì và Chính ph Vit Nam nên vào cuc ra sao đ đi phó vi tình trng trên ? Thc sĩ Nguyn Hu Thin, nêu ý kiến :

"Chính ph có ra ngh đnh 167 phân làm năm vùng hn chế khai thác, giao cho tng tnh đ thc hin. Nhưng khi trin khai tng tnh thì có lm vn đ, tôi thy 167 là n lc ban đu tt, nhưng chc cn phi sa đi. Vì th nht là d liu không có đ cho các tnh nghiên cu chi tiết st lún liên quan nước ngm ti đa phương, ch có cp đng bng, không đ đ lên bn đ. Chuyn th hai là giá nước ngm rt r so vi giá nước mt, vì giá nước mt quá ô nhim... nhiu phân bón thuc tr sâu nên x lý rt tn kém. Nên xài nước ngm tin li hơn, nhưng có hai mt, nếu đa phương n ào siết không cho s dng nước ngm thì nhà đu tư s b đi".

Ngoài ra, theo Thc sĩ Nguyn Hu Thin, do nn nông nghip Đồng bằng sông Cửu Long quá thâm canh, nên s dng nước ngm quá nhiu. Mt khó khăn na ca ngh đnh 167 theo ông Thin là các tng nước ngm sâu liên tnh ch không riêng mt tnh, nên phân theo tng tnh đ hn chế thì chưa thc s hiu qu. Do đó cn phi có quy hoch tng th cho nước ngm. Ông Thin cho biết thêm nhng hn chế ca ngh đnh 167 :

"Chính ph lp bn đ nước ngm theo chiu ngang, mà có ti by tng nước ngm nhưng không phân vùng theo chiu đng. Như vy s có tng nước ngm vn b lm dng như thường, thiếu liên kết vùng, thiếu điu phi vùng, thiếu cơ chế chế tài đ x pht nếu vi phm ngh đnh 167. B thì giao xung tnh công vic đ làm theo 167, nhưng không cp kinh phí, tnh thì thiếu năng lc, thiếu kinh phí nên rt khó khăn khi thc hin 167".

Thc sĩ Nguyn Hu Thin cho rng, vic s dng nước ngm như vy nếu không có cách hn chế thì "con tàu" Đồng bằng sông Cửu Long s chìm nhanh hơn mc nước bin dâng. Điu này rt nguy him, đe da s tn ti ca đng bng. Chính ph cn ci thin Ngh đnh 167, ci cách nông nghip, quay li s dng nước sông ngòi như cách đây my chc năm. Đi vi vùng ven bin thì cn có nhng bin pháp, công ngh hin đi như bc hơi nước nano, lc nước bin... và x dng ao mươn, phương pháp truyn thng đ tích tr nước cho mùa khô...

T chc Future Direct International cũng cho rng, Đồng bằng sông Cửu Long đang phi đi mt vi bn thách thc có nguy cơ làm suy yếu ngành nông nghip là : sn xut nông nghip không bn vng ; mc nước bin dâng và st lún đt ; vic xây dng đp trên sông Mê Kông ; và tăng đ mn ca đt và nước.

Cũng theo T chc Future Direct International, trong 20 năm qua, khai thác nước ngm ti Đồng bằng sông Cửu Long đã tăng gp bn ln. Tc đ khai thác đó đã khiến mc nước ngm gim ti 20 mét mt s nơi, dn đến vic đt b chìm đến 18 cm.

Nguồn : RFA, 30/11/2021

Published in Việt Nam

Mần ruộng có làm giàu được không ?

Cửu Long, VNTB, 02/11/2021

Ngày 30/10, tại phiên thảo luận về quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, nhiều đại biểu Quốc hội đã đề xuất giảm diện tích lúa, tăng diện tích chuyển đổi sang mục đích khác để người dân đồng bằng sông Cửu Long có cơ hội thoát nghèo.

mientay2

Nông dân bao đời nay vất vả làm lúa để nuôi sống xã hội nhưng chẳng thoát khỏi cái nghèo. Đó là một bất công.

Theo dự thảo nghị quyết về dự kiến quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021 – 2025) do Chính phủ trình, diện tích đất trồng lúa trên cả nước đến năm 2030 sẽ giảm khoảng 348.000ha, từ 3,9 triệu ha xuống 3,5 triệu ha.

Việc giữ 3,5 triệu ha đất để sản xuất được ít nhất 35 triệu tấn lúa nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia là quá lớn, không thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện đời sống người dân ở vùng có đất lúa lớn như đồng bằng sông Cửu Long.

"Một vùng với 12% diện tích và 19% dân số của cả nước mà gánh gần 50% diện tích đất lúa là chưa phù hợp. Như vậy, trong 10 năm tới đồng bằng sông Cửu Long vẫn là vùng sản xuất lúa chính vì sự chuyển đổi diện tích là quá nhỏ và theo hướng này, vùng này khó có thể đô thị hóa hoặc phát triển theo hướng công nghiệp nhanh được" – đại biểu Nguyễn Thanh Phương của Đoàn đại biểu Cần Thơ, ý kiến.

Ông Nguyễn Thanh Phương hiện là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Cần Thơ.

Vẫn theo ông Phương, cần cân nhắc điều chỉnh giảm diện tích lúa của Đồng bằng sông Cửu Long xuống mức 1,3 – 1,4 triệu ha, thay vì 1,67 triệu ha vào năm 2030. Như vậy diện tích đất lúa cả nước sẽ vào khoảng 3,2 triệu cho giai đoạn 10 năm tới là hợp lý. "Làm nông khó giàu lên lắm, để người dân có thể ly nông nhưng không ly hương mới là điều chúng ta cần, còn ly nông mà ly hương là vấn đề cần tránh" – ông Phương nhấn mạnh.

"Làm nông khó giàu lên lắm" là không sai nếu như vẫn giữ nguyên Luật Đất đai như lâu nay.

Ông Nguyễn Trọng Bình, giảng viên tại Đại học Cửu Long, tỉnh Vĩnh Long, kể câu chuyện bằng tâm thế là người trong cuộc (trích) :

"Tôi sinh ra và lớn lên ở Vĩnh Long, từ nhỏ đã biết theo ba mẹ ra đồng làm ruộng. Ngón tay út của bàn tay trái tôi hiện vẫn còn một vết sẹo dài – vết tích của lần ‘tập sự’ đầu tiên cầm cái lưỡi hái cắt lúa khi vừa xong tiểu học. Cho đến giờ tôi vẫn còn ám ảnh chuyện này. Đó cũng là lý do suốt những năm tháng tuổi thơ đến khi vào đại học tôi rất sợ công việc đồng áng.

Với tôi công việc này quá vất vả chứ không đẹp và lãng mạn như cách nói của các văn nghệ sĩ. Trong mắt tôi, nông dân bao đời nay vất vả làm lúa để nuôi sống xã hội nhưng chẳng thoát khỏi cái nghèo. Đó là một bất công.

Trước bất công ấy, chúng ta đã làm gì ? Mỗi ngày, mỗi người trong chúng ta đều "bưng bát cơm đầy" nhưng hãy tự vấn lại xem mấy ai chỉ biết "dẻo thơm" chứ không thật sự thấu hiểu những "đắng cay muôn phần" của người làm ra hạt gạo ấy ? Phải chăng tất cả chúng ta đang nợ nông dân lời xin lỗi và lòng biết ơn chân thành ? Cũng phải chăng vì chưa từng cúi xuống thật gần với nông dân để thấu hiểu họ nên chúng ta không thật sự tri ân.

Và vì không biết ơn đủ nên những báo cáo vĩ mô vẫn chưa cho thấy hết tinh thần thần trách nhiệm của những người may mắn được ngồi trong phòng lạnh để bàn về những quyết sách mang tầm quốc gia đại sự ?".

Thầy giáo – nông dân Nguyễn Trọng Bình kể tiếp : Ở quê vợ tôi, cô Xoan là người quyền lực. Cô là thương lái độc quyền cân lúa khu vực này.

Ba vợ tôi vốn là giáo viên cấp hai ở một huyện thuộc tỉnh An Giang. Ngoài dạy học, ông là một nông dân chính hiệu. Cách đây mấy hôm, tôi về An Giang thăm và phụ ông thu hoạch vụ lúa Đông Xuân muộn. Công việc của tôi là theo dõi thợ dùng máy liên hợp cắt và cho lúa vào bao, sau đó chở ra đoạn quốc lộ 91 cách đó một cây số để chờ thương lái đến cân. Sau khoảng ba giờ, lúa của ba tôi được chuyển hết ra quốc lộ, chất liền kề với lúa của các hộ khác. Tất cả đều chờ cô Xoan, người phụ nữ ngoài 50 tuổi, cho xe tải đến cân và tính tiền.

Dáng người thấp, cô Xoan có cái miệng rất xởi lởi. Khi nói chuyện, cô hay đệm vào mấy tiếng chửi thề bất kể người đang giao tiếp với mình là ai. Vì gần như chỉ mình cô độc quyền cân lúa ở đây nên cô muốn đến lúc nào thì đến, dù là sáng sớm hay nửa đêm thì tất cả cũng phải ngồi chờ.

Thêm nữa, cách cô cân lúa rất "độc" và "lạ". Cô cho người thảy bao lúa lên cái cân đồng hồ, ghi lại số ký lô theo kiểu trừ hao thụt lùi chứ không tiến bao giờ. Ví dụ, kim của cân đồng hồ chỉ 45,8 ký, cô sẽ làm tròn thành 45 ký cho dễ tính.

Đó là chưa kể, cô còn tiếp tục "trừ bì" với một quy ước bất thành văn : cứ 8 bao đựng lúa cô sẽ trừ lại đúng bằng một ký. Quyền lực cuối cùng và lớn nhất là cô sẽ quyết định giá lúa của mỗi nông dân tùy vào "dàn lúa" mà theo cô là khô hay ướt, dơ hay sạch hoặc đôi khi, hôm đó của cô vui hay buồn.

Mười năm trước, lần đầu tiên cùng tham gia cân lúa với cô, tôi đã mang tất cả những vô lý và bất công trên nói lại với ba vợ tôi. "Chịu thôi con, vì ở đây ai cũng vậy chứ đâu phải riêng mình", ông tặc lưỡi. Ông kể tôi nghe chuyện ông Năm hàng xóm, lần nọ vì phàn nàn cách cân lúa của cô Xoan, thế là vụ tiếp theo cô không mua nữa. Ông Năm phải thuê xe chở lúa qua khu vực khác để bán, vừa vất vả lại còn mất thêm chi phí chuyên chở.

Vụ Đông Xuân này, cô Xoan cân lúa của ba tôi với giá năm ngàn năm trăm đồng mỗi ký. Lẽ ra là năm ngàn sáu trăm đồng, nhưng vì đêm trước khi cắt lúa, cả miền Tây bất ngờ có một cơn "mưa vàng" nên cô Xoan "trừ hao vì lúa ướt". Ba tôi sau khi nhận tiền từ tay cô, chạy ngay đến đại lý vật tư nông nghiệp gần đó để thanh toán chi phí phân bón, thuốc trừ sâu đã mua từ đầu vụ. Bữa cơm chiều hôm đó, sau khi kết toán lại tất cả các khoản chi phí, ba tôi thông báo "vụ này coi như huề vốn, lỗ công".

Nghe ông nói, tôi chỉ lặng im. Tôi nhớ đến cái miệng xởi lởi hay chửi thề của cô Xoan, các hội nghị, hội thảo bàn về "nông nghiệp – nông dân – nông thôn" hay tranh cãi quanh vấn đề "an ninh lương thực" quốc gia liên quan đến xuất khẩu gạo trong bối cảnh đại dịch Covid-19.

Tôi nhớ một cựu Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2014 đã xác quyết "người nông dân làm lúa có lãi 30%".

Tôi cũng ấn tượng hơn cả trước khuyến cáo của một vị giáo sư luôn được giới thiệu là "chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp". Ông nói : "Nông dân lâu nay làm lúa không giàu thì không nên làm lúa nữa mà hãy chuyển đổi sang mô hình khác, nhất là trong bối cảnh đồng bằng sông Cửu Long bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn ngày một khốc liệt".

Bằng quan sát và trải nghiệm cá nhân trong tư cách một người trong cuộc, thật sự tôi hoang mang với khuyến cáo của vị giáo sư ; hay ít ra, trong cái nhìn của tôi, đây chưa phải là giải pháp căn cơ, toàn diện và thấu hiểu sự phát triển của đồng bằng và bài toán an ninh lương thực quốc gia.

Ai đã tìm hiểu về lịch sử đất nước Israel đều biết quốc gia này phần lớn là sa mạc, thế nhưng với những ý tưởng và quyết tâm ngỡ như không tưởng, giờ đây họ trở thành quốc gia hàng đầu về nông nghiệp công nghệ cao.

Từ năm 2013, Israel đã tuyên bố tự sản xuất nước mà không còn phụ thuộc vào thời tiết. Trong so sánh với Israel, Việt Nam hiện vẫn là nơi được thiên nhiên rất ưu đãi. Nếu chỉ vì ba tháng khô hạn mà chúng ta lại từ bỏ thế mạnh và sở trường trồng lúa của mình đã nên chưa ? Thế nên theo tôi, nếu người dân làm lúa không giàu thì việc trước tiên là làm sao để họ giàu lên chứ không phải "xui" họ chuyển sang làm việc không đúng sở trường của mình. Khuyến cáo người dân thôi trồng lúa nhưng chưa xác định được trồng gì, nuôi gì thay thế, có quá vội vàng ?

Ngoài ra, để ứng phó với biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn hiện nay, việc thay đổi tư duy để có một quyết sách căn cơ nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên nước cho vùng đồng bằng sông Cửu Long như cách người Israel đã làm có lẽ là ưu tiên để bàn luận.

Khi ấy, cho dù đồng bằng có bị xâm nhập mặn vào mùa khô thì với vòng đời 90 ngày của cây lúa, tôi cho rằng việc đáp ứng nguồn nước tưới tiêu hoàn toàn không phải chuyện bất khả…".

Không dài dòng như hai giảng viên bậc đại học ở trên, lão nông Lê Văn Phải ở ấp Sơn Tiến, xã Nam Thái Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang tỉnh rụi, "Tui kiến nghị cần sớm bỏ vụ hạn điền đối với xứ miền Tây Nam bộ, để ai có tiềm lực kinh tế, có kinh nghiệm thì đầu tư vô, ai không có khả năng thì dồn cho người khác, chuyển đổi nghề phù hợp hơn !".

Những lão nông tri điền ở ấp Sơn Tiến đều biết con đường trở thành "chúa đất" của ông Lê Văn Phải (Út Phải, 69 tuổi) : "Khi địa phương bắt đầu thực hiện chính sách giãn dân và đẩy mạnh khai phá đất hoang hóa trên địa bàn, nhờ có máy cày ông Út Phải đã nhanh chóng phất lên.

Do khó có khả năng khai phá bằng sức người, nhiều nông dân không tiền đã nhờ ông đem máy cày đến san ủi, cải tạo đất rồi trả công bằng một phần diện tích ruộng được cấp. Từ đó, ông nhanh chóng có được nhiều thửa ruộng tốt".

Rồi ông bỏ tiền mua những thửa ruộng xấu, không bằng phẳng, còn dậy phèn với giá chỉ 5 – 6 giạ lúa/công, dùng máy cơ giới cải tạo thành ruộng tốt. Cứ thế, diện tích đất của ông đã tăng vùn vụt, có lúc lên tới hơn 600 công.

Bốn người con của ông khi lập gia đình, ra riêng đều được ông chia cấp cho mỗi người cả trăm công. Sau đó họ lại mua thêm đất nên hồi ấy có người mới ngoài 20 tuổi đã có hơn 200 công ruộng cùng nhiều phương tiện cơ giới khác trị giá hàng trăm triệu đồng. Mỗi vụ lúa hồi chục năm trước, họ thu lãi 400 – 500 triệu đồng…

Cửu Long ghi chép

Nguồn : VNTB, 02/11/2021

*********************

Vì sao nông dân miền Tây đang nghèo đi ?

Hồng Dân, VNTB, 01/11/2021

"Diện tích đất trồng lúa bị giảm sẽ dẫn đến nhiều lao động nông thôn bị thất nghiệp, trở thành lao động tự do. Có dự án thu hồi đất lúa xong thì bị bỏ hoang rất lãng phí, trong khi người dân không có đất sản xuất. Đó là chưa kể một số địa phương vẫn để tình trạng tự ý chuyển đổi đất lúa sang mục đích khác".

Đó là ý kiến của bà Mai Thị Phương Hoa, Phó Chủ Nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, tại phiên thảo luận về quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của dự thảo nghị quyết về dự kiến quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021 – 2025) do Chính phủ trình. Theo đó, diện tích đất trồng lúa trên cả nước đến năm 2030 sẽ giảm khoảng 348.000ha, từ 3,9 triệu ha xuống 3,5 triệu ha.

mientay0

Nông hộ nhỏ lẻ rất khó thoát nghèo và làm giàu từ cây lúa vì muốn làm giàu, họ phải có trên 3 ha.

Bà Mai Thị Phương Hoa nói rằng nên cân nhắc tiêu chí chuyển đổi diện tích đất trồng lúa. sang đất phi nông nghiệp, bởi mỗi ha đất nông nghiệp dành cho khu công nghiệp có vài ha đất không thể sản xuất. Đối với địa phương có diện tích đất trồng lúa cần có rà soát, chế độ khuyến khích để phát triển góp phần bảo đảm an ninh lương thực.

Theo góc nhìn của vị nữ Phó Chủ Nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, thì phải xác định rõ nguyên tắc, tiêu chí cho phép chuyển đổi đất lúa, khu vực nào cần chuyển đổi, khu vực nào cần giữ. Mặc dù về lâu dài, để phát triển kinh tế, cần có quỹ đất dành cho khu công nghiệp, nhưng cần hạn chế thấp nhất việc chuyển đổi đất lúa sang đất khu công nghiệp vì đất này khó có thể bảo đảm quay trở lại trồng lúa.

Bà Mai Thị Phương Hoa cũng cho rằng, đối với địa phương có diện tích đất trồng lúa lớn, đề nghị Chính phủ có tổng kết thực hiện chính sách hỗ trợ để đưa ra các chính sách phù hợp hơn và có giải pháp tăng giá trị lúa gạo.

Thế nào mới gọi là "chính sách phù hợp hơn" ?

Thứ nhất là chuyện nước. Muốn có nước phải chi tiền. Ngày trước, tại nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long, nông dân canh nước lớn để thả nước vô ruộng. Bây giờ có đê bao, nông dân khỏi canh nước, nhưng phải trả tiền cho chủ trạm bơm. Thực tế mùa hạn mặn năm nay, nhà nông vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long phải chi tiền nhiều hơn để có nước ngọt giữ đồng lúa, vườn cây, ao cá. Và cái khó còn kéo dài.

Thứ nhì là chuyện phân bón. Ngày chưa có đê bao, nông dân làm lúa chỉ hai vụ, còn lại là cho đất nghỉ. Mùa khô có trùn, dế làm tơi đất. Mùa nước có phù sa bồi đắp. Đất tốt tự nhiên nên ít dùng phân bón hóa học. Ngày nay làm ba vụ lúa, phải bón phân nhiều và theo đó cũng phải dùng nhiều thuốc bảo vệ thực vật, tốn tiền hơn cho phân và thuốc.

Thứ ba là chuyện canh tác. Giờ hầu hết các khâu đều do máy móc làm. Chuyện vần công, đổi công, thuê mướn nhân công làm ruộng ngày càng hiếm. Giờ nông dân trả tiền cho chủ máy.

Thứ tư là chuyện bán. Thay cho cách trữ lúa và xay gạo bán dần, ăn dần ngày trước, nay nông dân bán hết lúa tươi tại ruộng rồi mua lại gạo chợ để ăn, mất tiền cho "cò" lái lúa và mất cho người bán gạo.

Thứ năm, đã có những người tiên phong thay đổi nhưng vẫn chưa phát triển rộng khắp. Bởi trừ khi có thật nhiều đất, bằng không, nông dân không thể nào giàu được nếu làm nông nhưng không được đổ mồ hôi trên đất, không có thêm tiền từ việc đồng áng, và phải chi phí đủ thứ tiền cho hàng loạt vấn đề như hiện nay.

Trong tham luận đưa ra tại hội thảo ở Cần Thơ hồi tháng 5-2017, "Tích tụ, tập trung đất đai vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa", phía Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ) khẳng định nông dân Nam bộ muốn giàu từ cây lúa phải có trên 3 ha diện tích đất.

Theo nhận định của đại diện GIZ, đồng bằng sông Cửu Long là nơi có điều kiện ưu đãi nhất về sản xuất lúa gạo. Tuy nhiên, hộ chuyên lúa phải có ít nhất 2 ha thì mới vượt qua ngưỡng đói nghèo ; hộ có ít nhất 3 ha mới đạt tới ngưỡng thu nhập trung bình ở nông thôn. Do đó, nông hộ nhỏ lẻ rất khó thoát nghèo và làm giàu từ cây lúa vì muốn làm giàu, họ phải có trên 3 ha.

Và để có "chính sách phù hợp hơn" như ý kiến của bà Mai Thị Phương Hoa, Phó Chủ Nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, căn cơ là có những thay đổi phù hợp về quyền đất đai nông nghiệp của tư nhân.

Nôm na, muốn làm giàu phải tích tụ ruộng đất, và khi tư nhân đã dốc vốn liếng tích tụ ruộng đất để mần ruộng thì họ sẽ không bị ám ảnh của ‘đánh tư sản’, của ‘quốc hữu hóa’ từ viện dẫn đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, quản lý.

Hồng Dân

Nguồn : VNTB, 01/11/2021

Published in Diễn đàn

Cần sớm có quyết sách bảo tồn đa dạng sinh học hệ sinh thái Đồng Bằng Sông Cửu Long

Bo tn đa dng sinh hc h sinh thái t nhiên đ phát trin bn vng Đng Bng Sông Cu Long (Đồng bằng sông Cửu Long) là ta đ mt bài viết ca tác gi Cao Thành Nghip trên mng báo Tiếng Dân ngày 11/10 va qua.

baoton1

Thuyền của người dân trên Sông Hậu, Cần Thơ, Đồng bằng sông Cửu Long hôm 17/7/2017 AFP

Theo tác gi, h sinh thái t nhiên như các rng tràm ngp nước, sen súng, c năng, c ng, cho ti nhng di rng tràm ngp mn ven bin vi đa dng sinh hc, đang b tác đng nghiêm trng bi s phát trin kinh tế và nông nghip hin thi.

Bên cnh đó, đt canh tác lúa và đt nuôi trng thy sn càng ngày càng tăng khiến cho din tích rng tràm và h sinh thái rng tràm t nhiên dn dnthuhp li.

Ngoài ra, các h sinh thái đng thc vt lâu đi trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng dn dà biến mt, chưa k cnh quan thiên nhiên biến đi theo chiu hướng xu.

Tm quan trng ca Đồng bằng sông Cửu Long, vic bo tn và phát trin, bin pháp bo tn h sinh thái rng trànlà nhng mc được trin khai mt cách chi tiết. Qua đó đưa ra cnh báo cn đy nhanh tiến đ thc hin các d án bo tn và phát trin h sinh thái rng ngp mn ven bin, các d án trng mi và tái sinh rng ngp nước ; nghiêm cm bao bãi bi ca sông đ nuôi trng thy sn làm hy hoi tiến trình bi t và phát trin rng ngp mn non tr ca thiên nhiên.

Song song đó, tác gi khng đnh vic tiến hành quy hoch các khu bo tn đt ngp nước, bo v đa dng sinh hc ca vùng đt ngp nước đó, bên cnh nhng tràm chim t nhiên, các rng đc dng ngp mn phòng h ven bin có giá tr như lá chn bo v môi trường Đồng bằng sông Cửu Long…đu là nhng công vic vô cùng thiết yếu.

Nên nhìn nhn thc tin tiến hóa rng môi trường sng thay đi thì h sinh thái bt buc thay đi đ thích ng vi điu kin môi trường sng, là nhn đnh đu tiên ca Tiến sĩ Nguyn Quc Trinh, chuyên gia khí tượng thy văn bin, tng làm vic nhiu năm trong Trung Tâm D báo Khí tượng-Thy văn Trung ương, B Tài nguyên Môi trường Vit Nam:

"Vi thiên tai hay biến đi khí hu là quy lut t nhiên mang tính toàn cu, không phân bit hay có vùng cm. Nó hot đng ngu nhiên theo qui lut t cân bng đng (biến đi) do nh hưởng tác đng ca con người"

"Trong quá trình t cân bng này s ny sinh ra rt nhiu hin tượng cc đoan bt thường và rt nguy him gây thit hi đến kinh tế - xã hi như hn hán - xâm nhp mnkéo dài làm cn kit ngun nước nhiu nơi trên thế gii, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long không phi là ngoi l. Nhng hin tượng này s làm biến đi môi trường sinh thái, thm chí có th mt s loài s biến mt hoc thay đi đ thích ng vi môi trường sng mi".

baoton2

Người dân đng trên cánh đng khô hn Sóc Trăng, Đồng bằng sông Cửu Long hôm 30/3/2016. Reuters

Trong bài viết v môi trường sinh thái ca Đồng bằng sông Cửu Long, Tiến sĩ Nguyn Quc Trinh nói tiếp, ch nhn mnh nhiu góc đ riêng v vai trò, s suy gim và gii pháp duy trì ca h sinh thái mà chưa có cái nhìn tng th v tương tác vi vùng khác hay khía cnh khác:

"Đồng bằng sông Cửu Long là mt phn h lưu ca h thng sông Mê Kông. Vùng Nam b ca Vit Nam cũng là mt trong nhưng phn khác ca Trung Quc, Lào, Thái Lan và Campuchia trong h thng lưu vc sông Mê Kông. Do đó, bài toán phát trin kinh tế, an ninh lương thc, an ninh năng lượng thì quc gia nào cũng quan tâm và chú ý nhm duy trì thúc đy phát trin, nên quc gia nào cũng có chiến lược riêng"

Thế nhưng bài viết ch dng li dng đưa ra thông tin mà chưa có hướng gii quyết c th, là nhn xét tiếp theo ca Tiến sĩ Nguyn Quc Trinh:

"Nó chng khác nào như vic gi là "biết ri, kh lm, nói mãi". Vn đ đây là cn có nhng hành đng c th. Thí d nếu thiếu nước thì cn có nơi d tr nước hay quy hoch và xây dng nhng vùng d tr nước, d tr sinh quyn, t đó h sinh thái mi được bo tn. Cái khó là kinh phí đâu, s làm nơi nào, ai s làm và ai s chu trách nhim, vào khi vn đ khôngcòn mi hay xa l na mà ch là chưa thc hin được thôi".

Tiến sĩ Lê Anh Tun, chuyên gia Vin Nghiên cu Biến đi khí hu, Khoa Môi trường & tài nguyên thiên nhiên Đi hc Cn Thơ, nói rng trước tiên ông mun khng đnh chính sách và lut l thì Vit Nam hoàn toàn không thiếu. Đó là Lut Môi trường, Lut Tài nguyên nước, Lut Đa dng sinh hc, vân vân.

V qui hoch, ông nói, t trước Vit Nam có nhng qui hoch đơn ngành v nước, đt, môi trường cho đến gi là mt bn qui hoch tng th hướng ti s phát trin kinh tế-xã hi Đồng bằng sông Cửu Long t 2020-2030, tm nhìn 2050, đang trong giai đon hoàn chnhvà ch Hi đng Chính ph phê duyt :

"Bn qui hoch có s phát trin v mt kinh tế, mt sn xut nông nghip, thy sn, k c môi trường ca nhng vùng phi bo v cn trng hơn.

Tuy nhiên trong điu kin nhng quc gia còn nghèo như Vit Nam, đôi khi t qui hoch và chính sách mà đi ti thc tin trong các đa phương thì còn nhng khong cách. Nhng vi phm do thiếu kim soát hay do mt s quan chc tiếp tay cho lâm tc phá rng chng hn. Nhng cái phi ngăn chn bng lut l vn còn là câu chuyn v lâu v dài. Tôi mun khng đnh là tt c lut l đu có sn, ch vn đ là thc thi nghiêm túc đến thế nào thôi".

Đi vi Tiến sĩ Nguyn Quc Trinh, phn ln vic bo tn được thc hin theo kiu tc thi và ngn hn, có nghĩa theo kiu "đánh trng b dùi", kiu miếng bánh ln chia thành nhiu miếng nh, hoc kiu tư duy nhim k:

"Tôi không phán xét vn đ v đim đúng và đim sai hay cn phát huy hay không cn phát huy, đng ý và không đng ý. Bài viết ch đưa ra thông tin v h sinh thái mt cách chung chung".

Vn đ v thay đi h sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long ca Vit Nam hay bt k nơi nào trên thế gii, vn li ông Nguyn Quc Trinh, đu là bình thường trong chui tiến hóa.

baoton3

Cánh đng hoa Sa Đéc, Đồng bằng sông Cửu Long hôm 22/1/2021. AFP

Vai trò trng yếu ca Đồng bằng sông Cửu Long trong đà phát trin bn vng ca đt nước là điu không th chi cãi, bài viết đây phn nh mt cnh báo cp thiết, nhng bài hc phi được nhc đi nhc li. Nhà nghiên cu Lê Anh Tun nhn xét :

"Đồng bằng sông Cửu Long, h lưu ca con sông ln Mê Kông, là vùng đt tiếp giáp bin có din tích trên bn triu héc-ta và nhiu h sinh thái khác nhau t vùng ngp nước liên quan ti rng ngp mn.

Chính s đa dng sinh hc t vùng nước ngt ngp sâu cho ti vùng nhim mn tiếp giáp vi bin, rt nhiu đng vt, thc vt khác nhau, đã hình thành ra nhng vùng đt có giá tr bo tn và giá tr v mt khoa hc, môi trường.

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn có nhng khu d tr sinh quyn, chy dài t Kiên Giang ra tn đt mũi Cà Mau, là nhng di sn quí báu ca thiên nhiên dành cho con người. Tuy nhiên nó đng thi b tác đng do t nhiên cũng có mà do con ngườicũng có.

Nhng tác đng t nhiên mang tính toàn cu như hin tượng biến đi khí hu và nước bin dâng làm thay đi sinh cnh, làm đt bthuhp li hoc được m rng ra.

V nhng tác đng t con người, s thay đi dòng chy trên sông Mê Kông, do nhng hot đng thy đin thượng ngun, đã nh hưởng rt ln đn vic trng lúa hay nuôi trng thy sn… Bên cnh đó còn nhng yếu t v ô nhim do sinh hot hay sn xut làm c h sinh thái b đe dọa.

Nếu không có gii pháp chng đ va biến đi khí hu va nhng hot đng ca con người thì c nt vùng canh tác và sn xut Đồng bằng sông Cửu Long cũng b de da".

Dưới mt Tiến sĩ Nguyn Quc Trinh, hin tượng biến đi khí hu, tình trng ô nhim môi sinh t nhng khu vc sinh sng, canh tác và sn xut ca con người là chuyn bình thường trên thế gii, thì cái rt không bình thường cho Vit Nam là mt vùng Đồng bằng sông Cửu Long b mt đi s thnh vượng trù phú ca nó bng tt c nhng tác đng theo chiu hướng xu như đã nói :

"Nhưng đ có h sinh thái biến đi, thay đi tích cc thì cn thiết phi có nhng quyết sách đúng đn và nhng con người công tâm thc hin vì li ích chung".

Nếu không thì s hy dit h sinh thái s din ra nhanh hơn hơn d kiến, dn đến tình trng hoang mc hóa như mt s vùng đt trên thế gii đã tng b như vy, Tiến sĩ Nguyn Quc Trinh kết lun.

Thanh Trúc

Nguồn : RFA, 18/10/20221

Published in Diễn đàn

Vùng đồng bằng sông Cửu Long đang tiếp tục bị sụt lún, mà nguyên nhân chủ yếu là nạn khai thác nước ngầm quá mức, tiêu biểu là trường hợp của thành phố Cần Thơ, nơi mà tình trạng đường phố ngập nước ngày càng nặng nề.

cantho1

Tình trạng sạt lở bờ sông khu vực Đồng bằng sông Cửu Long diễn biến ngày càng phức tạp. Trong ảnh: Sạt lở ở quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ năm 2019

Sau nhiều thập niên xây dựng và phát triển, thành phố Cần Thơ đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực, góp phần- nếu không nói là đóng vai trò nòng cốt - trong sản xuất nông nghiệp để Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu gạo nhất nhì trên thế giới. Cũng trong khoảng thời gian này, Cần Thơ đã thực hiện được vai trò trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long về thương mại, sản xuất - chế biến, dịch vụ, giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.

thành phố Cần Thơ đã tổ chức hội thảo, nghiên cứu kế hoạch xây dựng để trở thành một đô thị hạt nhân của Đồng bằng sông Cửu Long, với một trung tâm khoa học-công nghệ về nông nghiệp của quốc gia và khu vực. Tuy nhiên, Cần Thơ là một đô thị của Đồng bằng sông Cửu Long, một trong 3 Châu thổ trên thế giới bị tác động trầm trọng nhất của biến đổi khí hậu.

Như vậy, thử hỏi có thể nào xây dựng Cần Thơ trở thành đô thị hạt nhân của Đồng bằng sông Cửu Long với những hình ảnh của hơn phân nửa diện tích thành phố bị ngập nước ? Đó chính là mối ưu tư rất lớn của tiến sĩ Huỳnh Long Vân, nhóm nghiên cứu Văn Hóa Đồng Nai Cửu Long Úc Châu, trong bài trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Sydney ngày 27/04/2021.

RFI : Thưa tiến sĩ Huỳnh Long Vân, trước hết xin ông cho biết là tình trạng sụt lún của thành phố Cần Thơ nói riêng và của vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung là do những nguyên nhân gì ?

Huỳnh Long Vân : Thành phố Cần Thơ bị ngập nước do hai nguyên nhân :

Sụt lún gây ra bởi khai thác nước ngầm thiếu kiểm soát. Nền đất bị sụt lún, tương tác với thủy triều, nước lũ sông Mêkông, và hệ thống đê bao khép kín ở các vùng nông thôn phụ cận khiến thành phố Cần Thơ bị ngập úng.

Công trình thoát nước vốn đã kém chất lượng, lại xuống cấp, thiếu hoành chỉnh, được dùng để tháo rút nước thải lẫn nước mưa. Bên cạnh đó phát triển đô thị thiếu kiểm soát, cho phép xây nhà ở những vùng đất ngập nước, đô thị bị bê tông hóa làm giảm đi mức độ thấm rút nước mưa, do đó khi mực nước sông dâng lên bởi triều cường kết hợp với mưa lớn, thì đường phố bị ngập.

RFI : Như vậy, thưa ông, tình trạng sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long đã bắt đầu từ khi nào ?

Huỳnh Long Vân : Hơn 10 năm trước đây, người dân Đồng bằng sông Cửu Long sử dụng nguồn nước mặt (nước sông) và nước mưa là chính cho mọi sinh hoạt, nước ngầm chỉ dùng trong mùa khô. Nhưng hiện nay nước mặt ở Đồng bằng sông Cửu Long đang bị ô nhiễm trầm trọng, nên mỗi ngày khoảng 2 triệu mét khối (m3) nước ngầm, hay nhiều hơn, được bơm hút để dùng trong sinh hoạt, trồng trọt, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi, gây ra những hậu quả trầm trọng : sạt lở bờ biển, bờ sông và nhiều nơi ngập sâu với tần suất và cường độ ngày càng tăng.

Những kết quả nghiên cứu và khảo sát của Bộ Tài nguyên và môi trường cho thấy, trong khi mực nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu chỉ khoảng 3mm/năm, thì mức độ sụt lún của toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long gây ra bởi khai thác nước ngầm là 10-13mm/năm và tốc độ sụt lún riêng của thành phố Cần Thơ trong khoảng thời gian 2005-2017 là 43,5mm/năm. Huyện Cờ Đỏ, hai khu công nghiệp Trà Nóc và Thốt Nốt là những địa điểm bơm hút nước ngầm nhiều nhất ở thành phố Cần Thơ.

RFI : Tình trạng sụt lún này gây ra những tác động gì đến vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là đến đời sống của người dân Cần Thơ ?

Huỳnh Long Vân : Ngoài việc gây ra ngập nước, sụt lún còn ảnh hưởng đến các công trình xây cất, nhà ở của người dân và rất dễ được nhận ra, như nứt tường, cơ sở nghiêng ngả, đường phố phải tráng thêm nhiều lớp nhựa để nâng cao, khiến cho nhà cửa dọc theo hai bên đường thấp hơn mặt lộ và bị ngập nước lúc triều cường đạt đỉnh.

Theo những tính toán của Ngân Hàng Thế Giới, tình trạng ngập nước theo mùa của phân nửa thành phố Cần Thơ trong nhiều ngày, gây thiệt hại khoảng 11% (650 đôla/gia đình/năm) mức thu nhập trung bình của mỗi hộ gia đình. Nếu các hoạt động khai thác nước ngầm tiếp tục theo kịch bản kinh doanh như hiện nay, thì đến năm 2100, phần lớn thành phố Cần Thơ có thể mất toàn bộ độ cao so với mặt biển.

RFI : Các chính quyền địa phương cho đến nay đã thi hành những biện pháp nào để kiểm soát khai thác nước ngầm và hạn chế sụt lún như vậy ?

Huỳnh Long Vân : Trước những hậu quả nghiêm trọng của khai thác nước ngậm thiếu kiểm soát, chính phủ đã ban hành Nghị định 167/2018/ND-CP quy định việc khai thác nước dưới đất ở các vùng chứa nước ngọt thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ý thức rõ tầm quan trọng của việc thực hiện nghiêm túc Nghị định 167, Sở Tài nguyên và môi trường thành phố Cần Thơ đang thực hiện các kế hoạch kiểm soát và khoanh vùng để hạn chế khai thác nước ngầm.

Cụ thể, họ quy định khai thác nước ngầm từ 10m3-3.000m3/ngày phải được Ủy ban nhân dân thành phố cấp phép, trên 3.000m3/ngày, như ở khu công nghiệp Trà Nóc và Thốt Nốt, cần được Bộ Tài nguyên và môi trường cấp phép (Phải chăng đây là một động thái nhằm chối bỏ một phần trách nhiệm của thành phố Cần Thơ trong việc kiểm soát và hạn chế khai thác nước ngầm ?). Đồng thời, họ đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố thu tiền cấp phép khai thác nước ngầm.

Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn thành phố Cần Thơ chọn 4 nơi làm thí điểm chuyển đổi từ khai thác nước ngầm sang nước mặt và bố trí các trạm quan trắc theo dõi diễn biến nguồn nước ngầm.

Ngoài ra, thành phố Cần Thơ còn tăng cường hợp tác quốc tế, như tham gia dự án "Quản trị sụt lún đất và quản lý nước ngầm tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long", do nhóm nghiên cứu của Ðại sứ quán Hà Lan tài trợ và hợp tác với Ðại Học Cần Thơ thực hiện. Dự án bắt đầu từ tháng 1/2020 kéo dài 15 tháng và chọn Cần Thơ và Kiên Giang, Bến Tre và Sóc Trăng là 4 địa điểm nghiên cứu điển hình của dự án. Dựa trên các kinh nghiệm và bài học rút ra từ 4 địa phương này, nhóm nghiên cứu sẽ xây dựng các giải pháp quản lý và lộ trình cho quản lý khai thác nước ngầm và sụt lún đất ở Đồng bằng sông Cửu Long và riêng cho thành phố Cần Thơ.

RFI : Nhưng theo ông, những giải pháp mà thành phố này đang thi hành liệu có thể mang lại hiệu quả mong muốn ? Liệu chúng ta có thể cấm tuyệt đối việc khai thác nước ngầm ở Cần Thơ để ngăn chận tình trạng sụt lún ?

Huỳnh Long Vân : Trong khi Đồng bằng sông Cửu Long chưa có được hệ thống cung cấp đầy đủ nhu cầu nước sạch, thì việc ngăn cấm tuyệt đối khai thác nước ngầm là điều không khả thi. Qua những kinh nghiệm và nhận định của các chuyên gia nghiên cứu về những tác động tiêu cực của khai thác nước ngầm như P. Minderhoud, G. Erkens, L. Erban, thì giảm khai thác nước ngầm ở Đồng bằng sông Cửu Long 50% so với hiện nay cũng không chận đứng được, mà chỉ làm giảm mức độ sụt lún. Vì thế, chúng ta không nên quá lạc quan về những giải pháp mà thành phố Cần Thơ đang áp dụng và vội tin rằng sẽ quản trị được sụt lún và Cần Thơ sẽ không còn bị ngập nước.

Ngoài ra, cũng không nên quá trông đợi vào dự án nghiên cứu của nhóm Hà Lan như một chiếc đũa thần, mà phải đề ra một giải pháp căn cơ để ứng phó với những thách thức gây ra bởi khai thác nước ngầm thiếu kiểm soát.

RFI : Theo ông thì trong khi chờ đợi có một hệ thống cung cấp đủ nước sạch toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chính quyền của thành phố Cần Thơ nói riêng và toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long phải thi hành ngay những giải pháp nào để tình trạng sụt lún không tiếp diễn ?

Huỳnh Long Vân : Ngoài việc kiểm soát và hạn chế khai thác nước ngầm, giới hữu trách ở Cần Thơ và Đồng bằng sông Cửu Long trước hết cần giải thích để thay đổi nhận thức của người sử dụng nước ngầm, theo hướng nước ngầm là "tài nguyên chiến lược", nên không thể sử dụng trong sinh hoạt và sản xuất hằng ngày, mà cần phải tồn trữ để sử dụng trong những trường hợp hạn hán như năm 2016, hay hạn hán trong tương lai ở Đồng bằng sông Cửu Long gây ra bởi biến đổi khí hậu

Ngoài ra, cần cung cấp cho người sử dụng nước ngầm những thông tin về những tác hại khác gây ra bởi khai thác nước ngầm quá mức, ngoài sụt lún nền đất :

Bơm hút quá mức nước ngầm khiến cho nguốn nước ngầm bị nhiễm mặn, nền đất bị mặn lây, ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ nước, chất dinh dưỡng và năng suất của cây trồng và gián tiếp ảnh hưởng đến thu nhập của người dân

Thói quen bơm hút nước, hết ở tầng nông (tầng trấm tích Holocene) rồi xuống đến tầng sâu (tầng trầm tích Pleistocene) về lâu về dài sẽ làm nguồn nước ngầm bị nhiễm Arsenic rò rỉ từ tầng nông. Nước ngầm nhiễm Arsenic có hại cho sức khỏe con người và vật nuôi.

Trong giai đoạn chuyển tiếp, trước khi xây dựng được môt hệ thống cung cấp đầy đủ nước sạch cho toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, các chính quyền địa phương cần phải tiết kiệm nguồn nước, ví dụ như bằng cách xây dựng phương án dự trữ nước mưa (triển khai từ những kinh nghiệm của Bến Tre đào các ao mương trữ nước ngọt để dùng trong mùa khô).

Cần tiết kiệm nước trong tưới trồng (trồng rau cải, hoa màu trong nhà kính nơi độ ẩm được kiểm soát và duy trì ; ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt v.v.).

Cần nghiên cứu kỹ thuật bổ cập nhân tạo nước ngầm, như trước đây ở Hoa Kỳ từng có 6 dự án : (Water Factory 21, Orange County, California ; Montebello Forebay, California ; Phoenix, Arizona ; El Paso, Texas ; Long Island, New York ; Orlando, Florida). Đặc biệt là dự án Dan của Do Thái, đã được sử dụng trong suốt 20 năm qua và không gây ô nhiễm nguồn nước ngầm

Cũng cần nghiên cứu những kỹ thuật tái tạo nguồn nước đã được dùng qua để sau đó dùng tưới trồng cây kiểng, sân cỏ, trong công nghệ giặt ủi, vệ sinh hay trong những dịch vụ công nghệ không liên quan đến sức khỏe của con người (như CRC Technologies của Hoa Kỳ, những kỹ thuật hiện được dùng ở Australia và Nambia v.v.).

Chấm dứt hẳn tình trạng sụt lún ở Cần Thơ và Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có thể đạt được khi Đồng bằng sông Cửu Long có được hệ thống cung cấp đầy đủ nước sạch cho sinh hoạt và sản xuất. Vì thế giới hữu trách trung ương và địa phương cần phối hợp tiến hành càng sớm càng tốt kế hoạch cấp nước sạch cho toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Kế hoạch này cần được xây dựng dựa vào nguồn nước mặt lấy từ sông Tiền và sông Hậu và chỉ cho phép sử dụng nước ngầm tại những vùng xa không có nguồn nước mặt. Đặc biệt, ở vùng ven biển nên ứng dụng công nghệ Nano và RO để xây dựng những nhà máy biến chế nước mặn thành nước ngọt.

Nếu vì lý do nào đó mà kế hoạch cung cấp nước sạch không thể thực hiện được, và để thành phố Cần Thơ và các đô thị khác ở Đồng bằng sông Cửu Long khỏi bị ngập nước theo mùa, thì có lẽ cần phải nghĩ đến giải pháp từ bỏ hẳn trồng lúa vụ 3, tháo gỡ các đê bao ở vùng nông thôn và ngược lại xây dựng các bờ kè, con đê, để bao bọc khép kín các khu dân cư đông đúc.

Kiểm soát-hạn chế khai thác nước ngầm, tiết kiệm lượng nước sử dụng và xây dựng hệ thống cung cấp nước sạch đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng là những việc làm và kế hoạch cần được triển khai khẩn trương và đồng bộ trong tiến trình thoạt tiên làm giảm dần sụt lún trước khi hoàn toàn chận đứng.

Là người dân sinh ra và lớn lên ở Cần Thơ, cá nhân tôi thành tâm mong mõi thành phố Cần Thơ được phát triển bền vững, sớm trở thành một đô thị văn minh, nơi đây một số sinh hoạt và dịch vụ thiết yếu cho đời sống con người không còn bị gián đoạn, giao thông không tắc nghẽn và người dân không phải bì bõm trong biển nước để lo cho miếng cơm manh áo trong những ngày mà phân nữa diện tích của thành phố bị ngập nước.

Thanh Phương thực hiện

Nguồn : RFI, 03/05/2021

Published in Diễn đàn

Phần I

Góc nhìn khác về nhận thức và giải pháp

vtx1

Giáo sư Võ Tòng Xuân

Nhận thức và phản biện quan điểm "Thuận Thiên" của giáo sư Võ Tòng Xuân trên Tạp chí Doanh Nghiệp và Tiếp Thị.

1. Cơn "lên đồng tập thể" về Nghị quyết "Thuận Thiên"

Ngày 11/03/2021, Tạp chí Doanh nghiệp và Tiếp Thị có đăng bài phỏng vấn giáo sư Võ Tòng Xuân nhan đề : "Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời" [1]. Bài báo được trang thông tin tổng hợp Soha dẫn lại nguyên văn và một số báo khác "mượn" các ý chính để tiếp tục đăng tải.

Trước hết, tôi xin có mấy lời thưa trước, cá nhân tôi kính trọng giáo sư Võ Tòng Xuân trong tư cách một nhà giáo, nhà khoa học cả đời gắn bó với cây lúa và nhất là luôn trăn trở cho bà con nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy vậy, tôi nghĩ, là một nhà khoa học có tiếng lại có cơ hội tiếp xúc với lãnh đạo tầm nguyên thủ quốc gia để tham vấn chính sách vĩ mô thì mọi sự cẩn trọng là không bao giờ thừa. Bởi người lãnh đạo đặt niềm tin vào nhà khoa học, dựa vào những nghiên cứu và đề xuất của nhà khoa học để ban hành chính sách nên nếu nhà khoa học không cẩn trọng, tham vấn sai "một li" sẽ "đi một dặm", nguy hại khôn lường cho quốc gia dân tộc.

Sở dĩ tôi nói điều này vì tôi vô cùng ngạc nhiên và lấy làm khó hiểu :

Một là, Nghị quyết 120 ra đời cách đây 3 năm về việc "Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu" nhưng không hiểu sao đến hôm nay – nhất là khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chuẩn bị kết thúc nhiệm kỳ và bàn giao chức Thủ tướng cho người kế nhiệm thì giới truyền thông mới đồng loạt thi nhau giật tít tán dương ca ngợi cái "Nghị quyết Thuận Thiên" này ? Tại sao khi nó vừa ra đời và những lần tổng kết trước đó hiếm ai nói gì về hai chữ "Thuận Thiên" ?

Hai là, tại sao một nhà khoa học như giáo sư Võ Tòng Xuân lại có thể phát biểu và tham vấn cho Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (như lời ông kể trong bài báo) một cách cảm tính và thiếu cẩn trọng như thế ? Sau đây tôi sẽ lần lượt phản biện những luận điểm chính của giáo sư Võ Tòng Xuân trong bài báo trên.

vtx2

Hội nghị lần thứ 3 về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu được tổ chức tại Cần Thơ ngày 13/3/2021, dưới sự chut trì và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc

2. Giáo sư Võ Tòng Xuân có tự mâu thuẫn trong tư duy và nhận thức liên quan đến việc lý giải nguyên nhân hạn hán và xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay ?

Trước hết, về nhận thức chung, toàn bài báo cho thấy quan điểm tiếp cận để giải cứu Đồng bằng sông Cửu Long của giáo sư Võ Tòng Xuân là phải "Thuận Thiên" – nghĩa là không nên "cãi trời". Nói cách khác, theo ông thời gian tới người dân Đồng bằng sông Cửu Long phải thích nghi với vấn đề biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn hiện nay. Tạm thời tôi chưa bàn sâu về nội hàm của khái niệm "Thuận Thiên", tôi chỉ muốn phản biện sự mâu thuẫn của chính giáo sư Võ Tòng Xuân khi ông cho rằng nguyên nhân dẫn đến sự khô hạn và xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay "không phải do Trung Quốc xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông".

Có thể thấy, quan điểm này của ông thể hiện rất rõ ngay ở tiêu đề của bài báo cùng lập luận là tấm hình minh họa ông cựu Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo ngồi giữa cánh đồng ở tỉnh Vân Nam (theo lời giáo sư Võ Tòng Xuân tình cờ đọc được trên một tờ báo Thái Lan năm 2010). giáo sư Xuân nói :

"Suốt thời gian dài, chúng ta nói, thượng nguồn Trung Quốc xây đập thủy điện chằng chịt, chặn đứng nguồn nước Mê Kông gây hạn hán, ngập mặn. Việt Nam, Thái Lan, Campuchia nhiều năm nay vẫn kiện cáo, đòi mở đập để "giải cứu" cây lúa miền dưới. Nhưng thực tế không phải vậy ! Rõ ràng lúc Việt Nam đang gặp hạn thì trên Vân Nam họ cũng thế ! Từ sau năm 2015, mực nước sông Mê Kông mùa khô liên tục rơi xuống còn 1.600 m3 - 1.800 m3/s, trong khi trước đây nó từng đạt 40.000 m3/s vào mùa mưa và 2000 m3/s vào mùa khô. Chúng ta kiện, chúng ta đòi mở nước nhưng Trung Quốc họ đã không còn đủ nước cho cả đất nước họ nữa rồi. Mà cho là có năm dư, khi xuống tới đường ranh Thái Lan - Lào, hàng ngày hàng nghìn trạm bơm vẫn lấy nước đổ vào cho vùng hạn Đông Bắc Thái Lan thì đến lượt Việt Nam liệu có còn nước không ?".

vtx3

Đập thủy điện Trung Quốc chậm xả nước, Đồng bằng sông Cửu Long hạn mặn nghiêm trọng

Thiển nghĩ, tác động của các đập thủy điện ở Trung Quốc gây ra sự khô hạn ở Đồng bằng sông Cửu Long cụ thể như thế nào, thời gian qua đã được các nhà khoa học trong nước và trên thế giới chứng minh và công bố khá nhiều, tôi xin không bàn thêm. Tôi chỉ muốn nhắc lại câu nói của ông bà ta : "Thượng điền tích thủy hạ điền khan".

giáo sư Xuân nói con người muốn sống phải "Thuận Thiên", "không nên cãi trời", tôi đồng ý. Vậy xin hỏi ông, dòng sông Mê Kông tự ngàn xưa là một dòng chảy thông thoáng nhưng giờ đây người Trung Quốc đã xây tổng cộng 11 con đập thủy điện chắn ngang thì có phải là một sự "cãi trời", "nghịch thiên" không ? Tại sao ông không nghĩ rằng chính sự "nghịch thiên" này đã gây ra cảnh khô hạn ngay cho chính quốc gia họ (tỉnh Vân Nam) và các nước ở hạ nguồn sông Mê Kông ? Có lẽ nào chỉ qua một tấm hình mang nặng tính tuyên truyền của truyền thông Trung Quốc mà giáo sư Xuân lại khẳng định Đồng bằng sông Cửu Long hạn hán và xâm nhập mặn chỉ do biến đổi khí hậu toàn cầu chứ không phải tại Trung Quốc xây các đập thủy điện ?

vtx4

Các đập thủy điện trên sông Mekong : Trung Quốc đã xây dựng xong 6 đập thủy điện trên sông Mekong, trong khi Lào và Campuchia dự kiến thiết lập thêm nhiều cơ sở mới.

Thật sự, tôi rất lấy làm lạ cho cách tư duy này của giáo sư Xuân vì chỉ câu trước câu sau là đã mâu thuẫn, "chỏi" nhau chan chát. Với nhận thức này, giáo sư Võ Tòng Xuân đã xổ toẹt mọi nỗ lực lâu nay các nhà khoa học trên thế giới ; các quốc gia có chung dòng chảy sông Mê Kông từng nhiều lần tố cáo Trung Quốc che đậy thông tin về các đập thủy điện nhằm kiểm soát dòng chảy sông Mê Kông ? Hóa ra theo giáo sư Xuân những việc làm này của các nhà khoa học về môi trường là không có căn cứ và vô nghĩa hay sao [2] ?

3. "Thuận thiên" – cái nhìn cảm tính và lãng lạn hóa của (không chỉ) giáo sư Võ Tòng Xuân

Theo dõi quan điểm của giáo sư Võ Tòng Xuân thời gian qua liên quan đến vấn đề "Thuận Thiên" – thực chất là việc thích nghi, thích ứng với việc hạn hán và xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long, tôi cho rằng ông quá chủ quan, cảm tính còn giới truyền thông thì lại quá hời hợt.

Có thể thấy, lập luận xuyên suốt của ông về chuyện này là "mấy mươi năm qua người dân Đồng bằng sông Cửu Long làm lúa nhưng không giàu" hay "lúa là cái vòng kim cô kiềm tỏa người dân miền Tây", vì thế, ông khuyến nghị không nên trồng lúa nữa mà phải chuyển sang nuôi tôm và trồng cây ăn quả… Đó cũng là lý do Nghị quyết 120 – "Nghị quyết Thuận Thiên" có một sự xác lập theo trình tự ưu tiên : Thủy sản, cây ăn trái, lúa. Còn đây là quan điểm của giáo sư Võ Tòng Xuân trong bài báo :

"Trong tương lai gần, với tình trạng hạn mặn và sạt lở diễn ra mạnh mẽ ở Đồng bằng sông Cửu Long như hiện nay, để phát triển toàn diện thì cần phải giảm lúa gạo. Tại vùng ven biên giới Campuchia, là vùng luôn luôn có đủ nước ngọt và không bị nước mặn xâm nhập, thì chúng ta nên thiết kế 1,2 triệu hecta lúa, trồng 2-3 vụ/năm để đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu một phần. Còn những tiểu vùng gần biển thì nên trồng lúa vào mùa mưa, mùa nắng có thể kết hợp nước mặn với nước ngọt trộn lại để nuôi tôm, nuôi cá thâm canh hoặc chuyển đổi cơ cấu cây trồng chịu mặn. Vùng giữa thì bắt đầu lên liếp đất để hạn chế nước mặn và có rảnh mương dự trữ nước trong mùa mưa để tưới cho cây trồng trong mùa nắng".

Trước hết, phải nói rằng, về thực trạng "người nông dân Đồng bằng sông Cửu Long làm lúa nhưng không giàu" giáo sư Võ Tòng Xuân nói là không sai. Tuy vậy, về giải pháp, theo tôi là rất cảm tính và lãng mạn hóa.

Xin thưa với giáo sư Xuân rằng, người dân Đồng bằng sông Cửu Long mấy mươi năm qua làm lúa nhưng không giàu thì một Tư Duy đúng và logic là PHẢI LÀM SAO ĐỂ NGƯỜI NÔNG DÂN LÀM LÚA GIÀU LÊN chứ không phải xúi họ bỏ đi cái Sở Trường của mình để chuyển làm cái Sở Đoản khi chưa có một sự chuẩn bị kỹ càng. Thử hỏi, nếu mấy mươi năm qua người dân miền Tây nhờ cây lúa mà thành đại gia, Việt Nam là một cường quốc thực sự về lúa gạo thì liệu ông có khuyên họ như thế không ?

Và cũng xin thưa với giáo sư Xuân, thời gian qua, việc trồng cây ăn trái hay kết hợp "vụ lúa, vụ tôm" trong năm theo như sự tham vấn của ông đã làm cho rất nhiều bà con nông dân nhất là các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau vỡ nợ phải bỏ xứ "đi bình Dương bán nước tương". Vì sao ư ?

Thứ nhất, nước ngọt ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay không những bị giảm đi mà quan trọng hơn là bị ô nhiễm nặng (nguyên nhân của vấn đề này tôi xin bàn ở phần sau). Vì thế, cái mô hình kết hợp "vụ lúa vụ tôm" (mùa nắng có thể kết hợp nước mặn với nước ngọt trộn lại để nuôi tôm) của ông trong thực tế hoàn toàn không khả thi. Con tôm là con vật rất khó nuôi, ngoài việc giá thành đầu tư về con giống khá cao thì phương tiện kỹ thuật chăm sóc là điều rất phức tạp. Thế nên, trên thực tế mô hình "vụ lúa vụ tôm" chỉ là nói cho vui, rất hiếm người thành công với mô hình này trong sự ổn định, bền vững.

Thứ hai, nước mặn và nước/đất bị nhiễm mặn là hai khái niệm, hai vấn đề rất khác nhau. Một số địa phương có vị trí địa lý tiếp giáp biển ở Đồng bằng sông Cửu Long có nước mặn quanh năm (Bạc Liêu, Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh…) thì việc nuôi thủy hải sản nước mặn là điều tất nhiên, chuyện này thì không cần ai khuyến cáo vì bao đời nay người dân đã làm rồi. Tuy vậy, một số địa phương hiện nay có nước/đất bị nhiễm mặn gần đây (diễn ra trong khoảng 3 đến 4 tháng mùa khô) như Vĩnh Long, Cần Thơ, các huyện Chợ Lách, Mỏ Cày của Bến Tre, Cầu Kè Trà Vinh…) thì việc chuyển đổi từ lúa sang cây ăn trái hay nuôi trồng thủy sản nước mặn, lợ không phải là chuyện đơn giản.

Cây lúa sau 90 ngày đã thu hoạch (khoảng 1,5 tháng cuối là người dân đã siết nước), lâu nay dù không được giá, không giàu nhưng bà con nông dân vẫn còn có gạo để ăn nhưng nếu bỏ hẳn để chuyển sang trồng sầu riêng, cam, xoài, bưởi thì phải từ 3 đến 5 năm mới có thể thu hoạch. Đó là chưa kể việc đất ruộng chuyển sang đất vườn ; việc đầu tư cây giống người dân phải bỏ ra một chi phí khá lớn. Trong khi đó, nguồn gen và cây giống chịu hạn mặn vẫn chưa được các nhà khoa học vẫn chưa/đang nghiên cứu và chuyển giao ?

Ngoài ra, trước đây, đất rộng người thưa, nay dân số tăng lên, mỗi gia đình trung bình sở hữu 2, 3 công đất ruộng (1.000 mét vuông) giờ chuyển sang trồng sầu riêng, cam, xoài, bưởi… như khuyến cáo của ông thì thử hỏi mỗi công đất trồng được bao nhiêu gốc ? Và nhất là trong 3 đến 5 năm đó người dân sống bằng gì ? Tiền đâu cho con cái học hành ?

Thứ ba, thời gian qua hẳn tất cả chúng ta đều đã biết và đã thấy, bài toán quản lý của chính quyền nhà nước liên quan đến vấn đề tìm thị trường - đầu ra cho nông sản không riêng gì cây lúa, không riêng gì ở Đồng bằng sông Cửu Long là một nan đề chưa/không giải quyết được. Các quan chức lãnh đạo ngành nông nghiệp luôn lớn giọng bảo người dân trồng lúa lãi 30% nhưng trên thực tế có đúng như vậy đâu ?

Vậy nên, lúa là cây dễ trồng, là thế mạnh của Việt Nam nhưng người dân bao đời nay vẫn không giàu, nay giáo sư Xuân xúi họ bỏ đi chuyển sang trồng cây ăn trái, hoa màu, mía hay nuôi tôm, nuôi cá cá ba sa… nhưng đầu ra cho tất cả vẫn là một sự bấp bênh (gần như chủ yếu phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc) thì lấy gì để đảm bảo bà con nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai sẽ giàu hơn so với việc trồng lúa ? Không phải hiện nay, chính quyền một số địa phương đang kêu gọi "giải cứu nông sản" (thanh long, xoài, củ hành tím, su hào, cam, bưởi….) cho người dân đó sao ?

3. Thay lời kết

Thích nghi, thích ứng với môi trường tự nhiên đồng thời chinh phục tự nhiên thật ra là vấn đề thuộc về bản năng của con người, là hai mặt của một vấn đề trong mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên.

Nhật Bản nằm trên vành đai núi lửa nên thường xuyên xảy ra động đất và sóng thần, Hà Lan thì thấp mặt nước biển, Israel chủ yếu toàn sa mạc. Nếu chỉ nhận thức về "thuận thiên" một cách giản đơn và máy móc chắc chắn Nhật Bản không trở thành cường quốc công nghiệp ; Hà Lan không là quốc gia số 1 về các công trình đê biển và Israel không là cường quốc về nông nghiệp công nghệ cao thậm chí xuất khẩu nước sạch…

Để "giải cứu" vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai, về phương diện nhận thức, việc giáo sư Võ Tòng Xuân và các nhà khoa học khác khuyến nghị người dân phải thích nghi với vấn nạn khô hạn và xâm nhập mặn là không sai. Tuy vậy, những lý giải của ông về nguyên nhân của vấn nạn này theo tôi là cần suy nghĩ lại. Bởi lẽ, sự lý giải này vô tình tạo ra một tiền lệ rất nguy hiểm cho vấn đề thương thảo, đối thoại đấu tranh với nhà cầm quyền Trung Quốc để họ chia sẻ thông tin về việc kiểm soát dòng chảy và nguồn nước sông Mê Kông trong thời gian tới.

Ngoài ra, phải khẳng định rằng, quan điểm phải chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, quy hoạch hay giảm diện tích trồng lúa nhằm thích ứng với những thay đổi do biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long của giáo sư Võ Tòng Xuân là cần thiết nhưng chuyển đổi và thích ứng như thế nào, lộ trình ra sao là vấn đề không đơn giản.

Nói tóm lại, trong tư cách nhà khoa học, việc bàn thảo và tham vấn các giải pháp mang tầm vĩ mô để xây dựng và phát triển đất nước thiển nghĩ phải hết sức cẩn trọng chứ không nên cảm tính hay tệ hơn là mang nặng tính hình thức, phong trào... Vì "mọi lý thuyết đều màu xám…" chỉ có sự vất vả, thiệt thòi và chiu đựng của người dân Đồng bằng sông Cửu Long là thực tế đã và đang hiện hữu mà ai cũng đều nhìn thấy.

**********************

Phần II

Tiếp cận trên tinh thần "bảo tồn để phát triển"

vtx5

Vườn quốc gia Tràm Chim, Đồng Tháp.

1. Tham vấn, xây dựng chính sách không phải chuyện… sáng tác thơ, văn

Cần phải khẳng định rằng, để "giải cứu" Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới, về mặt nhận thức, quan điểm "Thuận Thiên" của các nhà khoa học là không sai. Tuy vậy, điều quan trọng là cần hiểu như thế nào về "thuận thiên" ? "Thuận thiên" có phải chỉ thuần thích nghi, thích ứng với vấn đề hạn hán và xâm nhập mặn trong vấn đề chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo thứ tự ưu tiên, thủy hải sản, cây ăn quả và cuối cùng là cây lúa ?

Ngoài ra, về phương diện tuyên truyền, thiển nghĩ cần có cách giải thích cụ thể và tường minh hơn. Bà con nông dân là đối tượng chính trong mọi chính sách và giải pháp nhằm xây dựng và phát triển Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới. Và cái họ cần và mong muốn là sắp tới đây Nhà nước hỗ trợ cho họ như thế nào về các chính sách liên quan đến nguồn lực tài chính ; nhà khoa học giúp họ ra sao về mặt kỹ thuật và ứng dụng công nghệ (con/cây giống chịu hạn mặn...) ; các nhà đầu tư có hỗ trợ và cam kết về đầu ra sản phẩm trên tinh thần cùng có lợi hay không… ? Đây mới là vấn đề họ không quan tâm chứ không phải sự hô hào "Thuận Thiên" một cách chung chung, cảm tính. Vì tham vấn và xây dựng chính sách quốc gia mang tầm vĩ mô chứ không phải chuyện sáng tác thơ ca, tiểu thuyết.

Chúng ta nói nhiều về "thuận thiên" trong các buổi hội thảo, hội nghị và trên các phương tiện truyền thông nhưng người dân không hiểu và nhất là thể sống được bằng những mô hình chuyển đổi trong thực tế, phải tha hương cầu thực thì có phải là vô nghĩa, vô bổ và nguy hại lắm không ?

2. Giữ gìn, bảo vệ, bảo tồn nguồn nước ngọt và hệ sinh thái nước ngọt ở Đồng bằng sông Cửu Long nên là ưu tiên hàng đầu trong quan điểm "Thuận Thiên"

Nền tảng quan trọng làm nên cấu trúc và đặc trưng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long là nguồn tài nguyên đất (phù sa) và hệ sinh thái nước ngọt với vô số sông ngòi, kinh rạch. Tiếp theo mới là hệ sinh thái nước mặn, nước lợ (một số địa phương cố vị trí địa lý giáp biển). Đây chính là điều kiện về tự nhiên góp phần làm nên thế mạnh về kinh tế nông nghiệp của Đồng bằng sông Cửu Long lâu nay ; là lý do khi nhắc đến Đồng bằng sông Cửu Long chúng ta hay nói đây là "vựa lúa", "vựa lương thực" của cả nước.

Biến đổi khí hậu toàn cầu cùng với việc xây quá nhiều đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông (sự "nghịch thiên") là hai nguyên nhân chính gây nên hạn hán và xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Người viết bài này, đã từng nói cả hai vấn đề này hiện tại khó mà thay đổi. Vậy nên, chuyện phải tự cứu lấy mình là điều không ai bàn cãi.

Nhưng vấn đề là làm sao để tự cứu ? Từ thực tế về đặc trưng kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như những gì đã và đang xảy ra ở Đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua, tôi cho rằng vấn đề quan trọng nhất khi nói về "thuận thiên" là phải làm sao giữ gìn, bảo vệ, bảo tồn hệ sinh thái đặc trưng mà vùng đất này đã có, hiện có. Và như trên đã nói, đất phù sa và nguồn tài nguyên nước ngọt là vốn quý của Đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng vốn quý này không những đang ngày một giảm sút, có nguy cơ cạn kiệt mà còn bị chính chúng thời gian qua "vừa xài vừa phá" nên đã bị ô nhiễm nặng. Có hai nguyên nhân chính gây ra sự ô nhiễm này là :

Một là, tư duy và thói quen sản xuất nông nghiệp của người dân (lạm dụng phân thuốc hóa học trong việc trồng lúa, hoa màu, cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản trên ruộng đồng và sông rạch…) đã và đang hủy hoại môi trường đất, nước và toàn bộ hệ sinh thái nước ngọt ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Trong một báo cáo cách đây 3 năm, World Bank khẳng định có đến 50-60% nông dân trồng lúa ở Việt Nam đã sử dụng thuốc trừ sâu với tỷ lệ vượt quá mức đề nghị ; 38 - 70% nông dân các tỉnh phía Nam đang sử dụng thuốc trừ sâu với tỷ lệ vượt quá mức khuyến cáo ; khoảng 20% nông dân đang sử dụng thuốc trừ sâu vi phạm các quy định hiện hành, sử dụng thuốc trừ sâu bất hợp pháp nhập khẩu, cấm hoặc thậm chí giả mạo.

Ngoài ra, các nhà khoa học của tổ chức này đã gọi những khu vực tại Đồng bằng sông Cửu Long mà các sinh vật bản địa không còn sinh sống nổi là những "vùng đất chết" [3].

Trong khi đó, từ đầu năm 2020 cho đến ngày 15/6, Tổng cục Hải quan công bố Việt Nam đã nhập khẩu 308 triệu USD thuốc trừ sâu và nguyên liệu sản xuất mặt hàng này [4].

Các báo cáo và công bố trên phù hợp với thực trạng hệ sinh thái nước ngọt ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay gần như bị hủy diệt. Chẳng ai có thể ngờ được Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay không còn những con tôm, tép, cua, cá đồng…- những sản vật đã đi vào thơ ca, hò vè với một niềm tự hào của người dân nơi đây.

Hai là, mỗi tỉnh thành ở Đồng bằng sông Cửu Long gần như đều có các khu công nghiệp nhưng việc xử lý nước thải đảm bảo quy chuẩn trước khi xả xuống hai con sông Hậu, sông Tiền gần như là con số 0 tròn trĩnh.

Từ đây, có thể thấy, trước khi tính đến chuyện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp để thích nghi với hạn hán và xâm nhập mặn thì vấn đề tối quan trọng là phải bảo vệ, bảo tồn nguồn tài nguyên nước ngọt hệ sinh thái nước ngọt của toàn vùng là vấn đề rất cấp thiết. Bởi nguồn tài nguyên nước ngọt đã khan hiếm mà còn bị ô nhiễm thì việc đầu tư nuôi trồng thủy hải sản, cây ăn quả chắc chắn khó mà thành công như mong muốn. Một khi hai con sông tiền và sông Hậu khô cạn và ô nhiễm thì còn đâu chợ nổi Cái Răng cùng hệ sinh thái vườn tược để phát triển du lịch miệt vườn, sông nước đây… ?

Thế nên, "Thuận Thiên" trước hết phải được tiếp cận ở ý thức giữ gìn, tiết kiệm, không hoang phí các nguồn tài nguyên và sản vật đặc trưng ; là sự bảo vệ, bảo tồn những gì còn sót lại cùng với đó "hồi sức", hồi phục lại những gì mà thời gian qua chúng ta đã vô tình hay cố ý xâm hại, bức tử…

Nói khác đi, "Thuận Thiên" trước hết là tinh thần "CỘNG SINH", "HÒA GIẢI" VỚI TỰ NHIÊN. Tuy vậy, cũng không nên lãng mạn hóa vấn đề này bởi lịch sử phát triển của con người còn là lịch sử phát triển của tri thức với những phát minh, phát kiến nhằm chinh phục tự nhiên. Vì thế, trong chừng mực nào đó chúng ta vẫn có thể thể can thiệp vào tự nhiên với một biên độ cho phép vì "xưa nay nhân định thắng thiên cũng thường".

3. Thay lời kết

Ở phương diện lịch sử và văn hóa, Đồng bằng sông Cửu Long trước đây là xứ "ma thiêng nước độc", "dưới sông sấu lội trên bờ cọp um", "muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tợ bánh canh"… nhưng cha ông ta cũng đã từng bước thích nghi và chinh phục.

Vậy nên, nếu chỉ thuần túy quan niệm "thuận thiên" là "chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp", là giảm trồng lúa để chuyển sang nuôi tôm, thủy sản thích nghi với hạn mặn thì vẫn là tư duy "khai thác" để phát triểnNếu như thế thì không cần ai khuyên bảo vì người dân Đồng bằng sông Cửu Long bao đời nay không phải đã tự thích nghi rồi sao ?

Trồng lúa không giàu, họ đào ao, đóng bè nuôi cá ba sa ; nuôi cá ba sa thất bại họ chuyển sang trồng dưa hấu, thanh long, khoai lang, hành tím, mía đường ; các cư dân ở ven biển từ lâu cũng đã chung sống với con tôm, con cua… Nhưng do phải "tự bơi" là chính nên những năm gần đây có hơn 1,3 triệu người phải bỏ xứ tha phương câu thực. "Đất lành chim đậu", trước đây, miền Tây dễ sống, giờ khó sống, khó ở nên họ phải tìm đường mưu sinh. Nói cho cùng đây cũng là quy luật, là sự "thuận thiên" đó thôi.

Nói tóm lại, về nhận thức, việc tiếp cận Đồng bằng sông Cửu Long trước hết bằng quan điểm và góc nhìn BẢO TỒN ĐỂ PHÁT TRIỂN trong đó xem việc giữ gìn và bảo vệ nguồn tài nguyên và hệ sinh thái nước ngọt là ưu tiên hàng đầu ; là nền tảng quan trọng để triển khai các giải pháp tương thích khác chắc chắn sẽ hạn chế những cách làm mang tính hình thức, phong trào, đối phó (tưởng là "thuận thiên" nhưng có khi lại rất "nghịch thiên").

*******************

Phần cuối

Đề xuất và gợi ý một số giải pháp
trên tinh thần "bảo tồn để phát triển" Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới

vtx6

Câu chuyện "Thuận Thiên" ở Đồng bằng sông Cửu Long nhất định phải được tiếp cận với tinh thần "bảo tồn để phát triển" chứ không nên tiếp tục "khai thác để phát triển"

Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay đã không còn những lợi thế về điều kiện tự nhiên như trước. Nếu như trước đây, người dân "sống chung với lũ" thì nay phải sống chung với hạn mặn. Hay nói khác đi, trước đây là sự thích ứng trong hoàn cảnh "khủng hoảng thừa" (nguồn tài nguyên nước ngọt và đất phù sa tích tụ sau mỗi mùa nước nổi hàng năm) thì nay là "khủng hoảng thiếu". Vì là "khủng hoàng thiếu" nên việc thích ứng hôm nay khó khăn hơn rất nhiều. Thế nên, câu chuyện "Thuận Thiên" ở Đồng bằng sông Cửu Long nhất định phải được tiếp cận với tinh thần "bảo tồn để phát triển" chứ không nên tiếp tục "khai thác để phát triển" trong sự hoang phí hoặc đối phó với tầm nhìn ngắn hạn.

Thay đổi tư duy và nhận thức của tầng lớp lãnh đạo quốc gia trong cái nhìn về Đồng bằng sông Cửu Long

Đồng bằng sông Cửu Long là xương sống của nền kinh tế nông nghiệp nhưng oái oăm thay cũng là "vùng trũng" của cả nước, đặc biệt là về hạ tầng giao thông, văn hóa, giáo dục, y tế... Đây là một thực tế mà ai cũng nhìn thấy.

Để Đồng bằng sông Cửu Long thoát khỏi lời nguyền - cái nghịch lý "đất giàu người nghèo" quan trọng và trước hết phụ thuộc vào nhận thức của tầng lớp lãnh đạo quốc gia. Theo đó, có một số vấn đề quan trọng mang tính nguyên tắc chung liên quan đến việc xây dựng và triển khai các chính sách vĩ mô đối với Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới là :

Thứ nhất, xóa bỏ cái nhìn định nhìn định kiến vùng miền trong quy hoạch và phát triển chung về Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt là vấn đề huy động và ưu tiên tập trung nguồn lực về tài chính cho Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới. Dĩ nhiên kèm theo là cơ chế kiểm soát minh bạch, chặt chẽ, tránh những "rơi rớt" dọc đường do thói quen "ăn không chừa một thứ gì của dân".

Thứ hai, việc "bảo tồn để phát triển" Đồng bằng sông Cửu Long được nhanh chóng cụ thể hóa bằng hệ thống chính sách liên quan đến việc bảo vệ, bảo tồn nguồn tài nguyên nước ngọt và hệ sinh thái nước ngọt hiện có. Với tinh thần này, Đồng bằng sông Cửu Long thời gian tới tuyệt đối không phát triển công nghiệp nặng mà tập trung phát triển công nghiệp nhẹ liên quan đến công nghệ chế biến nông sản và các phụ phẩm nông nghiệp. Nghiêm cấm việc khai thác cát trên hai con sông Tiền, sông Hậu. Bên cạnh đó, là tổng rà soát việc xả thải ở các khu công nghiệp khắp các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là với Nhà mấy giấy Lee & Man (Hậu Giang) [5] ; nhiệt điện than ở huyện Duyên Hải (Trà Vinh) [6]. Trong tương lai, nếu không kiên quyết xử lý vấn đề xả thải ra môi trường nước ở các khu công nghiệp và 2 cơ sở này thì toàn bộ hệ sinh thái nước ngọt vùng Đồng bằng sông Cửu Long chắc chắn sẽ bị phá hủy.  

Thứ tư, xây dựng chính sách đãi ngộ, "đặt hàng" các nhà khoa học, các chuyên gia về nông nghiệp và môi trường trong nước và quốc tế liên quan đến vấn đề nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm xây dựng và triển khai các giải pháp về kỹ thuật để bảo tồn nguồn nước ngọt như : xây hồ chứa tích trữ nước ngọt vào mùa mưa; kiện toàn hệ thống đê bao tích hợp với việc rửa mặn (giảm độ mặn) ở các cửa khẩu, tuyến sông lớn ; nghiên cứu bảo tồn nguồn gen, cây/con giống thích nghi với hạn mặn…

Cuối cùng, phối hợp chặt chẽ với các chuyên gia, tổ chức quốc tế có uy tín về môi trường và biến đổi khí hậu; các quốc gia có chung nguồn nước sông Mê Kông nhằm tiếp tục đối thoại, đấu tranh với nhà cầm quyền Trung Quốc trong vấn đề chia sẻ thông tin về các đập thủy điện ở thượng nguồn.

Luật hóa việc sản xuất nông nghiệp từng bước thay đổi nhận thức và tư duy của người dân trong vấn đề này

Được biết vừa qua, ông Lê Minh Hoan – Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (nguyên cựu Bí thư tỉnh Đồng Tháp) khi trả lời báo chí có nói rằng, trong tương lai người nông dân hoặc bất cứ ai "muốn sản xuất nông nghiệp phải có giấy phép".

Từ góc nhìn sản xuất nông nghiệp gắn với ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ hệ sinh thai nước ngọt ; cùng với đó là vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao giá trị nông sản, tôi cho rằng quan điểm của trên của ông Lê Minh Hoan rất nên được đón nhận và chia sẻ với cái nhìn tích cực nhất thay vì vội vàng phê phán bằng cái nhìn thiếu thiện chí "trồng vài cây cam, cây xoài cũng phải xin phép".

Nếu xem sản xuất nông nghiệp là một nghề như bao ngành nghề khác trong xã hội thì đã đến lúc bà con nông dân cũng cần trang bị cho mình bên cạnh kinh nghiệm, kỹ thuật là nhận thức liên quan đến vấn đề "đạo đức nghề nghiệp". Thật khó để bênh vực và bào chữa cho hành vi "hai luống rau" trong cùng một khu vườn vốn khá phổ biến hiện nay. Nghĩa là, luống để gia đình mình ăn thì rất sạch, rất an toàn, còn luống bán ra cho người khác dùng thì mặc kệ. Thậm chí, không ít người vì lợi ích của bản thân còn mang những trái mít, sầu riêng, thanh long… "nhúng" thuốc bảo quản trước khi bán cho chính đồng bào mình mà các cơ quan truyền thông từng phản ánh.

Vấn đề này, nhìn rộng ra, phải chăng còn là một trong nhiều nguyên nhân gây ra tình cảnh "được mùa mất giá" để rồi cả xã hội phải chung tay "giải cứu" mà chúng ta đã từng chứng kiến thời gian qua. Bởi với cách làm trên, sản phẩm nông nghiệp của chúng ta chỉ tiêu thụ trong nội địa hoặc một vài thị trường "quen thuộc", có phần "dễ dãi" chứ khó có thể thâm nhập vào những thị trường với những yêu cầu nghiêm ngặt liên quan đến các quy chuẩn về bảo vệ môi trường (hủy hoại hệ sinh thái nước ngọt) và nhất là an toàn vệ sinh thực phẩm.

Thế nên, dù xót xa cho sự vất vả của bà con nông dân nhưng thiển nghĩ cũng không nên cảm tính, để rồi vô tình thỏa hiệp hay bỏ qua cho sự bảo thủ, lạc hậu chỉ thấy cái lợi trước mắt mà bất chấp những hệ lụy lâu dài về sau.

Dĩ nhiên, ở chiều ngược lại cũng không nên quá ảo tưởng xem "giấy phép sản xuất nông nghiệp" như "cây đũa thần" trong một sớm một chiều có thể thay đổi cả một nền nông nghiệp vốn còn nhiều bất cập hiện nay. Thậm chí là cái nhìn cục bộ, duy ý chí mang nặng tính phong trào, hình thức bề nổi… để nó lại trở thành một thứ "giấy phép con" - không những là một bước lùi mà còn làm cho bà con nông dân khổ sở và vất vả hơn.

Từ đây, thiển nghĩ, "giấy phép sản xuất nông nghiệp" nên được tiếp cận ở phương diện nhận thức và tư duy mang tầm chiến lược, vĩ mô thậm chí là mục tiêu quốc gia để củng cố và phát triển nền nông nghiệp nước nhà trong thời gian tới. Cụ thể ở các phương diện như sau :

Một là, tổng rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến vấn đề sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp; quy trình thu hoạch, bảo quản, tiêu thụ nông sản gắn với ý thức bảo vệ môi trường và an toàn vệ sinh thực phẩm…theo quy chuẩn quốc gia và quốc tế…

Hai là, xây dựng hành lang pháp lý tạo điều kiện để ngày càng có nhiều doanh nhân, tập đoàn chọn nông nghiệp làm ý tưởng khởi nghiệp cũng như phát triển nền nông nghiệp nước nhà theo hướng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong toàn bộ quy trình sản xuất, thu hoạch, bảo quản và tiêu thụ; từ đó góp phần thay đổi thói quen và tập quán canh tác lạc hậu, manh mún hiện nay của đại bộ phận bà con nông dân… Song song đó là chính sách hỗ trợ về vốn, kỹ thuật công nghệ cũng như định hướng về đầu ra… cho người dân với quy mô gia đình, vừa và nhỏ…

Cuối cùng, quy hoạch tiến đến đến luật hóa việc trồng lúa. Như đã nói ở phần trước, cây lúa là sở trường là thế mạnh của Việt Nam. Việc người dân miền Tây lâu nay làm lúa nhưng không giàu, lỗi trước hết là thuộc về chính quyền Nhà nước trong các chính sách có liên quan về chất lượng giống/gạo, quy trình sản xuất, giá thành đầu tư và nhất là thị trường tiêu thụ. Thế nên, một tư duy đúng để giải quyết bất cập và nghịch lý này là phải làm sao trong thời gian tới chính quyền Nhà nước phải hỗ trợ người dân để họ giàu lên từ việc trồng lúa chứ không phải khuyên họ từ bỏ sở trường và thế mạnh của mình trong khi việc "chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp" vẫn chưa co sự chuẩn bị kỹ càng. Và để giải quyết vấn đề này, thiển nghĩ, đã đến lúc cần phải luật hóa việc trồng lúa nhằm nâng cao chất lượng giá trị hạt gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. 

Liên quan đến vấn đề này, tôi đồng ý với quan điểm của giáo sư Võ Tòng Xuân cũng nhiều nhà khoa học khác, đó là, thời gian tới chúng ta cần quy hoạch lại diện tích trồng lúa một cách căn cơ và khoa học hơn. Cụ thể, với vị trí địa lý là các tỉnh đầu nguồn của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là không bị xâm nhập mặn, việc trồng lúa để cần được tập trung về hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp, một phần nào đó là Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long… Tuy vậy, theo quan điểm của tôi, đã đến lúc chấm dứt tình trạng trồng lúa 3 vụ để đất đai có thời gian "nghỉ ngơi".

Tóm lại, một thái độ và tinh thần cầu thị, trách nhiệm trong tư duy và nhận thức để cùng mở ra một hướng đi mới cho nền nông nghiệp nước nhà trong bối cảnh và điều kiện mới là rất cần thiết. Tuy vậy, trước khi triển khai cần có một lộ trình chuẩn bị căn cơ, dài hạn, cẩn trọng đặt trong cái nhìn tổng thể nhằm hướng đến sự chuyên nghiệp hóa, công nghệ hóa nền nông nghiệp. Đặc biệt, tránh cái nhìn cục bộ, duy ý chí hoặc tệ hơn là dùng truyền thông để PR, "dọn đường" cho sự thăng quan tiến chức của một vài cá nhân trong giai đoạn tranh giành và chuyển giao quyền lực.

5. Tổng kết

Nguy cơ tan rã Đồng bằng sông Cửu Long đang ngày một hiện hữu. Dù muốn dù không việc "giải cứu" Đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai phụ thuộc hoàn toàn vào nhận thức và tầm nhìn về quản trị quốc gia của nhà cầm quyền.

Về chuyện này, khách quan và công tâm mà nói, thời gian gần đây, sau khi được nhiều người góp ý, phản biện, tầng lớp "lãnh đạo chóp bu" có vẻ đã biết lắng nghe; bước đầu có sự cầu thị và thay đổi, sửa sai. Đồng bằng sông Cửu Long vì thế, đã được chú ý và quan tâm nhiều hơn so với trước đó. Riêng vấn đề này cần ghi nhận công lao của ông Nguyễn Xuân Phúc trong tư cách người đứng đầu Chính phủ. Nhưng mừng đó mà cũng lo đó. Ông Phúc nhiệm kỳ tới chắc chắn không còn ngồi ở ghế thủ tướng để tiếp tục triển khai, giám sát Nghị quyết 120. Đồng bằng sông Cửu Long, vì thế lại phải chờ và phụ thuộc vào nhận thức và tài "thao lược" của một ê kíp Chính phủ mới. Nếu nhưng người mới vẫn tiếp tục bả thủ, không vượt qua cái nhìn định kiến vùng miền hoặc "tư duy nhiệm kỳ" thì mọi chuyện rất có thể đâu sẽ lại vào đấy.    

Ở phương diện khác, muốn "giải cứu" Đồng bằng sông Cửu Long thì tinh thần và trách nhiệm của các nhà khoa học trong tư cách của những trí thức – kẻ sĩ chân chính là vô cùng quan trọng. Đồng bằng sông Cửu Long muốn phát triển cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau như : kỹ thuật, công nghệ, môi trường, lịch sử, văn hóa… nhằm tham vấn cho giới lãnh đạo bằng thái độ cầu thị; tránh sự chủ quan, cảm tính…hay tệ hơn chỉ vì tiền, vì phải giải ngân các đề tài, đề án mà bán rẻ phẩm cách.   

Nói tóm lại, suy cho cùng, không riêng gì việc "giải cứu" Đồng bằng sông Cửu Long, quốc gia này, dân tộc này muốn phát triển trường tồn điều quan trọng nhất là tất cả chúng ta (theo trình tự "Đảng ta", tầng lớp trí thức, dân chúng) có tự trọng, có biết xấu hổ và nhất là có dám thay đổi sau khi đã nhận ra những sai lầm, sự ích kỷ của bản thân và phe nhóm mình hay không ?

"Thuận thiên" không phải chỉ phụ thuộc vào "ý trời", "mệnh trời", hay quy luật của tự nhiên một cách giản đơn và máy móc mà "thuận thiên" trước hết là phải "tự hiểu mình" để ứng xử, hành xử theo quy luật của Con Người. Vì con người cũng là một phần của thế giới tự nhiên; trước khi hòa giải, hòa hợp với tự nhiên con người cần phải hòa hợp, hòa giải với chính mình bằng trí tuệ và các giá đạo đức mang tính nền tảng và phổ quát.

Cần Thơ, 24/03/2021

Quách Hạo Nhiên

Nguồn : Viet-studies, 24/03/2021

Nguồn tham khảo :

[1] "Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời

[2] "Chuyên gia Mỹ tố cáo Trung Quốc tàn phá sông Mê Kông

[3] Nguyễn Trọng Bình, "Chuyên gia Mỹ tố cáo Trung Quốc tàn phá sông Mê Kông" 

[4] Thanh Lam, Hoàng Phương, "Vòng xoáy thuốc trừ sâu trên những cánh đồng

[5] "Dân kêu cứu vì ô nhiễm từ nhà máy giấy Lee & Man

[6] "Trà Vinh : người dân bức xúc ô nhiễm tro bụi từ nhà máy nhiệt điện" https://baotainguyenmoitruong.vn/tra-vinh-nguoi-dan-buc-xuc-o-nhiem-tu-tro-bui-nha-may-nhiet-dien-271381.html

Published in Diễn đàn

12 năm sau khi phá bphà Rch Miu(1999), Vit Nam va chi 111 t đ khôi phc liphà Rch Miuvì cu Rch Miu – cây cu giúp Bến Tre thông thương vi bên ngoài bng h thng giao thông đường b lin lc - b quá ti, lưu lượng phương tin qua li đã tăng gp ba ln so vi thiết kế (1) !

dongbang1

Đồng bằng sông Cửu Long vi cnh hn hán khc lit năm 2016

Cu Rch Miu (tr giá 3.300 t) b quá ti là tình hung vn đã được d liu trước khi khi công nhưng Vit Nam vn xây dng cây cu ch có bn làn cho tt c các loi xe t hai bánh tr lên qua li vì không có tin ? Năm 2006 - by năm sau khi khánh thành cu Rch Miu - Vit Nam bt đu tính đến vic xây dng cu Rch Miu th hai nhưng d đnh đó được nâng lên, đt xung nhiu ln trong sut bn năm (2). Cui năm ngoái, Th tướng Vit Nam mi chính thc chp thunđu tư, xây cu Rch Miu 2.

Tin xâycu Rch Miu 2 cũng hết sc nhiêu khê, lúc đu, chính ph tính khoán cho Bến Tre t tìm nhà đu tư theo dng… xã hi hóa (3) ! Sau đó, có th vì thy quá… k vi dân chúng Bến Tre nói riêng và dân chúng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, chính ph mi đng ý ly 5.100 t t ngân sách đ làm cu (4), còn lúc nào khi công thì chưa biết !

***

Cu Rch Miu ch là ví d mi nht minh ha cho nhn thc và cách hành x dường như hết sc nht quán đi vi Đồng bằng sông Cửu Long ca h thng chính tr và h thng công quyn Vit Nam. Càng ngày, tương lai ca Đồng bằng sông Cửu Long - nơi cư trú ca khong 17 triu người càng m đm vì thiên tai và nhân ha.

Khu vc có din tích khong 40.500 cây s vuông, tng ni tiếng vì s phong phú ca đ loi sn vt t nhiên, tng là va lúa cung cp ti 90% lượng go xut cng, 60% lượng thy sn xut cng, gia thp niên 2010 còn đt tc đ tăng trưởng 7,8%, vượt xa tc đ tăng trưởng chung ca Vit Nam (6,8%) tiếp tc tut t t xung đáy vì cơ hi sinh tn, phát trin gim dn (hn hán, sông rch, rung vườn nhim mn, st l, st lún, h tng không theo kp như cu cống càng ngày càng trm trng).

Thm trng đó không đơn thun vì nhng đp nước thượng ngun Mekong và thi tiết d thường. Xét cho đến cùng, nguyên nhân chính nm tư duy qun tr và năng lc điu hành (biến nhng vùng trũng tng là nơi tích nước cho Đồng bằng sông Cửu Long thành rung lúa, thc hin đ th d án nhm tăng sn lượng go, vì "ch tiêu tăng trưởng" cho phép xây dng nhng nhà máy mà hot đng hy hoi c môi trường sng ln ngun nước khiến ngun nước ô nhim trm trng phi bù đp bng gia tăng khai thác nước ngm...) !

Xưa nay, Đồng bằng sông Cửu Long va lúa giúp Vit Nam duy trì an ninh lương thc, góp phn đáng k vào tăng trưởng kinh tế hàng năm nh go và các loi nông sn, thy sn xut cng ni tiếng còn vì ch b buc đóng góp ch không được nhn li gì. Do không được đu tư tha đáng c v h tng giao thông ln giáo dc, y tế, cng vi nhng tác đng bt li ca các công trình thy đin thượng ngun Mekong và biến đi khí hu, Đồng bằng sông Cửu Long càng ngày càng tr thành nơi khó sng, cư dân lũ lượt b x tha phương cu thc.

Báo cáo Kinh tế thường niên 2020 v Đồng bằng sông Cửu Long cho biết, trong mười năm gn đây đã có 1,1 triu cư dân Đồng bằng sông Cửu Long ly hương. Con s này vượt xa dân s mt tnh trong khu vc Đồng bằng sông Cửu Long. Đó là lý do khiến Đồng bằng sông Cửu Long tr thành khu vc có t l xut cư cao nht, nhp cư thp nht và là khu vc duy nht Vit Nam có t l tăng dân s là 0% sut mười năm.

***

Trước nhng ch trích kch lit v cách đi x thin cn, bc bo đi vi Đồng bằng sông Cửu Long, năm 2017, chính quyn Vit Nam công b ngh quyết v "phát trin bn vng Đồng bằng sông Cửu Long" và c hai năm li t chc đánh giá vic thc hin ngh quyết này mt ln. Đã rt nhiu ln nhng viên chc hu trách như Th tướng Vit Nam, th tht :S có các gii pháp c th nhm phát trin Đồng bằng sông Cửu Long ch không phi ch đưa ra mt s ch trương, không kim tra, không gii quyết, không b trí ngun lc, không ch đo thc hin. Không đ như người ta nói "nước đ lá môn", chy tun tut hết… Hàng năm s xem nhng gì đã nói, đã làm đến đâu và phi làm gì thêm đ giúp Đồng bằng sông Cửu Long phát trin bn vng (6).

Nhng ha hn y chính xác đến mc nào ? Theo các chuyên gia ca VCCI (Phòng Thương mi và Công nghip Vit Nam) và FSPPM (Trường Chính sách Công và Qun lý Fulbright) hai nơi phi hp kho sát, thc hin Báo cáo Kinh tế thường niên 2020 v Đồng bằng sông Cửu Long : Vai trò kinh tế ca Đồng bằng sông Cửu Long đang gim dn so vi các khu vc khác Vit Nam vì phi thc hin s mnh đm bo an ninh lương thc cho c nước nên chm chuyn dch sang các lĩnh vc có năng sut cao hơn.Đến gi, mt trong nhng nguyên nhân chính khiến chuyn dch phát trin công nghip ì ch vn là b cn tr bi nút tht nghiêm trng v cơ s h tng, đc bit là h thng giao thông kết ni vi Đông Nam B.

Sau đi hi 13, vài tháng na Vit Nam s có Quc hi mi và chính ph mi. Tuy ông Nguyn Xuân Phúc tái đc c vào Ban chấp hành trung ương đng, B Chính tr nhim k 13 nhưng nhiu người tin rng, Th tướng mi s là mt nhân vt khác. Giai đon được nghe nhng tuyên b, ha hn dành cho Đồng bằng sông Cửu Long ca nhng Nguyn Tn Dũng, Nguyn Xuân Phúc coi như đã hết. Thi ca Đồng bằng sông Cửu Long cũng đã gn hết và chưa rõ vn mnh ca Đồng bằng sông Cửu Long s hết hn sau my đi Th tướng na !

Trân Văn

Nguồn : VOA, 04/02/2021

Chú thích

(1) https://tuoitre.vn/pha-rach-mieu-chinh-thuc-hoat-dong-chia-lua-voi-cau-rach-mieu-20210127085427745.htm

(2) https://tuoitre.vn/cau-qua-tai-ben-tre-tien-giang-dua-pha-rach-mieu-tro-lai-hoat-dong-20210127214714296.htm

(3) https://plo.vn/do-thi/hai-phuong-an-xay-cau-rach-mieu-2-738217.html

(4) http://www.tapchigiaothong.vn/xay-cau-rach-mieu-2--chon-phuong-an-dung-ngan-sach-hoan-toan-d73266.html

(5) https://danviet.vn/10-nam-dbscl-co-gan-11-trieu-dan-bo-xu-ra-di-lon-hon-so-dan-cua-mot-so-tinh-trong-vung-20201213122342516.htm

(6) https://vtv.vn/trong-nuoc/thu-tuong-chu-tri-dien-dan-ve-dbscl-khong-de-nuoc-chay-la-mon-20190618164719671.htm

Published in Diễn đàn

Trước Tết dương lịch ít hôm, báo chí Việt Nam đưa tin, con số thống kê những người dân vùng đồng bằng Cửu Long ly hương, với những tiêu đề rất bi thảm : Day dứt miền Tây  của báo Đại Đoàn Kết, Hơn 1 triệu dân Đồng bằng sông Cửu Long bỏ xứ đi lập nghiệp nơi khác của báo Dân Trí ; Nỗi niềm sau chuyện 1,3 triệu người miền Tây ly hương của báo Người Đô thị ; ‘Di dân nhiều cho thấy miền Tây kém phát triển’ của VnExpress và Dân bỏ xứ đi, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao ? của RFA…

dongbang1

Vẫn có nhiều nghi ngại của các nhà khoa học môi trường ở vùng này về dự án Cái Lớn – Cái Bé, rằng nó vừa tốn tiền, vừa có thể làm thay đổi thiên nhiên một lần nữa mà nếu sai thì rất khó sửa.

Trước đó vài tháng lại có những tin rất phấn khởi là đại dự án thủy lợi "Cái Lớn – Cái Bé" được các tỉnh hoan nghênh, thúc giục chính phủ tiến hành giai đoạn 2. Đây là một dự án rất tốn tiền, nằm trong đại quy hoạch vùng châu thổ này, dự phòng những biến chuyển bất lợi về thiên nhiên như nước biển dâng, biến đổi khí hậu,… trong tương lai.

Chuyện đồng bằng sông Cửu Long bị tụt lại đằng sau không phải là mới. Vùng đất "gạo trắng nước trong", "vựa lúa của Việt Nam" vang bóng một thời, bây giờ trở thành khu vực có đông dân nghèo, thất học. Cách đây vài chục năm đã có những phong trào thể hiện sự tàn lụi đó, phong trào thiếu nữ đi lấy chồng Đài Loan, những người phụ nữ đi làm nghề massage trên cả nước…

Người ta có thể giải thích sự lụi tàn này bằng nhiều lý do. Thứ nhất, thiên nhiên thay đổi, thay đổi từ bên ngoài, như là biến đổi khí hậu, hay người Tàu, người Lào, người Thái, cả người Việt nữa, xây đập trên thượng nguồn làm nước ngọt và phù sa không xuống được đến châu thổ.

Thứ hai là do chính mình làm hại mình. Người ta khai thác cát vô tội vạ, làm nước xoáy lở bờ, và nhất là hai đại dự án rất ngốc nghếch chống lại thiên nhiên do lãnh đạo cộng sản chủ trương trước đây : Đắp đê làm mùa lúa vụ thứ ba, và ngọt hóa bán đảo Cà Mau.

Cuối năm 2017, Đảng cộng sản ra nghị quyết số 120 về vùng đất này với tinh thần là không chống lại thiên nhiên nữa. Một số nơi phá đê cho nước ngọt tràn vào như thời xưa, các vùng nước mặn, nước lợ không bắt buộc nông dân trồng lúa…

Với nghị quyết 120, người cộng sản tỉnh ngộ sau 42 năm ra tay phá hoại thiên nhiên ở vùng đất trù phú này một cách vô ý thức và duy ý chí.

Thôi thì muộn còn hơn không, và dự án Cái Lớn - Cái Bé như nói bên trên được cho là nằm trong tinh thần của nghị quyết 120, không chống lại thiên nhiên, hơn nữa còn được cố vấn từ một dân tộc sừng sỏ trong chuyện khai thác và quản lý châu thổ, là dân Hà Lan. Dự án này được cho là "thuận thiên", chỉ điều hòa nước mặn, nước ngọt giữa khu vực dòng chính của sông Cửu Long và bờ biển phía Tây thuộc Vịnh Thái Lan.

Vẫn có nhiều nghi ngại của các nhà khoa học môi trường ở vùng này về dự án Cái Lớn – Cái Bé, rằng nó vừa tốn tiền, vừa có thể làm thay đổi thiên nhiên một lần nữa mà nếu sai thì rất khó sửa. Người ta cũng nghi ngờ về sự quản lý một số tiền quá lớn, do các bộ từ trung ương thực hiện.

Cứ giả thiết rằng dự án sẽ thành công, thì liệu các tựa đề ai oán của các bài báo tôi đề cập bên trên có biến mất không ? Tôi nghĩ là không.

Theo tôi thì bi kịch ở đây không phải là chuyện người dân rời khỏi đồng bằng sông Cửu Long, mà cho dù di dân nhưng họ vẫn tiếp tục cuộc sống nghèo đói tại các khu công nghiệp dụng công ở Sài Gòn, Bình Dương, Long An. Thanh niên trai trẻ miền Tây chen chúc trong các khu nhà ọp ẹp của công nhân, với thu nhập vừa đủ trang trải bữa ăn hàng ngày và chỗ trọ, không còn đồng nào gửi về quê cho cha mẹ già, tệ hơn là cũng không giúp gì cho một thế hệ trẻ em đồng bằng sông Cửu Long, lớn lên không cha, không mẹ, không học thức.

Cứ giả định rằng đại dự án Cái Lớn – Cái Bé thành công, các dự án tiếp theo trên tinh thần nghị quyết 120 "thuận thiên" thì giá một kg gạo sắp tới đây là bao nhiêu, một ký tôm là bao nhiêu, một cần xé xoài là bao nhiêu ? …

Nông dân bỏ quê lên thành thị đâu phải là chuyện lạ, thế giới cũng đã có nhiều, từ hàng trăm năm nay, không thể cản được họ đâu. Vấn đề là họ rời bỏ quê hương rồi có làm ăn khấm khá lên hay không ?

Trả lời câu hỏi này sẽ là bức tranh lớn hơn về chính sách xã hội, tổ chức dân sự, nghiệp đoàn, trong đó những người gốc nông dân sẽ phải thay đổi cuộc sống mãi mãi khi họ không còn là nông dân nữa.

Theo tôi thì người Hà Lan, với kinh nghiệm trị thủy lừng danh của họ, sẽ giúp được người Việt trị thủy thành công vùng châu thổ Cửu Long. Vùng đồng bằng này cũng ngập nước, cũng có diện tích xấp xỉ nước Hà Lan.

Cái khác là Hà Lan không chỉ có phô mai, lúa mì, sữa… của nông dân, họ còn có cả Philips từng là nhà tiên phong trong kỹ nghệ điện tử, có cả thị trường chứng khoán đầu tiên của thế giới ở Amsterdam. Họ cũng đã từng thê thảm khi chỉ dựa vào tài nguyên thiên nhiên khi khám phá ra khí đốt. Họ cũng bỏ xứ ra đi hàng đoàn vào thế kỷ trước, nhưng ở chốn xa, họ lập nên được New York (trước đây là New Amsterdam), làm ăn khấm khá.

Để kết luận, tôi xin kể ấn tượng của tôi về hai chuyến đi. Một lần tôi đến Volendam, một cảng cũ của người Hà Lan nằm trên biển Bắc. Volendam có nhà rất đắt tiền, với giới giàu có về hưu của cả châu Âu đến thị trấn cổ kính này dưỡng già, nuôi sống cả một ngành dịch vụ thương mại ở đây.

Lần khác tôi đến một xã ở huyện Mỹ Tú, tỉnh Hậu Giang (không có tỉnh nào ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà tôi chưa đến). Đất ở đây đầy chất phèn, mùa nước nổi lên người ta phải đi bằng xuồng, mà nước thì không uống được, tôm cá cũng chẳng có. Tôi nghĩ là thời binh lính của các Chúa Nguyễn vào Nam, cả một huyện Mỹ Tú chắc chỉ có vài gia đình, thì mọi chuyện ổn cả, nhưng bây giờ có cả chục ngàn người sinh sống trên vài gò đất đầy phèn ấy, thì phải bỏ đi thôi, chứ ở lại làm gì ?

Jackhammer

Nguồn : Tiếng Dân, 02/01/2021

Published in Diễn đàn

Dân bỏ xứ đi, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao ?

RFA, 17/12/2020

Đồng bằng sông Cửu Long : vựa lúa của Việt Nam

Khu vực miền Tây Nam Bộ, còn được gọi tên "Đồng bằng sông Cửu Long" là vùng châu thổ trù phú được thiên nhiên ưu đãi nhất ở Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long được dân gian truyền miệng rằng vùng đất Phương Nam "chim trời cá nước" là một nơi không bao giờ bị đói khát vì được bao bọc bởi những đồng lúa cò bay thẳng cánh và dòng Mekong mênh mông với 9 nhánh sông đầy ấp tôm cá quanh năm, nhiều nhất vào mùa nước tràn đồng mỗi năm.

scl1

Một người nuôi vịt chạy đồng ở Đồng bằng sông Cửu Long. Courtesy of Tùng Thien

Đồng bằng sông Cửu Long được xem là vựa lúa của Việt Nam, góp phần quan trọng để trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Nơi đây còn là khu vực phát triển nông nghiệp chủ lực với nhiều mặt hàng nông sản đa dạng, không những cung cấp cho thị trường tiêu thụ nội địa mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.

Trong vòng 10 năm từ 2009 đến 2019, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long góp đến 54% sản lượng lúa, 70% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 60% lượng trái cây và xấp xỉ 18% GDP của Việt Nam.

Theo số liệu thống kê, do Ban Chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương ghi nhận, trong năm 2020, tỷ lệ dân số ở Đồng bằng sông Cửu Long gần 17,3 triệu người, chiếm gần 18% dân số Việt Nam. Tỷ lệ tăng dân số ở Đồng bằng sông Cửu Long trong một thập niên qua thấp nhất Việt Nam, chỉ chiếm 0,05% trong khi chỉ số già hóa dân số lại cao nhất nước đến 58,5% và tỷ suất di cư thuần cũng cao nhất nước, ở mức 39,9%. Một trong những nguyên nhân dẫn đến các thông số này là do "sự đi ra khỏi vùng để làm ăn sinh sống của lớp người trong độ tuổi lao động".

scl2

Chợ nổi ở Cần Thơ. Courtesy of Duy Black

1,3 triệu người di cư trong một thập niên

Một nhà báo sinh sống tại Đồng bằng sông Cửu Long, hiện đang làm việc trong lĩnh vực phóng sự truyền hình, vào tối ngày 17/12 chia sẻ thêm thông tin liên quan về người miền Tây di cư, qua ghi nhận cá nhân của ông.

"Do sự đô thị hóa quá nhanh và cơ cấu kinh tế dịch chuyển từ sự yếu kém của nông nghiệp sang hướng về thương mại, dịch vụ và công nghệp cho nên lực lượng lao động trẻ đi đến các tỉnh phát triển công nghiệp mạnh, như người ta nói câu ‘Đi Bình Dương’, cho nên thanh niên ở tuổi lao động đi Bình Dương, Đồng Nai làm công nhân hết, cho nên đất đai thì do người già làm công việc đồng án nhiều, chứ không phải thanh niên trẻ. Do đó, nguồn lao động ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long bị mất và nằm trong diện di cư".

Báo giới quốc nội mới đây trích lời phát biểu của Chủ tịch tỉnh Đồng Tháp, ông Phạm Thiện Nghĩa, tại lễ công bố báo cáo kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu Long năm 2020, được tổ chức vào chiều ngày 14/12 ở Cần Thơ, rằng "Nói Đồng bằng sông Cửu Long là trù phú, lao động nhiều, nhưng tổng hợp lại 10 năm di cư trên 1,3 triệu người là vấn đề rất buồn. Gần 40% lao động không học tiếp phổ thông, trong xã hội hội nhập như hiện nay là điều rất đau đáu".

Nhà báo truyền hình, không muốn nêu tên, chia sẻ thêm với RFA rằng Đồng bằng sông Cửu Long tuy có rất nhiều thuận lợi về quỹ đất đai, phát triển nông nghiệp và được nhà nước đầu tư khoa học kỹ thuật, đặc biệt là nguồn nhân lực lao động trẻ dồi dào ; nhưng con số người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long di cư lên đến hơn triệu người, bởi khu vực này đang đối mặt với không ít khó khăn và thách thức.

"10 năm trở lại đây, bất lợi thứ nhất là biến đổi khí hậu và làm cho một số tỉnh ven biển bị ngập mặn như Bết Tre, Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Nước ngập mặn xâm phạm vô vườn cây ăn trái hoặc các loại thủy hải sản, làm cho bị hư, bị chết. Rất nhiều trường hợp nông dân bị lao đao do biến đổi khí hậu đó. Còn những tỉnh không bị xâm nhập mặn như Đồng Tháp, An Giang… nhưng bị xói mòn và lở đất do dòng chảy của nước bị thay đổi. Nguyên nhân thay đổi là do khai thác cát, nhất là ở khu vực đầu nguồn Campuchia bị tận thu cát quá nhiều cho nên rất nhiều hộ dân phải sống khổ sở do vấn đề dòng chảy bị thay đổi gây ra".

Vị nhà báo ẩn danh còn liệt kê tình trạng các đập thủy điện được xây dựng ở Trung Quốc và Lào, khu vực thượng nguồn sông Mekong gây ra tình trạng khô hạn và phù sa không còn. Bên cạnh đó, hệ thống đê bao ngày càng nhiều cùng với việc nông dân gia tăng năng suất cây trồng bằng phân thuốc hóa học, thải ra dòng nước gây ô nhiễm môi trường và tác động ngược lại hệ thống nước tưới tiêu, làm cho ngành sản xuất nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long bị tổn thất nặng nề.

scl3

Một phụ nữ đang làm việc tại lò gạch ở Đồng bằng sông Cửu Long. Courtesy of Duy Black

Bộ Tài nguyên-Môi trường Việt Nam, hồi năm 2016, công bố một báo cáo cho thấy các đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong gây ra nguy cơ làm mất đi hoặc thậm chí tuyệt chủng tới 10% các loài cá và thu nhập người dân có thể giảm tới 50%. Việt Nam bị tổn thất hàng năm về thuỷ sản và nông nghiệp, bởi các đập thuỷ điện đó, có thể lên đến khoảng 760 triệu USD.

Bà Kim, một nông dân ở Bến Tre, vào tối hôm 17/12, lên tiếng với RFA rằng gia đình bà không thể sống được qua thu nhập từ ruộng vườn nên bà phải tìm việc làm xa xứ.

"Tôi phải lên Đồng Nai làm công nhân từ năm 2008. Mức lương lúc đó chỉ có 38 ngàn đồng/ngày làm việc 8 tiếng đồng hồ. Thời gian mười mấy năm qua tôi không đủ sống, cho nên cũng khổ lắm và phải cố gắng bươn chải".

Chị Anh, một cư dân ở Đồng Tháp rời quê nhà đến làm việc ở Công ty Kinh Đô, tại khu công nghiệp Bình Dương từ năm 2001, tâm tình với RFA về cuộc sống công nhân của mình :

"Coi như gần 6 triệu đồng/tháng. Nếu tăng ca thì lãnh thêm được lên 7,8 triệu, có khi được tới 10 triệu. Làm việc 12 tiếng đồng hồ/ngày, từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều".

Cuộc sống của chị Anh được cho làm tạm ổn khi chị đủ trang trải cho bản thân và gửi tiền về quê chu cấp cho bà mẹ già đơn thân, bệnh tật. Tuy nhiên, vào đầu năm 2020, chị Anh buộc phải trở về quê sinh sống, để chăm sóc cho mẹ vì bà bị xe đụng gãy chân, không đi đứng được. Dù trong dịch bệnh Covid-19, nhưng chị Anh cũng tìm được việc làm nhân viên lau dọn trong một công ty, nhờ vào sự giới thiệu của người hàng xóm.

"Hiện giờ làm mức lương 3,5 triệu/tháng. Nào là tiền điện, tiền nước, tiền ăn, tiền thuốc của má tôi. Chưa kể nhiều khi tôi bị đau ốm cho nên chi tiêu không đủ".

Ông K, giám đốc điều hành thuộc công ty tư nhân, kinh doanh các dự án bất động sản ở Đồng bằng sông Cửu Long, cho RFA biết về tình hình công ăn việc làm hiện nay tại khu vực này :

"Đồng bằng sông Cửu Long vừa bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 chung với cả nước và xâm nhập mặn làm cho nông nghiệp bị tác động nghiêm trọng và Covid-19 cũng gây ra hậu quả nặng nề cho lực lượng lao động trẻ có trình độ, còn lao động phổ thông thì còn tệ hơn nhiều. 1,3 triệu người di cư chỉ là một phản ánh rất khiêm tốn".

Ông Nguyễn Phương Lam, Phó Giám đốc Phòng Thương Mại- Công Nghiệp chi nhánh Cần Thơ, vào ngày 17/12 trong trả lời báo mạng VnEXpress cho rằng việc người dân miền Tây rời đi quá nhiều trong một khoảng thời gian nhất định cho thấy đó là tình trạng bức bách và vùng đất này kém phát triển. Về lâu về dài nếu không giải quyết, xã hội sẽ bất ổn.

scl4

Đạp xe lôi là công việc lao động phổ thông phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long. Courtesy of Đặng Đại

Viễn cảnh Đồng bằng sông Cửu Long sẽ thế nào ?

Mùa hạn mặn năm 2020 tại Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá là "khắc nghiệt" và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, hồi đầu tháng 8, ra quyết định chi ngân sách cho 5 tỉnh bị thiệt hại bao gồm Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Cà Mau, Kiên Giang số tiền 70 tỷ đồng/tỉnh để hỗ trợ nguồn nước sinh hoạt và đời sống người dân.

Vào đầu tháng 11 vừa qua, tại một phiên chất vấn, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng tuyên bố Chính phủ sẽ đặc biệt quan tâm và dành nguồn lực xứng đáng để đầu tư hạ tầng cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trước tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng cũng như hạ tầng yếu kém do đầu tư chưa tương xứng với nhu cầu phát triển của vùng. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam còn đồng ý tăng thêm 2 tỷ USD cho quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050.

Nhà báo truyền hình ẩn danh xác nhận với RFA hiện tại chính quyền các tỉnh và thành phố ở Đồng bằng sông Cửu Long đang thực hiện và tiến hành nhiều dự án theo quy hoạch vừa được đề cập. Ông nói rằng Đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai sẽ tập trung phát triển về công nghiệp, thương mại và dịch vụ du lịch. Đặc biệt, ngành nông nghiệp sẽ chuyển hướng nhắm đến nông nghiệp sạch theo tiêu chuẩn quốc tế để đáp ứng các thị trường xuất khẩu như Mỹ và Châu Âu.

Kiến trúc sư trẻ Duy Black, hiện sinh sống và làm việc ở Sài Gòn, nói với RFA rằng chắc chắn anh và rất nhiều người con của miền Tây Nam Bộ sẽ hồi hương nếu như vùng này được đầu tư và phát triển theo như kế hoạch đề ra :

"Tất nhiên rồi. Bất kể ai cũng muốn được ở gần quê và nếu có được cơ hội phát triển tốt thì sẽ quay trở về để phát triển sự nghiệp và ổn định cuộc sống. Nếu như nhà nước đầu tư tốt, bài bản và phát triển bền vững thì mọi người sẽ quay trở về. Nhưng mà, thật sự điều đó hơi khó tại vì theo các căn cứ của cơ sở khoa học thì khu vực miền Tây Nam Bộ đang ngày càng chết dần, chết mòn".

Truyền thông Nhà nước Việt Nam, hồi tháng 6/2019, dẫn lời của Vụ trưởng Vụ Kiểm soát An toàn Thiên tai, ông Tăng Quốc Chính cho biết trước đó vào tháng 2, Đại học Utrecht, của Hà Lan công bố một nghiên cứu về mức độ lún sụt ở Đồng bằng sông Cửu Long và đưa ra cảnh báo với mức lún sụt như hiện nay thì đến năm 2100 gần như toàn bộ vùng Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam sẽ bị chìm dưới mặt nước.

Đài RFA mượn lời của nhà báo truyền hình ẩn danh để kết thúc bài ghi nhận này, rằng trong "bức tranh tối tranh sáng" đời sống xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long, ông rất đồng cảm với những người di cư như chị Anh và hàng chục ngàn "cô dâu" miền Tây phải ra đi tìm miếng cơm manh áo và thật thương cảm hơn về sự trở về của họ, mà trong đó có những hũ tro cốt của phận đời như nhánh lục bình trôi bập bềnh trên dòng Mekong sắp cạn.

Nguồn : RFA, 17/12/2020

*********************

Thêm 4 bộ sách giáo khoa lớp 1 có lỗi : chuyện nhỏ hay nguy hại ?

RFA, 17/12/2020

Trong số 5 bộ sách giáo khoa lớp 1 theo chương trình giáo dục phổ thông mới vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo buộc phải rà soát, thì có đến 4 bộ sách giáo khoa lớp 1 mới do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam biên soạn phát hiện có lỗi.

scl5

Các bộ sách giáo khoa lớp 1 mới do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam biên soạn. Courtesy Tiền Phong

Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam trong báo cáo về việc 4 bộ sách giáo khoa có lỗi cho biết đã tổ chức rà soát lại toàn bộ các cuốn sách giáo khoa của mình chịu trách nhiệm biên soạn, xuất bản, phát hành. Theo Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam có lỗ ở một số môn như tiếng Việt, Giáo dục thể chất, tiếng Anh... nhưng các lỗi được nhà xuất bản này cho là không lớn.

Tuy nhiên câu hỏi được nêu lên là vì sao lỗi của 4 bộ sách giáo khoa lớp 1 mới do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phát hành, bị phát hiện quá muộn, trong khi học sinh đã được học nhiều tháng. Trách nhiệm về việc này thuộc về ai ?

Từ Hà Nội, thầy giáo Đỗ Việt Khoa nhận định với RFA hôm 17/12 :

"Có thể nói là một sự kỳ lạ của những người biên soạn sách giáo khoa gần đây, càng về sau này càng cởi mở cho phép nhiều bộ sách giáo khoa ra đời, khiến cho người ta cẩu thả không giám sát được hết. Cái này là trách nhiệm của những người giám sát sách giáo khoa. Thứ hai là cái tư duy của người soạn sách có vấn đề, sách lớp 1 mà toàn mấy cái chuyện ở Tây, ở đâu ở đẩu... hay chuyện ngụ ngôn quái dị đưa vào trong khi sách lớp 1 cần gần gũi, những thơ ca câu từ trong sáng đưa vào thì biến mất cả".

Thầy Khoa cho biết khi sắp học về sách mới, thì hầu như 100% giáo viên phải đi học bồi dưỡng về chương trình mới. Nhưng kỳ lạ là không ai biết sách như thế nào và không cho giáo viên thẩm định, đến khi in ra thì giáo viên mới tá hỏa sao lỗi nhiều quá, thiếu tính khoa học. Thầy nói tiếp :

"Nhưng đã muộn sao sửa, còn sửa chắp vá như Bộ Cánh Diều cũng không được, bỏ làm lại là cách tốt nhất. Cái này trách nhiệm, ý thức có vấn đề, Bộ giáo dục không kiểm soát chặt chẽ nên sẽ còn tiếp tục phát hiện lỗi. Đặc biệt từ năm học này sẽ dạy cuốn chiếu, năm nay lớp 1, năm sau sẽ lớp 2 sách mới... nhưng đáng lo là giáo viên không ai được thấy để góp ý trước khi phát hành đại trà".

Các lỗi trong 4 bộ sách giáo khoa lớp 1 mới do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam biên soạn, được truyền thông nhà nước nêu lên như bộ 1 Kết nối tri thức với cuộc sống phải chỉnh sửa nhiều nhất với 37 trang... lỗi cụ thể ví dụ như : ngữ liệu "sách đâu ếch học bài ?" là "sách đâu em học bài ?"... Hay sách tiếng Việt 1 có lỗi khoảng 16 trang... trong đó có một trang phải điều chỉnh nội dung văn bản do ngữ liệu không đúng thực tế, v.v...

Một giáo viên tiểu học ở Sài Gòn không muốn nêu tên vì lý do an ninh, khi trao đổi với RFA hôm 17/12 cho biết, tuy không trực tiếp giảng dạy 4 bộ sách giáo khoa của nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, nhưng việc đổi sách dù có huấn luyện trước nhưng cũng gây khó khăn :

"Nội dung chương trình lớp 1 mới thì hồi hè tụi tôi cũng phải đi học rồi. Đổi qua chương trình này thì tôi thấy rất nặng, có những bài bị dồn, đâm ra học sinh nắm không vững, chắc như những năm thế hệ trước. Do đó họ cũng gặp khó khăn nhiều".

scl6

Quầy bán sách giáo khoa lớp 1. RFA Photo.

Từ trước đến nay, độc quyền phát hành sách giáo khoa là Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, nhưng với Nghị quyết 88 của Quốc hội thì năm 2020 thế độc quyền này bị chia sẻ cho Nhà xuất bản Đại học Sư phạm và Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên dù có thay đổi thì vẫn có tới 24/32 sách giáo khoa mới được Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố đều của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Như vậy, các trường lựa chọn sách nào thì đa số cũng thuộc của nhà xuất bản này, do đó sách có sai sót đã đến với rất nhiều lớp học trong những tháng qua.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Mạc Văn Trang, từng có kinh nghiệm hơn 30 năm công tác ở Viện Khoa học Giáo dục trước khi về hưu vào năm 2002, hiện sống ở Sài Gòn, khi trả lời RFA hôm 4/11, nhận định :

"Cách làm sách ở đây có nhiều sai lầm, quan điểm chưa rõ ràng, người biên soạn chưa làm hết trách nhiệm ; không thực nghiệm ; Hội đồng (kiểm duyệt) không làm hết trách nhiệm nên mới xảy ra sai sót ; nhà xuất bản biên tập cũng không làm hết trách nhiệm nên biên tập, xuất bản rồi đến khi nhân dân kêu mới nói ‘có những sai sót không tránh khỏi, sách giáo khoa phức tạp, khó lắm’… Sai căn bản từ đầu cứ đổ loanh quanh mà không ai chịu trách nhiệm, không ai bị kỷ luật".

Đây là năm học đầu tiên được triển khai chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới, bắt đầu đối với lớp 1. Sau khi khai giảng vài tuần, Bộ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 trong bộ sách Cánh Diều đang nhận được nhiều sự chú ý từ phía dư luận và cả Quốc hội thời gian gần đây vì nhiều sai sót, nhưng đã được chính phủ chỉ đạo chỉnh sửa.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Dũng, nhà ngôn ngữ học, giảng viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, khi trả lời RFA hôm 17/12 cho biết sách giáo khoa nếu sai sót nhỏ thì cũng là điều bình thường :

"Sai sót là chuyện của con người mà, cho nên tôi quan đến những sai sót thuộc loại lớn, hay nó để ra từ một quan điểm sai lầm hay không. Tôi không có cơ hội đọc hết 4 bộ sách, nhưng tôi có đọc cuốn trong số đó thì thật ra cũng khó lòng mà nói sai. Mỗi người nói một kiểu nhưng tính chất sai nếu có cũng không lớn lắm, như thế là bình thường. Ngày xưa tôi ở miền Nam, sách giáo khoa đôi khi chỉ có 1 tác giả biên soạn thôi, và nếu cách nhìn như ngày nay thì sai sót nhiều lắm chứ không phải không, chúng ta phải bình tĩnh mà thấy những chỗ đó. Trông mong 1 bộ sách giáo khoa tuyệt đối không sai sót thì tất nhiên là mong ước chính đáng, nhưng không phải bao giờ cũng thỏa mãn đâu".

Tuy nhiên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Dũng cho rằng chuyện đáng lưu ý hơn lỗi sai của sách giáo khoa là người dân càng ngày càng phản đối giáo dục dữ dội. Ông giải thích thêm :

"Thật ra là người ta bất bình xã hội bằng cách trút giận chỗ đó, chứ còn đất nước Việt Nam có rất nhiều chỗ tệ hại, tệ hại lắm chứ không phải chỉ thế đâu. Nhưng giáo dục ảnh hưởng đến từng gia đình một, và người ta trút cái nỗi bất bình xã hội vào giáo dục là dễ thông cảm, chứ trút giận vào chỗ khác không dễ đâu".

Theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Dũng, ai ở trong nước đều biết, ngay cả nếu người dân muốn trút giận vào một ông quan có sai sót cụ thể cũng không dễ... vì sẽ có công an quân đội cần bắt ai là bắt... Cho nên người dân trút nỗi giận vô ngành giáo dục có vẻ sẽ an toàn hơn.

Nguồn : RFA, 17/12/2020

Published in Việt Nam

Tháng 04 và 05/2020, đồng bằng sông Cửu Long trải qua mùa hạn hán và xâm nhập mặn kéo dài nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, thiệt hại về mùa màng không lớn bằng đợt hạn 2016 do người dân và chính quyền địa phương đã rút được bài học và chuyển đổi một số diện tích cây trồng, theo nghị quyết số 120/NQ-CP Về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, có hiệu lực từ ngày 17/11/2017.

mekong1 - Copie

Người dân Vĩnh Long, Việt Nam vận chuyển gạo trên sông Mekong. Wikimedia Commons

Nghị quyết này đã giúp tháo gỡ về mặt chính sách cho Việt Nam, theo nhận định của tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong, khi trả lời phỏng vấn RFI tiếng Việt. Ngoài ra, ông cũng nhấn mạnh đến nguồn nhân lực và sự phối hợp giữa các nước trong vùng để có thể bảo đảm tương lai bền vững cho khu vực sông Mekong.

***

RFI : Mùa hạn 2020 đã khiến ngành nông nghiệp trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là ngành trồng lúa, bị tác động nặng, đâu là giải pháp cho lĩnh vực này ?

Dương Văn Ni : Năm 2017, thủ tướng ra nghị quyết 120. Tôi cho là nghị quyết 120 là một trong những tháo gỡ về mặt chính sách tốt nhất cho Việt Nam vào lúc này. Nghị quyết 120 đó đề cập đến mấy vấn đề cốt lõi.

Vấn đề thứ nhất đề cập là các nguồn nước, kể cả nước mặn, cũng phải xem như một dạng tài nguyên. Điểm này hoàn toàn khác với tư duy trước đó : Hễ thấy nước mặn là phải có một công trình nào đó ngăn chặn. Bây giờ công nhận nước mặn như một tài nguyên để mà khai thác nó dưới diện nào đó cho có hiệu quả về kinh tế. Tôi cho rằng sự thay đổi đó rất là căn cơ.

Nhưng điều quan trọng hơn nữa là nền nông nghiệp : Nhà nước cho phép chuyển dịch nền nông nghiệp theo hướng chiều sâu, hay là theo hướng có hiệu quả kinh tế nhất, chứ không phải là khư khư ép người dân trồng nhiều lúa để gọi là "bảo đảm an ninh lương thực". Đây là điều làm trong nhiều năm qua, chúng ta đẩy mạnh diện tích lúa ra sát bờ biển, trong khi vùng sát bờ biển vốn không thuận lợi cho trồng lúa. Bởi vì, năm nào khi dứt mưa, vùng này chắc chắn là sông rạch bị ảnh hưởng nặng, bị nhiễm mặn. Nhưng nhờ đợt hạn mặn 2015-2016 cho thấy những nỗ lực đưa nước ngọt, đưa cây lúa ra vùng duyên hải rất là bấp bênh. Những bài học đó giúp cho người dân, giúp cho chính quyền địa phương và cả cấp trung ương nhìn thấy ra được vấn đề chỗ nào rất bị tổn thương, chỗ nào không cần chăm chăm đưa cây lúa vào đó.

Tôi cho rằng 2017, Nhà nước ra được nghị quyết 120 là tháo gỡ khó khăn mang tính vĩ mô và như vậy nó giúp cho người dân có cơ hội điều chỉnh lại sản xuất của họ. Có nghĩa là nếu vùng đó thường xuyên bị mặn đe dọa và xâm nhập như vậy, tốt nhất là chúng ta nên chọn loại cây trồng, vật nuôi nào phù hợp hơn là cứ cố giữ khư khư cây lúa theo chỉ thị của Nhà nước. Đó là cái mở mang rất tốt !

RFI : Sau khi Nhà nước ban hành nghị quyết 120, nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long hiện chuyển sang hướng canh tác nào được cho là phù hợp với điều kiện thời tiết của vùng ?

Dương Văn Ni : Nghị quyết chỉ mang tính rất tổng thể, giải quyết được vấn đề vĩ mô. Còn để đi vào thực tế, thực tiễn từng vùng, thì điều này lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự sáng tạo của người dân và chính quyền địa phương.

Bởi một lý do là trong một thời gian dài, chúng ta tập trung quá nhiều cho cây lúa, và bây giờ chuyển qua cây trồng và con khác, thì thứ nhất phải cần đến hạ tầng về kỹ thuật phải tương đối đồng bộ (hệ thống tưới tiêu, hệ thống dẫn nước…). Bây giờ ví dụ muốn nuôi trồng thủy sản, thì cũng phải có cải tiến hoặc thiết kế lại, công việc này tốn rất nhiều thời gian, cũng như kinh phí.

Điểm thứ hai, quan trọng hơn, đó là hạ tầng về xã hội và kinh tế. Ví dụ, ngày xưa trồng cây lúa, thì bao nhiêu chục năm nay, người dân biết trồng như thế nào. Bây giờ chuyển sang một cây trồng khác, việc đầu tiên là người dân phải nắm được kỹ thuật để quản lý mùa vụ của cây con đó. Khi người dân đã biết những việc đó rồi thì hạ tầng, dịch vụ phục vụ liệu đã có sẵn chưa, bởi vì một thời gian dài, chúng ta chỉ phục vụ cho cây lúa, giờ chuyển sang cây con khác, người ta không chuẩn bị sẵn vật tư, phân bón hay thuốc sâu, thuốc bệnh đó.

Tiếp theo phải nói tới công lao động. Phải nói rằng hiện nay cây lúa đã được cơ giới hóa với một tỉ lệ rất lớn, từ khâu làm đất đến thu hoạch. Bây giờ chuyển qua những cây trồng khác thì cần một lượng lao động nhiều để chuẩn bị gieo sạ hay thu hoạch. Điểm quan trọng cuối cùng là không biết bán cho ai và ai ăn, nên vẫn chưa biết thị trường ở đâu.

Những điểm trên cho thấy rằng mặc dầu nghị quyết 120 đã tháo gỡ những nút thắt, nhưng để chuyện đó thành hiện thực, cụ thể ở một nơi nào đó, thì cần sự quyết tâm và sự sáng tạo của người dân và chính quyền địa phương nơi đó.

RFI : Ngoài tình trạng thiên tai, còn phải nêu thêm vấn đề nguồn lao động do người dân, đặc biệt là thanh niên, di cư lên các thành phố lớn. Tương lai của đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao ?

Dương Văn Ni : Nếu mà gọi là tương lai của đồng bằng sông Cửu Long như thế nào, chúng ta phải chia làm mấy loại tương lai.

Thứ nhất là tương lai gần. Tôi thấy trước mắt một vấn đề rất cụ thể là diện tích bình quân trên đầu người đã quá nhỏ do mật độ dân cư của đồng bằng đã quá lớn : Trước đây chỉ có 5-6 triệu người, giờ lên tới 20 triệu. Rồi vấn đề thiên tai, dịch bệnh, nước biển dâng, mưa bão... làm cho người dân không sống nổi trên mảnh đất của mình nữa, bởi thu nhập không đủ để trang trải nhu cầu của cuộc sống. Thành thử ra hiện nay, những người trẻ phải bỏ xứ, đi làm những nơi xa như ở trên thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Sông Bé... Đây là một vấn đề rủi ro cho tương lai. Rủi ro là vì nguồn nhân lực không phải là thanh niên nữa.

Thứ hai là các đập ở phía thượng nguồn sẽ làm cho dòng nước thất thường, lúc nhiều thì nhiều qua, lúc ít thì lại không có thêm, gây hạn chồng hạn, lũ chồng lũ. Do đó, những thiên tai do con người đóng góp vô làm cho thêm trầm trọng, càng ngày càng nhiều trong tương lai.

Cái thứ ba, nói gì thì nói, chúng ta nhìn năng lực sản xuất của người dân đồng bằng mới là vấn đề quan trọng. Trong vòng 100 ngày thôi, ở đồng bằng này, người ta có thể sản xuất ra 7-8 triệu tấn lúa. Chưa thấy một vùng đồng bằng nào trên thế giới lại có một năng lực sản xuất, gọi là tương đối đặc biệt như vậy. Nếu sức sản xuất của đồng bằng sông Cửu Long bị mai một bởi vì nguồn nhân lực trẻ không còn ở tại chỗ, rồi đất đai bị bạc mầu dần vì không còn được phù sa bồi thêm nữa, rồi nguồn nước thất thường... tất cả những yếu tố đó đe dọa đến một vấn đề rất căn cơ : Làm cho "bao tử" của nước Việt Nam bị đe dọa.

Do đó, nếu nói về sự ổn định của đồng bằng, ngoài yếu tố ổn định về môi trường, chúng ta phải coi sự ổn định năng lực sản xuất của người dân trong vùng này là điều gì đó quan trọng, từ bằng đến hơn sự phong phú của tài nguyên tự nhiên. Vì nếu tài nguyên tự nhiên có phong phú mà không có con người thì cũng không tạo được vật chất. Do đó, phải biết làm sao phải gìn giữ được năng lực sản xuất này và biết làm sao cho người dân, từng gia đình một, người ta sống nổi trên chính mảnh đất của họ, thì đến lúc đó, chúng ta mới duy trì được tính ổn định.

Thành thử ra, nói ổn định ở đây, nói về tương lai gần, tương lai xa, chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta đang đối diện với một tương lai rất nhiều vấn đề bất định. Nếu chúng ta không tổ chức, gìn giữ được năng lực sản xuất của người dân trong khu vực này, thì chúng ta sẽ phải đối phó với nhiều rủi ro trong tương lai.

RFI : Nhiều nghiên cứu và diễn đàn khoa học đã cảnh báo rằng ổn định của lưu vực Mekong không được bảo đảm. Đâu là những nguyên nhân dẫn đến việc các nước trong khu vực vẫn chưa tìm ra được đồng thuận cụ thể ?

Dương Văn Ni : Đây là một vấn đề rất nổi cộm trong quá khứ, đặc biệt trong thời gian gần đây, nó lại nêu ra một vấn đề mang tính toàn cầu hơn. Trước hết, chúng ta thấy đồng bằng sông Cửu Long mỗi một năm xuất khẩu 6-7 triệu và 2-3 triệu tấn tôm cá... Lượng nông sản này phân phối ít nhất cho tầm 40 quốc gia trên khắp thế giới. Như vậy, đồng bằng sông Cửu Long không chỉ sản xuất để phục vụ cho 20 triệu người dân tại đồng bằng, hay là 100 triệu người dân của toàn nước Việt Nam mà nó còn đóng một vai trò quan trọng trong mắt xích kinh tế thế giới.

Do đó, vấn đề của đồng bằng sông Cửu Long phải vượt ra khỏi lưu vực của sông Cửu Long. Và không thấy ra được chuyện này, thì mọi người chỉ lo phát triển phần của mình. Ví dụ Lào có ưu thế phát triển thủy điện. Nhưng khi phát triển thủy điện thì lại gây ra những hệ lụy ở hạ lưu gồm có Campuchia, Việt Nam... Chúng ta thấy rằng Lào chỉ có khoảng từ 6-8 triệu dân, trong khi nội đồng bằng sông Cửu Long thôi đã có 20 triệu dân và có 60-80 triệu dân sống lệ thuộc vào dòng sông này. Dịch bệnh vừa xảy ra, chúng ta thấy rõ là ngành công nghiệp, dịch vụ bị ngưng trệ, thì lượng điện đâu có cần. Có nhiều điện nhưng không có lương thực thực phẩm trong khu vực, thì phải đối diện với rủi ro rất nhiều.

Điểm thứ hai mà chúng ta thấy là vừa rồi, khi dịch bệnh xảy ra, có hàng triệu người từ các thành phố lớn, như Sài Gòn, Bình Dương, Sông Bé... quay trở về đồng bằng sông Cửu Long tránh dịch. Chúng ta đặt tình huống là nếu đồng bằng sông Cửu Long không còn sức để hấp thụ thì mấy triệu người này đi đâu. Chúng ta biết là họ sẽ tìm những chỗ nào có nước, có lương thực để đi, thì đến lúc đó, liệu biên giới giữa các quốc gia còn thực sự yên ổn không hay là nó sẽ tạo ra sự xáo trộn trong khu vực và sự xáo trộn đó luôn luôn tạo ra nguy cơ lớn nhất cho những cộng đồng nào có số lượng ít.

Chính vì vậy, những quốc gia trong lưu vực sông Mekong phải thấy rằng đây là một vấn đề lệ thuộc lẫn nhau. Thế nhưng, đây lại là một thách thức rất khó, đã bàn từ vài chục năm mà vẫn chưa tìm thấy được một tiếng nói chung. Các quốc gia vẫn thấy phần của mình là quan trọng. Nhưng tôi vẫn tin rằng những đợt xáo trộn dịch bệnh như này cũng làm cho người ta thức tỉnh và nhìn lại tất cả những vấn đề. Hy vọng là sẽ có một tiếng nói, một sự đồng thuận về chia sẻ nguồn nước hợp lý, về gìn giữ hệ sinh thái của sông Mekong, bởi vì đây là tương lai không phải của một thế hệ mà của nhiều thế hệ tiếp theo.

RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong.

Thu Hằng thực hiện

Nguồn : RFI, 08/06/2020

Published in Diễn đàn