Mọi lý thuyết đều màu xám duy cây đời vẫn mãi xanh tươi.
Johann Wolfgang von Goethe
(Faust 1808 'Studierzimmer')
DRAGON và Đại học Cần Thơ
Chúng tôi cùng hẹn gặp nhau ở Cần Thơ đầu tháng 12. Thực ra chúng tôi đã biết nhau từ trước do "văn kỳ thanh" qua những trăn trở chung về hệ sinh thái sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long.
Từ trái, tiến sĩ Lê Phát Quới, thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, kỹ sư Phạm Phan Long, tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Ngô Thế Vinh, tiến sĩ Dương Văn Ni, bác sĩ Nguyễn Văn Hưng. Trên khối đá, ghi khắc thời điểm 31/03/1966 là ngày tướng Nguyễn Cao Kỳ ký nghị định chính thức thành lập Viện Đại học Cần Thơ, với giáo sư Phạm Hoàng Hộ là Viện trưởng Sáng lập đầu tiên. [photo by Sang]
Đoàn hôm nay gồm 7 người. Buổi sáng, dự tính khởi hành sớm nhưng theo yêu cầu của người viết, muốn được trở lại thăm Đại học Cần Thơ, nay với thêm DRAGON - Mekong Institute là Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu mà tiến sĩ Lê Anh Tuấn trong đoàn hiện là Phó Viện trưởng. [DRAGON : Delta Research and Global Observation Network].
Có thể nói Đại học Cần Thơ có một thư viện : Trung tâm Học liệu khang trang và đẹp nhất theo tiêu chuẩn thư viện Mỹ. Trên lầu 3 của Thư viện là Phòng Truyền thống, với đôi nét lịch sử Đại học Cần Thơ, cả với hình ảnh các Viện trưởng [sau 75 gọi là Hiệu trưởng] từ ngày thành lập tới nay.
Những Hiệu trưởng Viện Đại học Cần Thơ từ ngày thành lập tới nay : (từ trái) 1. giáo sư Phạm Hoàng Hộ, 1966-1970 ; 2. giáo sư Nguyễn Duy Xuân, 1970-1975 ; 3. Ông Phạm Sơn Khai, 1976-1989 ; 4. giáo sư Trần Phước Đường, 1989-1997 ; 5. tiến sĩ Trần Thượng Tuấn, 1997-2002 ; 6. tiến sĩ Lê Quang Minh, 2002-2006 ; 7. giáo sư Nguyễn Anh Tuấn, 2007-2012 ; 8. tiến sĩ Hà Thanh Toàn, 2013-2017 đến nay. [photo by Lê Anh Tuấn]
Điều mới mẻ với tôi, kể từ chuyến viếng thăm trước là Đại học Cần Thơ có thêm Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu / DRAGON - Mekong Institute.
Viện được chính thức thành lập ngày 20/11/2009. Trong buổi lễ khai mạc, giáo sư Nguyễn Anh Tuấn, hiệu trưởng Đại học Cần Thơ lúc đó và Đại sứ Hoa Kỳ Micheal W. Michalak đã ký một Thỏa ước thiết lập quan hệ hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm lâu dài giữa hai Châu thổ sông Mekong và sông Mississippi, trong đó nhấn mạnh các nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu với những biện pháp giảm thiểu và cả thích nghi.
Cùng ngày là lễ khánh thành trụ sởViện Nghiên cứu biến đổi khí hậu trong khuôn viên Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên, Đại học Cần Thơ. Có thể nói đây là bước mau chóng triển khai "Sáng kiến hạ lưu Sông Mekong (Lower Mekong Initiative-LMI)" của ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton trước đó 5 tháng với khởi đầu là bước kết nghĩa giữa hai Ủy ban sông Mekong (Mekong River Commission-MRC) và Ủy ban sông Mississippi (23/07/2009) [3].
Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu Đại học Cần Thơ là đơn vị nghiên cứu khoa học đa ngành nhằm phục vụ cho việc đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, sản xuất nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ; xây dựng chiến lược và kế hoạch thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu cho các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long. Viện cũng phối hợp đào tạo, nghiên cứu khoa học và chia sẻ kinh nghiệm giữa các viện, trường trong và ngoài nước, đặc biệt là giữa trường Đại học Cần Thơ với các địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long trong nỗ lực thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu (Website : https://dragon.ctu.edu.vn).
Một thoáng Châu Đốc
Lộ trình từ Cần Thơ tới Châu Đốc đường khá tốt đi khoảng 5 tiếng. Xe chạy men theo bờ Sông Hậu, ngang thị xã Long Xuyên nơi có Đại học An Giang, anh Võ Tòng Xuân Hiệu trưởng sáng lập đầu tiên thì đã về hưu, nay anh được mời về làm Hiệu trưởng một Đại học tư Nam Cần Thơ, anh Xuân còn có biệt hiệu là "Hai Lúa" dù đã bước qua tuổi cổ lai hy nhưng anh vẫn nhiều lần bay xa tới tận Châu Phi, giúp Sierra Leone đưa kỹ thuật "văn minh lúa nước" từ đồng bằng sông Cửu Long sang Phi Châu với tham vọng giúp lục địa này phát triển lương thực bền vững và vượt qua cơn thiếu đói.
Mỗi lần trở lại với con sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long với tôi như một tiếng gọi quyến rũ, như một cuộc trở về, để tìm tới những vùng đất đai, những khúc đoạn khác của con sông Mekong, do những bước phát triển không bền vững (unsustainable developments) khiến toàn thể hệ sinh thái không ngừng bị tổn thương suy thoái và nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt. Rồi ra thế hệ sắp tới có thể không còn cơ hội để thấy được sinh cảnh phong phú nhưng quá mong manh của dòng sông và sẽ trở thành "Con sông của quá khứ".Và những ai xa quê thì cũng vẫn mong được trở về với mái nhà xưa tìm lại cánh đồng xanh mùa màng ngày cũ.
Dọc đường có thể quan sát một số điểm sạt lở bờ sông Hậu. Ghé qua Ô Long Vĩ để xem đê lúa cao sản ba vụ. Đoàn tới Châu Đốc vào buổi xế trưa.
Châu Đốc trước kia là tên một tỉnh, nay là tên một thành phố thuộc tỉnh An Giang sát biên giới Việt-Miên. [tỉnh lỵ của An Giang nay là thành phố Long Xuyên]. Cư dân Châu Đốc khoảng hơn 150 ngàn dân, với các sắc tộc Kinh, Chăm, Hoa và Khmer, bao gồm nhiều tôn giáo : Phật giáo, Công giáo, Cao đài, Hòa hảo, Tin lành, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, và đạo Hồi Islam với cộng đồng người Chăm Châu Giang (chủ yếu sống dọc theo bờ Sông Hậu, ven Quốc lộ 91).
Có khoảng 900 ngàn người Khmer sống nơi đồng bằng sông Cửu Long. Họ theo đạo Phật tiểu thừa, sống đông nhất ở 3 tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh và Châu Đốc nay là tỉnh An Giang. Nhà cửa của người Khmer vẫn đơn sơ nhưng nổi bật là các ngôi chùa tháp vàng uy nghi. Không xa chùa có tháp đựng tro cốt người chết sau khi được hỏa thiêu ; người Khmer không có nghĩa trang.
Qua công viên Ngã ba Sông Châu Đốc, nổi bật một Tượng đài cá Ba Sa cao 14 mét, chỉ riêng phần tượng cá đã nặng tới 3 tấn, màu sáng bạc chói chang trong nắng, như một biểu tượng tôn vinh nông ngư dân đồng bằng sông Cửu Long đã thuần dưỡng thành công trong các làng bè một giống cá ngon có chất lượng thay thế cho nguồn cá sông thiên nhiên ngày một cạn kiệt. Ba Sa có tên khoa học là Pangasius bocourti, là loài cá da trơn được nuôi nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long và cả lưu vực sông Chao Phraya Thái Lan.
Bên chân tượng đài cá Ba Sa, biểu tượng phát triển ngành thủy sản của Châu Đốc. Ba Sa là loại cá nuôi được ưa chuộng và đang bơi ra xa khắp thế giới ; [photo by Nguyễn Hữu Thiện]
Cá Ba Sa chiếm hơn nửa sản lượng cá nuôi hàng năm nơi đồng bằng sông Cửu Long. Hàng ngàn làng bè đầu nguồn sông Hậu nơi các tỉnh An Giang (Châu Đốc), Đồng Tháp (Hồng Ngự) không ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng. Không những thế, phi-lê cá Ba Sa nay đã trở thành một thương hiệu (brand name) được ưa chuộng ở nhiều thị trường trên thế giới.
Từ chân tượng đài, nhìn sang bên kia sông là một cồn lớn, như một tháp ghép lịch sử (historic transplant), đang có khoảng 12 ngàn người Chăm sinh sống trên đó, dân địa phương quen gọi họ là Chà Châu Giang, do nước da sậm và họ theo đạo Hồi.
Khi Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi tới Châu Đốc, thì Thoại Ngọc Hầu được giao trọng trách đào con kênh Vĩnh Tế, và một số người Chăm được điều động tới đây. Họ rất đắc lực trong vai trò đôn đốc tám chục ngàn sưu dân người Việt, người Khmer rất gian khổ ngày đêm đào con kinh Vĩnh Tế trong suốt 5 năm với rất nhiều tổn hại nhân mạng.
Sau khi kênh Vĩnh Tế hoàn tất, triều đình Huế xem đây như thành quả to tát và để thưởng công cho đám người Chăm này, vua Minh Mạng đã chiêu dụ cấp đất cho họ lập thành 7 làng, sau này có thêm làng Đa Phước. Đến nay họ sống khá cách biệt, chuyên nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa nên còn có tên là Cồn Tơ Lụa (Koh Kaboăk) và họ vẫn giữ được bản sắc văn hóa Champa. Tôi có người bạn vong niên từ hồi báo Bách Khoa trước 1975, anh Dohamide sinh ra và lớn lên nơi đây ; anh là cây bút lâu năm uy tín viết chuyên khảo về lịch sử văn hóa Chăm. Có giai thoại cho rằng tên Việt Nam Đỗ Hải Minh của anh là do ông Ngô Đình Nhu đặt cho. Anh Dohamide hiện đang sống ở Mỹ.
Nhìn lên bầu trời xanh rồi như một flashback, tôi không sao quên được cảm xúc buổi chiều ngày hôm đó khi bước xuống ghe giã từ Đa Phước, ngôi làng lịch sử còn đầy ắp những hoài niệm của quá khứ [1].
Bà ngoại với chiếc Ipad
Rời Châu Đốc xe rời quốc lộ chạy vào những con đường làng nhỏ tráng nhựa thô sơ, quá hẹp cho xe hơi chạy hai chiều, đường chủ yếu cho xe gắn máy và xe đạp. Xe dừng ở xã Vĩnh Châu. Ấn tượng nhất là hình ảnh một bà cụ ngồi chồm hổm với chiếc iPad, nói chuyện với đứa cháu ngoại mãi tận bên Hàn quốc. Bà có một đứa con gái lấy chồng Hàn, nó vẫn gửi tiền về cho mẹ và cả chiếc iPad để cho Ngoại nói chuyện với cháu cho đỡ nhớ. Và đây có thể là trường hợp may mắn của một cô gái Cửu Long lấy chồng xa, có đời sống vật chất đủ để có thể bảo bọc cho gia đình, quán xuyến lo cho mẹ và các em nơi quê nhà.
Bà Ngoại ngồi chồm hổm với chiếc iPad nói chuyện với đứa cháu ngoại mãi tận bên Hàn quốc, bà có một đứa con gái lấy chồng Đại Hàn, nó vẫn gửi tiền về cho mẹ và cả chiếc iPad để cho Ngoại nói chuyện với cháu cho đỡ nhớ. [photo by Ngô Thế Vinh]
Không còn hình ảnh cũ ước lệ nhưng thân thương, bà Ngoại nằm đưa võng ôm cháu mà ru mấy tiếng à ơi. Hay câu ca dao rất quen thuộc mà tưởng như đã rất xa :
Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu
Nay thì không ít cô gái Cửu Long, không còn kiên nhẫn chờ ngày được má gả chồng, chính các cô đã tự tìm đường bươn trải, tự kiếm cho mình một tấm chồng thường ở một xứ sở xa lắc xa lơ, như Đài Loan, Hàn Quốc hay Trung Quốc... nhưng rồi với iPhone, iPad thì các cô biết rất rõ má mình đang ở đâu và cả bao xa. Nhưng rồi, trong số đó cũng phải kể tới không thiếu những cô gái Việt bất hạnh gặp nghịch cảnh, sống trong tăm tối tuyệt vọng và cũng không sao tìm được một con đường về.
Hỏi Ngoại thêm về nước dùng thì 100% là từ nước giếng bơm. Đây cũng là mối ưu tư của tiến sĩ Dương Văn Ni từ Đại học Cần Thơ : sông nước thì lênh láng mà vẫn thiếu nước dùng, và tầng nước ngầm thì không phải là vô hạn và ngày càng suy xụp.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia vùng đất ngập (wetlands) đã hơn một lần đưa ra những con số báo động :
"Nông thôn vùng sông nước Cửu Long bây giờ toàn xài nước ngầm ; có khoảng 1 triệu giếng khoan mỗi ngày rút lên 2 triệu mét khối nước ngầm, dùng cho sinh hoạt đủ thứ, vậy nên đồng bằng sông Cửu Long đang bị sụt lún nhanh gấp 10 lần nước biển dâng".
Nhà nước hay Bộ Tài nguyên và môi trường, ai sẽ đưa ra câu trả lời rốt ráo cho "vấn nạn nước" trong thập niên tới.
Quan tâm của anh Dương Văn Ni là làm sao bảo vệ nguồn nước mặt khỏi ô nhiễm và của anh Phạm Phan Long làm sao gia tăng dự trữ tầng nước ngầm, là mối ưu tư nặng trĩu trong lòng chúng tôi trong suốt cả chuyến đi.
Đến với hai con đập tràn huyện Tinh Biên
Ra lại Quốc lộ 91, theo con kênh Vĩnh Tế tới huyện Tân Biên. Đoàn dừng chân nơi có hai con đập tràn Tha La và đập tràn Trà Sư.
Tiến sĩ Dương Văn Ni bước xuống chân con đập Trà Sư, bắt đầu giải thích :
"Hai con đập Trà Sư và Tha La là loại đập tràn (spillway rubber dam), lúc thiết kế dự tính là chiều cao mực nước lúc cho tràn sẽ thay đổi tùy theo tình hình lũ thượng nguồn, nên họ sử dụng "phao khí", tức là nếu cho nước tràn sớm thì bơm ít khí, nếu cho nước tràn trễ thì bơm nhiều ống khí sẽ căng lên. Nhưng từ khi thiết kế kỹ thuật phao khí đến nay, bắt đầu từ năm 2000 thì chỉ có xả đập hay đóng đập, chứ không cho đập tràn như dự kiến. Đây cũng là câu hỏi kỹ thuật đặt ra cho việc vận hành các đập tràn ? Có lẽ vì đập nầy chỉ vận hành đóng/mở (xả) trong thời gian qua và hiện nay phao khí cao su đã bị lão hóa, nên họ cho sửa lại như mình thấy".
Anh Dương Văn Ni tiếp :
"Không phải chỉ các đập tràn, mà toàn bộ hệ thống đê / lộ chạy dọc theo biên giới Việt Nam - Cambodia đã làm giảm lượng nước vào Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, nhằm làm tăng diện tích canh tác lúa cao sản 3 vụ bên phía Việt Nam nhưng đồng thời lại gây ngập cho phía Cambodia khiến nước bạn đã nhiều lần than phiền".
Không còn lũ, bờ bên này là các rạch nước tù đọng ô nhiễm, với các giề lục bình mọc khắp nơi ; phải, nông dân vẫn cắm cúi trồng lúa cao sản 3 vụ, làm lụng vất vả quanh năm mà vẫn không dư dả và cả thiếu ăn. [photo by Ngô Thế Vinh]
Xả lũ hai đập tràn Tha La và Trà Sư
Hai con đập tràn Tha La và Trà Sư được xây cất và bắt đầu đưa vào vận hành từ tháng 5 năm 2000 với vai trò điều tiết lũ từ Cambodia thượng nguồn đổ ra Biển Tây, vịnh Thái Lan. Xây đập tràn với mục đích ngăn lũ đổ về phía nam Quốc lộ 91 dọc theo con kênh Vĩnh Tế, nhằm bảo đảm Kế hoạch An ninh Lương thực, sản xuất lúa cao sản 3 vụ cho vùng trũng Tứ Giác Long Xuyên gồm các tỉnh An Giang, Kiên Giang và Cần Thơ.
Theo số liệu của Công ty Thủy lợi An Giang thì tại đập tràn Tha La mực nước thượng lưu bên Cambodia là 2,95m và hạ lưu là 2,05m với mức chênh lệch là 0,9m ; còn tại con đập tràn Trà Sư mực nước thượng lưu bên Cambodia là 2,94m và hạ lưu là 2,15m với mức chênh lệch là 0,8m.
Việc xả lũ 2 con đập tràn Tha La và Trà Sư được vận hành linh hoạt theo tình huống lũ từ thượng nguồn, kết hợp với nhu cầu nước của vùng dưới nhằm đảm bảo an toàn sản xuất lúa ba vụ, nhất là vụ lúa thu đông. Việc xả lũ có lợi ích tháo chua rửa phèn cho đất, làm sạch ô nhiễm cho vùng Tứ Giác Long Xuyên và phụ cận. Việc xả lũ còn có thêm lợi ích là mang phù sa như một thứ phân bón thiên nhiên màu mỡ cho hơn 20.000 hecta đất trồng trọt. Do đó mà sự kiện xả lũ được bà con nông dân coi như là một ngày vui, và có đông đảo bà con An Giang háo hức tụ về xem hai con đập tràn xả lũ như đi trẩy hội.
Theo báo Tuổi Trẻ ghi nhận thì 2 năm trở đây đã có 2 đợt xả lũ :
(1) Sáng ngày 22/10/2016, hai con đập tràn Tha La và Trà Sư đã được xả lũ.
(2) Sáng ngày 22/09/2017, sớm hơn một tháng hai con đập tràn Tha La và Trà Sư đã được xả lũ nhằm đối phó với mưa lũ lên nhanh phía Cambodia thượng lưu so với cùng kỳ năm ngoái.
Người nông dân cho rằng kế hoạch xả lũ sớm hơn sẽ có lợi hơn nhiều : lũ vào làm vệ sinh cho đồng ruộng, rửa phèn tháo chua cho đất và nhất là đem tới phù sa đã khiến năng suất mùa lúa tới "trúng hơn". Dòng lũ xả chảy cuồn cuộn còn kéo theo cả tôm cá, phải nói là người dân mừng rỡ là thế nào. Có cả nông dân đem vó ra đón lũ và lưới cá, một người đánh bắt được 5-6 kg cá tươi trong ngày dư dả cho bữa ăn giàu chất protein cho cả mấy gia đình.
Nhưng cũng để thấy rằng chính các đê bao chống lũ để làm lúa 3 vụ, đồng thời cũng làm mất đi 2 túi nước thiên nhiên quan trọng là khu Tứ Giác Long Xuyên và vùng trũng Đồng Tháp Mười rất cần thiết để cung ứng nước cho cả vùng Châu thổ trong mùa khô.
Vĩnh Tế con kênh lịch sử
Khi nói về lịch sử con kênh Vĩnh Tế, anh Dương Văn Ni thêm một nét chấm phá pha chút hài hước : "Vĩnh Tế là tên bà vợ Thoại Ngọc Hầu, vậy mà cũng có người giải thích kênh Vĩnh Tế là con kênh chiến lược về kinh tế.."..
Sơ đồ Canal de Prêk Yuan, tên Khmer của con kênh Vĩnh Tế, với ghi chú tiếng Pháp : Canal de Prêk Yuan ou Canal de Vinh Te Reliant la Rivière de Chau Đoc à Hà Tien, trang 394 sách đã dẫn [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Thoại Ngọc Hầu, tục danh Nguyễn Văn Thoại, người gốc Điện Bàn Quảng Nam, theo phò chúa Nguyễn Ánh rất sớm và được trọng dụng. Năm 1818, ông được bổ làm Trấn thủ Vĩnh Thanh, tại đây ông có công điều động dân binh đào con kênh Đông Xuyên, vì những lợi ích kinh tế to lớn, nên kênh ấy được nhà vua cho đặt tên ông là Thoại Hà, ngọn núi Khâu Sơn gần đó cũng có tên là Thoại Sơn.
Năm 1819, Thoại Ngọc Hầu lại được lệnh vua Gia Long đào thêm một con kênh lớn hơn nhiều chạy thẳng từ Châu Đốc, tỉnh An Giang xuống đến Kiên Lương tỉnh Kiên Giang nhập vào sông Giang Thành tới cửa Hà Tiên đổ ra Biển Tây tức vịnh Thái Lan.
Trong suốt thời gian đào kênh, Thoại Ngọc Hầu đã được bà vợ là Châu Thị Vĩnh Tế người Vĩnh Long hết lòng cùng chồng đốc suất dân binh làm việc ngày đêm, kéo dài suốt 5 năm cho tới ngày con kênh hoàn tất 1824. Vua Minh Mạng cảm phục công sức khó nhọc của bà nên đã lấy tên bà đặt cho con kênh chiến lược này là kênh Vĩnh Tế, và ngọn núi Sam gần đó là Vĩnh Tế Sơn. Không những thế, hình kênh Vĩnh Tế còn được vua Minh Mạng cho khắc trên chiếc Cao Đỉnh với dòng chữVĩnh Tế hà (永濟河). Cao Đỉnh là chiếc đỉnh đầu tiên trong Cửu Đỉnh để thờ Thế Tổ Cao Hoàng đế tức vua Gia Long.
Kênh Vĩnh Tế chảy song song với đường biên giới Việt Miên, dài ngót 90 km, rộng 30 m, độ sâu trung bình 2,5 m ; không chỉ là một công trình thủy lợi có giá trị kinh tế to lớn nhưng quan trọng hơn thế nữa còn là một con hào chiến lược có giá trị quốc phòng bảo vệ vùng đất dọc biên giới.
Đến với con Kênh Vĩnh Tế cũng là đến với một chặng đường lịch sử trải dài ngót 200 năm với nhiều máu, mồ hôi và nước mắt.
Lịch sử Khmer : một cái nhìn khác
Với người Khmer, lịch sử ngót 200 năm của con kênh Vĩnh Tế là một cơn ác mộng. Vẫn lưu truyền trong dân gian Khmer, qua các câu chuyện kể, và cả bằng sách vở nữa của các vị sư sãi Miên là đã có hàng chục ngàn sưu dân Khmer bị Bảo Hộ Thoại Ngọc Hầu bắt làm khổ sai đào con kênh Vĩnh Tế từ Châu Đốc ra tới Hà Tiên mà người Khmer gọi là Canal de Prêk Yuan với bao nhiêu lầm than và chết chóc, rồi cả đến câu chuyện quái đản cùa người Pháp về"Vị Quan Triều Nguyễn Trương Minh Giảng chôn sống ba người Khmer ngập tới cổ rồi dùng đầu họ làm kiềng ba chân đặt nồi nấu cơm". Thật và không thật, các câu chuyện ấy vẫn được những người Khmer chống Việt Nam rêu rao như một bằng chứng hành hạ độc ác của người Việt mà họ miệt thị gọi là bọn Yuon.
Gia tài thù hận Việt-Khmer
Ngay cả sang cuối thế kỷ XX vẫn dấy lên những phong trào người Khmer bài Việt. Bấy lâu bị điều kiện hóa trong cảm giác thường trực bất an và luôn luôn bị ám ảnh về quá khứ bành trướng của người Việt với cuộc Nam Tiến, nên mọi chiến dịch chống Việt Nam bất kỳ trong hoàn cảnh nào vẫn đáp ứng một phần tâm tư thầm kín của người dân Khmer. Đối với các nhà hoạt động chánh trị Cam Bốt mị dân hay không, thì bài xích chống Việt Nam là một bằng chứng yêu nước.
Không ai ngạc nhiên cứ thỉnh thoảng lại xảy ra những vụ thảm sát "cáp duồn" người Việt sống trên đất Chùa Tháp rất ư là kinh hoàng. Lâu lâu lại có hàng trăm xác người kể cả đàn bà và trẻ em bị người Khmer chặt đầu mổ bụng thả trôi trên con sông Mekong loang máu, vẫn là cảnh tượng hãi hùng gây xúc động cho toàn thế giới.
Ngay thời Lol Nol, một chính quyền thân Mỹ cũng đã phát động một cuộc tổng ruồng bắt và "cáp duồn" người Việt khủng khiếp nhất trên quy mô cả nước. Đến thời kỳ Khmer Đỏ, một số lớn người Việt cũng đã bị thảm sát qua các cuộc thanh lọc chủng tộc (ethnic cleansing). Không cần che giấu ngay giữa thủ đô Nam Vang trên những bức tường, những dòng chữ khích động chiến dịch giết hết người Việt trên đất Chùa Tháp ; cả bằng tiếng Pháp tiếng Anh nhắm vào ống ảnh của đám ký giả ngoại quốc : "We must kill all Viets in Cambodia".
Thời Khmer Đỏ, Pol Pot không chỉ giết người Việt, mà còn tra tấn sát hại rất nhiều người Khmer bị nghi là thân Việt Nam với tội danh gán cho họ là bọn "xác Khmer hồn Việt", như thứ cỏ dại cần phải tiễu trừ. Rồi cũng Pol Pot tố cáo ngược lại chính Việt Nam mới là thủ phạm của bấy nhiêu sọ người trên khắp Những Cánh Đồng Chết ở Cambodia và không phải là không có những người Khmer cả tin như vậy.
Dù đã trải qua nhiều thế hệ sống trên xứ Chùa Tháp, đám người Việt tha hương này vẫn luôn luôn bị nghi kỵ và cả bị thù ghét. Cáp Duồn là những đợt người Khmer nổi dậy tàn sát cắt cổ người Việt không phải chỉ có trên đất nước Cam Bốt mà ngay cả nơi đồng bằng sông Cửu Long trong "Mùa Thổ Dậy" là những ngày đẫm máu kinh hoàng chẳng thể nào quên.
Con số người Việt hiện ở Cam Bốt là 200 ngàn, 400 ngàn, hay hơn một triệu – không ai biết chắc. Đám người Việt tha phương ấy, cùng với cộng đồng người Chăm, cư ngụ dọc theo hai bên bờ sông Mekong, sông Tonle Sap và tập trung quanh Biển Hồ, sống trên những căn nhà sàn tạm bợ chênh vênh trên những cây cột cao có thể gỡ ra chất lên ghe xê dịch trên mặt hồ theo mùa nước lên xuống. Đa số sống bằng nghề hạ bạc đánh cá, làm cá thuê vô cùng vất vả. Cực thì có cực nhưng họ đã đặt chân trên một vùng đất lên dễ khó về.
Nam Vang lên dễ khó về
Trai vô bạn biển, gái về tào kê
"Chống Việt Nam" bằng bất cứ giai thoại nào đúng hay sai vẫn luôn luôn là một chiêu bài ăn khách và thu phiếu cho bất cứ cuộc vận động tranh cử nào ở Cambodia. Khó mà tìm được một người Khmer nói tốt về người Việt đang sống trên đất nước của họ. Một thành viên nhóm bảo vệ nhân quyền đã kể lại với ký giả báo Far Eastern Economic Review (1994) : "Nếu có được quyền lựa chọn thì đa số người Khmer đều muốn tống xuất tất cả người Việt ra khỏi Cambodia". Người Khmer có thể chia rẽ nhưng họ luôn đoàn kết trên mặt trận chống người Việt bắt nguồn từ"mối thù hận lịch sử".
Từ trên xuống : (a) Cuốn sách tiếng Pháp có tựa đề "Sự sát nhập nước Cambodge bởi người Việt vào Thế kỷ XIX" với hình bìa là ký họa cảnh "Vị Quan Triều Nguyễn chôn sống ba người Khmer ngập tới cổ rồi dùng đầu họ làm kiềng ba chân đặt nồi nấu cơm" ; (b) phải, "Điều tệ hại nhất đã qua rồi", "Chúng ta phải giết bọn Yuon - tức người Việt" đó là những khẩu hiệu chống Việt Nam thời Lol Nol ; (c) sơ đồ Canal de Prêk Yuan, tên Khmer của con kênh Vĩnh Tế, với ghi chú tiếng Pháp : Canal de Prêk Yuan ou Canal de Vinh Te Reliant la Rivière de Chau Đoc à Hà Tien, trang 394 sách đã dẫn [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Đến Tri Tôn đi trên con đường máu lệ
Từ Tịnh Biên theo Quốc lộ 91, hướng nam qua Chi Lăng là Trung tâm Huấn luyện cũ thời Việt Nam Cộng Hòa, qua rặng Núi Cấm đứng uy nghi phía tây. Đường tới Tri Tôn, hai bên toàn màu xanh với những cây thốt nốt và cả các mái chùa vàng uy nghi kiến trúc Khmer.
Nhưng tới với Tri Tôn cũng là đi trên một con đường máu lệ : không thể không nhớ tới địa danh thị trấn Ba Chúc và chùa Phi Lai, là những Cánh Đồng Chết (Killing Fields), tưởng như mới hôm qua. Những cuộc thảm sát người Việt của Khmer Đỏ trải dài bên tả ngạn con kênh Vĩnh Tế xuống tới Hà Tiên ra xa tới đảo Thổ Chu.
- 18/04/1978 : Khmer Đỏ tràn vào thị xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang giết 3.157 thường dân.
- 20/04/1978 : Khmer Đỏ đến chùa Phi Lai bắn giết thêm 150 thường dân đang lẩn trốn tại đây.
[Nói tới các vụ thảm sát của Khmer Đỏ, không thể không nhắc tới một vụ thảm sát sớm hơn trên đảo Thổ Chu. Ngày 12/05/1975, Khmer Đỏ tràn qua đánh chiếm đảo Thổ Chu, thuộc tỉnh Kiên Giang giết và bắt toàn bộ 515 cư dân trên đảo, trong số đó có hai mẹ con nữ sĩ Phùng Thăng. Theo nhà văn Trần Hoài Thư, bạn học cùng lớp với Phùng Thăng, chị nổi tiếng với bản dịch "Câu Chuyện Dòng Sông" của Herman Hesse, dịch chung với người chị là Phùng Khánh. Chị Phùng Thăng và con đã chết bi thảm trên hòn đảo nhỏ Thổ Chu, nằm phía cực tây nam đảo Phú Quốc, lúc ấy chị mới 32 tuổi cùng với con gái Tiểu Phượng 9 tuổi].
Giải lời nguyền : Mekong dòng sông nối kết
Bước vào Thiên niên kỷ thứ Ba của toàn cầu hóa (globalization), để thấy rằng biên giới chánh trị giữa các quốc gia chỉ là một làn ranh ảo. Không hề có biên giới trong toàn hệ sinh thái (ecosytem) của con sông Mekong. Con Sông Mekong không chỉ là mạch sống (lifeline) của hai dân tộc Việt Khmer mà còn là một sợi dây nối kết chung sống hòa bình giữa các quốc gia chứ không phải là nguyên nhân gây chia rẽ.
Bên trong và bên ngoài, cùng những trăn trở chung về Hệ Sinh thái Sông Mekong, chúng tôi cùng hướng tới một mẫu số chung : phác thảo kế hoạch từng bước bền vững khai thác tài nguyên con sông Mekong, cùng phấn đấu cho những bước phát triển đồng bộ cho toàn lưu vực, với tầm nhìn toàn vùng (regional vision) chứ không phải cục bộ.
Một ví dụ : Khi chia sẻ với một số chuyên gia trong nước và ông Senglong Youk, phó giám đốc Liên hội Ngư nghiệp (Deputy Executive Director at Fisheries Action Coalition Team, FACT) và phát ngôn viên cho Nhóm Bảo Vệ Tonle Sap (Tonle Sap Lake Waterkeeper, TSW), kỹ sư Pham Phan Long đề nghị để cứu vãn Biển Hồ Tonle Sap, Cambodia và Việt Nam cần hợp tác vận động việc phối hợp quy trình vận hành tất cả các đập Mekong để bảo đảm Biển Hồ Tonle Sap đạt đủ dung lượng 80 tỉ mét khối lũ cần để phục hồi hệ sinh thái Biển Hồ đồng thời có nước để chảy về đồng bằng sông Cửu Long lượng nước cần cho sinh hoạt, bảo đảm khả năng chống hạn và xâm mặn vào mùa khô. Số nước cần thiết cho đồng bằng sông Cửu Long vào mùa khô theo giáo sư Trương Đình Dụ và thạc sĩ Trương Thu Hằng là khoảng 10 tỉ mét khối và theo ước tính tiến sĩ Lê Anh Tuấn viện DRAGON thì vận tốc dòng chảy để đẩy mặn là 10.000 m3/s.
Một ví dụ khác : kỹ sư Phạm Phan Long và một số thành viên của các tổ chức bảo vệ Môi sinh đang có những vận động thuyết phục về tính khả thi nhằm triển khai Năng Lượng Tái Tạo thay vì tiếp tục 7 dự án thủy điện của Lào, 2 của Cambodia, và để cùng thấy rằng mọi phía trong toàn lưu vực (Mekong Basin) đều có lợi (win-win situation) theo đúng hướng đi thời đại về năng lượng xanh của toàn cầu (5).
Để hóa giải mối thù hận Việt Khmer như một tồn tại lịch sử, tuy vô cùng khó khăn nhưng vẫn phải có bước khởi đầu để hướng tới. Điều thiết yếu là phải có một giới lãnh đạo mạnh từ hai quốc gia, với tầm nhìn lịch sử, có quyết tâm chánh trị, có hậu thuẫn của dân chúng, để can đảm cùng nhau mở ra những vết thương tuy đau đớn nhưng có cơ hội chữa lành.
Năm 2018, sẽ là một năm của ước vọng hàn gắn (healing process) những đổ vỡ, phục hồi niềm tin, tiến tới triển vọng hợp tác trong "Tinh Thần Sông Mekong (Mekong Spirit)" như một mẫu số chung để cùng nhau phát triển, cùng nhau hướng tới một tương lai thịnh vượng chung và hòa bình cho toàn vùng.
Châu Đốc - Tân Biên - Tri Tôn, tháng 12/2017
Ngô Thế Vinh
Nguồn : VOA, 25/01/2018
Tham khảo :
1./ Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng. Ngô Thế Vinh, Nhà xuất bản Văn Nghệ California 2000
2. Vực dậy từ tro than, đi qua những Cánh Đồng Chết, Ngô Thế Vinh, Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, Nhà xuất bản Văn Nghệ, California 2007
3. The Mekong and Mississippi Sister-River Partnership : Similariries and Differences, Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 09/09/2009
4. Xả lũ hai đập tràn Tha La, Trà Sư tạo phù sa cho hạ lưu, Tuổi Trẻ 22/10/2016. Xả lũ hai đập tràn Tha La, Trà Sư thu hút hàng trăm người dân trong tỉnh đổ về xem, Tuổi Trẻ 22/09/2017
5. Blowing away the curse over the Mekong with its own Wind and Sunlight, Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation 01/2018
Xã luận
Ngày 3/10 vừa qua, hai Bộ Công thương và Xây dựng đã phối hợp tổ chức một cuộc hội thảo tại Cần Thơ với chủ đề là nên hay không nên thiết lập thêm những nhà máy nhiệt điện chạy bằng than tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây không phải là một cuộc hội thảo mà chỉ là một cuộc họp để thông báo một quyết định.
Các chuyên gia nước ngoài quan tâm tới việc sử dụng tro, xỉ của Nhà máy nhiệt điện ở đồng bằng sông Cửu Long.
Các quan chức nhà nước, một thứ trưởng Bộ Công thương, một thứ trưởng Bộ Xây dựng cho biết vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện đã có ba cụm nhiệt điện than, từ đây tới 2020 sẽ xây thêm ba cụm nhiệt điện khác và từ năm 2020 đến năm 2030 sẽ có thêm 9 cụm nữa, nâng tổng công suất phát điện lên 18.225 MW, mỗi năm thải ra khoảng 13,67 triệu tấn tro, xỉ và thạch cao.
Việt Nam hiện đã có 21 cụm nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động, thải ra hàng năm hơn 16 triệu tấn tro xỉ, và 12 cụm đang xây dựng và sẽ đi vào hoạt động vào năm 2020. Tổng lượng tro, xỉ phát sinh từ các nhà máy nhiệt điện đến năm 2020 ước khoảng 22,6 triệu tấn. Nếu chế độ cộng sản vẫn còn cho tới năm 2030 để tiếp tục xây các nhà máy nhiệt điện than theo cùng một nhịp độ với đồng bằng sông Cửu Long, như họ dự tính thì vào năm 2030 sẽ có khoảng 70 cụm nhà máy nhiệt điện than thải ra khoảng 50 triệu tấn tro và xỉ mỗi năm.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện đã có ba cụm nhiệt điện than, từ đây tới 2020 sẽ xây thêm ba cụm nhiệt điện khác, và từ năm 2020 đến năm 2030 sẽ có thêm 9 cụm nữa, nâng tổng công suất phát điện lên 18.225 MW, mỗi năm thải ra khoảng 13,67 triệu tấn tro, xỉ và thạch cao.
Lập luận của chính quyền cộng sản, qua lời phát biểu của các quan chức, là một sự thách đố xấc xược với cả khoa học kỹ thuật lẫn trí tuệ, lẫn nhân dân Việt Nam. Họ nói rằng nhiệt điện than, mà cả thế giới kể cả Trung Quốc đang vất bỏ, là chọn lựa bắt buộc cho Việt Nam, vấn đề chỉ còn là làm thế nào để các nhà máy nhiệt điện than ít gây ô nhiễm nhất và họ đã tìm ra giải đáp.
Giải đáp đó là dùng khối tro xỉ thải ra để làm vật liệu xây dựng và san lấp mặt bằng. Họ nói rằng người nông dân miền Bắc đã sử dụng tro và xỉ để làm vật liệu xây dựng và san lấp mặt bằng từ thập niên 1960 và Bộ Tài nguyên và môi trường cũng "chưa bao giờ xác định" tro, xỉ và thạch cao thải ra từ các nhà máy nhiệt điện than là chất thải nguy hại. Nhưng đã có những thử nghiệm khoa học nào, do những định chế khoa học nào thực hiện và trong bao nhiêu năm ? Vả lại "chưa xác định" cùng lắm cũng chỉ là chưa có kết luận. Như vậy là đủ để quyết định là có thể xây hàng loạt cụm nhà máy nhiệt điện than ? Thái độ này khiến người ta nhớ lại một sáng kiến của Đảng và Nhà nước cộng sản, chiếc hố xí hai ngăn không thối từng được khoe khoang trước đây. Người ta cũng chưa quên là khi vụ Formosa xẩy ra cũng cái Bộ Tài nguyên và môi trường vô dụng này đã tuyên bố cá chết là do thủy triều đỏ chứ không phải do nhà máy thép Hưng Nghiệp của Trung Quốc.
Điều mà người ta có thể thấy rõ là Châu Âu, dù trước đây từng dùng than làm nguồn năng lượng chính và đã tích lũy hàng ngàn triệu tấn tro-xỉ, chưa bao giờ dám nghĩ đến sử dụng chúng làm vật liệu xây dựng vì sự nguy hiểm của than quá rõ ràng.
Cũng nên nhắc lại thảm kịch amiante của Châu Âu. Chất amiante đã được sử dụng trong hơn một thế kỷ nhưng chỉ tới thập niên 1980 người ta mới có thể quả quyết rằng nó đã là nguyên nhân của nhiều loại bệnh ung thư. Nhưng đã quá trễ, cả triệu người đã hoặc sẽ thiệt mạng, đa số không biết rằng mình chết vì amiante. Bài học này cho thấy là người ta phải rất khiêm tốn và thận trọng trong những chọn lựa liên quan đến sức khỏe và môi trường. Chính quyền cộng sản quả nhiên không coi đất nước và mạng sống của người dân ra gì khi đùa với tro và xỉ than như vậy.
Nguồn ô nhiễm lớn nhất là khói nhả ra bầu trời, điều này các quan chức cộng sản không hề nói tới.
Tuy vậy tro và xỉ không phải là nguồn ô nhiễm lớn nhất của các nhà máy sử dụng than. Nguồn ô nhiễm lớn nhất là khói nhả ra bầu trời, điều này các quan chức cộng sản không hề nói tới. Khói bay đi chứ không chất đống như tro, xỉ và thạch cao nên không phải là một vấn đề cho chính quyền. Đó chỉ là vấn đề cho môi trường, cho sức khỏe và sinh mệnh của người dân mà thôi. Bầu trời Việt Nam sẽ đen nghịt, hàng triệu người sẽ chết vì ung thư, hàng triệu người khác sẽ yếu bệnh và tật nguyền. Chính quyền cộng sản đang chuẩn bị để hủy hoại đồng bằng sông Cửu Long, và đất nước nói chung.
Nhưng tại sao phải xây các nhà máy nhiệt điện than ?
Các quan chức giải thích : "Theo kinh nghiệm quốc tế, các nước đang phát triển bao giờ cũng phụ thuộc nhiệt điện than, khi nào trở thành nước phát triển, khi đó họ mới chuyển dần sang nguồn năng lượng khác".
Không thể vớ vẩn hơn. Trước khi phát triển họ không có internet và điện thoại di động, vậy bây giờ ta cũng phải bỏ internet và điện thoại di động ? Không chỉ vớ vẩn mà còn là một ngụy biện tùy tiện nơi những cấp lãnh đạo của một đảng đã từng hô hào tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không cần kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Họ lý luận : "Các loại năng lượng tái tạo khác (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối) chi phí đầu tư lớn và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên ; mà nếu quyết tâm đầu tư khai thác thì cũng chiếm tỉ trọng rất thấp, không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế".
Vừa rất sai vừa rất gian trá. Thế giới đang sống một cuộc cách mạng năng lượng lớn. Năng lượng mặt trời vô tận vì chỉ một tuần lễ nắng đủ để cung cấp một khối năng lượng tương đương với trữ lượng của toàn bộ các mỏ than, dầu và khí đốt trên toàn thế giới. Các tiến bộ về kỹ thuật sản xuất và tàng trữ cũng đã khiến năng lượng mặt trời tiếp tục rẻ đi một cách nhanh chóng. Chỉ trong mười năm nữa giá điện nắng sẽ chỉ bằng một nửa giá điện sản xuất bằng than, trước khi xuống thấp hơn.
Liên Hiệp Châu Âu, mà tên gọi ban đầu là "Liên Hiệp Than và Thép Châu Âu", đã quyết định bỏ hẳn than từ hơn hai thập niên và đang tiến hành bỏ cả dầu lửa và khí đốt. Thành phố Paris, nơi không khí được coi là lành sạch, vừa quyết định sẽ cấm các xe chạy bằng Diesel trong vòng bẩy năm, và sẽ chỉ cho phép lưu hành các xe chạy bằng điện vào năm 2030.
Thời đại của than không phải là đang chấm dứt mà đã chấm dứt. Vấn đề của các quốc gia chỉ là lập một lịch trình để tháo gỡ và thay thế các nhà máy nhiệt điện than còn lại. Trung Quốc cũng đã hiểu rõ như vậy. Mười năm trước đây họ dự định xây dựng thêm hàng ngàn nhà máy nhiệt điện than, bây giờ họ tập trung đầu tư vào điện nắng và đẩy sang Việt Nam những thiết bị của các dự án mà họ không tiến hành nữa.
Không thể nghĩ là các quan chức cộng sản Việt Nam không hiểu. Họ thừa biết đầu tư vào điện nắng rẻ hơn, sạch hơn và là chọn lựa hiển nhiên, nhất là nước ta lại được thiên nhiên đặc biệt đãi ngộ về nắng. Họ thừa biết là phần lớn các nhà máy nhiệt điện than mà họ dự trù sẽ phải gỡ bỏ ngay khi mới đi vào hoạt động, thậm chí trước khi đi vào hoạt động. Họ đã chấp nhận để Việt Nam trở thành một bãi rác công nghiệp của Trung Quốc chỉ vì nhu cầu kéo dài chế độ. Họ phải duy trì một mức tăng trưởng kinh tế nào đó, dù chỉ là tăng trưởng giả tạo và độc hại, nhưng ngân khố đã trống rỗng, nợ công và nợ xấu đã chồng chất vì của cải của đất nước đã bị các quan chức tham nhũng vơ vét hết rồi. Giải pháp bắt buộc của họ là xây dựng những dự án với những thiết bị mà Trung Quốc vất bỏ. Họ không chỉ hủy hoại đất nước mà còn khiến chúng ta lệ thuộc hơn nữa vào Trung Quốc.
Câu hỏi phải được đặt ra là Đảng cộng sản sẽ còn hủy hoại đất nước bao lâu nữa trong cố gắng kéo dài sự hấp hối của chế độ ?
Câu hỏi cũng cần được đặt ra cho lương tâm của mọi người Việt Nam là chúng ta còn cam tâm để Đảng cộng sản hủy hoại đất nước đến bao giờ ?
Nguyễn Gia Kiểng
(14/10/2017)
Văn hóa bị phá vỡ, một thách thức của đồng bằng Sông Cửu Long (RFA, 27/09/2017)
Trong hai ngày 26 và 27 tháng Chín, 2017, tại thành phố Cần Thơ đã diễn ra Hội nghị phát triển bền vững cho Đồng bằng Sông Cửu Long, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Khô hạn tại Đồng bằng Sông Cửu Long. Vùng đất này không còn là vùng có thể sông dễ dàng nữa. Ảnh chụp tại Long Phú, Sóc Trăng, 8/2016. AFP
Hội nghị này được báo chí Việt Nam mệnh danh là một Hội nghị Diên Hồng cho vùng đồng bằng này với sự góp mặt của rất nhiều nhà khoa học, chuyên gia kinh tế, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng các quan cao cấp của các bộ, ngành liên quan.
Trong ngày sau cùng của Hội nghị phát triển bền vững Đồng bằng Sông Cửu Long, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tuyên bố rằng sẽ huy động số tiền trị giá một tỉ đô la Mỹ để giúp vùng đất này phát triển bền vững trong vài năm tới. Ngoài ra các quan chức của hai bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, và Bộ Tài nguyên & Môi trường cũng đưa ra những biện pháp cụ thể như là cấm phá 63 ngàn hectare rừng ngập mặn dù dưới bất cứ lý do gì, phát triển việc trồng trọt và chăn nuôi trên vùng nước lợ, nghiên cứu việc điều chỉnh hạn điền,… trong đó đáng chú ý là sẽ để cho người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, nhà nước làm chuyện định hướng.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu biến đổi khí hậu tại Đồng bằng Sông Cửu Long rất hoan nghênh điều này :
"Một cái đột phá là từ trước đến giờ, các tỉnh các huyện, hay giao các chỉ tiêu xuống các ban ngành ví dụ như là năm nay phải sản xuất được bao nhiêu lúa, giống như một quota phải đạt được. Bây giờ thì cho phép người nông dân có được quyết định của họ".
Ngoài ra Tiến sĩ Tuấn còn cho rằng những điểm tích cực của Hội nghị là làm mọi người thấy được những nguy hại đang đe dọa vùng đất này như là ô nhiễm, thiếu nguồn nước, việc qui hoạch đang làm là theo hướng từng ngành, chồng chéo lên nhau và xung đột với nhau. Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cũng cho rằng quyết định tăng mức đầu tư cho vùng Đồng bằng Cửu Long lên 20% tổng sản lượng quốc dân cũng rất đáng hoan nghênh, vì từ trước đến nay vùng đất này được nhà nước đầu tư ít hơn những vùng đất khác.
Một chuyên gia về sông Cửu Long là Tiến sĩ Dương Văn Ni cho rằng điều tích cực nhất của Hội nghị này là :
"Ở cấp cao nhất của Việt Nam là Thủ tướng cũng thấy rằng bây giờ vùng Đồng bằng Sông Cửu Long không phải là một vùng đất gọi là làm chơi ăn thiệt như người ta hay nói nữa. Mà bây giờ là một đồng bằng có thể bị tổn thương rất trầm trọng".
Ngoài ra, theo ông còn có những điểm tích cực nữa là chính quyền Việt Nam đã thấy rằng không thể thắng được môi trường theo ý chí của mình, và đe dọa đối với Đồng bằng Sông Cửu Long không phải chỉ đến từ mối đe dọa toàn cầu do biến đổi khí hậu, mà cũng đến từ những hoạt động đang diễn ra trên vùng đất này như là nạn ô nhiễm, sản xuất bất hơp lý.
Cả hai nhà khoa học đều đồng ý rằng lời hứa sửa đổi nghị định 210, qui định số lượng đất đai mà mỗi hộ nông dân được quyền sử dụng, là rất quan trọng. Theo Tiến sĩ Tuấn hiện nay, theo nghị định này mỗi hộ nông dân chỉ được phép canh tác trên diện tích là nửa hectare, điều này gây trở ngại rất lớn cho việc sản xuất của nông dân Đồng bằng Sông Cửu Long. Việc mở rộng hạn điền sẽ cho phép người nông dân giỏi tập trung được nhiều đất đai, sản xuất hàng hóa có hiệu quả hơn.
Những điều chưa nói hết
Bên cạnh những tín hiệu tích cực đó Tiến sĩ Dương Văn Ni cho rằng Hội nghị này không nói đầy đủ về việc phát triển kinh tế biển ở Đồng bằng Sông Cửu Long, mà theo ông có tầm quan trọng bằng hoặc hơn ngành nông nghiệp.
Nhưng quan trọng nhất, theo ông, người ta chưa nêu lên được sự tổn thương về văn hóa mà Đồng bằng Sông Cửu Long gánh chịu từ vài mươi năm nay :
"Theo tôi cái tổn thương về văn hóa là cái tổn thương khó phục hồi lại nỗi. Mà cái tổn thương đó đang xảy ra, ví dụ như kinh nghiệm phải sống với mùa nước nổi như thế nào, thì người dân sống ở vùng đó người ta rất là rành. Sau bao nhiêu năm mình đắp đê, không cho nước ngập, một bộ phận dân cư từ nơi khác đến sống ở đó không biết những kinh nghiệm sống với nước ngập như vậy".
Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long vốn có hai mùa tự nhiên là mùa khô và mùa nước nổi. Trong mùa nước nổi, một phần lớn diện tích đất không thể canh tác được, mà người dân sống bằng cách đánh bắt cá tôm. Theo các nhà khoa học thì mặc dù không thể canh tác trong thời gian đó, nhưng mùa nước nổi rất quan trọng cho vùng Đồng bằng vì mang lại phù sa, cho đất nghỉ không bị cạn kiệt chất màu mỡ.
Từ sau năm 1975, với chủ trương sản xuất nhiều lúa gạo, nhiều vùng đất của Đồng bằng Sông Cửu Long đã bị đắp đê ngăn nước để trồng thêm một mùa lúa thứ ba trong năm, điều này dẫn đến việc đất đai bị cằn cỗi, và những xáo trộn về văn hóa như Tiến sĩ Dương Văn Ni nêu ra.
Kết quả của chủ trương trồng thêm nhiều lúa gạo bằng cách đắp đê, theo Tiến sĩ Lê Anh Tuấn đã làm cho Việt Nam trở thành quốc gia sản xuất lúa gạo hàng đầu thế giới, nhưng nông dân Đồng bằng Sông Cửu Long, những người tạo ra những lô hàng lúa gạo xuất khẩu ấy vẫn nghèo.
Ông Dương Văn Ni tiếp lời :
"Mình không khai thác có hiệu quả vùng đất mà ông bà đã để lại để đủ sống, người ta phải tha phương cầu thực, có nhiều làng xã đồng bằng Sông Cửu Long bây giờ chỉ còn có người già và trẻ em, thanh niên trai tráng đã đi nơi khác để tìm việc làm hết. Việc cha mẹ sống xa con như vậy tạo nên điều không tốt, cho một thế hệ tiếp theo".
Người dân trong độ tuổi lao động của vùng Đồng bằng Cửu Long đã tìm đến các trung tâm công nghiệp lớn ở Sài Gòn, miền Đông Nam Bộ để làm việc vì việc trồng trọt không đủ sống, tuy nhiên đồng lương công nhân lại không cho phép họ mang theo gia đình để có thể ổn định trên vùng đất mới, từ đó xảy ra tình trạng mà Tiến sĩ Dương Văn Ni gọi là gia đình ly tán, mặc dù Việt Nam đã không còn chiến tranh từ hơn 40 năm nay.
Khi được hỏi rằng điều gì còn chưa được nêu ra đầy đủ trong Hội nghị phát triển bền vững Đồng bằng Sông Cửu Long, Tiến sĩ Lê Anh Tuấn nói :
"Mong chính phủ nhìn nhận bài học sai lầm trong quá khứ, phải rút ra được cái đó, tới giờ vẫn chưa thấy rằng sai lầm đó là ở chổ nào và như thế nào".
Theo ông còn những điều cần phải làm rõ như là vạch ra kế hoạch cung cấp năng lượng cho vùng đất này. Hiện nay kế hoạch cung cấp năng lượng được dự trù là 14 nhà máy nhiệt điện chạy bằng than, mà theo Tiến sĩ Tuấn sự ô nhiễm rất nguy hiểm của nó đã trở thành một điều hiển nhiên, nhưng Hội nghi bàn về phát triển bền vững lại chưa đưa ra được giải pháp nào thay thế. Điều thứ hai ông Tuấn đề cập là số tiền 1 tỉ đô la Mỹ mà chính phủ hứa hỗ trợ Đồng bằng Cửu Long trong những năm tới sẽ được phân bổ như thể nào, sử dụng như thế nào để không tiêu tốn một cách phung phí mà thực sự giúp vùng đất này phát triển, làm cho đời sống người dân sung túc hơn.
Kính Hòa
Người dân ấp Tân Cang, xã Phước Tân, Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai vừa qua phải làm rào chắn chặn xe tải chở đá qua đường dân sinh. Lý do vì những xe tải này gây ô nhiễm cho dân chúng địa phương.
Người dân ấp Tân Cang, xã Phước Tân, Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai vừa qua phải làm rào chắn chặn xe tải chở đá qua đường dân sinh. Lý do vì những xe tải này gây ô nhiễm cho dân chúng địa phương. RFA
Đường Đinh Quang Ân thuộc xã Phước Tân, nhiều năm qua bị xe tải chở đá cày nát, hàng loạt vụ tai nạn giao thông đã xảy ra, người dân đã nhiều lần chặn xe để phản đối.
Ngoài ra, những xe tải này còn gây ra ô nhiễm khói, bụi tác động đến sức khỏe người dân địa phương :
"Đây nó bụi ghê lắm. Bàn bán như vậy nè, nó bám vô. Mình bán mình phải lau chùi. Đi qua tạt vô cái là đầy nhà đầy cửa hết trơn. Có tưới đường mà tưới qua cũng như không à chú ơi !"
Thực tế ghi nhận cây cối ven đường bám đầy bụi ; từ đó có thể nói người dân địa phương phải hằng ngày hít thở lượng khói bụi do xe ben chở đá gây nên.
Để phản đối, người dân nơi đây nhiều lần lập rào cản bằng thùng phuy, treo băng rôn chặn không cho các xe ben chạy qua đường dân sinh.
Một người dân cho biết lại tình hình thực tế ở ấp Tân Cang nơi người này sinh sống lâu nay :
"Hồi xưa con đường rất nhỏ, xe bò đi thôi. Nhưng mà sau này mở rông ra hai bên là đất của người dân đóng góp. Đất của nhân dân hiến, bỏ ra để mở con đường rộng phát triển nông thôn".
Xe tải chở đá qua đường dân sinh ở ấp Tân Cang, xã Phước Tân, Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai gây ô nhiễm, hư đường. RFA PHOTO
Sau lần phản đối mới nhất của người dân, vào ngày 19/9 vừa qua, đại diện chính quyền là Ông Nguyễn Tấn Long - Phó chủ tịch UBND Thành phố Biên Hòa đã xuống làm việc với người dân. Ông này cũng đã yêu cầu các cơ quan có liên quan giải quyết vụ việc. Nhưng theo phản ánh của người dân. Chính quyền đã không tôn trọng người dân đúng mức, giải quyết vấn đề không được rõ rang khiến người dân không hài long :
"Ông Long - là phó chủ tịch, xuống làm việc với dân. Cũng là thống nhất là con đường này sẽ trả lại cho dân không cho các xe từ mỏ đá đi ra đường Đinh Quang Ân này nữa. Nhưng mà hôm nay gửi văn bản này thì cũng nói chung chung không có thời gian, không có thời hạn nào cả. Chỉ nói vậy thôi chứ thực chưa có cái gì chính xác".
Trong khi đại diện thành phố Biên Hòa có hứa hẹn như thế ; nhưng theo phản ánh của người dân địa phương thì công an xã lại đe dọa sẽ cưỡng chế các vật cản và băng rộn phản đối của dân chúng đối với việc xe ben chở đá đi qua đường dân sinh của họ.
Hành xử của công an xã mà theo người dân là hù dọa như thế khiến họ thêm bất bình :
"Hù dọa là vô cưỡng chế ba cái băng rôn này. Ai cưỡng chế thì cưỡng chế, tui cho cưỡng chế. Tui đâu có cản đâu. Người nào cưỡng chế được mời vô cưỡng chế. Công an xã hù nếu không là tui vô cưỡng chế".
Những người dân ở ấp Tân Cang mà chúng tôi tiếp xúc nói rõ họ không yêu cầu điều gì sai trái, chỉ muốn các xí nghiệp khai thác đá hãy dùng con đường vận tải của riêng họ ; trả lại con đường dân sinh vì bao năm qua người dân đã thông cảm hết mức. Họ cho biết mong muốn :
"Mỏ đá có đường chuyên dùng của nó. Thì giờ người dân chỉ mong muốn là khi đã có đường chuyên dùng thì các xe trở về đường chuyên dùng. Chứ không ảnh hưởng gì đến người dân nữa. Người dân ta mong muốn vậy thôi. Bao nhiêu năm rồi đó giờ chưa có đường á, thì người dân thông cảm. Nhưng mà khi đã có đường chuyên dùng rồi thì trả lại đường dân sinh cho dân thôi".
Theo trình bày của người dân thì vấn đề diễn ra 6,7 năm nay rồi nên chính quyền nên giải quyết dứt điểm để dân được yên long :
"Xử lý vấn đề vệ sinh môi trường, đèn đường cho dân. Bây giờ thì mới nói ra. Phải không ? Mới quan tâm. Thì để cái chuyện nó như thế nào rồi bây giờ mới quan tâm tới. Còn gì nữa ? Nó muộn quá rồi ! Đâu còn gì nữa hay".
Theo ghi nhận thì sau 2 năm thi công, đường chuyên dụng dành cho xe chở đá từ mỏ đá Tân Cang ra Quốc lộ 51 được đưa vào sử dụng kể từ ngày 15 tháng 9 vừa qua.
Thực trạng xe ben chở đá gây ô nhiễm tại ấp Tân Cang, xã Phước Tân, thành phố Biên Hòa có thể nói tương tự như một số vụ việc khác tại nhiều địa phương trên cả nước ; khi mà cơ quan chức năng phớt lờ yêu cầu chính đáng của người dân trước hoạt động gây ô nhiễm của doanh nghiệp.
Hội nghị về biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long được cho là lớn nhất từ trước đến nay khai mạc hôm 26 tháng 9 tại Cần Thơ. Hội nghị do hai phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, ông Vương Đình Huệ và ông Trịnh Đình Dũng chủ trì.
Hội nghị về biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long được cho là lớn nhất từ trước đến nay khai mạc hôm 26 tháng 9 tại Cần Thơ. Hội nghị do hai phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, ông Vương Đình Huệ và ông Trịnh Đình Dũng chủ trì. Courtesy chinhphu.vn
Theo các báo cáo đưa ra tại hội nghị, đồng bằng sông Cửu Long chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu và các hoạt động khác từ khu vực thượng nguồn. Những ưu điểm về tự nhiên của vùng bị thay đổi dẫn đến mô hình sản xuất và tập quán sinh hoạt của cư dân vùng này bị ảnh hưởng.
Một số đại biểu tham gia hội nghị cho rằng biến đổi khí hậu là hiện tượng toàn cầu, và đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba đồng bằng trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề nhất, đặc biệt là nguồn nước và tình trạng xâm nhập mặn.
Chính phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nhấn mạnh tại buổi khai mạc rằng đồng bằng sông Cửu Long đang và sẽ đối mặt với nhiều tác động nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, sẽ tạo ra thách thức và đe doạ đến quá trình phát triển của vùng. Đặc biệt là đời sống kinh tế của người dân.
Do đó, ông này đề nghị chuyển đổi mô hình phát triển đồng bằng sông Cửu Long theo xu hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu là vấn đề Chính phủ hết sức quan tâm.
Một chuyên gia về đồng bằng sông Cửu Long, tiến sĩ Dương Văn Ni, từng lên tiếng với báo giới trong nước là ngoài những yếu tố khách quan, khu vực này còn đối diện với những tác động do ‘nhân tai’ tức con người tạo nên.
Ta hô hào chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp hơn 10 năm qua nhưng chưa có chuyển biến đáng kể. Người nông dân đồng bằng sông Cửu Long (đồng bằng sông Cửu Long) đang lúng túng trong việc "trồng cây gì, nuôi con gì", đời sống bị ảnh hưởng do thu nhập từ cây lúa, con cá... đều giảm.
Nước biển dâng sẽ biến khoảng 50% diện tích sản xuất lúa của đồng bằng sông Cửu Long bị ngập mặn trong vòng mươi thập kỷ tới. Trước tình hình đó, chuyển dịch sản xuất nông nghiệp do môi trường thiên nhiên và thị trường thế giới thúc ép là bắt buộc. Ảnh : LÊ HOÀNG VŨ
Tình hình mặn xâm nhập mấy năm qua, nhất là năm 2016, gây nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống người dân đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với biến động của thị trường thế giới, mặt hàng lúa gạo cấp thấp là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam lâu nay bị sụt giảm đáng kể, chưa có dấu hiệu phục hồi.
Theo dự báo của các cơ quan quản lý khí tượng thế giới, hiện tượng biến đổi khí hậu - nước biển dâng có thể diễn ra nhanh hơn tính toán của các nhà khoa học. Việt Nam là nước ảnh hưởng gần như nặng nhất trong năm nước bị ảnh hưởng. đồng bằng sông Cửu Long có thể thấy rõ việc biến đổi khí hậu - nước biển dâng qua mùa khô năm 2016 và việc giảm thiểu lượng phù sa do các con đập thủy điện thượng nguồn qua mùa mưa - lũ trong năm 2016 cũng rất rõ.
Nước biển dâng sẽ biến khoảng 50% diện tích sản xuất lúa của đồng bằng sông Cửu Long bị ngập mặn trong vòng mươi thập kỷ tới. Quá trình này đã bắt đầu từ hơn một thập kỷ qua. Trước tình hình đó, chuyển dịch sản xuất nông nghiệp do môi trường thiên nhiên và thị trường thế giới thúc ép là bắt buộc. Nhưng chuyển dịch cái gì trước và phải bắt đầu như thế nào ?
"Dĩ bất biến…"
đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa cả nước, nguồn chủ yếu để Việt Nam xuất khẩu gạo giá rẻ cho người nghèo trong hơn một phần tư thế kỷ qua với vị trí số 2, số 3 thế giới. Nhiều người còn cho đó là nguồn "an ninh lương thực thế giới". Từ đó, quan điểm chuyển dịch sản xuất là làm cho thu nhập người nông dân tăng lên, rút ngắn chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị, nhưng phải "bảo đảm an ninh lương thực quốc gia". Đó là yêu cầu "bất biến" !
Diện tích trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long là 1,546 triệu héc ta, chiếm khoảng 50% cả nước và sản lượng niên vụ 2015-2016 đạt 25,2 triệu tấn bằng 56% cả nước, nhưng chiếm đến 90% lượng gạo xuất khẩu. Trong đó, riêng các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp và Long An có diện tích và sản lượng lúa trên 60% toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây là vùng chủ yếu để giữ và có khả năng giữ cái "bất biến" trước biến đổi khí hậu - nước biển dâng như dự báo.
"Ứng vạn biến"
Tháng 6/2013 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trương chuyển 200.000 héc ta trồng lúa sang trồng bắp và đậu nành thay nhập khẩu nhưng không có chính sách, giải pháp cụ thể, chỉ dừng lại mức hô hào nên chỉ chuyển được đâu chừng 35.000 héc ta. Trong khi đó, xuất khẩu gạo sang các thị trường truyền thống ngày càng sụt giảm, thị trường mới chưa có. Năm 2012, xuất khẩu đạt cao nhất là 7,72 triệu tấn, năm 2013 còn 6,61 triệu tấn, đến 2016 chỉ đạt khoảng 5 triệu tấn. Cung vượt cầu 2 triệu tấn ở đây là lý do cái nghèo của nông dân ta đó !
Người dân đồng bằng sông Cửu Long từng quen "ứng vạn biến" từ khi đến khai hoang lập làng trên vùng đất vốn hoang vu ngập lụt này. Nhờ tinh thần đó mà suốt 10 năm kinh tế bao cấp, người dân không thiếu đói trầm trọng như nhiều nơi khác. Nay cũng phải tự "tìm đường cứu lúa, cứu người". Nhớ khi thực hiện "Chương trình Đồng Tháp Mười" - 1987 và "Tứ giác Long Xuyên" - 1988, nhiều người nghĩ rằng động vào đất nhiễm phèn nặng như ở vùng này là "chọc vào tổ ong vò vẽ", nhưng nhờ đó mà ba tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang tăng sản lượng lúa lên ba, bốn lần, đạt trên 12 triệu tấn. An Giang, Đồng Tháp gần đây từng hăng hái làm đê bao sản xuất ba vụ/năm hoặc ba năm tám vụ. Cách làm đó có dư luận khen, chê khác nhau, nhưng cái lợi làm tăng sản lượng thì đã hưởng rồi, còn cái "hại" - theo các nhà khoa học thì sẽ làm tăng khả năng ngăn - thoát lũ và làm tăng mức xâm nhập của mặn trong điều kiện biến đổi khí hậu (?).
Người nông dân chưa thấy rõ điều đó, nhưng vì lợi ích và kinh nghiệm sống, họ đã âm thầm chuyển dịch sản xuất ngay trên các cánh đồng từng được cho là "rún phèn" của tứ giác Long Xuyên - An Giang bằng những mô hình chuyên canh, xen canh trên những ô có đê bao khép kín, cho ra những sản phẩm mới, xanh, sạch mà thị trường nội địa và xuất khẩu đang cần. Chỉ riêng hai xã Lương An Trà và Vĩnh Phước huyện Tri Tôn với gần 10.000 héc ta, giáp với tỉnh Kiên Giang, đang có lác đác mô hình phục hồi sản xuất lúa mùa nổi trong vùng đê bao, giữ mực nước vừa phải, điều khiển cây lúa sinh trưởng như trong môi trường nguyên thủy của nó khi xưa, gạo chất lượng bán theo yêu cầu đặt hàng, rạ làm "nền" trồng hoa màu, giảm chi phí bón phân và không cần tưới như cánh đồng màu Châu Phú những năm 1980 về trước.
Một số doanh nghiệp lợi dụng đê bao khép kín lập trang trại lớn nuôi bò, nuôi heo công nghiệp hiện đại ; nuôi cá bán tự nhiên cho ăn thức ăn như ngoài tự nhiên ; trồng cây ăn quả có ký hợp đồng xuất khẩu như chuối (cấy mô), xoài... Những mô hình này gợi ra ý tưởng sản xuất nhưng vẫn giữ nước ngọt trong các đê bao, chống mặn xâm nhập. Còn sản phẩm "thời thượng" là rau màu, củ, quả xanh, sạch hiện đang hút hàng, cả nội địa lẫn xuất khẩu. Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, xuất khẩu rau quả cả nước từ năm 2010 tăng đều đặn 30% năm, đạt 2,4 tỉ đô la Mỹ năm 2016, tăng 31,2% so với năm 2015.
Nói xa hơn, tập đoàn Lộc Trời An Giang mấy năm qua có chương trình hợp tác các tỉnh ven biển Tây, đặc biệt là tỉnh Bạc Liêu, trồng lúa thơm luân canh với con tôm sú rất hiệu quả. Theo thống kê kim ngạch xuất khẩu tôm cả nước (chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long) năm 2007 đạt 1,5 tỉ đô la Mỹ, năm 2016 đạt 3,2 tỉ đô la Mỹ. Giá trị xuất khẩu tôm luôn chiếm trên dưới 50% của ngành thủy sản trong hơn 10 năm qua. Từ góc hẹp "cận cảnh" tập đoàn Lộc Trời hợp tác với các tỉnh "mặn", cho phép ta tin tưởng khả năng ứng biến của chính quyền và nông dân các tỉnh ven biển được dự báo sẽ ngập mặn nặng nhất toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long với mô hình phổ biến là "sống chung với mặn" như các tỉnh An Giang, Đồng Tháp... từng "sống chung với lũ" theo chủ trương của chính phủ trong những năm 1990.
"Biến nguy thành cơ"
Đó là truyền thống của dân tộc ta. Trong kháng chiến đã rõ ràng, trong xây dựng hòa bình cũng biết bao bài học. Gần đây nhất, những năm 1990, đồng bằng sông Cửu Long liên tiếp bị thiên tai, ngập lụt. Đọc lại các văn bản lưu trữ thấy rõ những con số nhà ngập, người chết, nhất là trẻ em chết đuối rất đau lòng. Thực hiện Quyết định 99/TTg ngày 9/2/1996 về xây dựng dân cư, thủy lợi, giao thông... cho toàn vùng, từ đó đồng bằng sông Cửu Long dần thoát nghèo do hoàn cảnh ngập lụt hàng năm, bộ mặt nông thôn khởi sắc. Phương châm "sống chung với lũ" ra đời từ đó. Tiếc rằng các công trình giao thông - đường bộ triển khai quá chậm hoặc nửa vời nên việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thực hiện "công nghiệp hóa" mới trầy trật như hôm nay ; đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là vùng trũng kinh tế - văn hóa - giáo dục nói chung.
Nay, nguy cơ ngập mặn đang dần hiện ra, cơ hội làm giàu nhờ khả năng "ứng vạn biến" rất rõ như một số mô hình chuyển dịch sản xuất gần xa như vừa kể trên (tuy còn hạn hẹp). Thế kỷ 21, lần thứ hai đồng bằng sông Cửu Long sẽ vượt qua thử thách thiên niên kỷ - biến đổi khí hậu, nước biển dâng - để tồn tại và phát triển theo phương châm "sống chung với mặn".
Nguyễn Minh Nhị
Nguồn : TBKTSG, 10/02/2017
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nhìn ra cửa sổ máy bay khi bay ngang vùng Đồng bằng sông Cửu Long hôm 14/1/2017 trong chuyến thăm Việt Nam. AFP photo
Ô nhiễm mới và cũ
Đồng bằng Châu thổ sông Cửu Long với diện tích khoảng 30 ngàn cây số vuông, được biết là một vùng nông nghiệp trù phú của Việt Nam, sản xuất nhiều lương thực, thủy sản cho nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu. Tuy nhiên nền nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long đã không phát triển mạnh trong những năm gần đây. Vùng đất này lại đang gặp những khó khăn mới từ ô nhiễm môi trường do công nghiệp hóa đang diễn ra nơi đây. Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó Giám đốc Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu tại Cần Thơ cho biết :
"Chúng ta biết rằng sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long đã đạt đến mức tối đa. Đất nông nghiệp đã được sử dụng gần hết, thậm chí tăng thêm số vụ, vì diện tích không tăng được nữa. Trong khi đó thì người nông dân vẫn còn nghèo, áp lực dân số gia tăng, mùa màng thất thường, thiên tai,… làm cho vùng nông thôn khó phát triển. Hướng phát triển cho một số tỉnh thành là người ta mở rộng các khu công nghiệp. Ở đồng bằng sông Cửu Long, phát triển công nghiệp đã hình thành, nguy cơ về ô nhiễm không khí, tiếng ồn, rác thải, đã được lưu ý. Chúng tôi đã cảnh báo một số nhà máy có thể gây ô nhiễm".
Một nhà máy mà Tiến sĩ Tuấn cảnh báo là nhà máy giấy của Trung Quốc Lee & Man đang xây dựng tại tỉnh Hậu Giang. Tờ báo mạng chuyên về vùng Châu Á Thái Bình Dương là Diplomat trích lời ông Tuấn nói rằng nhà máy này sẽ sử dụng các nguồn nguyên liệu là giấy thải, cho nên qui trình chế biến sẽ có thể gây ô nhiễm trên diện tích rộng hai dòng chính của sông Cửu Long là Tiền Giang và Hậu Giang.
Áp lực dân số mà ông Lê Anh Tuấn đề cập cũng tạo nên một nguồn ô nhiễm lớn tại các đô thị đang phình ra của vùng đồng bằng, đó là rác thải. Tiến sĩ Tuấn cho chúng tôi biết việc xử lý rác thải tại đồng bằng sông Cửu Long rất khó khăn vì đất thấp rất gần mạch nước ngầm nên chôn rác không được tiện lợi. Việc áp dụng các phương pháp phân loại rác, tái chế rác hữu cơ làm phân bón có được tiến hành nhưng trên bình diện nhỏ, và chậm chạp.
Một nhà nghiên cứu tại Đại học Cần Thơ là ông Nguyễn Minh Quang trích lời một giáo viên sống ở vùng đồng bằng Cửu Long rằng hiện nay không thể sử dụng nước ngầm hoặc nước của các dòng sông để uống nữa vì ô nhiễm thải ra từ các nhà máy.
Ô nhiễm tăng mạnh vào mùa khô khi thiếu nước mưa và một lượng nước lớn của sông Cửu Long bị ngăn lại trên thượng nguồn, không thể chảy về xuôi để rửa đi ô nhiễm từ con người cũng như nhiễm mặn, nhiễm phèn do điều kiện tự nhiên.
Ngoài những nguồn ô nhiễm mới do công nghiệp hóa mang lại, Tiến sĩ Lê Anh Tuấn còn cho biết là tại các vùng chuyên nuôi cá, thâm canh lúa cũng bị ô nhiễm do sử dụng nhiều hóa chất.
Hiện vẫn chưa có thống kê riêng biệt về thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, một chuyên gia kinh tế hiện sống ở Hà Nội thì ô nhiễm môi trường đang là một thách thức rất lớn cho Việt Nam.
"Thiệt hại về ô nhiễm môi trường của Việt Nam được Ngân hàng thế giới đánh giá là một năm có thể gây ra thiệt hại âm 5,2% Tổng sản phẩm quốc dân của Việt Nam, và đấy là một mức thiệt hại rất lớn đối với Việt Nam".
Trong năm 2016, thảm họa môi trường do nhà máy Formosa của người Đài Loan gây ra ở vùng biển miền Trung được xem là thảm họa lớn nhất trong lịch sử phát triển kinh tế của Việt Nam.
Bế tắc
Một con kênh khô hạn ở huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long hôm 8/3/2016. AFP photo
Ngày 9 tháng 1 năm nay, báo Tuổi Trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh có một bài phóng sự về việc hàng chục ngàn người dân tại vùng Đồng bằng miền Tây sông Hậu bỏ xứ đi kiếm ăn. Có hai nguyên nhân, thứ nhất là nông nghiệp không mang lại đủ công ăn việc làm cho một dân số đang tăng lên.
Thứ hai là ô nhiễm môi trường. Ông Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau Nguyễn Tiến Hải được báo Tuổi trẻ trích lời thừa nhận rằng môi trường suy thoái ở tỉnh Cà Mau đã làm cho việc trồng lúa nuôi tôm của người nông dân trở nên rất khó khăn.
Đứng trước những khó khăn về môi trường và kinh tế hiện nay, đã có những đề nghị là vùng đồng bằng sông Cửu Long nên giảm đi lượng lúa sản xuất mà chuyển sang việc trồng các loại cây khác bán có giá hơn, hoặc là sản xuất gạo hữu cơ rất được giá ở thị trường các quốc gia phát triển. Nhưng dường như người nông dân Việt Nam đang bị các đồng nghiệp láng giềng ở Campuchia qua mặt khi gần đây gạo hữu cơ của nước này đang bắt đầu tiến vào thị trường phương Tây, chưa kể những nông dân Thái Lan đã tiến xa từ lâu.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cho biết là do sản xuất thâm canh lúa trong một thời gian lâu, những cánh đồng ở đồng bằng Cửu Long bị kiệt sức so với ruộng đất bên Cam Pu Chia, khó thể áp dụng việc sản xuất các loại sản phẩm hữu cơ chất lượng cao.
Đó là về mặt kỹ thuật, nhưng một nguyên nhân quan trọng khác được tờ Thời báo kinh tế Sài Gòn đưa ra trong thời gian gần đây giải thích việc cản trở sức sản xuất của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long chính là những chính sách. Hiện nay với chính sách hạn điền, người nông dân vùng sông Cửu Long không thể áp dụng khoa học kỹ thuật trên những mảnh ruộng quá nhỏ bé, ngoài ra do không có quyền làm chủ mảnh đất của mình vì về nguyên tắc đất đai là do nhà nước quản lý, người nông dân không muốn xúc tiến những dự án đầu tư dài lâu.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cho biết ông đã từng viết báo đề nghị mở rộng hạn điền cũng như tăng quyền sở hữu cho nông dân. Ông nói tiếp :
"Tuy nhiên để làm được điều đó thì nó đòi hỏi một sự thay đổi rất lớn trong chính sách đất đai của chính phủ Việt Nam. Và đặc biệt là luật đất đai phải được sử đổi, vì luật đất đai vẫn chưa đặt ra vấn đề mở rộng diện tích hạn điền hay thừa nhận những người chủ trang trại, điền chủ, hay địa chủ,… những từ ngữ đó vẫn chưa phổ biến trong luật pháp Việt Nam".
Một chuyên gia kinh tế khác là ông Bùi Kiến Thành, trong một lần trao đổi với chúng tôi cho rằng nguyên tắc sở hữu toàn dân về ruộng đất đã lỗi thời cần phải thay đổi. Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cho rằng sắp tới đây Việt Nam chắc phải có thay đổi nhưng ông không biết là mức độ thay đổi sâu rộng đến đâu. Nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Quang của Đại học Cần Thơ cảnh báo rằng việc phát triển công nghiệp sử dụng nhiều nhân công ở vùng đồng bằng sông Cửu Long là cần thiết nhưng nếu không có liên quan đến nền kinh tế nông nghiệp của nó có thể kéo theo những bất ổn về môi trường và xã hội trong tương lai.
Kính Hòa, phóng viên RFA
Nguồn : RFA tiếng Việt, 18/01/2017
Chợ nổi Phong Điền vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam hôm 20/5/2015. AFP photo
Việt Nam đang tìm lối thoát cho tình trạng thiếu nước, xâm nhập mặn trong mùa khô ở đồng bằng sông Cửu Long. Giải pháp tích cực nhất là phải bỏ lúa vụ ba, giảm dần diện tích đê bao khép kín sẽ khó thực hiện. Nếu không có những giải pháp đồng bộ, giải quyết được sinh kế của nông dân, nhà cửa ruộng đất bên trong hệ thống đê bao khép kín dày dặc ở đồng bằng sông Cửu Long.
Cái khó bó cái khôn
Tìm giải pháp giữ nước cho đồng bằng sông Cửu Long là tên cuộc Hội thảo do Bộ Tài nguyên Môi trường phối hợp với Đại sứ quán Hà Lan tổ chức hai ngày 10-11/01/2017 tại Cần Thơ.
Nhà nước Việt Nam luôn đặt vấn đề an ninh lương thực lên hàng đầu, nên đã phát triển diện tích làm lúa vụ ba từ mức dưới 70.000 héc-ta lên 800.000 héc-ta trong gần hai thập niên vừa qua. Cùng với đó là hệ thống đê bao khép kín để có thể canh tác vụ lúa thứ ba trong mùa lũ. Cái được trước mắt là sản lượng lúa gạo tăng đến mức dư thừa, đủ xuất khẩu 6-7 triệu tấn gạo mỗi năm. Hơn nữa chính quyền quan niệm lũ là thiên tai và đê bao khép kín giúp giảm tổn thất tài sản, nhân mạng của nhân dân trong mùa lũ mênh mông nước.
Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề là hậu quả lâu dài từng được cảnh báo nay đã hiển hiện. Đê bao khép kín ngày càng nhiều thêm đã làm mất đi các vùng trữ lũ tự nhiên ở đồng bằng sông Cửu Long. Theo các số liệu được chuyên gia nước ngoài công bố, trong những năm qua chỉ riêng các đê bao khép kín để trồng lúa ba vụ một năm ở khu vực Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, đã làm giảm khả năng trữ khoảng trên 16 tỷ mét khối nước trong mùa lũ.
Mùa lũ người dân vẫn canh tác vụ thứ ba bên trong đê bao, còn nước lũ bị đẩy nhanh ra biển, ruộng đồng trong đê bao khép kín không được phù sa bồi đắp, đất càng ngày càng bạc màu, phải sử dụng thuốc trừ sâu và phân hóa học nhiều hơn, gây ra những tác hại môi trường.
Nông dân khó tránh hậu quả
Trả lời chúng tôi tối ngày 10/1/2017 sau ngày đầu tham gia Hội thảo, Phó Giáo sư Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu thuộc Đại học Cần Thơ nhận định :
"Cái khó ở chỗ là nếu bỏ những đê bao như vậy nó sẽ làm đảo lộn những sắp đặt trước đây, ví dụ như nhà cửa, mồ mả, vườn tược người dân đã làm trong những vùng thấp rồi. Bây giờ phá đê bao như vậy sẽ ảnh hưởng cuộc sống rất nhiều. Thứ hai là một số nông dân trồng lúa trong mùa đó thì bây giờ không biết làm gì…dần dần chúng tôi sẽ tìm ra dạng mô hình canh tác phù hợp trong những vùng đó…
Nhưng điều quan trọng trước tiên là yêu cầu các địa phương không nên mở rộng các khu đê bao nữa để chừa lại không gian giữ nước. Sau đó nghĩ tới những giải pháp giúp cho họ chuyển đổi trong những điều kiện khác nhau tùy theo vùng sinh thái. Tiếp theo là biện pháp công trình giúp giữ nước lại như thế nào để ít bị thất thoát, đó là những bước về lâu về dài mới thực hiện".
Một nông dân khoan giếng để lấy nước vào ruộng lúa bị hạn hán tại tỉnh Sóc Trăng, khu vực đồng bằng sông Cửu Long hôm 2/3/2016. AFP photo
Báo Tài nguyên Môi trường dẫn lời bà Nienke Trooster, Đại sứ Hà Lan cho rằng, có mối liên hệ giữa những thay đổi về cảnh quan và tính dễ bị tổn thương của vùng đồng bằng sông Cửu Long vì không chỉ bị tác động bởi biến đổi khí hậu, mà còn do những thay đổi của thời tiết, hay sự phát triển trên thượng nguồn.
Đặc biệt bà Đại sứ Hà Lan nhấn mạnh tới vấn đề quan trọng là sự thay đổi về khả năng giữ nước và biến động lũ lụt ở các tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long. Đó chính là hậu quả của việc phát triển sản xuất 3 vụ lúa mỗi năm ở đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Bà Đại sứ Nienke Trooster, có nhiều lý do để ủng hộ đề xuất trở về với hệ thống canh tác phù hợp với điều kiện thủy văn tự nhiên. Nhưng không dễ để thực hiện thay đổi như vậy, vì nó liên quan trực tiếp đến sinh kế của người dân, nhà cửa và đồng ruộng của họ.
Thức tỉnh giới lãnh đạo
Được biết ở Việt Nam mọi chủ trương lớn, đều phải được Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông qua rồi chính phủ là người thực hiện. Phát triển đê bao ở đồng bằng sông Cửu Long để làm lúa vụ ba đã được thực hiện qua nhiều nhiệm kỳ. 20 năm xây dựng đê bao khép kín và làm lúa ba vụ một năm, thì chắc hẳn 10 năm sắp tới cũng chưa đủ thời gian để thay đổi một cách triệt để. Phó Giáo sư Lê Anh Tuấn nhận định :
"Năm vừa rồi và năm trước nữa chính phủ Việt Nam đã nhờ chính phủ Hà Lan giúp làm Kế hoạch Đồng bằng sông Cửu Long tầm nhìn 100 năm. Dù là thay đổi nhiệm kỳ của những người lãnh đạo ở các địa phương khác nhau, nếu mà cái "master plan" đó được thực hiện thì cũng theo đà đó, chỉ có những điều chỉnh nhỏ do biến động ở bên ngoài, bên trong chưa lường được hết, thì mình có thể điều chỉnh lại, nhưng mà đường đi thì vẫn phải đi theo như vậy. Thật ra cuộc hội thảo này do Đại sứ quán Hà Lan tài trợ thì cũng đã thấy được vấn đề đó rồi. Bây giờ phải là giải pháp trên toàn cục, chứ không phải những giải pháp từng nhiệm kỳ hay từng địa phương khác nhau nữa".
Câu chuyện biến đổi khí hậu, thủy điện bậc thang trên thượng nguồn sông Mê Kông làm giảm lưu lượng nước từ con sông mẹ này vào Việt Nam, rồi hạn hán xâm nhập mặn với hậu qủa nghiêm trọng năm 2016 đã làm thức tỉnh những nhà làm chính sách ở Việt Nam. Để giảm cây lúa vốn cần nhiều nước, Việt Nam có vẻ chưa chuẩn bị kịp để có những thay đổi triệt để.
Giáo sư Võ Tòng Xuân nhà nông học nổi tiếng, hiện là Hiệu trưởng Đại học Nam Cần Thơ cho rằng, Việt Nam cần thay đổi tư duy, nên bảo đảm đầu ra thị trường cho các loại cây trồng hay tôm cá, trước khi thay thế cây lúa ở những nơi buộc phải chuyển đổi.
"Không có đâm đầu vô cây lúa ‘hoảng’ như trước nữa, phải trồng theo đúng sự thích nghi của đất đai. Nhiệm vụ của các nhà doanh nghiệp bây giờ là phải đi tìm thị trường cho những cây trồng gì mà nó sẽ thay thế cây lúa, khi đó mới dám bỏ cây lúa thì người dân không bị ảnh hưởng gì cả…không trồng lúa nữa người ta lên liếp trồng xoài, lên liếp trồng măng cụt, hoặc là có mương tưới, mương tiêu, đem nước mặn vô, đưa nước thải ra, chứa nước mưa lại để nuôi tôm, v.v.".
Bỏ vụ lúa thứ ba trong năm, giảm dần hệ thống đê bao khép kín, phục hồi hai túi trữ nước lớn ở đồng bằng sông Cửu Long là Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười là câu chuyện đường dài của Việt Nam. Hiện nay tái cấu cấu trúc nông nghiệp trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thiếu nước ở đồng bằng sông Cửu Long, là kế hoạch buộc phải tiến hành. Nhưng các nhà khoa học là người đề xuất giải pháp, còn việc chính phủ nhìn nhận vấn đề như thế nào vẫn là một câu hỏi lớn.
Nam Nguyên, phóng viên RFA
Nguồn : RFA tiếng Việt, 11/01/2017
Một góc chợ nổi Cái Răng, thành phố Cần Thơ, 12/2016. RFI / Tiếng Việt
Rời bến Ninh Kiều (thành phố Cần Thơ), mất khoảng 20 phút chạy ghe gắn máy và băng qua ba cây cầu (Quang Trung, Hưng Lợi và Cái Răng) bắc qua sông Cần Thơ (một nhánh của sông Hậu), chợ nổi Cái Răng dần xuất hiện trong ánh đèn le lói cùng tiếng gà gáy sớm.
Chợ nổi Cái Răng là chợ bán sỉ, có nghĩa là chỉ bán buôn với số lượng lớn, nhưng ngày càng nổi tiếng là một địa điểm du lịch không thể bỏ qua khi đến Cần Thơ. Chợ họp từ sáng sớm và bán lai rai cả ngày, nhưng phiên chợ sầm uất nhất là từ khoảng 5 giờ đến 8 giờ sáng.
Nguyễn Minh Thư, sinh viên tiếng Pháp tại đại học Cần Thơ, tham gia làm hướng dẫn viên tình nguyện, giải thích lái thương sống trên tầu được gọi là "thương hồ" và gần như gắn cả đời với con thuyền và cuộc sống lênh đênh sông nước. Các thương hồ có những đầu mối ở nông thôn và khi đến vụ mùa thu hoạch, người chủ nông dân sẽ liên lạc với người thương hồ để đến thu mua nông sản và đổ buôn ở chợ Cái Răng. Thường mỗi tầu chỉ chuyên về một chủng loại nông sản, hoặc rau củ, hoặc trái cây, ít khi họ trộn lẫn giữa cả hai loại mặt hàng. Minh Thư giải thích thêm :
"Thường người thương hồ sẽ ở lại trên chợ nổi Cái Răng đến khi bán hết nông sản, sau đó họ mới quay lại vùng nông thôn để tiếp tục thu mua lượng nông sản mới. Cho nên, nếu để ý, chúng ta thấy cấu trúc của một con tầu, ở sau mỗi một con tầu có một buồng nhỏ, nơi họ nấu nướng, nghỉ ngơi và thực hiện mọi sinh hoạt hàng ngày. Và ở phía trước, họ dành khu vực rộng rãi đó để chứa nông sản.
Và điểm đặc biệt nhất có thể nhận thấy ở chợ nổi Cái Răng là tầu bán cùng một loại nông sản, cùng một loại trái cây thường tập trung thành các nhóm. Đầu tiên, ở chợ nổi Cái Răng là những ghe khóm (trái thơm/dứa), sau đó là trái cây và cuối cùng có thể là các ghe rau củ quả. Thường các ghe dưa hấu chiếm một lượng lớn nên họ dành một khu vực riêng để tập trung các ghe dưa hấu.
Một điểm đặc sắc khác của chợ nổi Cái Răng, đó là trước khi vào chợ nổi Cái Răng là từ xa có thể nhìn thấy những "cây bẹo", cao khoảng từ 3-5 mét. Họ cắm cây bẹo trước mũi tầu. Hầu hết các nông sản được bán trên tầu đó, họ sẽ treo ở trên cây bẹo để từ xa có thể biết họ bán nông sản gì. Và điều thứ hai là trên một khu vực tập trung và huyên náo như vậy thì không thể nào mà rao được. Cho nên, thay vì rao như vậy, họ đã phát minh ra một cách marketing rất đặc sắc và chỉ tồn tại duy nhất ở chợ nổi Cái Răng, đó là cây bẹo.
Còn tại sao gọi là cây bẹo ? "Bẹo" là một phương ngữ và để chỉ các động tác như "bẹo má" đưa ra cho người ta xem, thì "bẹo" ở đây cũng là "trưng ra cho người ta xem là mình bán cái gì" nên họ gọi là "cây bẹo". Thường cây bẹo là những cây chèo, cây chống chiếc tầu và họ tận dụng nó để cắm trước mũi tầu để giới thiệu nông sản của mình đến những lái buôn khác và đến những người có nhu cầu mua".
Các tầu con đến đây mua nông phẩm sau đó bán lại cho các chợ truyền thống ở thành phố, khu vực ven đô hay đem bán lại cho người dân ở khu vực nông thôn sống xa chợ hoặc ở các làng nổi trên sông và kênh rạch, nơi chỉ có thuyền bè qua lại được.
Mắt tầu, chợ nổi Cái Răng, Cần Thơ. RFI / Tiếng Việt
Sự tích tên gọi "Cái Răng"
Một đặc trưng của những con tầu vùng sông nước Cửu Long là có đôi mắt rất sắc được vẽ trên mũi tầu. Theo giải thích của Minh Thư, truyền thuyết kể rằng trong cuộc Nam Tiến của vua Nguyễn Ánh, người dân không có phương tiện nào khác ngoài tầu đề đi từ bắc xuống nam. Giống như đôi mắt của con người, con tầu cũng cần có đôi mắt để có thể tìm được đúng hướng đi và mỏ neo là đặc trưng cho sự cập bến bình an.
Ngoài ra, đôi mắt còn có ý nghĩa sâu xa hơn, miền tây Nam Bộ là một vùng đất hoang vu, dưới nước là cá sấu thuồng luồng, trên bờ là cọp, rắn rết, rất nguy hiểm. Cho nên người dân, chủ yếu là dân chài, rất dễ bị cá sấu thuồng luồng tấn công. Họ bèn hóa trang những chiếc tầu của mình thành những con quái vật với đôi mắt hung dữ để dọa những loài động vật khác.
"Thường những chỗ làm tầu, họ chỉ vẽ đôi mắt. Chính người chủ tầu, khi mua tầu, họ sẽ điểm nhãn cho đôi mắt của chiếc tầu, có người nói là điểm nhãn bằng máu gà, có người nói là điểm nhãn bằng mực thường thôi, tùy nơi, tùy quan niệm của người tin. Trước khi hạ thủy một con tầu, họ sẽ làm lễ động thủy, họ sẽ cúng chiếc tầu đó, cầu xin các thần cùng chư vị chứng giám, bảo vệ an toàn cho chiếc tầu được bình yên xuôi sóng. Đó là một trong những nghi thức cơ bản, những tập tục cơ bản của người dân tây Nam Bộ".
Một ghe bán lẻ trái cây ở chợ nổi Cái Răng. RFI / Tiếng Việt
Chợ nổi Cái Răng không phải là chợ lớn nhất hay sung túc nhất, nhưng là chợ nổi nổi tiếng nhất của đồng bằng sông Cửu Long, do Cần Thơ là trung tâm tài chính, văn hóa và giáo dục của khu vực nên giao thông khá thuận lợi cho du khách từ thành phố Hồ Chí Minh hay các vùng lân cận khác. Về nguồn gốc tên gọi "Cái Răng", Minh Thư giải thích :
"Chợ nổi Cái Răng có rất nhiều câu chuyện giải thích, nhưng có một câu chuyện dân gian nổi tiếng nhất, đó là ngày xưa, vùng tây Nam Bộ là một vùng đất vô cùng nhiều thuồng luồng, cá sấu, cá dữ rất nguy hiểm. Ngày nọ, có một anh chàng khỏe mạnh cưới một cô gái. Họ rước nhau bằng thuyển, nhưng khi đến một khúc sông nọ, chẳng may họ bị một con cá sấu hung dữ tấn công và ăn mất cô gái nên anh rất tức giận và anh tìm cách giết con cá sấu. Khi giết được con cá sấu, anh chặt thành từng khúc nhỏ. Răng con cá sấu rơi ra, trôi theo dòng nước và khi đến nơi đây, người dân thấy cái răng cá sấu nên đặt tên là "Cái Răng". Và có những vùng khác đặt tên theo từng bộ phận bị cắt ra và trôi dạt của con cá sấu, ví dụ như có nơi được gọi là "Cầu Đầu Sấu", có nơi gọi là "Đuôi Sấu". Đó là tích dân gian truyền miệng và thu hút khách du lịch.
Nhưng cái tên được gọi là khoa học nhất và được nghiên cứu là xuất phát từ tên "Cà ràng". "Cà ràng" là tiếng của người Khmer để chỉ một cái bếp để ngày xưa nấu trên tầu thuyền và có ba chân. Và với tính chất đong đưa nước như này, khi nấu nướng trên tầu, thì chỉ có cái cà ràng là vật chắn gió và chắc chắn nhất để họ nấu nướng trên tầu. Ngày xưa, đây là nơi trao đổi rất nhiều cà ràng. Và cà ràng đọc chại là "Cái Răng" ngày nay".
Nét đặc trưng đang dần mai một ?
Theo Nguyễn Minh Thư, ngược lại với việc phát triển hoạt động du lịch, thì việc trao đổi hàng hóa truyền thống ở chợ nổi Cái Răng ngày càng bị thu hẹp lại.
"Một điều hơi đáng buồn là ngày nay, hoạt động buôn bán của chợ nổi Cái Răng không còn được tấp nập như ngày xưa. Số lượng người dân còn bám trụ với chợ nổi Cái Răng cũng bị mai một đi, bị giảm đi rất nhiều".
Đi chợ về - Ảnh minh họa
Liệu chợ Cái Răng có chung số phận với chợ Cái Bè, hiện không còn là một chợ nổi theo đúng nghĩa nữa ? Theo Minh Thư, chợ Cái Bè chỉ được dàn dựng khi có du khách. Đa số các công ty lữ hành phải nhờ những chiếc tầu của ngư dân hoặc tầu của công ty để giúp khách du lịch hình dung ra cuộc sống của một khu chợ nổi. Còn thực tế, ngày nay, chợ nổi Cái Bè hoàn toàn biến mất, không còn hoạt động mua bán tấp nập như thường được thấy trong phim ảnh.
Thu Hằng
Nguồn : RFI tiếng Việt, 06/01/2017