"Kinh tế Việt Nam cần thêm một gói ‘giải cứu’ mới tối thiểu 140 ngàn tỷ đồng"
GDP của Việt Nam trong Quý I/2020 được công bố tăng 3,82%, thấp nhất kể từ năm 2009. Song song đó, hàng loạt doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong tình hình dịch Covid-19 suốt 3 tháng đầu năm 2020.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu. Courtesy : Facebook Hieu Tri Nguyen
Đài RFA thực hiện một cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế-tài chính độc lập, để tìm hiểu thêm về những tác hại nào đối với các doanh nghiệp và kinh tế của Việt Nam, cũng như những giải pháp hỗ trợ nào từ Chính Hà Nội trong tình hình dịch bệnh còn tiếp diễn.
Trước hết, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu trình bày ghi nhận của ông về nền kinh tế Việt Nam trong Quý I/2020 bị tác động ra sao bởi dịch Covid-19 :
Nguyễn Trí Hiếu : Trong Quý I năm 2020, nền kinh tế Việt Nam bị tác động bởi dịch Covid-19 rất mạnh. Con số tăng trưởng GDP trong Quý I là 3,82%, giảm rất nhiều, khoảng phân nửa so với cùng kỳ năm trước ở mức 6,79%.
Với sự tăng trưởng như thế thì rất nhiều ngành nghệ bị tác động. Trong đó có khu vực nông sản, lâm nghiệp, thủy sản. Ngay cả những ngành nghề trong khu vực công nghiệp và xây dựng cũng bị ảnh hưởng.
Riêng về xuất nhập khẩu trong Quý I/2020 cũng giảm so với năm ngoái. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong Quý I/2020 đạt 115 tỷ USD, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên trong Quý I năm nay vẫn xuất siêu được 2,8 tỷ USD.
Tôi cũng nghĩ rằng có một sự sụt giảm trong đầu tư nước ngoài. Tổng vốn đầu tư nước ngoài tính đến ngày 20/3 ; bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vố đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài đạt 8,6 tỷ USD, giảm 20,9% và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong Quý I/2020 ước tính đạt khoảng 3,9 tỷ USD, cũng giảm 6,6%.
Nói chung các hoạt động kinh tế trong Quý I/2020 giảm so với năm 2019. Chúng ta thấy rõ ràng là dịch bệnh Covid-19 đã tác động vào nền kinh tế. Tuy nhiên cũng có những điểm sáng trong nền kinh tế Việt Nam. Trong lúc những ngành nghề bị tác động rất mạnh như du lịch, vận tải, đặc biệt là hàng không thì cũng có những ngành nghề có sự phát triển ; chẳn hạn như thông tin truyền thông, bảo hiểm và y tế có sự tăng trưởng trong Quý I/2020.
RFA : Đài RFA ghi nhận một số vị chuyên gia kinh tế ở trong nước dự báo rằng GDP trong Quý II/2020 của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm trong trường hợp dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp. Quan điểm của ông thế nào, thưa Tiến sĩ ?
Nguyễn Trí Hiếu : Chúng ta biết rằng dịch bệnh hiện tại đang ở mức độ lan tỏa rất mạnh mẽ trên cả thế giới. Bây giờ chúng ta cũng chưa thấy có điểm dừng của dịch bệnh này. Thành ra trong tình hình như thế này thì có thể kinh tế thế giới và trong đó có kinh tế Việt Nam tiếp tục bị tác động mạnh. Thế nhưng tôi đặt một giả thiết là nếu ở Việt Nam có thể giữ được không có người chết và kiểm soát được tình trạng lây lan trong Quý II thì nền kinh tế có khẳ năng sẽ phục hồi bắt đầu từ Quý III/2020. Còn ngược lại nếu mà tình hình dịch bệnh trên thế giới và ở Việt Nam tệ hơn thì có lẽ đúng là có thể GDP của Việt Nam sẽ giảm và những khó khăn của nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp, đặc biệt của người dân Việt Nam cũng sẽ chịu tác động rất mạnh.
RFA : Truyền thông Việt Nam đưa tin hiện đã có hàng chục ngàn doanh nghiệp rút khỏi thị trường do dịch Covid-19 và số liệu này được ghi nhận tăng gần 60% so với cùng kỳ năm 2019. Hồi đầu trung tuần tháng 3, Chính phủ Việt Nam cam kết một gói 280 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ cho doanh nghiệp. Theo nhận định của ông thì gói hỗ trợ này có thể giúp cho các doanh nghiệp phần nào vượt qua được khó khăn hay không, đặc biệt đối với các doanh nghiệp không thể cầm cự hay tiếp tục hoạt động được nữa ?
Nguyễn Trí Hiếu : Đúng là trong Quý I/2020 có nhiều doanh nghiệp đã giải thể, ngưng hoạt động, phá sản và rời khỏi thị trường. Theo Cục Thống kê thì có 18.600 doanh nghiệp đã giải thể hoặc ngưng hoạt động trong 3 tháng vừa qua. Với mức độ như vậy thì dĩ nhiên Chính phủ đã đưa ra gói 280 nghìn tỷ, trong đó 30 nghìn tỷ thuộc về ngân sách nhà nước. Tức là, Chính phủ dùng 30 nghìn tỷ đó để giãn thuế, giảm thuế, miễn thuế để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Còn gói 250 nghìn tỷ thì Chính phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước chủ trì và Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại tham gia vào gói 250 nghìn tỷ này. Đây là gói mà các ngân hàng thương mại dùng để hỗ trợ doanh nghiệp cho vay mới, hoặc hỗ trợ các doanh nghiệp đang vay bằng cách giảm lãi suất, khoanh nợ, hoãn thời hạn trả nợ và không chuyển nhóm nợ.
Như chúng ta biết là có 5 nhóm nợ theo cách phân loại của Việt Nam. Nhóm 1 là nhóm bình thường. Nhóm 2 là nhóm dưới chuẩn. Ba nhóm còn lại : 3-4-5 là nợ xấu. Thế thì các doanh nghiệp nào thuộc trong nhóm 2-3-4-5 thì các doanh nghiệp đó rất khó có thể vay tiền của các ngân hàng được, thậm chí còn phải vay với lãi suất cao.
Do đó, Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại tạm khoanh nợ lại, không chuyển nhóm nợ cho một số những doanh nghiệp mà không có khả năng thanh toán và tất cả những biện pháp đó nằm trong gói 250 nghìn tỷ đồng.
Lưu ý đây là gói mà tự các ngân hàng thương mại cân đối nguồn vốn của mình, do Ngân hàng Nhà nước chủ trì để hỗ trợ, chứ không phải là tiền của Chính phủ.
RFA : Theo Tiến sĩ thì đề xuất nào khác mà ông cho rằng Chính phủ Việt Nam cần thiết phải làm để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, nếu như đặt trong tình huống xấu nhất là dịch Covid-19 vẫn tiếp diễn và không kiểm soát được ?
Nguyễn Trí Hiếu : Đây là một vấn đề tôi nghĩ rằng không những tôi mà tất cả người dân, các doanh nghiệp, các nhà kinh tế và các nhà làm chính sách ở Việt Nam đều quan tâm là gói hỗ trợ nào ?
Thế thì ngoài gói hỗ trợ 280 nghìn tỷ đồng mà Chính phủ đã đưa ra và trong đó 250 nghìn tỷ thuộc về các ngân hàng thương mại, tôi nghĩ rằng Chính phủ phải ra tay cứu vớt nền kinh tế với một gói tương tự như các chính phủ nước khác ; tức là một gói từ ngân sách.
Như chúng ta biết hiện tại ở Mỹ có gói 2000 tỷ USD, chiếm khoảng 10% GDP của Mỹ.
Tôi không dám mạnh dạn đề xuất Chính phủ Việt Nam có một gói hỗ trợ lên đến 10% GDP của Việt Nam.
Năm 2019, GDP của Việt Nam nếu tính theo cách cũ là 267 tỷ USD, và tính theo cách mới là 300 tỷ USD. Bây giờ chúng ta lấy con số 300 tỷ USD này làm cái mốc thì nếu10% sẽ lên đến 30 tỷ USD. Tôi nghĩ Chính phủ Việt Nam không có tiền cho một gói hỗ trợ lên đến như thế. Nhưng mà có lẽ một gói hỗ trợ ít nhất cũng phải là 2% GDP. 2% của 300 tỷ USD thì vào khỏang 6 tỷ USD, tính ra xấp xỉ 140 nghìn đến 150 nghìn tỷ đồng.
Chính phủ phải có một gói mới từ ngân sách 140 nghìn tỷ đồng tối thiểu để hỗ trợ cho nền kinh tế. Trong đó dùng tiền để hỗ trợ cho người dân và các doanh nghiệp.
Người dân là những người đã mất công ăn việc làm, những người không còn thu nhập cũng như những người nghèo thì Chính phủ đưa tiền đến tận tay họ.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần phải có sự hỗ trợ. Đặc biệt là các doanh nghiệp đang mất tính thanh khoản, tức là mất khả năng chi trả như trả tiền thuê mặt bằng, trả tiền người lao động, thanh toán cho nhà cung cấp, trả tiền thuế phí khác, trả nợ ngân hàng, trả nợ cho đối tác…Tất cả những doanh nghiệp đang mất khả năng chi trả hoặc khả năng chi trả của họ giảm thiểu rất mạnh thì Chính phủ, trong trường hợp này, phải bơm một dòng tiền vào cho các doanh nghiệp đó ; bằng cách cho họ vay với những điều kiện thật dễ dãi cùng với thời gian ân hạn rất dài, có thể đến 1 năm mà không phải trả gốc lẫn lãi.
Việc đưa tiền cho các doanh nghiệp như thế có thể thông qua hệ thống ngân hàng, tức là hệ thống ngân hàng được ủy thác một số tiền của Chính phủ để có thể giúp các doanh nghiệp. Đồng thời, Chính phủ có một cơ chế gọi là ‘cấp quỹ bảo lãnh tín dụng’, giống như ở bên Mỹ có SDA. Hiện ở Việt Nam cũng đã có một ‘Quỹ bảo lãnh tín dụng’. Chính phủ đổ một lượng tiền vào trong các ‘Quỹ bảo lãnh tín dụng’ đó và các "Quỹ bảo lãnh tín dụng’ chuyển tới bảo lãnh các ngân hàng để các ngân hàng cho các doanh nghiệp vay đang bị tác động mạnh bởi dịch Covid-19 này.
RFA : Chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu dành cho cuộc phỏng vấn với RFA.
Nguồn : RFA, 03/04/2020
Tình cảnh của giới kinh doanh quán ăn, dịch vụ tại Sài Gòn hiện nay (RFA, 26/03/2020)
Vào ngày 24/3, UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã ra lệnh đóng cửa toàn bộ các cơ sở kinh doanh tụ tập trên 30 người, trong đó bao gồm các nhà hàng, quán ăn, khu vui chơi giải trí, các cửa tiệm làm đẹp, uốn tóc và hớt tóc…v.v.
Một quán bar đã đóng cửa trên đường Bùi Viện, Thành phố Hồ Chí Minh. Reuters
Tiếp đến , Thủ tướng Việt Nam chỉ thị các thành phố lớn trong nước như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đóng cửa toàn bộ các cơ sở kinh doanh như nêu trên, không giới hạn số lượng người, bắt đầu vào ngày 28/3.
Vào ngày 26/3, RFA đã có cuộc phỏng vấn ghi nhận tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ảnh hưởng do lượng khách hàng giảm từ khi dịch bùng phát đến nay, thì nay họ sẽ xoay sở thế nào khi phải đóng cửa hoàn toàn cơ sở kinh doanh.
Nhân viên ở một nhà hàng tại Hà Nội cầm bảng quảng cáo trong thời kỳ dich bệnh. Reuters
Chị Loan, chủ của một tiệm tóc tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết từ khi dịch bệnh bùng phát trong nước, việc hoạt động của cửa tiệm chị không như trước vì số lượng khách hàng thưa thớt :
"Tình hình dịch bệnh làm hạn chế, ảnh hưởng đến kinh doanh, khách hàng thì sợ bị lây nhiễm. Với lại tiệm đóng cửa trong khi tiền thuê mặt bằng mình vẫn phải trả và thêm tiền lương nhân viên, nên cũng gặp khó khăn nhiều. Trước khi đóng cửa (đã có khó khăn), tại vì dịch ảnh hưởng chung, nên khách hàng cũng giảm"
Chị Loan hiện tại vẫn chưa biết cửa tiệm mình sẽ phải tiếp tục đóng cửa bao lâu, vì theo chị phải theo dõi và xem xét tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến như thế nào. Chị cho biết :
"Chưa biết nha chị. Nhà nước thì ra quy định như vậy, nhưng cũng có thể đến khi đó xem xét tình hình thế nào, có thể đóng cửa tiếp. Theo em thấy ở những vùng học sinh nghỉ học, thì còn đi theo tình trạng dịch như thế nào nữa. Tạm thời phải nghỉ hết tháng".
Anh Lộc, chủ của một quán ăn ở một khu đô thị mới tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết khi luật chỉ giới hạn cho những cơ sở kinh doanh có tụ tập trên 30 người, những quán ăn như quán của anh có thể gia giảm số lượng khách phục vụ xuống còn dưới 30 người. Tuy nhiên, sắp tới khi phải đóng cửa toàn bộ nhà hàng, những khó khăn anh gặp phải như sau :
"Khi đóng cửa thì thứ nhất, các đồ ăn, nguyên liệu của mình sẽ bị hư. Thứ hai là khi nhân viên xin nghỉ về quê thì sẽ khó lên lại và cũng khó tìm người nhân viên khác để thay thế. Thêm nữa là chi phí mặt bằng, vì người ta sẽ không giảm cho mình. Khi mình đi xin người ta chưa chắc gì họ sẽ giảm. Trước đây thì những tiệm lớn có thể chỉ giảm thiểu số khách còn đúng 30 người thôi".
Quán ăn của anh Lộc vẫn còn mới, được thành lập chỉ trong vòng 1 năm trở lại, vì thế nhân viên làm cho quán là những bạn sinh viên, còn trẻ và chưa gắn bó lâu với quán, nên ngoài việc chi phí, thức ăn, anh Lộc lo lắng về việc tìm người thay thế khi quán mở lại cũng sẽ gặp khó khăn.
Về việc phải tạm dừng kinh doanh và cho nhân viên về quê, chị Loan cho biết trong ngành tóc bên chị không quá phải lo lắng việc nhân viên nghỉ mà không quay lại làm, vì họ đã gắn bó với tiệm đã lâu. Chị cho biết thêm :
"Mình cũng hỗ trợ (lương) nhân viên một phần. Thí dụ như mình có thể hỗ trợ cho nhân viên trong thời gian nghỉ lâu dài, có thể cho mấy bạn về quê tránh dịch, hoặc cũng có vài bạn nhân viên ở trên đây (Thành phố Hồ Chí Minh) ; nếu như ở trên đây nghỉ ít ngày thì mình cũng có hỗ trợ. Nếu như mà qua tháng nhà nước tiếp tục cho nghỉ thêm một, hai tuần chẳng hạn, thì sẽ cho những bạn này về quê tránh dịch".
Khi trả lời phỏng vấn với RFA ngày 26/3, chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh cho rằng để tránh tình trạng dịch bệnh lây lan diễn biến nghiêm trọng hơn, ngoài việc cho sinh viên, học sinh nghỉ học, chính phủ Việt Nam cũng buộc phải đóng cửa các cơ sở kinh doanh ăn uống, giải trí. Vì vậy, doanh thu của những ngành này đều bị ảnh hưởng.
Theo ông Thịnh, so với mọi năm thì năm nay, hầu như các doanh nghiệp trong lĩnh vực này đều thất thu, vì vậy lượng doanh nghiệp xin ngừng hoạt động hay phá sản trong ba tháng đầu năm nay chủ yếu là những cơ sở kinh doanh nhỏ và các hộ gia đình có liên quan đến lĩnh vực dịch vụ này. Ông nhận xét :
"Một số doanh nghiệp nhỏ và hộ gia đình do nguồn lực nó cũng có hạn thôi, mà do doanh thu giảm như vài tháng vừa rồi thì họ không có cái để trả tiền thuê cơ sở vật chất, cũng như là trả tiền lương cho người lao động, nhân viên mà vì vậy những người trong số ngành này cũng tuyên bố phá sản".
Ông Thịnh cho rằng hiện tại là lúc chủ của các cơ sở kinh doanh có thể lấy đây làm cơ hội để cơ cấu lại doanh nghiệp, tìm những giải pháp tạm thời để có thể tiếp tục hoạt động khi cơn dịch đã đi qua.
Tuy nhiên, theo anh Lộc, trước khi có lệnh đóng cửa như sắp tới đây, quán ăn của anh cũng đã thử nghiệm áp dụng hình thức kinh doanh qua dịch vụ giao tận nhà, nhưng đó không phải là mô hình kinh doanh chủ yếu của quán nên doanh thu từ hình thức này không giúp bù đắp cho việc khách hàng không đến quán ăn của mình :
"Về dịch vụ delivery thì không có chạy được nhiều, vì (hình thức kinh doanh) đa phần khách tới quán là vì khung cảnh đẹp và có gió mát. Đồ ăn của mình lên (dịch vụ delivery) không có dễ, tự nhiên mình bị mất 20% đến 23% cho một phần ăn".
Đối với chị Loan, chị chỉ mong có được sự hỗ trợ nào đó từ nhà nước để có thể duy trì hoạt động kinh doanh của mình trong trường hợp phải đóng cửa tiệm lâu dài. Chị cho biết :
"Như tụi em làm kinh doanh thì hàng tháng vẫn phải lo mặt bằng, kinh phí này kia nên cũng mong nhà nước sẽ hỗ trợ một phần nào đó. Còn tình hình dịch thì ai cũng phải chung tay đóng cửa hàng, quán để cùng nhau qua mùa dịch này".
Ông Đinh Trọng Thịnh cho biết, việc hỗ trợ như một số quốc gia khác chu cấp một lượng tiền đến thẳng cho người dân thật sự rất khó đối với nhà nước Việt Nam :
"Vì ngân sách nhà nước Việt Nam cũng rất eo hẹp và vì thế cho nên phải tính toán cẩn trọng trong việc này. Điều thứ hai là nếu áp dụng biện pháp kích cầu, hoặc dùng biện pháp mạnh tay thì nó rất nhiều vấn đề, thì lúc đó sẽ có thêm vấn đề là ngành nào, doanh nghiệp nào, hình thức nào và ai được hưởng, bao nhiêu, ra làm sao…v.v, nó rất nhiều vấn đề phức tạp".
Ông Thịnh cho biết thêm, phía các chuyên gia Việt Nam cũng đã có ý kiến đối với cơ quan quản lý để xem xét, miễn giảm các loại thuế cho các loại hình doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của dịch bệnh này. Từ đó, ông cũng mong có thể giúp cho các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh như thế này có thể mở cửa và hoạt động trở lại khi đợt khủng hoảng đi qua.
*******************
Mưa lớn kèm tố lốc gây nhiều thiệt hại ở Bắc Kạn (RFA, 27/03/2020)
Mưa lớn kéo dài kèm tố lốc trong 2 ngày 25-26/3 đã gây nhiều thiệt hại về tài sản, hoa màu tại tỉnh Bắc Kạn.
Một ngôi nhà ở xã Xuân Lạc (Chợ Đồn) bị tốc mái hoàn toàn vì gió lốc. Nguồn : nhandan.com.vn
Báo trong nước loan tin ngày 27/3, trích nội dung từ Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tỉnh Bắc Kạn cho biết rõ tổng thiệt hại do mưa lũ hai ngày qua ở Bắc Kạn ước tính lên đến hơn bốn tỷ đồng.
Cũng trong ngày 27/3, Cơ quan Thống kê quốc gia Việt Nam công bố số liệu tổng hợp báo cáo sơ bộ từ các địa phương cho biết tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong quý 1 năm nay trên cả nước ước tính gần 935 tỷ đồng, gấp 9 lần so với cùng kỳ năm 2019.
Cụ thể, chỉ trong 3 tháng đầu năm, thiên tai làm 9 người chết, 18 người bị thương ; hơn 39.000 ha lúa và gần 7.000 ha hoa màu bị hư hỏng ; 24 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hơn 23.000 ngôi nhà bị hư hỏng.
Vẫn theo số liệu Cơ quan Thống kê quốc gia Việt Nam công bố, trong 3 tháng đầu năm, cơ quan chức năng đã phát hiện 2.545 vụ vi phạm môi trường trên cả nước, trong đó xử lý 2.246 vụ với tổng số tiền phạt 58,5 tỷ đồng.
Trong 3 tháng, cả nước xảy ra 791 vụ cháy, nổ, làm 25 người chết và 61 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính hơn 197 tỷ đồng.
Trong khi đó, tai nạn giao thông trong 3 tháng đầu năm 2020 giảm so với cùng kỳ năm trước theo cả 3 tiêu chí : số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương.
Theo đó, số vụ tai nạn giao thông trong 3 tháng đầu năm nay giảm 13,9%, số người chết giảm 14% và số người bị thương giảm 17%.
Cơ quan Thống kê quốc gia nhận định tai nạn giao thông giảm có thể là do ý thức chấp hành luật giao thông của người dân được nâng lên thông qua việc thực hiện nghiêm Nghị định số 100 của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 30/12/2019.
******************
Mưa đá rạng sáng 18/3 gây thiệt hại tại 4 tỉnh miền Bắc (RFA, 18/03/2020)
Một trận mưa đá vào rạng sáng ngày 18/3 gây thiệt hại tại 4 tỉnh phía Bắc bao gồm Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu và Phú Thọ. Trong đó, tỉnh Lào Cai được ghi nhận bị thiệt hại nặng nề nhất.
Mưa đá có đường kính 4-5 cm tại thành phố Lai Châu tối ngày 17/03/2020. Courtesy : vov.vn
Truyền thông trong nước loan tin nêu rõ mưa đá với kích cỡ đường kính 4-5cm bắt đầu đổ xuống vào khoảng 20 giờ tối ngày 17/3, tại thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Tại huyện Tam Đường của tỉnh Lai Châu cũng xảy ra mưa đá kèm theo gió lớn, tập trung ở xã Nùng Nàng và Bản Giang. Hai địa phương này được ghi nhận bị thiệt hại về nhà cửa, hoa màu và cây cối.
Báo giới cho biết tỉnh Lào Cai bị thiệt hại nặng nề nhất trong trận mưa đá trong đêm 17/3, rạng sáng 18/3. Thống kê ban đầu ước tính có 82 căn nhà bị tốc mái và mái ngói bị hư hại ở huyện Bắc Hà. Một số diện tích cây trồng tại huyện Bắc hà và huyện Si Ma Cai cũng bị ảnh hưởng do mưa đá.
Hai tỉnh còn lại bị mưa đá nhưng thiệt hại không lớn là Yên Bái và Phú Thọ. Hiện đang vẫn được cập nhật thông tin.
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai đề nghị các tỉnh bị ảnh hưởng bởi trận mưa đá rạng sáng ngày 18/3 nhanh chóng thống kê thiệt hại cũng như khắc phục hậu quả và ổn định cuộc sống của người dân.
Riêng tỉnh Lai Châu, đây là trận mưa đá thứ hai trong/3. Trận mưa đá xảy ra trong 3 ngày, từ ngày 2 đến ngày 4/3 đã gây thiệt hại ở nhiều địa phương của tỉnh này lên đến 13 tỷ đồng.
Doanh nghiệp Việt có thể tồn tại qua dịch Covid-19 ? (RFA, 09/03/2020)
Chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh, trưởng bộ môn Quản trị Tài chính quốc tế của Học viện Tài chính Việt Nam, vào ngày 9 tháng 3 nói với RFA về đường hướng phải hi sinh phát triển kinh tế để dập tắt dịch Covid-19.
Công nhân trong một xưởng dệt may tại Hà Nội AFP
"Đây là giải pháp tốt nhất, vì nếu để dịch bệnh lây lan ra như Trung Quốc, thì không chỉ sản xuất kinh doanh không được, mà còn bị tốn kém chi phí cách li và chi phí về phòng chữa bệnh. Vì thế mà sự tăng trưởng kinh tế có cao hay thấp thì nó không quan trọng lắm bằng việc làm thế nào dập tắt được dịch bệnh với chi phí thấp nhất".
Đồng tình, Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long, một chuyên gia kinh tế khác mà RFA đã có cuộc phỏng vấn cùng ngày, khẳng định tính mạng con người là trên hết.
"Đây là bệnh dịch rất nguy hiểm, ảnh hưởng đến sinh mạng. Chính phủ xem tính mạng con người là số một, nên có thể nói sẵn sàng đánh đổi kinh tế để bảo toàn sinh mạng cho con người".
Tiền hành khử trùng máy bay của Vietnam Airlines sau khi có hành khách xét nghiệm dương tín với Covid-19 - AFP
Ông Long cho biết thêm, dịch bệnh xảy ra làm hao tổn chi phí đến các nguồn lực về mặt tài chính và tất cả các nguồn lực khác để phục vụ cho việc kiểm soát bệnh dịch. Từ đó làm cho sản xuất đình trệ và hệ quả theo nhận định của Ông Ngô Trí Long :
"Mà nếu sản xuất đình trệ thì cùng lúc 2 thiệt là thiệt kép. Mong mỏi của chính phủ là gì ? Là vừa kiểm soát được dịch bệnh và đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế, điều đó hoàn toàn rất khó khăn. Cùng lúc không thể thực hiện được nhiệm vụ kép đó, theo quan điểm cá nhân của tôi. Vì qua quá trình kiểm soát dịch bệnh phải tổn hao người, tiền bạc, của cải, vật chất, tất cả".
Thực tế và cơ hội ?
Báo cáo 2 tháng đầu năm 2020 của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, cho thấy ngành xuất khẩu vẫn tăng trưởng, ước đạt gần 40 tỷ USD, tăng 2.4% so với cùng kỳ năm ngoái. Do đó, ông Thịnh cho rằng phương diện phát triển và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có bị ảnh hưởng vì dịch Covid-19, nhưng không đến mức độ nghiêm trọng.
Dựa trên cơ sở đó, ông Thịnh nhận định rằng nguy hại của dịch Covid-19 lại tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam xem xét và định hướng lại chiến dịch kinh doanh của mình, nhất là vào khâu xuất khẩu.
"Đây là hướng các chuyên gia kinh tế mong muốn và khuyến khích, đó là nhập các công nghệ và nguyên liệu từ các nước hiện đại, tiên tiến ; có thể đắt một chút, nhưng nó sản xuất ra các sản phẩm tốt. Dù các nguyên nhiên vật liệu và linh phụ kiện đắt hơn, nhưng mà có thể đáp ứng được sản xuất sản phẩm chất cao, từ đó có thể xuất khẩu vào các nước liên minh Châu Âu và các nước phát triển nói chung. Đồng thời, trên cơ sở đó có thể đẩy mạnh các quan hệ giữa Việt Nam với các nước phát triển".
Trong khi đó ngành du lịch Việt Nam là ngành chịu ảnh hưởng nặng nề vì dịch bệnh. Cùng ngày, RFA cũng có buổi phỏng vấn với ông Nguyễn Văn Mỹ, Chủ tịch hội đồng thành viên thuộc công ty Du Lịch Lửa Việt, tình hình hiện tại của ngành hết sức khó khăn. Sau sự việc của bệnh nhân thứ 17 từ London trở về Hà Nội, đã dẫn đến đảo lộn rất nhiều dự tính của chính phủ Việt Nam.
"Ngay cả công ty du lịch Lửa Việt khi bắt đầu có khách trở lại, chúng tôi bắt đầu chương trình cho ngày 8 tháng 3 về Bến Tre. Nhưng sau khi công bố chính thức có thêm nạn nhân ngày ngày 7 tháng 3, thì số lượng khách hàng đăng ký tham gia chương trình này đã giảm xuống. Chỉ trong 1 ngày, mất khoảng chừng 30% khách. Chúng tôi có chương trình khuyến mãi đăng ký gần 200 khách, thì thông tin này đã kéo xuống của chúng tôi khoảng 40 khách... Đây là tác đông dây chuyền. Cùng một lúc, từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 5 tháng 3 chỉ có 16 ca, mà từ ngày 5 tháng 3 đến nay đã từ 16 lên đến 31 ca nhiễm. Hết sức bất ngờ và lúng túng, nên đã tạo thêm hoang mang cho người dân".
Yêu cầu tồn tại !
Khi được hỏi về giải pháp để các doanh nghiệp trong nước có thể vượt qua khó khăn do dịch Covid-19 gây ra, ông Mỹ cũng cho biết thêm :
"Trước hết phải tồn tại thì mới đến phát triển được. Thứ nhất, hậu quả của Covid-19 là nó không có biệt lệ và không loại trừ ai cả ; không ai đứng ngoài cuộc cả. Ngay cả các ngành không ai nghĩ sẽ bị ảnh hưởng vì không có tính chất liên quan như giáo dục và quân đội cũng phải vào cuộc. Cho nên để vượt qua, thì phổ biến nhất là các công ty phải cắt giảm biên chế. Thứ 2, thuyết phục nhân viên nghỉ không lương. Thứ 3, giảm lương để được tồn tại".
Du khách nước ngoài tham quan Hà Nội trong mùa dịch Covid-19 AFP
Riêng trong ngành du lịch, ông Mỹ cho biết công ty Lửa Việt đã tiến hành các tour đi về các vùng nắng gió, nơi mà dịch bệnh theo ông là khó phát triển, như vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.
"Những vùng nắng gió, thì điều khí hậu tối kỵ cho phát tán virus Covid-19, thì nhớ đó chúng tôi tìm cách có thêm nguồn thu để duy trì hoạt động, tạo tâm lý không chỉ cho khách hàng họ tin tưởng mà còn từ nhân viên. Cứ ngồi than vãn mà chờ thì càng nguy hại".
Trong lĩnh vực sản xuất, Ông Thịnh cho biết thêm, đã đến lúc Việt Nam dừng việc làm thuê gia công cho các thương hiệu nổi tiếng và các tập đoàn lớn ở nước ngoài. Đến thời điểm này, Việt Nam đã tích lũy các kinh nghiệm và có các hiểu biết nhất định về thị trường và sản phẩm nhất định.
"Dựa trên cơ sở đó, các nhà khoa học và các nhà thiết kế phải là người tiên phong dám nghĩ dám làm, để tự thiết kế mẫu mã của chính mình để không phải mượn các mẫu mã của nước ngoài để làm thuê. Nhờ đó mà có được lợi nhuận cao hơn và chi phí giảm đi... Đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam phải liên kết, liên doanh lại để giảm thấp các chi phí về quản lý, tiếp cận thị trường, và chi phí về nghiên cứu để có thể có các thương hiệu riêng của riêng mình. Có những mẫu mã và hình thức riêng, những sản phẩm riêng của người Việt Nam".
Theo hi vọng của chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh, trong sự bùng phát dịch Covid-19 này, nền kinh tế Việt Nam sẽ có được những chuyển biến cả về mặt chất lượng và cũng như cả về các cách thức.
******************
Các doanh nghiệp Việt cần chạy đua để đáp ứng yêu cầu của EVFTA (RFA, 09/03/2020)
Liên Hiệp Châu Âu cho rằng thỏa thuận mậu dịch tự do EVFTA với Việt Nam là một trong những thỏa thuận thương mại tham vọng nhất mà khối này đạt được với một nước đang phát triển. Theo đó, khoảng 99% thuế hàng xuất khẩu của cả hai phía sẽ được cắt giảm.
Minh họa : công nhân làm việc trong một nhà máy may ở Hà Nội. AFP
Fiber2fashion cho biết EVFTA có thể chính thức bắt đầu có hiệu lực kể từ tháng 7 tới đây.
EVFTA được nhận định sẽ là cơ hội lớn để mở rộng cho các doanh nghiệp Việt Nam và nhiều sản phẩm mà Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường EU, bao gồm cả hàng dệt may, cà phê và giày dép. Song song đó là những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt.
Trao đổi với RFA tối ngày 9/3, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên là Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương cho biết bên cạnh những ưu đãi về thuế quan mà EVFTA mang lại, sản phẩm xuất khẩu Việt Nam sẽ phải đối mặt rất nhiều yêu cầu rõ ràng và khắt khe, đặc biệt đối với mặt hàng dệt may :
"Yêu cầu thứ nhất là hàm lượng nội địa của hàng dệt may phải đạt hàm lượng tối thiểu nhất định mới được đánh giá là hàng sản xuất tại Việt Nam, made in Vietnam. Hiện nay hàng dệt may của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều những sản phẩm đầu vào như vải sợi, phụ liệu khác nhập khẩu từ Trung Quốc vì rẻ hơn rất nhiều. Tuy vậy, tình hình dịch cúm covid-19 đã làm cho nhiều nguồn cung ứng bị đứt đoạn nên các doanh nghiệp Việt Nam đang phải tìm các nguồn thay thế từ Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Bangladesh. Điều này không thể một sớm một chiều có thể làm được.
Điều thứ hai là Hiệp định EVFTA nêu ra rất rõ điều kiện về lao động, công khai minh bạch, trách nhiệm đối với môi trường, bảo vệ môi trường. Vì vậy, tôi nghĩ đấy là cơ hội cũng là những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực đáp ứng các yêu cầu này".
Theo nhiều báo cáo được báo trong nước trích dẫn, ngành dệt may Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào máy móc và nguyên liệu nhập khẩu.
Giải thích nguyên nhân vì sao Việt Nam vẫn phải nhập khẩu thành phần nước ngoài, ông Nguyễn Đình Trường, Tổng Giám Đốc dệt may Việt Tiến, một công ty thành viên Hiệp Hội Dệt May Việt Nam cho hay :
Hình minh họa. Đại diện Thương mại của EU Cecilia Malmstrom, Bộ trưởng kinh doanh, thương mại và doanh nghiệp của Romanie Stefan Radu Oprea cùng Bộ Trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh dự lễ ký EVFTA ở Hà Nội hôm 30/6/2019 Reuters
"Mỗi một năm trong nước chỉ sản xuất có một tỷ mét vải thôi, còn trong đó là nhập rất nhiều tỷ mét vải nên 60 đến 70%. Báo người ta đưa là chính xác. Vấn đề bây giờ Hiệp Định EVFTA yêu cầu muốn xuất đi EU phải có xuất xứ ở Việt Nam mới được ưu đãi thuế quan. Chúng ta phải độc lập tự chủ bằng nội lực của mình, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp trong nước liên kết với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài để tạo thị trường vải vóc cho ngành may mặc Việt Nam bớt phụ thuộc vào nhập khẩu nước ngoài".
Không bị ảnh hưởng mạnh như ngành dệt may do phía Châu Âu chỉ yêu cầu khoảng trên dưới 40% giá trị xuất sang Châu Âu phải tạo từ Việt Nam, nhưng ngành da giày vẫn vướng phải một số trở ngại nhất định, như lời ông Diệp Thành Kiệt, Chủ tịch Hiệp hội da giày nhận định :
"Thứ nhất là không phải tất cả các dòng sản phẩm mà Việt Nam đang sản xuất sẽ được miễn thuế bằng 0 ngay ở năm đầu mà Châu Âu chia ra nhiều nhóm : nhóm A tức nhóm được hưởng thuế suất bằng 0 ngay khi Hiệp định có hiệu lực, hoặc nhóm nào có mã số B3 sẽ được giảm thuế trong vòng 3 năm và nhóm B7 là giảm thuế trong vòng 7 năm.
Theo thống kê của tổ chức Budrop trong 4-5 năm, chỉ khoảng 43% sản phẩm xuất từ Việt Nam được hưởng thuế suất bằng 0 ngay. Số còn lại phải tiếp tục chờ trong vòng 3 năm hoặc 7 năm mới được đưa về bằng 0.
Khó khăn thứ 2 của chúng ta là nếu chúng ta không đạt được điều kiện về quy chế xuất xứ để hưởng thuế suất bằng 0 thì phải chịu thuế MFN bình quân 12%, trong khi thuế GSP mà chúng ta đang hưởng từ 2014 tới giờ xấp xỉ trên dưới 8%. Như vậy nếu không đáp ứng yêu cầu phải chịu mức thuế cao nhất".
Tuy vậy, ông Diệp Thành Kiệt vẫn lạc quan cho rằng những khó khăn đó sẽ phần nào được giải quyết nếu các doanh nghiệp chịu nghiên cứu xem dòng sản phẩm nào nằm trong nhóm A, B3 hay B7 để từ đó đưa ra đối sách phù hợp. Vẫn theo ông Kiệt, nhìn về mặt sáng, ta sẽ thấy được EVFTA đem lại thuận lợi trong mặt cạnh tranh khá cao :
"Có điều kiện mở rộng thị trường bằng cách lấn các đơn hàng của những nước hiện chưa được hưởng quy chế thương mại tự do như Trung Quốc, Indonesia, hay một số nước khác".
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cũng cho rằng những bất lợi trước mắt của các ngành công nghiệp khi tham gia EVFTA sẽ nhanh chóng được giải quyết vì chính phủ sẽ hỗ trợ và các doanh nghiệp cũng đang đầu tư thêm để đảm bảo nguồn hàng có xuất xứ từ Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của EVFTA.
Bộ Công Thương cho biết các cơ chế và chính sách về phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ sẽ tiếp tục được xem xét theo các nội dung của EVFTA để tạo điều kiện cho các ngành sẽ hưởng lợi nhiều nhất từ thỏa thuận.
Bên cạnh đó, kinh tế Việt Nam cũng sẽ được cải thiện nếu Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam được thực hiện tốt, theo lời Tiến sĩ Lê Đăng Doanh :
"Lợi nhuận đối với Việt Nam có thể tăng lên đáng kể nếu Việt Nam tận dụng được các cơ hội. Về lâu về dài có thể giúp Việt Nam tăng khoảng 1-2% GDP nếu tốc độ gia tăng và Việt Nam thực hiện được các cơ hội".
Mạng báo Fiber2fashion dẫn nguồn từ Bộ Công Thương Việt Nam rằng chính sách và cơ chế về phát triển các ngành phụ trợ tại Việt Nam đang được rà soát lại. Tất cả được thực hiện cho phù hợp với nội dung của EVFTA nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành hưởng lợi nhiều nhất từ thỏa thuận mậu dịch tự do này.
Tuy nhiên cải cách tại Việt Nam hiện nay bị nhiều người chỉ ra vẫn chậm chạp chưa bắt kịp được thực tế phát triển. Các doanh nghiệp sản xuất gặp bao trở ngại và nay còn có dịch bệnh Covid-19 đang gây nên khủng khoảng khắp nơi trên thế giới.
*****************
"Ông trùm" tín dụng đen cả nước bị bắt giữ (RFA, 09/03/2020)
Công an tỉnh Thanh Hóa vào sáng ngày 9/3 thông báo cho biết đã bắt được người bị cho là "ông trùm" tín dụng đen với qui mô hoạt động trên 63 tỉnh thành cả nước.
Ông Nguyễn Cao Thắng (ảnh nhỏ). Courtesy of Người Lao Động/ RFA Edited
Trước đó, vào ngày 7/3 Phòng Cảnh sát Hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa cùng với thành phố Hồ Chí Minh phối hợp bắt giữ ông Nguyễn Cao Thắng, sinh năm 1984. Ông Thắng là chủ tịch hội đồng quản trị công ty tài chính Nam Long được cho là chuyên hoạt động tín dụng đen trên qui mô cả nước.
Theo thông tin được truyền thông trong nước loan đi, ông Nguyễn Cao Thắng cùng với một người khác là Nguyễn Đức Thành (1988) đã thành lập Tập đoàn Tài chính Nam Long và trụ sở tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh nhưng không có đăng ký giấy phép kinh doanh. Hiện công ty Nam Long có 26 chi nhánh tại 23 tỉnh thành nhưng các chi nhánh hoạt động phạm vi cả nước.
Đến tháng 9/2018, Công an tỉnh Thanh Hóa đã triệt phá và đánh sập đường dây "tín dụng đen" này và ra quyết định khởi tố về tội " Cố ý gây thương tích, giữ người trái pháp luật, cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự", đồng thời khởi tố 9 bị can liên quan. Riêng ông Nguyễn Cao Thắng bị khởi tố về tội cho vay nặng lãi nhưng ông Thắng đã bỏ trốn và bị truy nã.
Đến đầu tháng 3/2020 công an thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ ông Nguyễn Cao Thắng và di lý về Thanh Hóa để phục vụ cho công tác điều tra vụ án.
Một chuyên gia kinh tế hàng đầu của Việt Nam, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nhận định với VOA rằng nền kinh tế Việt Nam đang hứng chịu những tác động tiêu cực trên nhiều mặt của dịch Covid-19, nhưng đây cũng là thời điểm thuận tiện để đẩy mạnh cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế nhằm "ít phụ thuộc hơn vào một thị trường duy nhất".
Công nhân làm việc tại một nhà máy dệt may ở Nam Định.
Trước đó, ngày 12/2, Bộ Kế hoạch và đầu tư công bố báo cáo đánh giá ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với kinh tế-xã hội Việt Nam. Trong báo cáo mới mới nhất, Bộ này đã giảm mức dự báo GDP xuống chỉ còn 5,96% nếu dịch bệnh kéo dài đến quý II, so với mục tiêu đặt ra trước đó cho cả năm là 6.8%.
"Dịch Covid-19 ở Trung Quốc tác động nhiều mặt tới kinh tế Việt Nam", Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nhận định với VOA.
"Một là ngành hàng không, đường sắt đều đã đình chỉ. Hai, khách du lịch từ Trung Quốc chiếm khoảng 37%, ở Quảng Ninh có thể chiếm tới 60%, thì bây giờ giảm sút rất nhiều, hầu như không còn. Ba, doanh nghiệp Việt Nam cần phụ tùng của Trung Quốc".
Ngoài ra, theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, thực trạng hàng ngàn công nhân Trung Quốc về quê ăn Tết vẫn chưa được phép trở lại Việt Nam làm việc cũng gây tác động không nhỏ lên các nhà máy và công trình tại Việt Nam, bên cạnh tình trạng ùn ứ nông sản trong những ngày qua vì các quy định hạn chế đi lại để phòng chống dịch.
1/3 phụ thuộc về nhập khẩu
Theo thống kê từ Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc năm 2019 đạt 75.452 tỷ USD, chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, trong khi nhập khẩu chỉ đạt 41.414 tỷ USD.
Với nền kinh tế bị phụ thuộc gần 1/3 nhập khẩu từ Trung Quốc như vậy, tình trạng gián đoạn về nguồn nguyên vật liệu từ các nhà máy ở quốc gia láng giềng vì dịch Covid-19 đang đề ra những thách thức lớn cho doanh nghiệp Việt Nam.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho biết thêm : "Doanh nghiệp dệt may đặt hàng từ sợi, vải, cho đến cúc từ các nhà máy của Trung Quốc. Đến hết tháng 2 này thì cạn dự trữ, nên nếu không giải tỏa được thì sẽ gặp khó khăn".
Sự phụ thuộc của kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc, ngoài cơ chế chính sách, theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, còn do yếu tố mà ông gọi là "phụ thuộc tự nhiên".
Ông phân tích :
"Trung Quốc ở ngay sát Việt Nam, với 1.400 km đường bộ và vịnh Bắc Bộ nên rất gần gũi. Hai, link kiện, hàng hóa của Trung Quốc có giá rẻ và họ đáp ứng rất nhanh những yêu cầu của Việt Nam. Ví dụ với hàng dệt may, nếu Việt Nam nhận được các hợp đồng đòi hỏi phải thay đổi kiểu vải, mẫu mã cúc... thì với các công ty ở Italy hay các nước khác thì rất khó khăn, nhưng với các doanh nghiệp Trung Quốc thì họ thích nghi rất nhanh"...
Vì vậy, việc các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua nhập nhiều hàng hóa, nguyên phụ liệu từ quốc gia láng giềng là điều khó tránh khỏi.
Cơ hội "thoát Trung" ?
"Thoát Trung" là đề tài đã được nhiều kinh tế gia của Việt Nam bàn thảo, vận động cũng như đưa ra các kiến nghị cho chính phủ, đặc biệt sau khi tình trạng phụ thuộc kinh tế quá nhiều vào một thị trường là Trung Quốc bắt đầu cho thấy những tác động tiêu cực lên kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Trước tình trạng "đóng băng" của nhiều ngành nghề, dịch vụ, sản xuất tại Việt Nam do ảnh hưởng của dịch Covid-19 từ Trung Quốc, một số ý kiến cho rằng đây cũng là một cơ hội tốt để Việt Nam "thoát Trung", giảm dần sự phụ thuộc về kinh tế vào quốc gia láng giềng.
Theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, để làm được việc này, đòi hỏi Việt Nam phải có một nỗ lực lớn và cả chấp nhận những thiệt thòi ban đầu.
"Người Trung Quốc rất giỏi kinh doanh và họ có thể tranh thủ được các khách hàng Việt Nam bằng nhiều thủ thuật. Vì vậy nên trong thời gian sắp tới, khi Việt Nam muốn đa dạng hóa, đa phương hóa thì có lẽ cũng phải điều chỉnh một số mặt hàng và một số khách hàng, và có lẽ giá một số sản phẩm cũng không tránh khỏi phải tăng lên".
"Việt Nam có câu trong họa có phúc, trong nguy có cơ. Nhân tình hình này, kinh tế Việt Nam sẽ phải tái cơ cấu, phải đổi mới sản xuất, tìm kiếm thị trường mới, linh kiện, kênh hợp tác mới".
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh hy vọng giới hữu trách có thể biến "nguy" thành "cơ" để đẩy mạnh việc cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam, dựa vào những cơ hội đang mở ra từ việc hợp tác với Châu Âu, Mỹ và các quốc gia Châu Á khác.
Khánh An
Nguồn : VOA, 22/02/2020
Dịch bệnh do virus corona dĩ nhiên có tác động đối với nền kinh tế Việt Nam, vốn phụ thuộc rất nhiều vào kinh tế Trung Quốc, mà lại là quốc gia có chung biên giới với Trung Quốc.
Du khách đeo khẩu trang khi tham quan Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam, ngày 31/01/2020. Reuters
Trong phiên họp thường kỳ của chính phủ ngày 05/02/2020, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết là do tác động của dịch viêm phổi do virus corona, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong quý 1 năm 2020 có thể giảm 1%. Ông Nguyễn Xuân Phúc cũng dự báo là nếu kinh tế Trung Quốc giảm mạnh do dịch bệnh kéo dài, điều này sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến Việt Nam.
Trong cuộc họp báo cùng ngày hôm đó, ông Trần Quốc Phương, thứ trưởng bộ Kế Hoạch & Đầu Tư, cho biết : "Các kịch bản tính toán cho thấy tác động của dịch bệnh này tới tăng trưởng kinh tế năm nay là rất nghiêm trọng". Hiện giờ chính phủ Hà Nội không điều chỉnh hoặc hạ chỉ tiêu tăng trưởng, tuy nhiên, bộ Kế Hoạch & Đầu Tư đã dự trù hai kịch bản tăng trưởng. Kịch bản 1 là, nếu dịch bệnh được kiểm soát trong quý 1, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế năm nay sẽ đạt khoảng 6,27%. Trong kịch bản 2, nếu đến quý 2, dịch bệnh mới được kiểm soát, tỷ lệ này dự báo chỉ đạt 6,09% .
Vấn đề là hiện nay chưa ai có thể đoán trước là dịch viêm phổi do corona virus sẽ diễn tiến ra sao, khi nào lên đến đỉnh điểm và khi nào mới chấm dứt.
Trước mắt, những ngành sẽ bị sụt giảm mạnh nhất vì dịch bệnh là nông nghiệp, xuất khẩu, đặc biệt là hàng không, du lịch.
Du lịch sẽ bị thất thu nặng
Để ngăn chận sự lây lan của virus corona từ Vũ Hán, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ngày 01/02/2020 đã ký quyết định công bố dịch ở Việt Nam. Chính phủ đồng thời đã cho ngưng toàn bộ các chuyến bay đến và từ Trung Quốc, ngưng cấp visa cho du khách Trung Quốc, cũng như những du khách ngoại quốc nào đã ở Trung Quốc trong hai tuần trước đó. Toàn bộ xe lửa chở khách đến và từ Trung Quốc cũng tạm ngưng hoạt động. Bản thân chính phủ Bắc Kinh kể từ ngày 27/01 cũng đã cấm dân Trung Quốc đi du lịch nước ngoài theo đoàn. Cho dù không bị cấm thì chắc là ít có người nào ở Trung Quốc nghĩ đến chuyện đi du lịch ở nước ngoài trong lúc này.
Tất cả các biện pháp kể trên gây ảnh hưởng nặng nề đối với trước hết là du lịch, vì số du khách Trung Quốc chiếm tới khoảng 30% tổng số du khách ngoại quốc đến Việt Nam. Theo các số liệu chính thức, du khách Trung Quốc thậm chí chiếm đến một phần ba tổng số 18 triệu du khách đến Việt Nam năm 2019.
Theo báo chí trong nước, trước khi các biện pháp hạn chế du lịch được ban hành, trong tháng 1/2020, mà năm nay trùng với Tết Nguyên Đán, đã có đến hơn 640 ngàn du khách Trung Quốc đến Việt Nam, tăng hơn 72% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhưng trong tháng 2 này, chắc chắc là số du khách Trung Quốc đến Việt Nam sẽ giảm mạnh và số du khách ngoại quốc nói chung cũng sẽ giảm theo, bởi vì nhiều người sẽ ngại đến Việt Nam, quốc gia nằm sát cạnh ổ dịch Trung Quốc.
Báo chí trong nước ngày 07/02 dự báo là dịch virus corona có thể khiến ngành du lịch Việt Nam thất thu từ 5,9 tỷ đến 7,7 tỷ đôla trong ba tháng tới.
Xuất khẩu sang Trung Quốc sụt giảm
Một lĩnh vực khác bị tác động mạnh, đó là xuất khẩu. Theo số liệu của Tổng Cục Hải Quan, trong tháng 1/2020, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ đạt khoảng 2,75 tỷ đôla, giảm đến hơn 35% so với tháng 12/2019. Nhập khẩu từ Trung Quốc cũng giảm hơn 20%. Ngoài lý do tháng Giêng năm nay rơi vào dịp Tết, một nguyên nhân khác khiến xuất khẩu sụt giảm mạnh như vậy đó là ảnh hưởng của dịch viêm phổi do virus corona tại Trung Quốc.
Trong cuộc họp thường kỳ của chính phủ, bộ Công Thương Việt Nam dự báo là xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc có thể sẽ giảm từ 5 đến 8% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhưng dự báo này dựa trên kịch bản là dịch viêm phổi do virus corona được kiểm soát trong vòng chưa tới 3 tháng, tức là kịch bản lạc quan nhất.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc, bị nặng nhất là nông sản. Theo báo cáo của bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn ngày 03/02, ngành hàng đầu tiên chịu tác động là sản phẩm hoa quả, cụ thể hiện nay quả thanh long và dưa hấu đang gặp nhiều khó khăn. Đây là hai mặt hàng chiếm tỉ trọng lớn trong số các nông sản xuất Trung Quốc trong dịp Tết và đang bị ứ đọng tại biên giới Việt - Trung do hai bên đều hạn chế giao dịch. Hai mặt hàng khác cũng sẽ gặp nhiều khó khăn trong xuất khẩu sang Trung Quốc, đó là sữa và thủy sản, theo Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn.
Riêng về thủy sản, nhiều nhà nhập khẩu Trung Quốc đã thông báo cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam là họ tạm dừng việc giao hàng cho đến hết ngày 9/2/2020, hoặc cho đến khi chính phủ Trung Quốc thông báo các hoạt động giao thương bình thường trở lại.
Theo trang SeafoodSource ngày 05/02, Navico, một trong những nhà sản xuất cá tra hàng đầu ở Việt Nam, cũng dự báo xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng nặng nề trong quý 1 năm nay. Trong thông cáo đưa ra ngày 03/02, Navico nhận định là xuất khẩu cá tra sang Trung Quốc, khách hàng lớn nhất của công ty này, chắc là sẽ giảm trong đầu năm 2020 do tác động của dịch virus corona.
Trước tình hình xuất khẩu nông thủy sản sang Trung Quốc có nguy cơ sụt giảm mạnh, bộ Nông Nghiệp Việt Nam cho biết sẽ làm việc với bộ Công Thương và các sứ quán Việt Nam ở các nước để giới thiệu nông sản Việt Nam và thăm dò các thị trường mới để đa dạng hóa các kênh xuất khẩu.
Vậy, chính phủ Việt Nam nên có những biện pháp nào để hạn chế tác động của dịch virus corona, sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn chuyên gia tài chính Huỳnh Bửu Sơn từ Sài Gòn.
Chuyên gia Huỳnh Bửu Sơn
Huỳnh Bửu Sơn : Trong thời điểm hiện nay thì ưu tiên vẫn là làm sao ngăn chận được sự lây lan của dịch virus corona này. Chúng ta cũng thấy ảnh hưởng của dịch bệnh, trước mắt là đối với du lịch và ngay cả trong nước, những ngành về dịch vụ về ăn uống, về giải trí cũng bị ảnh hưởng rất nhiều.
Rõ ràng là việc đi lại từ nông thôn đến thành thị, rồi việc tránh tập trung nơi đông người, nói chung việc phải bảo hộ, tránh lây lan cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất.
Điều quan trọng là nếu chúng ta thành công trong việc ngăn chận dịch bệnh, thì điều này sẽ tạo ra một ảnh hưởng tâm lý đối với người dân cũng như đối với sản xuất. Đó phải là ưu tiên, bởi vì trong cái tâm lý lo sợ như vậy, việc sản xuất hay kinh doanh đều bị ảnh hưởng hết.
RFI : Trong bối cảnh hàng xuất khẩu sang Trung Quốc có nguy bị ứ đọng, Việt Nam có thể thi hành những biện pháp gì để đa dạng hóa các kênh xuất khẩu, để không quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc ?
Huỳnh Bửu Sơn : Việc chuyển hướng sang những nước khác, như là riêng đối với các mặt hàng nông sản hay các ngành công nghiệp thực phẩm, thì trong thời gian một, hai quý trước mắt, không dễ gì mà chúng ta có thể tìm những đối tác ở các nước khác để tiêu thụ lượng hàng mà Trung Quốc tạm thời ngưng nhập khẩu từ Việt Nam.
Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam từ lâu đã theo hướng đa dạng hóa, như là phát triển thị trường EU hay thị trường Bắc Mỹ, thậm chí đi tìm thị trường Nam Mỹ hay Phi Châu. Ngoài việc tham gia hiệp định thương mại với EU, Việt Nam còn đang triển khai hiệp định CPTPP, cho nên việc đa dạng hóa các nguồn xuất khẩu của Việt Nam đã được thực hiện trong nhiều năm nay và cũng đã thấy một số kết quả, chẳng hạn như đối với thị trường Mỹ, có thể nói là xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tăng và xuất siêu từ Mỹ cũng khá là lớn.
Cho nên tôi nghĩ là sắp tới, ảnh hưởng của nền kinh tế Trung Quốc đối với Việt Nam, nhất là về xuất khẩu sang Trung Quốc hay nhập khẩu từ Trung Quốc, sẽ ngày càng giảm đi, để nó không chiếm một tỷ trọng quá lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều của Việt Nam. Nhưng để thay thế cho sự sụt giảm của (lượng hàng xuất khẩu sang) Trung Quốc thì có lẻ là chúng ta cần nhiều thời gian.
Ảnh hưởng đến các công ty ngoại quốc
Dịch viêm phổi do virus corona cũng ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty ngoại quốc tại Việt Nam.
Theo tờ Nikkei Asian Review ngày 06/02/2020, tập đoàn HOYA của Nhật Bản, công ty hàng đầu thế giới về đĩa thủy tinh dùng để sản xuất ổ cứng, đang xem xét khả năng "tạm thời tổ chức lại nhân sự" tại các cơ sở sản xuất của công ty này ở Việt Nam và Thái Lan. Một trong những phương án dự trù là tạm thời cho công nhân nghỉ việc. Tập đoàn Hoya dự báo là nhu cầu về ổ cứng ở Trung Quốc sẽ giảm mạnh do tác động của virus corona đối với sản xuất máy tính cá nhân và thiết bị trung tâm dữ liệu. Mà Hoya thì chuyên cung cấp đĩa thủy tinh cho các nhà sản xuất ổ cứng chuyên cung cấp cho các công ty Trung Quốc. Hiện nay, Hoya có hai nhà máy ở Việt Nam, một ở Hà Nội và một ở tỉnh Hưng Yên.
Nhưng dịch virus có thể lại có một tác động tích cực cho nền kinh tế Việt Nam, đó là một số công ty ngoại quốc, như của Nhật Bản, sẽ dời cơ sở sản xuất từ Trung Quốc sang các nước khác ở Châu Á như Việt Nam.
Theo hãng tin Kyodo ngày 07/02/2020, các nhà sản xuất Nhật Bản đã bắt đầu chuyển cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc vì sợ các nhà máy tại nước này sẽ phải đóng cửa lâu dài do hậu quả của dịch virus corona. Các nhà phân tích được Kyodo trích dẫn nói rằng dời cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc không phải là một quyết định dễ dàng và tạm thời sẽ khiến chi phí tăng thêm, nhưng một số công ty Nhật không thể chờ cho đến khi dịch bệnh được kiểm soát. Toru Nishihama, kinh tế gia tại Viện Nghiên cứu Đời sống Dai-ichi dự báo là khác với dịch SARS những năm 2002-2003, rất có thể là Trung Quốc sẽ mất nhiều thời gian hơn để khống chế dịch virus corona.
Thanh Phương thực hiện
Nguồn : RFI, 10/02/2020
Kinh tế Việt Nam : Thành tích, triển vọng & thách thức (VOA, 25/01/2020)
Nền kinh tế Việt Nam đã đạt những thành tích đáng nể trong năm 2019, với tốc độ tăng trưởng GDP thuộc hạng cao nhất trong ASEAN, trong khi nợ công giảm và thương mại thặng dư liên tiếp trong 4 năm. Tuy nhiên, Ngân Hàng Thế giới khuyên Việt Nam nên thực hiện những cải cách cần thiết nếu muốn cởi trói tiềm năng của các thị trường vốn.
Minh họa : Kinh tế Vietnam. Ảnh chụp ở Hà Nội, ngày 15/11/2017. Reuters/Kham
Thành tích
Nền kinh tế Việt Nam đã đạt những thành tích lớn trong năm 2019, và trong bối cảnh bất ổn toàn cầu ngày càng tăng, Việt Nam có khả năng sẽ là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,8%, theo Ngân hàng Thế giới (WB). Tỷ lệ này nhanh hơn gần ba lần so với mức trung bình của thế giới là 2,6%, và cao hơn 1,2 điểm phần trăm so với mức trung bình ở Đông Á Thái Bình Dương, theo phúc trình về Triển vọng kinh tế toàn cầu của WB.
Báo điện tử của chính phủ Việt Nam trích dẫn số liệu chính thức của Tổng cục Thống kê cho biết GDP, Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam năm 2019 là 7.02%, vượt chỉ tiêu (từ 6,6-6,8%), và đây là năm thứ hai liên tiếp, tăng trưởng kinh tế vượt mức 7%.
Vẫn theo Tổng cục Thống kê, thì động lực chính của tăng trưởng kinh tế năm 2019 tiếp tục là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, và các ngành dịch vụ thị trường. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,90%, đóng góp 50,4%, và khu vực dịch vụ tăng 7,3%, đóng góp 45%.
Đó là những thành tích rất ấn tượng của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang chậm lại.
Triển vọng
Ngân Hàng Thế giới cho rằng triển vọng kinh tế của Việt Nam trong ngắn hạn và trung hạn vẫn tích cực, với tăng trưởng dự báo khoảng 6,5% trong vài năm tới.
WB nhận định rằng các yếu tố căn bản của nền kinh tế Việt Nam vẫn vững vàng, tuy nhiên Việt Nam vẫn bị tác động bởi các cú sốc bên ngoài, với nguy cơ tăng trưởng xuất khẩu giảm, và Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm.
Phúc trình của Ngân Hàng Thế giới khuyến nghị rằng để giảm thiểu tác động của những cú sốc bên ngoài, Việt Nam cần phải ưu tiên việc phát triển một khu vực tư nhân vững mạnh và năng động. Khu vực này theo Ngân Hàng Thế giới, đang phải đối mặt với nhiều trở ngại lớn, đặc biệt là khả năng tiếp cận tín dụng, và do đó cần phát triển các thị trường vốn để làm nền tảng cho sự thịnh vượng của Việt Nam trong tương lai.
Thách thức
Bà Penelopi Goldberg, Phó Chủ tịch/ Kinh tế gia trưởng của Ngân hàng Thế giới, nhận định trên trang blog của bà rằng mặc dù đã đạt được những bước tiến ngoạn mục, nhưng ‘mô hình phát triển của Việt Nam hiện nay phải đối mặt với nhiều thách thức quan trọng’. Bà liệt kê một số chương trình hành động mà Việt Nam có thể thực hiện để giải quyết những thách thức nội tại và ngoại vi.
"Cải cách chính sách trong nước sâu hơn ; đầu tư cơ sở hạ tầng và thúc đẩy kết nối ; nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu ; cải thiện, tái đào tạo và duy trì nguồn nhân lực ; xây dựng khuôn khổ hợp tác cho các giải pháp đối phó với thách thức của Đồng bằng sông Cửu Long".
Việt Nam còn cần thúc đẩy các chương trình kinh tế bền vững và chia sẻ thịnh vượng. Kinh tế gia trưởng của Ngân Hàng Thế giới nói nếu muốn trở thành một nền kinh tế hiện đại, Việt Nam cần phải nhìn xa hơn vấn đề tăng trưởng mà phải xoay sang chú ý tới các chương trình về dân tộc thiểu số, bình đẳng giới, ô nhiễm không khí, thích ứng biến đổi khí hậu…
Tại Hội nghị tổng kết Công tác năm 2019, Triển khai nhiệm vụ công tác năm 2020, Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc nói ‘nút thắt lớn nhất hạn chế sự phát triển là thể chế, nút thắt về tư duy’. Trang mạng Kinh tế Việt Nam dẫn lời ông Phúc nói :
"Nếu không thay đổi về tư duy kinh tế thì dẫu có điều chỉnh thể chế cũng vẫn là thể chế cũ, là "bình mới rượu cũ", không thể có đột phá".
https://youtu.be/ITDcpVCbfn0
******************
Indonesia ghen tị vì Việt Nam tận dụng cơ hội thương chiến Mỹ-Trung tốt hơn (VOA, 24/01/2020)
Đông Nam Á được lợi lớn từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung. Khu vực này đón nhận một làn sóng các nhà máy mới dọn đến, khi các nhà sản xuất rời khỏi Trung Quốc để tránh thuế quan của Mỹ.
Indonesia không được hưởng lợi nhiều từ thương chiến Mỹ-Trung
Nhưng nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á là Indonesia đã phải vật lộn để thu hút đầu tư mới. Điều này có một phần lý do là vì sự quan liêu của nước này.
Pegatron, một trong những hãng cung cấp linh kiện lớn nhất cho Apple, sắp mở nhà máy ở Indonesia. Đó là một phần trong nỗ lực của hãng nhằm bảo vệ họ khỏi bị dính vào thuế quan của Mỹ đánh vào Trung Quốc.
Nhưng không có nhiều công ty dọn đến Indonesia như vậy.
Mook Sooi Wah, Tổng Giám đốc Khu công nghiệp Batamindo, nói với VOA : "Mọi người đều biết rằng Việt Nam là nơi mà hầu hết các nhà sản xuất đều dọn đến. Tất nhiên đó là một vấn đề đáng lo ngại. Nếu Indonesia chúng tôi không cạnh tranh như các nước khác, tất nhiên chúng tôi lo ngại".
Một báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới cho biết trong số 33 công ty đang chuyển hoạt động sản xuất khỏi Trung Quốc, 23 công ty chuyển đến Việt Nam. Không công ty nào chuyển đến Indonesia.
Một trong những lý do quan trọng là khởi sự kinh doanh ở Indonesia thật là khó khăn. Đôi khi, chỉ có xin giấy phép kinh doanh thôi cũng phải mất nhiều năm - lâu hơn nhiều so với các nước toàn trị nhưng thường rất hiệu quả như Việt Nam chẳng hạn.
Edy Irawady, cựu lãnh đạo Batam BP, nói với VOA : "Việt Nam à, họ dễ dàng hơn so với các nơi khác. Bởi vì, bạn biết đấy, chính phủ của họ rất mạnh mẽ. Nhưng về phần Indonesia, chúng tôi đang trong quá trình dân chủ".
Trong suốt ba thập kỷ cai trị của nhà độc tài Indonesia, ông Suharto, nền kinh tế đã có mô hình kế hoạch hóa tập trung.
Nhưng khi ông từ chức sau các cuộc biểu tình rầm rộ năm 1998, quyền lực đã bị phân tán thành nhiều tầng nấc chính quyền.
Và ở một đất nước rộng lớn như Indonesia, những tầng nấc đó không phải lúc nào cũng hoạt động khớp với nhau.
Một vấn đề khác là tham nhũng. Dĩ nhiên, các quốc gia khác cũng gặp vấn đề này. Nhưng ở Indonesia, giờ đây người ta phải hối lộ nhiều quan chức hơn.
Nhà phân tích Bhima Yudhistira, thuộc Viện Phát triển Kinh tế và Tài chính, nói với VOA : "Có một số chi phí tốn kém phải bỏ ra vì bạn cần phải hối lộ không chỉ vài người trong chính quyền trung ương, mà cả những người ở chính quyền địa phương. Và chuyện này gây ra sự kém hiệu quả về mặt đầu tư".
Chính phủ mới của Indonesia đang cố gắng giải quyết vấn đề. Họ đang giảm các giấy phép cũng như giảm các điều kiện để đạt được các giấy phép đó.
Nhưng vào thời điểm Hoa Kỳ và Trung Quốc đang cố gắng giải quyết ổn thỏa cuộc chiến thương mại của họ, có những người ở Indonesia lo rằng Indonesia đã bỏ lỡ nhiều cơ hội mất rồi.
William Gallo
*********************
Hoa Tết : nỗi lòng người bán ! (RFA, 24/01/2020)
Mỗi dịp xuân về, các chợ hoa được mở ra tại các công viên, bãi đất lớn để cung cấp cho nhà nhà. Người Việt mua hoa vể để chưng trên bàn thờ tổ tiên cũng như trang trí nhà cửa để đón xuân sang. Người có tiền thì mua hoa sớm, trong khi đó những nhà nghèo chờ đến những ngày giáp tết, thậm chí đến ngày cuối cùng mới mua. Lý do vì càng cận tết, giá hoa được giảm. Tuy nhiên gần đây, nhiều người bán hoa thà chặt bỏ hoa vào ngày 30 Tết chứ nhất quyết không bán rẻ.
Người bán đập bỏ cây mai, giữ gốc về trồng cho Tết năm sau. RFA
Dưới góc nhìn của một chuyên gia kinh tế, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, nguyên nhân việc người bán hoa kiên quyết không hạ giá dù phải hủy bỏ hoa của họ trước khi dọn dẹp để về nhà đón Tết :
"Việc cung cầu về hoa trong những ngày giáp Tết là một cân bằng rất biến động và khó dự báo. Tình hình chợ hoa như vậy là một vấn đề phức tạp đối với việc mua bán và đây cũng là một trường hợp đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Khi giá không đáp ứng yêu cầu thì người bán hoa không sẵn sàng thích nghi. Tôi nghĩ rằng đây là một trong những trường hợp rất đặc biệt vì những người bán hoa cho rằng nhu cầu người mua hoa ngày Tết là bất khả kháng, người nào cũng phải mua, vì vậy họ tin rằng việc họ giữ giá là đúng".
Nỗi lòng người bán hoa Tết
Tại chợ hoa trung tâm Sài Gòn, một bạn trẻ bán mai cho biết tình hình buôn bán năm nay ế nhiều so với năm ngoái. Cụ thể, bạn đem nhiều cây để trưng bán nhưng tính đến tối 29 Tết mà mới chỉ bán được 5, 6 cây.
"Bị ép giá nhiều lắm nhưng mà giảm cũng chừng mực rồi dừng lại chứ không bán lỗ quá thì năm sau người ta vẫn canh giờ đó lại mua, không có lời".
Một người đàn ông trung niên bán tắc gần đó cũng cho biết tình hình chợ hoa Tết Canh Tý không khởi sắc cho lắm, nên ông phải điều chỉnh giá theo thời cuộc :
"Có người trả nhiệt tình mua, còn số khác trả qua loa chờ giờ chót, cứ tái diễn vậy hoài mỗi năm. Giờ chót người nhà vườn cần bán lấy sở phí nên bán nhưng nếu bán như vậy hết thì sẽ ‘lỗ chết’. Nhằm người bán vớt vát được chút nào đỡ chút nấy, còn một số người bán không bao nhiêu mà cứ bị tái diễn ép giá hoài thì thà họ chặt bỏ. Theo tôi bán giờ chót còn một số ít mà cây cũng xấu nên bán giá rẻ rồi về lẹ".
Phóng viên RFA có trao đổi với một anh bán hoa từ quận 12 và được anh chia sẻ :
"Từ 21 (âm lịch) tới nay là 8, 9 ngày rồi, ngày nào cũng muỗi cắn, nằm lê lết mà dân thì chỉ đi xem. Mấy ngày cỡ 23, 24, 25 thì khách thường không đi mua, chờ đến 28, 29 ra trả giá rẻ, nhà vườn làm cả năm cực khổ mà bị ép giá. Ví dụ cây đó 1 triệu, ngày 23, 24 trả 800.000 có thể bán, nhưng chờ 28, 29 ra hỏi 200-300.000/ cây. Trong khi đó ăn, ngủ thì nằm lê lết, ăn cơm tiệm. Nói chung giá cả cây năm nay không đạt như mấy năm trước, mà dân lại trả giá kiểu cho không, mình thấy cuộc sống anh em làm hoa Tết như vậy ngày càng cực khổ, ép giá kiểu này chắc năm sau làm ít lại, không làm nhiều nữa. Đừng nói Tết bán hoa có lời, không có, nhiều lúc lỗ nhiều lắm, như bây giờ 29 Tết mà hoa còn đầy đồng, khoảng 800 chậu mà chỉ bán được 200 mấy, 300 chậu, chưa tới phân nửa".
Hoa trang trí Tết Canh Tý tại một công viên ở Hà Nội. Ảnh chụp ngày 20/1/2020. AFP
Vẫn theo anh, nếu tới giờ chợ hoa đóng cửa mà anh vẫn chưa bán hết, buộc lòng anh phải bỏ cây :
"Cúc, tắc, hướng dương bỏ hết, không xài được, chỉ có mai đem về chăm lại thì được".
Không chỉ riêng Sài Gòn, những người bán hoa tại các chợ Tết ở Đà Nẵng cũng chịu chung tình trạng buôn bán khó khăn.
Vào tối 30 Tết, phóng viên chúng tôi bắt gặp một người bán mai quê ở Bình Định mang mai lên chợ hoa Đà Nẵng bán đang nhanh tay cắt cành những chậu mai. Anh tâm sự :
"Bán mai rẻ quá mà không ai mua, mình cũng nôn về Bình Định nên phải cắt cành để đem gốc về nuôi lại vì gốc này về quê mình mua 800.000 không có để nuôi, mà ở đây bán 800.000 không ai thèm mua".
Còn anh Đặng Văn Tùng, cũng là người Bình Định cho biết thị trường hoa Tết tại Đà Nẵng năm nay tiêu thụ chậm, giá đấu thầu lô cao, cộng thêm việc bốc vác tự ý tăng giá không đúng hợp đồng lại càng khiến người bán chịu nhiều thiệt thòi :
"Ở phường nói 1,2 triệu/ xe nhưng ra chợ hoa họ muốn lấy bao nhiêu thì lấy. Dân buôn bán thua lỗ nên nhờ Ủy ban Nhân dân phường Thạch Cầm, quận Hạ Châu năm tới làm sao chứ dân Bình Định ra là phải bán sổ đỏ trả nợ".
Đồng ý với anh Tùng, anh Nhật, một người bán tắc gần đó cũng bày tỏ mong muốn các chi phí giảm bớt lại, tiền bốc vác nên xoay quanh đơn giá quy định và chính quyền cần quan tâm hơn nữa :
"Phản ánh họ tới nhưng sợ vấn đề người bán thù vặt, người bốc vác tập hợp nhiều thành phần nên mình không lường trước được, ở quê ra đây bán không biết ai".
Vào tối muộn 30 Tết, phóng viên RFA bắt gặp cảnh nhiều người chủ thoăn thoắt đập phá cây, một số khác lại ngồi buồn một góc như ông Ngô Minh Nhật, một người bán quất ở Đà Nẵng :
"Tình hình bán rất chậm, tuột giá, tất cả những người buôn bán ở đây đều chấp nhận thua lỗ vì mặt bằng giá rất cao, 46 triệu/ bãi nhưng chứa chưa tới 150 cây mà giờ vẫn còn 70 cây, chưa tiêu thụ hết một nửa. Bây giờ phải chấp nhận phá bỏ toàn bộ để tránh tình trạng đêm 30 họ mới ồ đi mua, như vậy thành thói quen và bà con nông dân luôn luôn bị mất giá, không có hiệu quả".
Trước tình trạng này, ông Nhật đề nghị chính quyền Đà Nẵng nên xem xét để giúp giảm thiểu thiệt hại cho những tiểu thương này :
"Đóng tiền hết rồi nhưng bán không được, tất cả đều thua lỗ, đề nghị thành phố Đà Nẵng giải quyết cho bà con đấu lô trúng phải giảm 50% để giảm bớt phần thua lỗ của bà con đã đấu lô ở đây".
Giải pháp
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng cần phải nắm vững hơn nữa tình hình cung – cầu và có các đơn vị lớn để bảo đảm cung ứng với một giá nhất định, đặc biệt trong năm nay khi các tiểu thương còn liên kết giữ giá và nhất định không giảm giá với người mua.
Tuy nhiên, nhiều người trên mạng xã hội cũng chia sẻ kêu gọi những người có điều kiện không nên đi mua hoa những ngày cận Tết rồi ép giá người bán, đặc biệt sau khi những hình ảnh, video người bán thà đập bể, chặt nát chậu cây còn hơn bán giá rẻ để thành thông lệ được lan truyền rộng rãi. Như lời một người mua hoa ở chợ Tết Sài Gòn đề nghị :
"Nhiều người vậy thôi chứ mình muốn chơi hoa phải bỏ tiền ra phù hợp công sức người trồng. Người ta bỏ công sức, mồ hôi, nước mắt mới trồng, chăm được cây hoa, nếu mình muốn chơi hoa để có không khí Tết thì không đáng bao nhiêu, nhịn bữa sáng là đủ (tiền) mà".
Chơi khăm chữ nghĩa
Lâm Viên, VNTB, 01/01/2019
Nếu ‘nhận hối lộ’ là ‘tham nhũng’, và lời nhận xét của Tổng bí thư, Chủ tịch nước mà báo Tuổi Trẻ đã trích dẫn là đúng, thì cả nền pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã bị ‘troll’ một cú quá mạng…
Nguyễn Phú Trọng ‘chơi khăm’ có nghĩa… nhằm đem lại tiếng cười cho mọi người ?
Chơi khăm là khẩu ngữ, có nghĩa bày ra những trò ác ngầm để hại, hoặc trêu ghẹo người khác, kiểu như bị chơi khăm một vố. Đồng nghĩa với ‘chơi khăm’ là ‘chơi xỏ’.
Nói theo ngôn ngữ thế giới mạng hiện nay, thì ‘chơi khăm’ có nghĩa là ‘troll’ một ai đó thông qua trích dẫn lời nói, hình ảnh… nhằm đem lại tiếng cười cho mọi người. ‘Troll’ theo nghĩa tiếng Anh có nghĩa là người khổng lồ độc ác, hoặc trong thần thoại Bắc Âu là chú lùn ranh mãnh. Trong truyện cổ tích Anh-Mỹ, ‘troll’ lại là một con vật thường sống dưới gầm cầu, và thường nhảy ra đòi ăn thịt người qua đường.
Trở lại với Việt Nam.
"Tổng bí thư, Chủ tịch nước : Lần đầu tiên xử được tội nhận hối lộ" là tựa một bài báo trên tờ Tuổi Trẻ Online, phát hành vào đầu giờ chiều ngày 30/12/2019. Ngay sau phần tít, bài báo viết : "Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định như vậy tại hội nghị Chính phủ với các bộ ngành, địa phương sáng 30/12" (1)
Với nhận định trên của Tổng bí thư, Chủ tịch nước, cho thấy lâu nay có lẽ cả nền luật pháp của Việt Nam đã bị bởn cợt, nhất là ở tội danh nhận hối lộ.
"Ngày 25/1, tại trại giam B34 Bộ Công an (Q.1, Thành phố Hồ Chí Minh), Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tống đạt quyết định khởi tố bị can đối với ông Huỳnh Ngọc Sĩ (nguyên giám đốc Ban quản lý dự án đại lộ Đông – Tây và môi trường nước Thành phố Hồ Chí Minh) về tội "nhận hối lộ" theo điều 279 Bộ luật hình sự", phần mở đầu của bài báo có tựa "Khởi tố ông Huỳnh Ngọc Sĩ về tội nhận hối lộ" trên tờ Tuổi Trẻ Online, phát hành lúc gần nửa đêm 25/1/2010 (2).
Ngày 18/10/2010, tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt bị cáo Huỳnh Ngọc Sỹ án tù chung thân với tội danh "nhận hối lộ". Sau đó, ngày 1/9/2011, Tòa phúc thẩm tòa án Nhân dân Tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên giảm hình phạt từ chung thân xuống còn 20 năm đối với ông Huỳnh Ngọc Sỹ (3).
"28 tháng tù cho các kiểm toán nhận hối lộ" là tựa của bài báo trên tờ Nhân Dân Online, phát hành lúc hơn 11 giờ ngày 29/06/2012. Đoạn kết bài báo viết : "Đây là vụ án được đưa ra xét xử về tội nhận hối lộ lớn nhất từ trước đến nay tại Quảng Ngãi" (4).
"Tổng bí thư, Chủ tịch nước : Lần đầu tiên xử được tội nhận hối lộ" là tựa một bài báo trên tờ Tuổi Trẻ Online, phát hành vào đầu giờ chiều ngày 30/12/2019, có đoạn dẫn lời trực tiếp của ông Nguyễn Phú Trọng : "Chưa bao giờ chúng ta xử được tội nhận hối lộ, như trước đây toàn là thiếu trách nhiệm và vi phạm việc nọ việc kia, gây hậu quả nghiêm trọng. Cũng chưa bao giờ chúng ta thu được tài sản lớn như thế. Vụ AVG thu được cho Nhà nước số tròn là 8.500 tỉ đồng".
Như vậy, không dám ‘hỗn hào’ và ‘phản động’ gọi đó là chứng ‘lú lẫn của tuổi già’, tạm coi như nhận xét của ông Trọng chỉ đúng ở mỗi phần ‘thu được tài sản lớn như thế’. Bởi ông Trọng không bị ‘lú lẫn’ nên điều này còn cho thấy ở Việt Nam, việc ‘nhận hối lộ’ không hẳn là ‘tham nhũng’.
Chuyên trang giáo dục đào tạo phòng chống tham nhũng của cơ quan Thanh tra Chính phủ, có dẫn định nghĩa về tham nhũng (trích) : "Theo nghĩa rộng, tham nhũng được hiểu là hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) định nghĩa tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng…
Theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật Việt Nam quy định (tại Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005), tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị ; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước" (5).
Báo cáo của Thanh tra Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng cho thấy, năm 2019 đã có 30 người đứng đầu bị xử lý kỷ luật do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng và có 3 người đứng đầu bị xử lý hình sự do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng. Cơ quan điều tra trong Công an Nhân dân đã thụ lý điều tra 423 vụ án với 1.073 bị can phạm tội về tham nhũng. Trong đó, khởi tố mới 220 vụ với 515 bị can (6).
Nếu ‘nhận hối lộ’ là ‘tham nhũng’, và lời nhận xét của Tổng bí thư, Chủ tịch nước mà báo Tuổi Trẻ đã trích dẫn là đúng, thì cả nền pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã bị ‘troll’ một cú quá mạng…
Nếu không phải ‘troll’ thì nội dung ở bản tin trên tờ Hà Nội Mới, số phát hành ngày 3/12/2019, "Hà Nội : Xét xử kịp thời, nghiêm minh nhiều án trọng điểm, án tham nhũng", không khéo sẽ là chuyện đơm đặt, tâng bốc nhau cho kiểu báo cáo thành tích lúc năm hết, tết đến (7).
Lâm Viên
Nguồn : VNTB, 01/01/2020
(2) https://tuoitre.vn/khoi-to-ong-huynh-ngoc-si-ve-toi-nhan-hoi-lo-360611.htm
(3) https://vnexpress.net/phap-luat/huynh-ngoc-si-duoc-giam-an-con-20-nam-tu-2204312.html
(4) https://www.nhandan.com.vn/phapluat/item/1671002-.html
(5) http://thanhtra.gov.vn/ct137/Lists/LTaiLieu/View_Detail.aspx?CatID=-1&ItemId=9&LVC=6&CapChaId=4
(6) http://www.thanhtra.gov.vn/ct/news/Lists/ThongBao/View_Detail.aspx?ItemId=323
*******************
Mặt trời tỏa sáng hay mắt Nguyễn Phú Trọng đang lòa ?
Gió Bấc, RFA, 31/12/2019
Tuy được các cận thần xưng tụng là người thanh liêm chính trực nhưng một sự thật không thể chối cãi Nguyễn Phú Trọng là người giàu gạch đá nhất Việt Nam nhờ thu hoạch từ những phát ngôn hoang tưởng nhất hành tinh.
Người dân càng nghi ngại về cái măt trời nào đó đang tỏa sáng không biết ông Trọng tìm thấy ở đâu ?
Một thống kê thuần túy tin học của Google cho thấy hai nhân vật được quan tâm tìm kiếm nhiều nhất năm nay là Nguyễn Phú Trọng và Khá Bảnh (một anh tài xã hội đen 26 tuổi mang nhiều tiền án và là thần tượng giới trẻ nhờ các phát ngôn chấn động quảng bá cách sống ảo) (1). Thời điểm cơn sốt tìm kiếm Nguyễn Phú Trọng nhiều nhất là tháng 4/2019, khi ông "mất tích" bí ẩn với nhiều tin đồn đoán là "Tao không có chi mô" còn bộ máy tuyên truyền thì cứ ra rả lên án các thế lực thù địch đưa tin xuyên tạc.
Cũng vào tháng 4, Khá Bảnh đã bị bắt giam, không còn có thể nổ những câu để đời. Ngược lại Nguyễn Phú Trọng khi ẩn khi hiện và mỗi lần tái xuất giang hồ lại khuấy động dư luận với những tuyên bố, nhận định rất "thăng hoa". Kết thúc năm 2019, mà đất nước, nhân dân phải oằn mình chịu đựng bao thiên tai, nhân tai, địch họa Nguyễn Phú Trọng nổ như bom hột nhưng : 'Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang tỏa sáng ở Việt Nam'.
Không cần có bằng tiến sĩ kinh tế hay tốt nghiệp cấp ba hệ giáo dục thường xuyên, bất kỳ bà bán rau, bán thịt, anh chạy xe ôm nào không bị khiếm thị nhìn lên bầu trời Sài Gòn, Hà Nội đều thấy bụi mù đang che lấp mặt trời. Sài Gòn, Hà Nội đang là đô thị ô nhiễm nhất thế giới. Từ cảm quan trực tiếp đến nổi lo ngay ngáy, thịt heo tăng giá phi mã kéo theo giá cả nhiều mặt hàng khác mọi người dân càng nghi ngại về cái măt trời nào đó đang tỏa sáng không biết ông Trọng tìm thấy ở đâu ? Liệu sâm Triều Tiên, thuốc cao Trung Quốc có đủ vực dậy hệ thần kinh của ông sau mấy lần đột quỵ ?
Nhưng không ! Báo Tuổi Trẻ cánh tay đắc lực của đảng đã chỉ ra bốn chứng cứ của mặt trời đó. Thứ nhất là "kinh tế - xã hội, Việt Nam tiếp tục tăng trưởng nhanh đạt trên 7%, quy mô GDP 266 tỉ USD. Bình quân thu nhập đầu người đạt 2.800 USD là điều chưa từng có trong lịch sử". Ông Trọng còn dẫn chứng thêm "Không biết có phải vì thế mà Ngân hàng Thế giới đưa ra nhận định : Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang tỏa sáng lên Việt Nam. Đó là chứng cứ thứ nhất mà năm nay hơn năm ngoái về kinh tế - xã hội, cho thấy ý chí Việt Nam, khát vọng vươn lên" (2).
Dư luận độc mồm đặt cho ông xú danh là Trọng Lú. Đây quả là điều bịa đặt sai trái, Tổng Chủ của chúng tôi đã rất khôn khéo khi dẫn chứng sự đánh giá của WB một tổ chức tài chính uy tín hàng đầu thế giới. Khổ thay, không biết WB đã đánh giá như vậy trong văn kiện nào, tìm mãi hóa ra là ông Jacques Morisset – chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng trong bối cảnh tình hình bên ngoài nhiều thách thức như hiện tại, Việt Nam là một điểm sáng trong khu vực. Ý kiến của một chuyên gia và ý kiến của tổ chức WB là khoảng cách khá xa, một điểm sáng với mặt trời cũng là khoảng cách khá xa mà tư duy lý luận của ông Trọng đã nhập thành một rất ư là thần kỳ.
Tuy nhiên thế giới lại không chịu ngoan ngoãn nghe, tin theo ông Trọng như báo Tuổi Trẻ, Nhân Dân hay mấy triệu đảng viên cộng sản Việt Nam. BBC tiếng Việt đã dẫn nguồn từ Bloomberg cho rằng "Việt Nam được ví là nối gót Trung Quốc về tăng trưởng kinh tế nhưng kỳ thực chỉ ‘trông tốt trên báo cáo’". Tác giả Shuli Ren viết trên Bloomberg ngày 30/12 rằng Việt Nam vốn được ví von là Trung Quốc thứ hai từ cách đây hai thập kỷ. Rằng Việt Nam có lực lượng lao động trẻ, bất động sản bùng nổ, nền chính trị cộng sản ổn định, có mối quan hệ tốt với Mỹ... Nhưng cần phải bổ sung thêm điều này khi bước vào năm 2020 : đó là một sự thịnh vượng không lợi nhuận (3).
Tác giả này cũng chỉ ra điểm yếu chết người của nền kinh tế Việt Nam là Việt Nam cũng ghi nhận mức tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP trên 7%, nằm trong nhóm tăng trưởng nhanh nhất thế giới Thế nhưng, sự khởi sắc này không được trông thấy ở thị trường chứng khoán.
Chỉ số VN-Index của Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh từ đầu năm đến nay chỉ tăng vỏn vẹn 7,3%, thua xa mức tăng 32% của chỉ số CSI 300 trên hai sàn Thượng Hải và Thẩm Quyến. Trong khi các thị trường mới nổi tăng trưởng ổn định vào tháng 12, chứng khoán Việt Nam lại đi theo một hướng khác.
Một điểm yếu chết người khác của nền kinh tế Việt Nam năm 2019 sẽ có di hại đến những năm sắp tới là việc Chính phủ chậm trả nghĩa vụ nợ gián tiếp "là sự yếu kém về thể chế, quản trị hơn là tài chính", Moody's hạ triển vọng Việt Nam xuống Tiêu cực.
Ngày 18/12, Moody's thông báo điều chỉnh triển vọng xuống Tiêu cực, kết thúc thời gian đưa hồ sơ tín dụng của Việt Nam vào diện theo dõi hạ bậc kể từ ngày 9/10. Cơ sở Moody’s đưa ra quyết định này là nhận định vẫn tiềm ẩn rủi ro chậm trả nghĩa vụ nợ gián tiếp của Chính phủ, trong bối cảnh chưa có những giải pháp rõ ràng để cải thiện công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan, cũng như tăng cường tính minh bạch về quản lý nợ được Chính phủ bảo lãnh (4).
Ý kiến lạc quan về điểm sáng của chuyên gia WB thì không tạo thêm chút uy tín nào cho quan hệ tín dụng của Việt Nam trên trường quốc tế mà ngược lại đó là cái cớ để WB thắt chặt hầu bao, chỉ thu hồi nợ và không cho vay ưu đãi ODA. Ngặt nghèo hơn, sự hạ thấp tín nhiệm của Moody's sẽ làm nặng nề và khó khăn hơn cho Việt Nam khi vay vốn. Như vậy. về đối ngoại cái mặt trời mà ông Trọng đẻ ra không có lợi mà ngược lại vô cùng tai hại cho tài chính Việt Nam trong thời gian tới. Tổng món nợ quốc tế như thế nào dân đen chưa đươc biết nhưng chắc chắn chính phủ Việt Nam đã chậm trà nợ trả không đúng hạn. Sắp tới theo chu kỳ thanh toán, số tiền trả nợ quốc thế ngày một cao hơn và không hy vọng ai giúp đỡ. Số nợ đáo hạn này sắp tới chỉ có tăng chư không thể giảm. Làm sao để không trở thành quốc gia vỡ nợ là bài toán không dễ dàng trong điều kiện tài nguyên quốc gia và sức chịu đựng thuế phí của người dân đang cạn kiệt ?
Người dân trong nước quá hiểu các con số thống kê của quan chức Việt Nam lạc quan đến mức nào. Có ông nghị quốc hội hào phóng tính thu nhập của người bán vé số dạo hàng trăm triệu, ngươi bán trà đá thu hàng chục triệu đồng tháng và đề nghị đánh thuế thu nhập các đối tượng này vì vậy con số GDP mà nhà nước công bố dù có là trăm tỉ, ngàn tỉ thì họ vẫn không tin. Cái chỉ số thu nhập bình quân đầu người 2800 USD mà ông Trọng tự hào cũng đáng xót xa đắng lòng khi căn cứ Nghị định 157/2018/NĐ-CP, mức lương cơ bản 2019 của người lao động cao nhất ở vùng 1 là 4,18 triệu đồng/tháng, thấp nhất ở vùng 4 là 2,92 triệu đồng/tháng (5).
Đây là thu nhận thực tế của hàng triệu người lao động, mỗi người trong họ phải nuôi dưỡng những người thân quá tuổi, chưa đến tuổi lao động hoặc trong tuổi lao động đang thất nghiệp nhưng mức lương của họ thấp hơn nhiều so với khoản 2.800 USD năm của ông. Như vậy con số đó là sự bình quân theo lô gích 100 người ăn 100 con gà bình quân mỗi người ăn môt con nhưng thực tế chỉ một người ăn 99 con gà và 99 người còn lại chia nhau 1 con.
Chứng cứ thứ nhất của ông Trọng về cái mặt trời không hề có chút ánh sáng nào mà thực sự là bức tranh ảm đạm.
Chứng cứ thứ hai ông Trọng cho là các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm phát triển đạt được nhiều thành tích, đảm bảo an sinh xã hội, tạo việc làm. Số xã đạt chuẩn nông thôn mới là 54%. Đặc biệt là kết quả của đoàn thể thao ở SEA Games 30 với 228 huy chương, thể hiện ý chí Việt Nam, khát vọng vươn lên.
Thật thảm thương cho vị nguyên thủ quôc gia, lãnh tụ của đảng cầm quyền mà cách nhìn quá giản lược và lệch chuẩn. Một nền giáo dục xuống dốc thảm hại về trí dục, xuống cấp về đức dục, trẻ con bị xâm hại từ tình dục đến tính mạng, kỳ thi đại học dàn trận như đánh giặc nhưng có đến 4 tỉnh và hàng trăm thí sinh gian lận điểm trong đó có cả Triệu Tài Vinh, Ủy viên Trung ương đảng, đáng gọi là thành tích đó sao ? SEA Games là thể thao phong trào, là tinh thần thượng võ của dân tộc thế nhưng bao nhiêu trường học của Việt Nam có sân bóng đá, bóng chuyền ? Bao nhiêu trường có phòng tập đa năng ? Tất cả chi là con số không ? Chúng ta luyện gà đi thi để lấy huy chương còn thể thao phong trào, sức khỏe thanh niên thì hoàn toàn nhà không vườn trống.
Nông thôn mới, ấp văn hóa, trường chuẩn quốc gia v.v.., hàng chục thứ doanh hiệu đươc đặt ra, duyệt xét cho nhau rồi tự sướng về thành tích trong khi Đồng bằng sông Cửu Long đang khô kiệt, ngập mặn, sạt lở. Lũ lụt, ngập úng lan tràn từ đô thị Sài Gòn Hà Nội lên đến cả các tỉnh cao nguyên như Đà Lạt, vùng núi như Thái Nguyên ngày càng nặng nề hơn mà nhà nước không có biện pháp khả dĩ nào để ngăn chặn.
Môi trường sông ngòi, biển, không khí đều bị ô nhiễm năng nề. Sài Gòn, Hà Nội nằm trong danh sách đen ô nhiễm nhất thế giới. Đảng, chính quyền không có biện pháp gì ngăn chặn ngoải việc bịt mồm, cấm cửa báo chí và quy chụp các thông tin cảnh báo là phản động.
Chứng cứ thứ hai của ông Trọng xám xịt như bụi mịn trong bầu trời Hà Nội hay nặng mùi như nước sông Tô Lịch.
Chứng cứ thứ 3 ông Trọng cho là tiềm lực quốc phòng an ninh tiếp tục được tăng cường, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Các hoạt động đối ngoại hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, không ngừng được mở rộng và đi vào chiều sâu, với nhiều sự kiện quan trọng như Việt Nam được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an ; tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều.
Điều này càng đáng buồn hơn cho vị thế của người lãnh đạo quốc gia. Tiềm lực quân sự, quốc phòng là cái ẩn bên trong nguòi dân không thể biết. Ngồi ở ghế nào trong Liên Hiệp Quốc là việc của chính phủ. Cái người dân cần là chủ quyền quốc gia, quyền lợi và tính mạng của công dân phải đươc bảo vệ an toàn. Chưa có chính quyền, triều đại nào kể cả Lê Chiêu Thống chủ quyền quốc gia bị bỏ ngỏ như hiện nay. Biển Đông như khoản sân nhà tàu Trung Quốc ra vô tùy ý. Nhà nước ký hiệp định dẫn độ, hợp tác mở cửa cho người Trung Quốc tự do tràn sang Việt Nam gây án, từ sản xuất ma túy, tổ chức đánh bạc hàng ngàn tỉ đồng, gây án giết người Việt mà không bị xử lý theo pháp luật Việt Nam, tại đât nước Việt Nam. Chưa bao giờ từ điển Việt Nam giải thích chữ Trung Quốc là nước ngoài, nước lạ nhưng trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc và cả diễn đàn quốc hội, chính các tướng lĩnh sử dụng từ này.
Nếu xác định sẽ đưa Việt Nam trở thành quận huyện Trung Quốc, hoàn toàn có thể yên tâm với cách nhìn, cách nghĩ của ông Trọng nhưng nếu thật sự quan tâm đến chủ quyền quốc gia, sự tồn vong của đất nước thì chứng cứ này là một vết nhơ không tẩy xóa của chế độ trước lịch sử chứ hoàn toàn không thể là điểm sáng.
Chúng tôi không bàn đến chứng cứ thứ 4 là chuyện xây dựng đảng của ông Trọng. Chỉ riêng ba chứng cứ trên đủ thấy ông Trọng giống hệt ông vua cưởi truồng trong chuyện cổ tích ngụ ngôn. Chỉ có điều khác, ngày xưa, chưa có internet, ông vua có thể dùng quyền lực, dùng sự sợ hãi để bịt mắt, bịt miệng thân dân che đậy cho sự trần truồng của mình.
Trong thời đại hiện nay, trong nước, những gạch đá của cộng đồng mạng dành cho đủ để ông Trọng xây một Vạn lý trường thành thứ hai. Với quân đội, công an trong tay ông đủ sức mạnh đàn áp, buộc họ câm miệng, cúi đầu. Nhưng với dư luận quốc tế thì khó bề che giấu được.
Có câu châm ngôn con chim trước khi chết còn biết kêu tiếng bi thương, con người trước khi chết phải biết nghe và nói điều phải. Dù sao thì ông cũng đã đến tuổi xưa nay hiếm, cũng gần đến luc đi gặp ông Hồ, ông Mác, hãy biết nghĩ và nói đúng để không quá trễ.
Gió Bấc
Nguồn : RFA, 31/12/2019 (Gió Bấc's blog)
(1) Ông Nguyễn Phú Trọng, Khá ‘Bảnh’ được tìm kiếm nhiều nhất Việt Nam
(2) 'Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang tỏa sáng ở Việt Nam'
(3) Kinh tế Việt Nam 2019 : 'Mặt trời' chỉ 'tỏa sáng' trên báo cáo ?
(4) Moody's hạ triển vọng tín nhiệm của Việt Nam
(5) Lương cơ bản là gì ? Cách tính lương cơ bản năm 2019
***********************
Tổng bí chủ Nguyễn Phú Trọng bị ‘ném đá’ oan ?
Nguyễn Hùng, VOA, 31/12/2019
Thiên hạ vừa được phen cười ngả nghiêng với câu nói đại ý ‘mây đen phủ bóng toàn cầu, mặt trời vẫn sáng trên đầu Việt Nam’ được báo quốc doanh giật tít cứ như là lời phát biểu của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nghe ý kiến của cử tri. (Ảnh Ngọc Thắng chụp từ màn hình Zing News)
Nhưng không rõ các báo Việt Nam cố tình xu nịnh ông tổng bí chủ bằng cách chạy tít để người đọc tưởng ông Trọng nói vậy. Kỳ thực ông chỉ dẫn lại báo cáo của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam mà trong đó họ nói nguyên văn tại trang 9 :
"Mây đen tiếp tục kéo về trên kinh tế toàn cầu với tăng trưởng kinh tế và lưu lượng thương mại thấp hơn dự kiến cho năm 2019.
"Tuy nhiên, mặt trời vẫn tỏa nắng ở nền kinh tế Việt Nam với dự báo tăng trưởng khoảng 6,8% trong năm 2019 - chỉ thấp hơn 0,3 điểm phần trăm so với năm 2018".
Ngân hàng Thế giới nói Việt Nam dự kiến có mức tăng trưởng vượt Trung Quốc trong năm 2019 dù kém Campuchia. Tăng trưởng trung bình của thế giới năm 2019 được dự đoán ở mức 2,6% và mức của các thị trường mới nổi là 4%.
Lạm phát ở Việt Nam cũng được cho là chỉ ở con số 3% so với mức tăng lương trên 10% cho những người làm trong khu vực công. Nợ công còn 56% tổng sản phẩm quốc nội so với mức gần 64% của năm 2016 và đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt ba tỷ đô la mỗi tháng.
Như vậy ông Trọng trích dẫn không có gì sai, chỉ là World Bank có vẻ hơi quá lời trong cách khen ngợi một đất nước mà trình độ phát triển còn thua xa so với thế giới. Nó cũng giống như khen đứa trẻ vị thành niên sao cao nhanh thế, trong khi đứa bé đó vẫn chưa là người lớn.
Ông Trọng cũng có ý nhận công về mình khi nói rằng ông giao cho Chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc phải đạt mức tăng trưởng 7% hồi đầu năm và cuối cùng đã đạt được dù lúc đầu ông Phúc nói đó là chỉ tiêu quá cao.
Nhưng cũng có những điều cảnh báo của Ngân hàng Thế giới mà không biết ông Trọng có để ý.
Ngân hàng nói xuất khẩu của Việt Nam trong chín tháng đầu năm chỉ đạt trên 8%, tức bằng một nửa mức của chín tháng đầu năm 2018. Đáng lo hơn là mức tăng trưởng đó có phần do việc chuyển hướng xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam trong bối cảnh căng thẳng Trung – Mỹ. Nếu chỉ tính các thị trường ngoài Mỹ, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong chín tháng đầu năm chỉ còn chưa tới 4%. Xuất khẩu gạo thậm chí còn giảm 10% và xuất khẩu cà phê giảm trên 20%.
Về mặt chi ngân sách, Việt Nam chi trả nợ tới 22% tổng thu, mức gấp đôi so với sáu năm trước và được đánh giá là "tương đối cao so với chuẩn mực quốc tế".
Trong khi đó tỷ lệ thu từ thuế của Việt Nam đã giảm từ mức 23% tổng sản phẩm quốc nội xuống còn 18% trong năm 2018, phần nhiều do các cam kết quốc tế về giảm thuế xuất nhập khẩu.
Ngay cả trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, số vốn đầu tư cho các dự án mới tiếp tục giảm dù vốn trong các dự án có sẵn vẫn tăng và lần đầu đạt mức trên một tỷ đô la tăng vốn mỗi tháng.
Triển vọng phát triển về trung hạn của Việt Nam được Ngân hàng Thế giới dự đoán :
"Triển vọng trung hạn […] vẫn có một số rủi ro theo hướng suy giảm cả từ trong nước và bên ngoài.
"Nhìn từ trong nước, chậm trễ trong triển khai những cải cách cơ cấu có thể làm cho viễn cảnh tăng trưởng trung hạn trở nên xấu đi.
"Chương trình cổ phần hóa và tái cơ cấu [doanh nghiệp nhà nước], sau khi được khởi đầu đầy hứa hẹn vào năm 2017 đã bị chững lại đáng kể trong những tháng qua.
"Nhìn từ bên ngoài, tranh chấp thương mại giữa các nền kinh tế lớn có thể ảnh hưởng xấu đến đà xuất khẩu trong ngắn hạn, trong khi đó nền kinh tế Việt Nam vẫn dễ bị ảnh hưởng nếu nền kinh tế toàn cầu tiếp tục suy giảm, qua các kênh thương mại và đầu tư.
"Sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài có thể nguội đi khi nhiều nhà đầu tư có thể đình hoãn hoặc hủy dự án. Nếu cả xuất khẩu và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài […] đều chững lại, nền kinh tế Việt Nam có thể mất đi động lực tăng trưởng chính".
Như vậy có thể thấy dù kinh tế Việt Nam không đến nỗi nào trong 2019, nhìn tổng thế, Việt Nam cũng chưa có gì đáng tự hào khi thu nhập bình quân đầu người còn chưa cán mốc 3.000 đô la, mức có thể nói là tương đối tệ hại.
Nguyễn Hùng
Nguồn : VOA, 31/12/2019
********************
‘Mây đen, mặt trời’ và nguyên thủ
Trân Văn, VOA, 31/12/2019
Ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam kiêm Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam – lại khuấy động dư luận khi phát biểu tại một hội nghị giữa lãnh đạo chính phủ và chính quyền các địa phương, diễn ra hôm 30 tháng 12.
Lãnh đạo cao nhất Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng, tại hội nghị với chính phủ hôm 30/12/2019.
Rất nhiều người Việt sửng sốt khi xem, hoặc nghe ông Trọng tuyên bố : Nhờ nỗ lực của toàn đảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên mọi lĩnh vực, tốt hơn năm ngoái (2018) !
Sau khi dẫn hàng loạt số liệu để chứng tỏ kinh tế - xã hội năm nay phát triển một cách ngoạn mục, ông Trọng dẫn thêm một ý kiến nêu trong báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) : "Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời đang tỏa sáng ở Việt Nam !" (1).
Không phải tự nhiên mà công chúng sửng sốt rồi xúm vào dè bỉu nhận định : "Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời đang tỏa sáng ở Việt Nam". Nhận định đó hoàn toàn mâu thuẫn với thực trạng chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội ở Việt Nam !
Tuy nhiên ông Trọng không bịa ra nhận định vừa kể. Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời đang tỏa sáng ở Việt Nam gần giống với một ý trong một báo cáo mà WB công bố hồi đầu tháng này...
***
Đó là một báo cáo chuyên đề có tên "Taking stock an update on Vietnam’s Recent Economic Developments" hay "Bước chuyển về tài chính mở lối cho các thị trường vốn nhằm phục vụ tương lai phát triển của Việt Nam" (2).
Báo cáo có hai phần.
Phần 1 – Những diễn biến kinh tế gần đây - do một người Việt tên là Đinh Tuấn Việt soạn thảo với góp ý của sáu người Việt khác (Nguyễn Việt Anh, Đoàn Hồng Quang, Triệu Quốc Việt, Phạm Minh Đức, Nguyễn Phương Anh, Vũ Hoàng Quyên).
Phần 2 – Tầm quan trọng của các thị trường vốn để huy động tài chính dài hạn – do Ketut Kusuma và Zsolt Bango hợp soạn cùng với bốn người khác là Alwaleed Alatabani, Jing Zhao, Mamoudou Nagnalen Barry và Ngô Hà Quân.
Theo WB, báo cáo do Jacques Morisset làm chủ biên và thuộc Chương trình Nghiên cứu - Phát triển thị trường vốn của WB với chính phủ Việt Nam. Chi phí do Tổng cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO) hỗ trợ.
Báo cáo không tệ nhưng trở thành tệ vì ông Trọng cố tình… cắt gọt, diễn giải sai lệch nhận định của nhóm soạn thảo báo cáo. Ở phần "Tóm lược Tổng quan", nhóm soạn thảo báo cáo viết như thế này : Mây đen tiếp tục kéo về trên kinh tế toàn cầu với tăng trưởng kinh tế và lưu lượng thương mại thấp hơn dự kiến cho năm 2019. Tuy nhiên, mặt trời vẫn tỏa nắng ở nền kinh tế Việt Nam với dự báo tăng trưởng khoảng 6,8% trong năm 2019 - chỉ thấp hơn 0,3 điểm phần trăm so với năm 2018...
Theo nhóm soạn thảo, có hai yếu tố khiến kết quả tăng trưởng của Việt Nam "tương đối tốt đẹp" là nhờ "tăng trưởng xuất khẩu và sức cầu trong nước của các doanh nghiệp, hộ gia đình". Tuy nhiên, nhóm soạn thảo cảnh báo, tăng trưởng sẽ "khó có thể kéo dài vì ít nhiều vẫn nhờ vào tình trạng chuyển hướng xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam do căng thẳng thương mại Trung Mỹ". Nói cách khác, kết quả tăng trưởng của kinh tế Việt Nam năm nay không hề liên quan đến "nỗ lực của toàn đảng, toàn dân, toàn quân" !
Nếu dành thời gian đọc toàn bộ "Taking stock an update on Vietnam’s Recent Economic Developments" hay "Bước chuyển về tài chính mở lối lối cho các thị trường vốn nhằm phục vụ tương lai phát triển của Việt Nam", ai cũng có thể thấy, kinh tế Việt Nam đang đối diện với nhiều ẩn họa. Song song với những lời lẽ hoa mỹ có tính chất động viên để đối tượng tự điều chỉnh là vô số cảnh báo về đủ loại rủi ro và rõ ràng ông Trọng không đủ thật thà khi cố tình gạt bỏ những cảnh báo ấy !
Nếu thật sự tự trọng và có đủ ý thức trách nhiệm, chắn chắn ông Trọng không thể hăm hở truyền cảm hứng cho đồng chí, đồng bào một cách lệch lạc : "Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời đang tỏa sáng ở Việt Nam".
Nhóm soạn thảo chỉ nhận định "mây đen tiếp tục kéo về trên kinh tế toàn cầu", điều đó khác rất xa với khẳng định "mây đen phủ lên toàn cầu". Tương tự không thể vừa khoe, WB cho rằng "mặt trời vẫn tỏa nắng ở nền kinh tế Việt Nam", vừa lờ đi chuyện chính WB nhắc nhở, kinh tế Việt Nam "chưa đạt được nhiều tiến triển trong những năm qua, thậm chí còn bị tụt một bậc trong năm 2020, sau khi có tiến triển tốt từ năm 2010 đến 2016 (tăng trên 20 bậc)".
Và chẳng phải chỉ có thế, khi cố tình nhấn nhá "mặt trời" chỉ "tỏa sáng ở Việt Nam", ông Trọng còn gạt bỏ nhiều sự thật khác mà nhóm soạn thảo báo cáo lưu ý, chẳng hạn, Việt Nam nên phấn đấu để sớm có một chỗ trong "chỉ số trái phiếu toàn cầu", điều mà nhiều quốc gia bình thường ở khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan đã đạt được từ lâu ! Lẽ nào Việt Nam trở thành lẻ loi, lạc loài chỉ vì… phần còn lại của thế giới chìm trong bóng tối ?..
***
"Taking stock an update on Vietnam’s Recent Economic Developments" hay "Bước chuyển về tài chính mở lối lối cho các thị trường vốn nhằm phục vụ tương lai phát triển của Việt Nam"vừa phân tích, vừa giải thích về vai trò, vị trí của các thị trường vốn đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Nếu đọc báo cáo với tinh thần cầu thị sẽ có rất nhiều người Việt cảm thấy âu lo cho tương lai của xứ sở và dân tộc khi đang có quá nhiều ẩn họa chực chờ.
Trung tuần tháng này, Moody’s (Moody’s Investors Service - tổ chức chuyên xếp hạng về mức độ tín nhiệm đối với hoạt động tín dụng toàn cầu) loan báo hạ triển vọng tín nhiệm đối với các khoản nợ do chính phủ Việt Nam bảo lãnh xuống mức "tiêu cực" (3). Trong khi chính phủ Việt Nam hối hả triệu tập đại diện các cơ quan hữu trách, ra lệnh kiểm điểm vì trả nợ cho WB trễ hạn (4), cam kết với cộng đồng quốc tế sẽ nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ trả nợ (5) thì Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam kiêm Chủ tịch Nhà nước mạnh dạn "biên tập" nhận định của WB, lên "dây cót" động viên "toàn đảng, toàn dân, toàn quân" rằng thế giới thì… âm u và "mặt trời" chỉ… "tỏa sáng ở Việt Nam" !
Trân Văn
Nguồn : VOA, 31/12/2019
Chú thích
(3) https://vnexpress.net/kinh-doanh/moody-s-ha-trien-vong-tin-nhiem-cua-viet-nam-4029507.html
Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và có chung đường biên giới dài 1.281 km với Việt Nam. Quan hệ thương mại giữa hai nước như một sự tất yếu và nếu có chính sách đúng thì có lợi cho sự phát triển của cả hai nước.
Tuy nhiên, trong quan hệ này phía Việt Nam luôn bị thâm hụt thương mại và tình trạng ngày càng trầm trọng, do Việt Nam hầu như không chịu thay đổi gì trong nhiều năm qua, sản xuất luôn phụ thuộc vào nhập khẩu đầu vào.
Đến thời điểm này ý niệm "thoát Trung" về mặt kinh tế của Việt Nam dường như là không hiện thực. Nguồn : Petsourcing.com
So sánh một số chỉ số kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc dựa trên bảng cân đối liên ngành input - output (I/O) của hai nước (bảng 1) cho thấy trong 100 đồng giá trị sản xuất thì Trung Quốc tạo ra được 32 đồng giá trị tăng thêm, trong khi Việt Nam chỉ tạo ra 29 đồng. Tỷ lệ này cho thấy nền sản xuất của Việt Nam không hiệu quả bằng Trung Quốc hoặc là một nền kinh tế gia công "sâu" hơn Trung Quốc.
Tỷ lệ sản phẩm đầu vào là nhập khẩu trong chi phí trung gian của Việt Nam lớn hơn hẳn tỷ lệ này của Trung Quốc (0,29 so với 0,08), nghĩa là Trung Quốc sản xuất ra nhiều sản phẩm hỗ trợ tham gia vào chi phí trung gian trong quá trình sản xuất.
Trong khi Việt Nam, ngoài những sản phẩm đầu vào là dịch vụ, điện nước, hầu như không có bao nhiêu sản phẩm hỗ trợ tham gia vào chi phí trung gian trong quá trình sản xuất của mình. Điều này cho thấy lan tỏa từ cầu cuối cùng đến phía cung của Việt Nam thấp hơn so với lan tỏa đến nhập khẩu.
Bảng 1 còn chỉ ra trong quan hệ thương mại giữa hai nước, ở khía cạnh sản xuất, cũng có sự khác biệt rất rõ và khá lớn. Trong chi phí trung gian của Việt Nam có 8% đầu vào được nhập khẩu từ Trung Quốc, thì Trung Quốc chỉ sử dụng 0,1 % đầu vào là sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam.
Điều này phần nào cho thấy mức độ quan trọng tương đối của các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc đối với nền sản xuất của Việt Nam là lớn hơn hẳn chiều ngược lại. Sự lệ thuộc này rất đáng được lưu tâm.
Xem xét về hệ số co giãn giữa lao động và vốn của hai quốc gia thông qua bảng cân đối liên ngành của hai nước cho thấy Việt Nam cần một lượng vốn cao hơn Trung Quốc khá nhiều mới tạo ra được tăng trưởng.
Có một nghịch lý là tỷ lệ đầu tư so với tổng giá trị tăng thêm (GVA) của Việt Nam thấp hơn nhiều so với Trung Quốc (22% so với 44%), nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn cao, không kém Trung Quốc bao nhiêu.
Mức tăng trưởng bình quân của Việt Nam giai đoạn 2010-2015 khoảng 6,1% trong khi của Trung Quốc trong giai đoạn này ước tính khoảng 7%. Điều này chỉ có thể lý giải là do năng suất nhân tố tổng hợp (total factor productivity - TFP) của Việt Nam cao hơn Trung Quốc, nhưng đó dường như lại là một nghịch lý. Những nhân tố nào ảnh hưởng tới năng suất nhân tố tổng hợp ? Điều này cho thấy phải chăng tăng trưởng của Việt Nam dựa khá nhiều vào khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) ?
Xét về các yếu tố của cầu cuối cùng (Final demand), có thể thấy chi tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình ở Việt Nam chiếm tỷ trọng trong GVA(1) cao hơn Trung Quốc đến 20 điểm phần trăm (56% so với 36%), bù lại chi tiêu dùng cuối cùng chính phủ của Trung Quốc cao hơn Việt Nam 8 điểm phần trăm (14% và 6%).
Tuy nhiên tổng tiêu dùng cuối cùng của Trung Quốc trong GVA vẫn khá thấp so với Việt Nam (50% so với 62%) ; tỷ trọng xuất khẩu thuần trong GVA của Việt Nam thậm chí còn cao hơn Trung Quốc.
Như vậy, để đạt được tăng trưởng Trung Quốc phần lớn dựa vào vốn. Tỷ trọng đầu tư trong GVA của Trung Quốc là rất cao, khoảng 44% GVA, trong khi tỷ lệ này của Việt Nam chỉ là 22% GVA. Tình hình này nếu diễn ra trong thời gian dài có thể khiến cho nền kinh tế dễ bị tổn thương một khi thu từ sở hữu gặp trục trặc và tiết kiệm (saving) luôn nhỏ hơn đầu tư.
Tính toán các kịch bản khi có sự tổn thương về thương mại giữa hai quốc gia (bảng 2) cho thấy phía Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề hơn Trung Quốc rất nhiều. Bảng 2 đưa ra các giả định khi giảm sút thương mại với Trung Quốc xảy đến, trong điều kiện hiện nay, sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế như thế nào. Trường hợp xấu nhất, GVA/GDP của Việt Nam có thể giảm đến 5,9%.
Điều này cho thấy Việt Nam đã lún rất sâu vào sự phụ thuộc trong quan hệ thương mại với Trung Quốc từ rất nhiều năm nay. Đến thời điểm này ý niệm "thoát Trung" về mặt kinh tế dường như là không hiện thực. Như vậy, thâm hụt thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc cơ bản do Việt Nam hầu như không chịu thay đổi gì trong nhiều năm qua, sản xuất luôn phụ thuộc vào nhập khẩu làm đầu vào, đầu vào là sản phẩm của Việt Nam cơ bản là điện, nước, bao bì và các chi phí dịch vụ mà thôi.
Nguyễn Quang Thái - Bùi Trinh
Nguồn : TBKTSG, 27/11/2019
(1) GDP = GVA + thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản xuất
Những người có tư duy lành mạnh không ai mong thương chiến Mỹ - Trung xảy ra. Nhưng cũng những người có tư duy lành mạnh, không ai không thấy rằng Thương chiến Mỹ - Trung là điều không tránh khỏi.
Việt Nam phải cắt khối ung thư phụ thuộc vào Trung Quốc ngay vào lúc này đây, khi bắt đầu cuộc Thương chiến Mỹ - Trung
Đã là không tránh khỏi thì những người tư duy lành mạnh phải biết ứng phó. Ứng phó với Thương chiến Mỹ - Trung là điều bắt buộc. Vô hiệu hóa điều bất lợi và vận dụng lợi thế từ Thương chiến Mỹ - Trung là việc làm chính nhân quân tử - chứ không phải là ăn theo "Tọa sơn quan hổ đấu" như kế sách của người xưa.
Muốn ứng phó với các bất lợi cũng như tận dụng các lợi thế từ Thương chiến Mỹ - Trung thì phải nhận biết được bản chất của Thương chiến Mỹ - Trung.
I. Luận điểm cơ bản
Cuộc Thương chiến Mỹ - Trung là không tránh khỏi. Cuộc Thương chiến Mỹ - Trung diễn ra nhiều đợt cao trào, với tính chất đối đầu căng thẳng dài lâu. Tính đối đầu căng thẳng của cuộc Thương chiến Mỹ - Trung sẽ không thuyên giảm cho đến khi xuất hiện một thể chế dân chủ ở Trung Quốc, hay (và chừng nào) tham vọng thống trị thế giới của Trung Quốc còn ngông cuồng vượt trên chuẩn mực quan hệ quốc tế.
Một thước đo khác nữa, cuộc Thương chiến Mỹ - Trung là một phần của cuộc chiến giành ngôi vị số 1 thế giới giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuổi thọ và độ căng thẳng của cuộc Thương chiến Mỹ - Trung phụ thuộc vào cuộc tranh giành vị trí cường quốc số 1 thế giới giữa Mỹ và Trung Quốc.
II. Năm nỗi sợ hãi không đúng
Thương chiến Mỹ - Trung sẽ đặt ra cho cả thế giới nhiều thách thức. Nhưng Việt Nam, với vị trí là nước láng giềng của Trung Quốc, lại là quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc, nên Việt Nam sẽ là quốc gia phải đối mặt với nhiều thách thức nhất, ngoại trừ hai quốc gia nguyên nhân là Mỹ và Trung Quốc.
Chính vì bị phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc về kinh tế, nên có nhiều người do sợ hãi mà đánh giá chưa đúng về cuộc Thương chiến Mỹ - Trung. Có 5 nỗi sợ hãi chính.
1. Nỗi sợ hãi tổng thể. Đây là nỗi sợ hãi của rất đông người - trong Chính phủ Việt Nam và trong hệ thống lãnh đạo Nhà nước, từ cấp trung ương cho đến tỉnh thành, huyện, xã. Họ cho rằng tình trạng tồi tệ của nền kinh tế Trung Quốc (gây ra bởi cuộc Thương chiến Mỹ - Trung) sẽ tác động xấu lên nền kinh tế Việt Nam. Và họ sợ hãi cho sự suy giảm của nền kinh tế Trung Quốc, mà từ đó họ sợ luôn cả Thương chiến Mỹ - Trung.
2. Nỗi sợ hãi giảm chỉ tiêu phát triển kinh tế. Từ sự phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Trung Quốc, họ sợ hãi mọi chiều hướng giảm thương mại Việt - Trung. Bởi vì nó tức thì sẽ giảm các chỉ tiêu về phát triển kinh tế. Điều này làm kế hoạch đặt ra không thể đạt. Kết quả là ảnh hưởng đến uy tín quản lý.
3. Thứ ba, là sợ tác động đến đời sống của những người dân có liên quan đến thương mại Việt - Trung. Vì nền kinh tế Việt Nam quá phụ thuộc vào Trung Quốc, nên giảm thương mại Việt-Trung sẽ tác động trực tiếp đến những người dân và đơn vị có quan hệ thương mại Việt - Trung. Trong đó có xuất khẩu nông sản của người dân Việt Nam qua Trung Quốc, nhập nguyên vật liệu và thiết bị từ Trung Quốc, và buôn bán hàng hóa qua biên giới Việt - Trung. Chịu ảnh hưởng lớn là các tỉnh biên giới có thương mại nhiều với Trung Quốc, và các địa phương có nông sản xuất khẩu sang Trung Quốc, tiếp theo là các đơn vị nhập vật liệu hàng hóa từ Trung Quốc.
4. Thứ tư, là nỗi sợ hãi bị Trung Quốc gây áp lực và phá hoại. Vì Việt Nam quá phụ thuộc vào Trung Quốc, nên Trung Quốc có thể dùng lá bài kinh tế để khuynh đảo Việt Nam, trong đó một lá bài rất quan trọng là các khoản nợ.
5. Thứ năm, là nỗi sợ mất quyền lực. Không đạt chỉ tiêu kinh tế, nền kinh tế đi xuống, không có khả năng trả nợ… tất cả có thể làm mất quyền lực của một số người.
Năm nỗi sợ trên, tổng hợp lại, đã làm cho nhiều người không dám cắt giảm thương mại Việt - Trung đã đành, mà còn làm cho họ hoảng loạn không tìm ra lối thoát. Như vậy sẽ ngày càng phụ thuộc nặng nề hơn vào Trung Quốc.
III. Năm cơ hội vàng cho kinh tế Việt Nam
Ngạn ngữ có câu "Cái khó ló cái khôn". Nhưng sự phụ thuộc sinh ra nỗi sợ hãi. Còn nỗi sợ hãi lại làm cho nhiều người không nhìn thấy mặt lợi to lớn từ Thương chiến Mỹ - Trung mà tận dụng.
Như trên đã lưu ý, tuy Việt Nam là một trong số các nước bị tác động mạnh nhất từ Thương chiến Mỹ - Trung, nhưng ở mặt khác, Việt Nam cũng là nước có cơ hội lớn để hóa mình từ Thương chiến Mỹ - Trung. Sau đây là năm cơ hội quý hiếm mà Việt Nam có được từ Thương chiến Mỹ - Trung
1. Tăng nguồn đầu tư nước ngoài
Tổng thống Donald Trump đã kêu gọi các công ty Mỹ tìm nơi thay thế Trung Quốc, hoặc trở về nhà. Để đạt được điều này, ông thậm chí có thể ban bố tình trạng đặc biệt để buộc các công ty Mỹ phải rời Trung Quốc. Mạnh hơn nữa, các nước G7 đã chống lưng cho Mỹ, cùng tuyên bố một chính sách đòi hỏi thương mại công bằng với Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là các công ty của các nước G7 cũng tìm kiếm sự di chuyển khỏi Trung Quốc. Các nước còn lại, lo vì sự trừng phạt của Mỹ, cũng phải tự thu xếp một cuộc rút lui có trật tự khỏi Trung Quốc. Tất cả các điều này sẽ tạo cho Việt Nam một cơ hội lớn, trở thành một trong những điểm đến của các nguồn đầu tư rút khỏi Trung Quốc.
2. Tăng cơ hội xuất khẩu
Việc đánh thuế cao lên hàng hóa Trung Quốc là cơ hội lớn cho hàng hóa Việt Nam thay thế hàng hóa Trung Quốc tại thị trường Mỹ và các nước G7. Đây là một động lực lớn thúc đẩy xuất khẩu tăng tiến.
3. Đoạn tuyệt với lạc hậu và độc hại
Mỹ đánh thuế cao lên hàng hóa Trung Quốc buộc Trung Quốc phải đội lốt hàng hóa nước khác để thâm nhập vào Mỹ. Tổng thống Donald Trump đã đưa ra tín hiệu rõ ràng cho Việt Nam vì đã để hàng Trung Quốc mang nhãn Việt Nam xuất sang Mỹ. Vì thế Việt Nam có thể bị Mỹ áp thuế suất cao. Đây là một nguy cơ lớn cho hàng Việt Nam xuất sang Mỹ.
Bởi vậy, Việt Nam không cho hàng hóa Trung Quốc đội lốt hàng Việt Nam là điều phải làm - nhưng chỉ là một mặt. Mặt khác, Việt Nam phải đoạn tuyệt với các linh kiện và vật liệu xuất xứ Trung Quốc, thế vào đó là linh kiện và vật tư sản xuất tại Việt Nam hay nhập của các nước G7, hoặc các nước khác. Đây là cơ hội lớn để hàng hóa Việt Nam đoạn tuyệt với vật tư, thiết bị và công nghệ lạc hậu độc hại đến từ Trung Quốc.
4. Tự sản xuất được các hàng hóa chất lượng cao
Không sử dụng vật tư thiết bị công nghệ lạc hậu độc hại đến từ Trung Quốc sẽ buộc Việt Nam phải tìm cách thay thế. Điều này mang đến cho nền kinh tế Việt Nam hai mối lợi lớn. Một là, tự lực cánh sinh nghiên cứu và sản xuất ra những hàng hóa chất lượng cao. Hai là, sử dụng vật tư, thiết bị, công nghệ cao của G7 hoặc của các nước khác.
Như vậy, nền kinh tế Việt Nam từng bước sẽ trở thành một nền kinh tế độc lập, có trình độ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, sản xuất được những hàng hóa chất lượng cao. Được như vậy thì đó chính là một nền kinh tế tự chủ và khỏe mạnh.
5. Thoát khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc
Khi có nền kinh tế tự chủ, với thiết bị và công nghệ tân tiến, sản xuất được các hàng hóa chất lượng cao - thì đó chính là lúc Việt Nam thoát khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế. Đây sẽ là nhân tố cực kỳ quan trọng giúp cho Việt Nam thoát khỏi sự ảnh hưởng của Trung Quốc một cách toàn diện.
IV. Tận dụng thời cơ cũng là nghĩa vụ
Khi áp thuế lên hàng hóa Trung Quốc, Tổng thống Donald Trump đợi chờ tác động khốc liệt ngược lại lên nền kinh tế Mỹ. Vì thế ông đã có biện pháp để hỗ trợ cho các nhà sản xuất và người tiêu dùng Mỹ.
Người Mỹ đã xác định, với Trung Quốc là cuộc chiến không thể khoan nhượng. Không bây giờ thì muộn hơn đều phải đối mặt. Càng về sau càng khó khăn và càng tổn thất lớn. Bởi thế dù thiệt hại lớn đến đâu cũng phải đối mặt ngay bây giờ. Đó là sự khác biệt của Donald Trump và người Mỹ.
Tương tự như vậy là trường hợp của Việt Nam. Thoát khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc là bài toán Việt Nam buộc phải giải, mà không thể tránh khỏi. Phụ thuộc vào Trung Quốc là căn bệnh ung thư. Càng để lâu càng nguy hại. Tốt nhất là Việt Nam phải cắt khối ung thư phụ thuộc vào Trung Quốc ngay vào lúc này đây, khi bắt đầu cuộc Thương chiến Mỹ - Trung. Đây là cơ hội vàng cho nền kinh tế Việt Nam trở nên độc lập, lành mạnh.
Không thiếu gì biện pháp để bù đắp cho người dân bị thiệt hại khi cắt giảm thương mại Việt - Trung. Không thiếu gì biện pháp để đưa nền kinh tế Việt Nam tiến lên ngay tức thì cùng lúc cắt giảm thương mại Việt - Trung. Điều Việt Nam phải đối mặt cũng là điều Mỹ và các nước G7 phải đối mặt.
Cả thế giớ đòi công bằng thương mại với Trung Quốc thì không có cớ gì Việt Nam lại chịu bất công trong thương mại với Trung Quốc. Việt Nam cũng phải có nghĩa vụ chung tay cùng thế giới chống lại thương mại không công bằng áp đặt từ Trung Quốc. Việt Nam không thể để cho hàng hóa Trung Quốc lẩn trốn trong cái áo Việt Nam để trục lợi. Việt Nam càng không để cho hàng hóa Trung Quốc đè đầu cưỡi cổ hàng hóa Việt Nam mà phát triển trên thị trường Việt Nam, làm cho hàng hóa việt Nam thui chột, không thể phát triển.
Thương chiến Mỹ - Trung đã tạo ra cho Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc những cơ hội vàng. Tận dụng những cơ hội vàng từ Thương chiến Mỹ - Trung Việt Nam sẽ vĩnh viễn cắt đứt được sự phụ thuộc tệ hại vào Trung Quốc. Cũng từ đó mà xây dựng được một nền kinh tế độc lập, tự chủ, tiên tiến và giàu mạnh. Tận dụng cơ hội là nghĩa vụ. Bỏ lỡ thơi cơ là có tội.
Nguyễn Ngọc Chu
Nguồn : danoan.lochung, 02/10/2019