Trung Quốc sẽ tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại với Việt Nam trong năm 2025
VOA, 23/08/2024
Hôm 22/8, Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết rằng Trung Quốc sẽ nỗ lực thúc đẩy hợp tác kinh tế và thương mại với Việt Nam, Tân Hoa Xã loan tin.
Cửa khẩu biên giới Hữu Nghị. Photo CafeF
Trung Quốc sẽ xem năm 2025 - năm kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Trung Quốc-Việt Nam - như một cơ hội và sẽ hỗ trợ doanh nghiệp hai bên mở rộng thương mại nông sản và hàng công nghiệp bằng cách tận dụng tối đa các nền tảng như Hội chợ triển lãm xuất nhập khẩu quốc tế Canton, Tân Hoa Xã dẫn lời ông Hà Á Đông, người phát ngôn Bộ Thương mại Trung Quốc (MoC), cho biết trong một thông cáo.
Theo người phát ngôn, Trung Quốc cũng sẽ thúc đẩy các động lực hợp tác đầu tư mới trong các lĩnh vực như nền kinh tế kỹ thuật số và phát triển xanh, đồng thời tăng cường hợp tác chuỗi cung ứng để đảm bảo dòng chảy thương mại thông suốt giữa hai nước.
Ông Hà cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế khu vực, đồng thời cho biết Trung Quốc sẽ đẩy nhanh đàm phán về Phiên bản 3.0 của Khu vực Thương mại Tự do Trung Quốc-ASEAN và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển và thịnh vượng của khu vực.
"Hai bên nhất trí lấy năm 2025 là "Năm giao lưu nhân văn Việt – Trung" và cùng tổ chức những chuỗi hoạt động chúc mừng nhân dịp kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc", người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nói trong cuộc họp báo ngày 22/8.
Tổng kết những "những thành công" về kinh tế, thương mại trong chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 18-20 tháng 8 của tân Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm, bà Hằng nói rằng Việt Nam và Trung Quốc "nhất trí" tạo thuận lợi về thương mai, mở rộng xuất khẩu các mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc, đồng thời hai bên khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp có thực lực, uy tín và công nghệ tiên tiến sang đầu tư tại nước kia và mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực mới như kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, phát triển xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo…
Thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây. Kim ngạch thương mại hàng năm giữa hai bên đã vượt hơn 200 tỷ USD trong ba năm liên tiếp.
Dữ liệu của Bộ Thương mại Trung Quốc cho thấy trong bảy tháng đầu năm 2024, kim ngạch thương mại Trung Quốc-Việt Nam đã tăng 20,9% so với cùng kỳ năm ngoái lên đến 145,07 tỷ USD.
Về hợp tác đầu tư, Việt Nam là điểm đến đầu tư nước ngoài quan trọng của Trung Quốc, trang Global Times dẫn lời ông Hà cho biết hôm 22/8.
Trang này cho biết thêm rằng chỉ riêng 7 tháng đầu năm 2024, doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư trực tiếp 1,84 tỷ USD vào Việt Nam.
Nguồn : VOA, 23/08/2024
*************************
Cuộc gặp Tô Lâm-Tập Cận Bình cho thấy chuỗi cung ứng của Việt Nam nghiêng về Trung Quốc
VOA, 23/08/2024
Chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên của Chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm tới Trung Quốc kể từ khi ông nhậm chức nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược mà Hà Nội dành cho Bắc Kinh khi cân bằng sự thay đổi chuỗi cung ứng của cả Trung Quốc lẫn Mỹ, theo các nhà phân tích.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, phải, bắt tay Chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm sau lễ ký kết tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, ngày 19/8/2024.
Trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh hôm 21/8, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mao Ninh cho biết ông Lâm và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhất trí "thúc đẩy một thế giới đa cực bình đẳng và có trật tự, cũng như một nền kinh tế toàn cầu hóa có lợi và bao trùm cho tất cả mọi người".
Ông Lâm đã kết thúc chuyến thăm Trung Quốc kéo dài ba ngày vào hôm 20/8 sau khi gặp ông Tập và ra tuyên bố chung nhất trí mở rộng quan hệ song phương, bao gồm cả thương mại. Ngày 19/8, họ đã ký 14 văn bản, trong đó có các văn bản về hợp tác công nghiệp và tài chính.
Ông Mark Kenney, giám đốc Viện Wahba về Cạnh tranh Chiến lược tại Trung tâm Wilson ở Washington, cho biết quyết định của ông Lâm đến thăm Trung Quốc trước tiên sau khi nhậm chức vào đầu tháng này là rất quan trọng vì Hoa Kỳ và Trung Quốc "đều ở cấp cao nhất trong quan hệ ngoại giao của Việt Nam".
Hoa Kỳ và Việt Nam đã nâng cấp quan hệ lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vào tháng 9 năm ngoái. Trung Quốc và Việt Nam đã nâng cấp quan hệ lên mức đó vào năm 2009.
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, với tổng giá trị thương mại năm ngoái đạt 172 tỷ đô la ; trong khi thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chiếm khoảng 125 tỷ đô la.
Đầu tư từ Trung Quốc và Hong Kong vào Việt Nam đã vượt quá 8,2 tỷ đô la vào năm 2023 cho hơn 6.600 dự án. Ngược lại, đầu tư từ Hoa Kỳ chiếm 500 triệu đô la trong cùng năm.
Con số đó có thể thay đổi vì trong những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành địa điểm hàng đầu cho các công ty Hoa Kỳ muốn mở rộng hoạt động kinh doanh hoặc di dời chuỗi cung ứng sản xuất của họ khỏi Trung Quốc.
Vào tháng 3 năm ngoái, Hà Nội đã chào đón một số công ty Hoa Kỳ, bao gồm Boeing, SpaceX, Pfizer và Amazon. Các công ty bán lẻ lớn Zara và H&M, cũng như Nike và Adidas, đã di dời các nhà máy sản xuất của họ từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Các công ty Hoa Kỳ đã hành động để bảo vệ chống lại sự gián đoạn chuỗi cung ứng, đặc biệt là kể từ đại dịch Covid-19, và để bảo vệ chống lại các hoạt động kinh tế cưỡng ép của Bắc Kinh mà các nước G7 đã tuyên bố chống lại trong hai năm qua.
Nhưng sự thay đổi chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ và phương Tây đã thúc đẩy Trung Quốc sắp xếp lại mạng lưới chuỗi cung ứng sản xuất của mình sang Việt Nam.
"Trung Quốc đang né tránh thuế quan của Hoa Kỳ bằng cách vận chuyển hàng hóa trung gian từ Trung Quốc đến các quốc gia Đông Nam Á, bao gồm cả Việt Nam, để đóng gói lại để xuất khẩu sang Hoa Kỳ sau nhiều mức độ xử lý trong nước", ông Kennedy của Trung tâm Wilson nói.
Vào tháng 5, Hoa Kỳ đã tăng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu trị giá 18 tỷ đô la từ Trung Quốc để bảo vệ ngành công nghiệp của Hoa Kỳ.
"Chiến lược của Hà Nội tập trung vào việc đảm bảo vị thế của mình là một bên đóng vai trò chủ chốt trong chuỗi cung ứng toàn cầu đồng thời tối đa hóa các lợi ích kinh tế và an ninh của mình", ông Shay Wester, giám đốc Bộ phận Kinh tế Châu Á tại Viện Chính sách Xã hội Châu Á cho biết.
"Trong khi Trung Quốc tìm cách củng cố mối quan hệ trên khắp thế giới đang phát triển, Việt Nam đang ngày càng trở nên có tính chiến lược trong sự cạnh tranh kinh tế rộng lớn hơn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc" và cần thiết để "đảm bảo rằng Việt Nam vẫn là đối tác quan trọng trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang được tái cấu trúc".
Tuy nhiên, các sản phẩm do Việt Nam sản xuất có chứa các bộ phận nhập khẩu từ Trung Quốc ngày càng bị Hoa Kỳ giám sát chặt chẽ.
Vào tháng 8 năm ngoái, Hoa Kỳ đã xác định rằng các nhà sản xuất tấm pin mặt trời ở các nước Đông Nam Á, bao gồm cả Việt Nam, đã lách luật thương mại của Hoa Kỳ bằng cách xuất khẩu các sản phẩm có chứa vật liệu có nguồn gốc từ Trung Quốc phải chịu thuế quan của Hoa Kỳ.
"Ví dụ này cho thấy mối quan hệ kinh tế ngày càng sâu sắc giữa Việt Nam và Trung Quốc có thể mang lại rủi ro thêm cho mối quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ", ông Robert Walker tại Trung tâm Phát triển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Viện Lowy nói.
"Trong tương lai, có khả năng [rằng] mối quan hệ kinh tế có thể trở nên căng thẳng hơn do sự hiện diện ngày càng tăng của các công ty Trung Quốc tại Việt Nam, nhưng đây không phải là mối quan tâm lớn vào thời điểm này", ông Walker cho biết.
Các nhà phân tích nói, sự phụ thuộc lớn của Việt Nam vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, chẳng hạn như thép, nhựa và linh kiện điện tử quan trọng để sản xuất thành phẩm, có thể gây ra rủi ro cho nền kinh tế của nước này.
"Động lực thương mại này đã làm gia tăng thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc lên 50 tỷ đô la vào năm 2023, tăng gần 50% trong năm năm qua", ông Wester nói. "Điều này làm nổi bật sự phức tạp của quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng của Việt Nam, nơi mà sự hội nhập của Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu đã được thúc đẩy bởi và vẫn gắn chặt với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc".
Ông Kennedy nói, "Một con đường vững chắc hơn cho Việt Nam là phát triển năng lực sản xuất của riêng mình dựa trên chuỗi cung ứng từ một nhóm các quốc gia đa dạng" ngoài Trung Quốc.
Theo bà Alice Ba, quyền chủ tịch khoa khoa học chính trị và quan hệ quốc tế tại Đại học Delaware, Việt Nam có thể có những nghi ngờ về các cam kết kinh tế của Hoa Kỳ.
"Có những câu hỏi về việc chính trị trong nước trong tương lai cũng như các mối quan ngại về nhân quyền của Hoa Kỳ có thể ảnh hưởng đến cam kết kinh tế của Hoa Kỳ đối với Việt Nam như thế nào", bà Ba nói. "Ví dụ, các mối quan ngại về nhân quyền có thể đã tác động đến quyết định của Hoa Kỳ" khi Mỹ từ chối yêu cầu của Việt Nam được chỉ định là nền kinh tế thị trường.
Đầu tháng này, Hoa Kỳ đã từ chối yêu cầu này, nói rằng sự tham gia của chính phủ Việt Nam vào nền kinh tế làm biến dạng giá cả và chi phí theo những cách bất lợi cho Hoa Kỳ.
Nguồn : VOA, 23/08/2024
Doanh nghiệp Việt Nam "sống còn" thế nào một khi thị trường Việt Nam "sơn thủy tương liên" với nền sản xuất khổng lồ của Trung Quốc ? Theo Tiến sĩ Kinh tế Nguyễn Huy Vũ hiện ở Na Uy, nếu Việt Nam không cải cách, sự tồn tại thực chất của doanh nghiệp trong nước là bất khả thi. Vậy nếu cần cải cách thì Việt Nam cần cải cách những gì ? Có cần cải cách thể chế hay không và nếu cần thì nên cải cách ra sao ? RFA trao đổi với một số chuyên gia từ ngoài Việt Nam về vấn đề này.
Các đơn vị bán hàng và giao nhận trong nước đang đối mặt với làn sóng hàng giá rẻ, ship rẻ từ hàng hóa Trung Quốc - Ảnh : Quang Định
Trao đổi với RFA, Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ khẳng định Trung Quốc đã có một chiến lược toàn diện và bài bản để phát triển sản xuất và thống lĩnh thị trường Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Họ xây dựng chuỗi cung ứng nguyên liệu sản xuất với giá rẻ, thâu tóm các sàn giao dịch thương mại điện tử ở Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng (đường cao tốc, đường sắt, hải cảng, hạ tầng internet…) để sản xuất phân phối hàng hóa với giá rẻ và chi phí thấp. Tiến sĩ Vũ cho rằng nếu tình hình tiếp tục như hiện nay, không có gì thay đổi, những ngành công nghiệp nhẹ của Việt Nam sẽ dần dần biến mất vì không thể cạnh tranh hoặc bị các công ty Trung Quốc mua lại. Công nghiệp nhẹ của Việt Nam sẽ không tồn tại nữa.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ, trong tương lai gần, Việt Nam sẽ trở thành một phần của thị trường Trung Quốc. Khi các rào cản dần dần biến mất thì nền sản xuất của Việt Nam phụ thuộc và trở thành một phần của Trung Quốc. Nó không thể sống được mà chỉ đóng vai trò phân phối mà thôi. Đó là một viễn cảnh mà Việt Nam có thể thấy trước.
Ông chỉ ra là Việt Nam đã tham gia vào sân chơi lớn của nền kinh tế toàn cầu rồi. Đã đi vào sân chơi lớn đó thì Việt Nam phải chơi với tinh thần kỷ luật của thế giới. Ai cũng thấy việc cần làm ngay là phải tăng cường năng lực của người lao động, tăng cường năng lực của doanh nghiệp. Ngoài ra, phải cải cách hệ thống thuế để giúp cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dễ dàng hơn. Cuối cùng là cải cách hành chính để quốc gia và doanh nghiệp tiết kiệm chi phí. Đó là những việc Việt Nam cần phải làm để thúc đẩy năng lực sản xuất, là cách để Việt Nam sống sót trong kỷ nguyên mở mà Việt Nam đã theo đuổi. Ông nói tiếp :
"Việt Nam nếu muốn phát triển lên thì cần phải chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế. Mà muốn chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế thì thứ nhất là Việt Nam phải đào tạo lại hệ thống nguồn nhân lực. Đào tạo lại nhân lực đề cho người lao động có trình độ cao hơn. Khi người lao động có trình độ cao hơn thì những doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu đối với nhân lực chất lượng cao sẽ tới đầu tư.
Việt Nam cần phải đi theo con đường của Singapore. Trong vòng hơn ba chục năm, Singapore đã đầu tư rất nhiều cho giáo dục. Hiện nay, những công ty nước ngoài đã chọn Singapore làm trụ sở, tạo ra công ăn việc làm.
Doanh nghiệp Việt Nam chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ nền sản xuất lớn của người khổng lồ Trung Quốc. Trong khi đó, trao đổi với RFA, Kỹ sư Khiêm Nguyễn, một chuyên gia cấp cao về công nghệ và kinh doanh của công ty Voyager Space, một công ty đa quốc gia ở California, Hoa Kỳ, cho rằng mặc dù hai quốc gia đều có chung thể chế chính trị giống nhau, nhưng điều dễ thấy là nhà nước Trung Quốc vận hành rất hiệu quả, hơn Việt Nam rất nhiều lần.
Theo Kỹ sư Khiêm Nguyễn, người đã có hàng chục đợt nghiên cứu về quản trị, công nghệ và kinh doanh tại Trung Quốc, vấn đề ý thức hệ cộng sản ở Trung Quốc không liên quan nhiều lắm đến điều hành kinh tế. Nếu như các bí thư tỉnh ủy của Việt Nam phải quản lý tất cả các lĩnh vực từ giáo dục, tư tưởng, văn hóa đến chính trị kinh tế, thì các bí thư tỉnh ủy của Trung Quốc được giao nhiệm vụ tập trung phát triển kinh tế địa phương. Còn các vấn đề khác như giáo dục, văn hóa, an ninh… thì mỗi địa phương ở Trung Quốc đều đã được chuyên môn hóa, được quản lý bởi các chuyên gia, do đó cơ quan đảng cao nhất ở địa phương không phải bận tâm tới.
Nói cách khác, ông Khiêm Nguyễn chỉ ra là Trung Quốc chuyên môn hóa từng lĩnh vực, còn ở Việt Nam thì duy trì tình trạng mập mờ, không có sự chuyên môn hóa. Mỗi lĩnh vực, thậm chí mỗi đầu việc được chia cho nhiều cơ quan khác nhau cũng dẫm chân trên nhau để quản lý.
Ngược lại, ở Trung Quốc, không chỉ mỗi lĩnh vực được chuyên môn hóa mà hệ thống chính trị cũng thực sự dựa trên năng lực của chuyên gia để bổ nhiệm vào các vị trí quản lý chuyên môn. Nói cách khác, không phải là chuyên gia thông thạo một lĩnh vực nào thì khó mà trở thành nhà quản lý cấp trung ở lĩnh vực đó. Việt Nam chưa đạt đến trình độ ưu tiên và chú trọng giới chuyên gia như vậy trong hệ thống chính trị. Ông nói tiếp :
"Tức là bên Việt Nam một ông bí thư có thể phải dính vào những chuyện không phải chuyên môn của mình. Bên Trung Quốc lại khác. Bí thư và tổ chức chính quyền ở Trung Quốc được chuyên môn hóa rõ ràng. Nhiệm vụ duy nhất của bất kỳ ông bí thư tỉnh ủy nào của Trung Quốc là kinh tế, kinh tế và kinh tế. Bí thư cấp tỉnh phải bảo đảm cho quy trình kinh tế tại địa phương được thông suốt, dân phải có việc làm, chính quyển phải giúp hãng xưởng phát triển năng suất. Nhiệm vụ của bí thư cấp tỉnh phải tạo ra quy trình vận hành ở địa phương sao cho không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, sản xuất và việc làm.
Sự khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc là ở chỗ đó".
Theo ông Khiêm Nguyễn, dấu ấn của mỗi bí thư tỉnh ủy ở Trung Quốc luôn luôn là kinh tế chứ không phải là các vấn đề khác. Các vấn đề khác có chuyên gia khác lo. Một trong những điều kiện để được bổ nhiệm vào vị trí bí thư cấp tỉnh ở Trung Quốc là được đào tạo tại Trường Quản lý Kinh tế Trung Ương ở Bắc Kinh từ hai đến sáu năm. Không phải cứ nằm trong dàn cán bộ cấp tỉnh là được lên làm bí thư. Họ phải có chuyên môn rõ rệt, được đào tạo ở những trường về kinh tế, quản trị công, chính sách công ở Bắc Kinh rồi mới được đảm nhận vị trí lãnh đạo địa phương.
Mặt khác, bí thư cấp tỉnh ở Trung Quốc phải luân chuyển thường xuyên, từ ba đến năm năm, chứ không được ngồi ở một tỉnh liên tục năm năm rồi 10 năm. Còn những lĩnh vực khác ở mỗi địa phương, như an ninh, giáo dục, văn hóa… thì người Trung Quốc đã khác Việt Nam rồi. Họ đã thể chế hóa, có chuyên gia làm những cái đó. Ông chỉ ra :
"Thành ra, Đảng cộng sản Trung Quốc đã trở thành một nhóm technocrat, tức một nhóm kĩ trị. Họ có mục tiêu xây dựng một tầng lớp kỹ trị cho quốc gia để đảm đương các lĩnh vực đó. Còn vấn đề ý thức hệ cộng sản là chuyện khác, nằm ở một lĩnh vực khác, chứ không dính vào công việc thực tế hằng ngày".
RFA đặt câu hỏi với Kỹ sư Khiêm Nguyễn rằng sự khác biệt về thể chế như trên ảnh hưởng như thế nào tới các thành tựu của Trung Quốc và khả năng thích ứng của Việt Nam trước sự thay đổi và phát triển đó của Trung Quốc. Ông Khiêm Nguyễn cho rằng trước tiên cần nhìn nhận sự khác biệt rất lớn giữa hai nước "lý tưởng tương thông" này.
Thứ nhất, theo ông Khiêm Nguyễn, khi Trung Quốc bắt đầu phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng của họ thì không chỉ phát triển ở một số khu vực quan trọng, ví dụ như khu vực giáp biên giới với Việt Nam, mà là một hệ thống rộng khắp và toàn diện, đặc biệt là về văn hóa của hệ thống. Ông nói :
"Ở Trung Quốc không có chuyện cảnh sát giao thông đứng đường, chặn đường người ta để lấy tiền. Họ có (tham nhũng) nhưng ở một dạng khác chứ không phải cái kiểu ăn vặt, đứng đường lấy tiền".
Xét riêng về năng lực sản xuất của nền kinh tế, ông Khiêm Nguyễn khẳng định không phải Việt Nam "thua kém" (có nhưng yếu hơn) Trung Quốc mà là "lệ thuộc" Trung Quốc về nguyên liệu thô phục vụ cho nền sản xuất. Nói cách khác, điểm yếu chí mạng của Việt Nam là không có, không tự chủ được chuỗi cung ứng cho nền kinh tế. Ông nói :
"Việt Nam có tự chủ được nguyên liệu thô phục vụ cho sản xuất không ? Không. Việt Nam phải nhập khẩu nguyên liệu thô từ Trung Quốc để sản xuất. Mà bây giờ nhiều khi nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc sang Việt Nam để sản xuất thì chi phí còn tốn kém hơn cả sản xuất tại Trung Quốc. Cho nên doanh nghiệp Trung Quốc sản xuất luôn tại nước họ đến 80% còn lại 20% thì mang sang Việt Nam hoàn thiện công đoạn cuối để xuất đi hoặc bán tại chỗ".
Tiến sĩ Kinh tế Nguyễn Huy Vũ khẳng định Việt Nam bắt buộc phải cải cách muốn sống sót trong kỷ nguyên của nền kinh tế mở, khi người láng giềng khổng lồ phía bắc trở thành một trung tâm sản xuất với giá rẻ của thế giới. Vấn đề này vượt quá khả năng của từng doanh nghiệp mà là nhiệm vụ của chính quyền. Ông nói :
"Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã mở rất lớn rồi. Một khi đã mở rồi thì rất khó để đóng lại và bảo họ mà Việt Nam chỉ có thể chấp nhận một con đường là tiến lên. Tiến lên tức là đi vào con đường kinh tế tri thức. Mà muốn đi vào kinh tế tri thức thì Việt Nam phải làm ba việc sau đây.Một là đầu tư rất nhiều do giáo dục.
Hai là đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
Ba là cải cách thể chế để cho nguồn vốn được di chuyển thông thoáng hơn, chính sách được thực thi tốt hơn.
Đó là những cái Việt Nam cần làm".
Nguồn : RFA, 05/03/2024
Trong 2 tháng đầu năm 2024 đã có ít nhất 2 ngày đặc biệt nhắc nhớ đến 2 sự kiện lịch sử đau thương của dân tộc Việt Nam : 50 năm ngày Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa (19/1/1974 –19/1/2024), 45 năm ngày Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa 2 nước (17/2/1979 –17/2/2024).
50 năm ngày Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa (19/1/1974 –19/1/2024)
Cả hai sự kiện đều liên quan đến Trung Quốc ; cả hai đều cho thấy sự nhu nhược của Hà Nội trước Bắc Kinh khi không dám công khai lên tiếng, tưởng niệm cũng như nhân dịp này có những hành động pháp lý mạnh mẽ, kiên quyết hơn để tố cáo Bắc Kinh trước quốc tế. Chỉ có qua mạng xã hội và báo chí tiếng Việt ở hải ngoại là chứng tỏ lòng dân không quên những gì đã xảy ra, lòng dân rất công bằng, rõ ràng khi đánh giá về lịch sử, cho dù lịch sử ấy đã bị nhà cầm quyền cố tình quên lãng. Bao trùm trên hết từ những bài viết, ý kiến của nhiều người Việt, trong và ngoài nước là nỗi đau, sự tủi hận, phẫn nộ – đau vì một phần lãnh thổ bị cướp mất, vì máu xương của những người Việt đã ngã xuống, trong đó có những người lính Việt Nam Cộng Hòa trong trận hải chiến Hoàng Sa, những người lính quân đội nhân dân Việt Nam hay thường dân trong cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung ; tủi hận vì những sự kiện lịch sử đó, những sự hy sinh đó vẫn chưa được đánh giá đúng mức ; và phẫn nộ vì sự yếu hèn của đảng cộng sản Việt Nam.
Đã có rất nhiều bài viết nói về 2 sự kiện lịch sử này, từ nguyên nhân cho tới những bài học cần phải rút ra, kể cả những hệ lụy, thiệt hại, nguy hiểm trong mối quan hệ giữa hai đảng cộng sản Việt Nam-Trung Quốc trong quá khứ, hiện tại. Bài viết này chỉ định đề cập đến một vấn đề : Làm thế nào để có thể sống hòa bình một cách bình đẳng, độc lập với Trung Quốc và hạn chế những rủi ro chiến tranh ?
Không thể phủ nhận Trung Quốc đã, đang và sẽ luôn luôn là mối đe dọa lớn nhất đối với an ninh quốc phòng, sự toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải, độc lập về chủ quyền của Việt Nam. Mà không chỉ riêng Việt Nam, rất nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận ra tham vọng nước lớn của Trung Quốc cũng như Trung Quốc chính là mối đe dọa lớn nhất đối với trật tự hiện nay trên toàn cầu.
Ngạn ngữ từng nói muốn có hòa bình thì phải chuẩn bị cho tình huống chiến tranh, phải đầu tư vào quốc phòng, mua vũ khí, rèn luyện tinh thần yêu nước trong nhân dân.
Nhìn lại cuộc chiến năm 1979, công bằng mà nói, dù Việt Nam có bị bất ngờ nhưng nếu kéo dài hơn nữa thì Trung Quốc cũng chưa chắc đã thắng được Việt Nam mà chỉ sa lầy, bởi lúc đó Việt Nam là một quân đội thiện chiến, đầy kinh nghiệm, vừa ra khỏi 2 cuộc chiến tranh lớn với Pháp và Mỹ, vũ khí quân trang tiên tiến phần do Nga cung cấp, phần do Mỹ bỏ lại ở miền Nam còn khá nhiều, trong khi quân đội Trung Quốc bao nhiêu năm không đánh trận, thiếu kinh nghiệm, vũ khí lạc hậu v.v… Nhưng cũng từ cuộc chiến với Việt Nam, Trung Quốc đã tích cực đổ tiền vào quốc phòng, hiện đại hóa quân đội, nhất là hải quân, đồng thời đã xậy dựng quần đảo Hoàng Sa, một số đảo nhân tạo trở thành những căn cứ quân sự trên Biển Đông, xây dựng căn cứ quân sự và hải quân ở Campuchia… Có nghĩa là sau 45 năm tương quan lực lượng mọi mặt giữa hai bên đã khác hẳn. Nếu bây giờ cuộc chiến tranh giữa hai bên lại nổ ra, câu hỏi không phải là liệu Việt Nam có cửa thắng không mà là liệu Việt Nam sẽ cầm cự được bao lâu ?
Muốn tránh chiến tranh không phải chỉ "nhũn" nhặn thần phục nước láng giềng, mà phải tự xây dựng đất nước trở thành một quốc gia mạnh, cả về kinh tế, quân sự, quốc phòng – để có thể tự lực không phụ thuộc cũng như không dễ bị bắt nạt, cho tới văn hóa – để không bị "đồng hóa", tan biến.
Nhưng một quốc gia muốn giàu mạnh phải có một mô hình thể chế chính trị có thể giải phóng hết mọi tiềm lực của quốc gia, tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, tạo sự cạnh tranh và kiểm soát lẫn nhau trong hệ thống chính trị, có luật pháp nghiêm minh để hạn chế tham nhũng, và sự lãng phí tài nguyên của đất nước, con người, v.v… Mô hình đó dứt khoát không phải là mô hình thể chế chính trị độc tài độc đảng mà đảng cộng sản đã cương quyết bám lấy bao lâu nay. Gần nửa thế kỷ qua, chế độ độc tải dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản đã chứng minh rõ ràng sự thất bại, tai hại của nó, đã khiến Việt Nam bị mất thêm lãnh thổ lãnh hải vào tay Trung Quốc, bị tụt hậu về mọi mặt, tài nguyên cạn kiệt, đời sống đại đa số người dân khốn cùng, người tài đức không có cơ hội đóng góp cho đất nước, nạn tham những nặng nề tàn phá nền kinh tế và đạo đức xã hội…
Một quốc gia giàu mạnh còn phải mạnh ở tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của người dân, sự đoàn kết gắn bó một lòng vì tương lai chung, vận mệnh chung của đất nước, dân tộc. Vì sợ phật lòng Bắc Kinh, trong nhiều năm dài, Hà Nội đã cố tình lờ những sự kiện lịch sử này và ra tay bịt miệng, đàn áp nếu người dân có bất cứ hành động tưởng niệm nào. Chính sách này đã làm suy yếu đi tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, chí khí quật cường của nhân dân. Trong 2 cuộc chiến với Pháp, Mỹ, đảng cộng sản đã khai thác, lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân một cách rất hiệu quả, vậy mà bây giờ với Trung Quốc họ lại tìm mọi cách để kìm hãm, bóp nghẹt lòng yêu nước ấy.
Bên cạnh đó, vì những chính sách hà khắc, hẹp hỏi với bên thua cuộc, vì quan điểm "địch, ta" xơ cứng, quyết tâm bám chắc quyền lực dẫn đến việc khước từ mọi cơ hội hòa giải hòa hợp, mọi tiếng nói phản biện, tiếp tục bóp méo lịch sử, không sòng phẳng với quá khứ, không thừa nhận những sai lẩm… của đảng cộng sản, nên nửa thế kỷ rồi mà lòng người vẫn còn chia rẽ. Dưới chế độ độc tài do đảng cộng sàn cai trị, người dân không thực sự cảm thấy gắn bó vì một tương lai chung, vận mệnh chung của dân tộc, sống ở Việt Nam nhưng hàng vạn hàng triệu người vẫn tìm cách để ra đi hoặc ít nhất, xây dựng tương lai con cháu ở một quốc gia khác. Ngay cả tầng lớp quan chức từ thấp đến cao của đảng cộng sản cũng có tâm lý đó, coi đất nước như một tài sản riêng để khai thác, vơ vét càng nhiều càng tốt nhưng lại cho con cháu đi học hay mua nhà, dự tính về hưu hưởng thụ ở một quốc gia dân chủ phương Tây…
Đối nội thì như vậy. Còn đối ngoại ? Chính sách ngoại giao "ba không", "bốn không", "ngoại giao cây tre"… của Việt Nam đối với Trung Quốc và các nước liệu có thực sự đúng đắn, khôn ngoan như đảng cộng sản Việt Nam vẫn tự tin, tự hào ?
Tri ân, những người cựu binh năm xưa cùng về với nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên để thắp nén nhang thơm tưởng nhớ về những người đồng đội đã ngã xuống. (Ảnh : Thanh Tùng/TTXVN)
Đối với Trung Quốc, dù có răm rắp học theo, làm theo Trung Quốc từ mô hình thể chế chính trị cho tới đường lối chính sách đối nội-đối ngoại, dù quan hệ giữa hai bên đã được nâng lên đến mức "cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam – Trung Quốc", cao hơn cả "đối tác chiến lược toàn diện" (thật ra, đó chỉ là một cách diễn dịch khác đi để tránh những ý nghĩa tiêu cực và sự nghi ngại của người dân Việt Nam từ cụm từ của Trung Quốc "cộng đồng chung vận mệnh" hay chính xác hơn, "nhân loại vận mệnh cộng đồng thể"), dù đã cam kết không chọn phe, không liên kết với bất cứ quốc gia nào chủ yếu để làm yên lòng Bắc Kinh, từ đó các lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam hy vọng rằng bằng sự "ngoan ngoãn", thần phục đó, Trung Quốc sẽ để yên cho Việt Nam. Nhưng điều đó chẳng có gì là bảo đảm khi tham vọng của Bắc Kinh không chỉ dừng lại ở khu vực mà còn muốn sắp đặt lại trật tự thế giới theo luật chơi của mình, muốn như vậy thì trước mắt Trung Quốc phải thoát khỏi thế bị bao vây trong lục địa, phải "sở hữu" Biển Đông và trở thành một cường quốc trên biển. Mà muốn biến Biển Đông thành "ao nhà" thì Trung Quốc phải kiểm soát các nước láng giềng, chiếm thêm một số đảo của các nước trong đó có Việt Nam. Không lẽ Việt Nam cứ phải chịu cảnh có biển mà như không, không thể khai thác dầu khí ngay trong vùng lãnh hải của mình, tàu cá của ngư dân không thể đánh bắt xa bờ, các đảo còn lại dần dần bị chiếm hết và Việt Nam bị kẹt tứ bề : phía Bắc-Trung Quốc, phía Tây-hai quốc gia Lào, Campuchia đã nằm trong vòng kiểm soát của Trung Quốc cho tới Biển Đông ?
Muốn tránh chiến tranh với một nước lớn láng giềng còn phải có đồng minh tin cậy hoặc chí ít, phải có bạn bè.
Trước đây đảng cộng sản Việt Nam đã từng chọn phe và biến đất nước trở thành quân cờ của các nước lớn. Đảng cộng sản đã từng đánh Mỹ cho Liên Xô, Trung Quốc. Sau 1975 lại rơi vào 2 cuộc chiến biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam vì bị kẹt trong những mối xung đột giữa Liên Xô, Trung Quốc và chọn ngả về phía Liên Xô.
Có lẽ vì vậy mà nay đảng cộng sản Việt Nam rút kinh nghiệm, chọn chính sách ngoại giao "bốn không", tuyên bố không chọn phe, làm bạn với tất cả các nước. Nhưng trên thực tế thì Việt Nam vẫn chọn phe, tệ hơn, là một "chư hầu" của Trung Quốc. Đảng cộng sản Trung Quốc có ảnh hưởng sâu rộng mọi mặt đối với đảng cộng sản Việt Nam, Việt Nam thường xuyên cử cán bộ từ cấp thấp đến cao sang học hỏi Trung Quốc, hai bên trao đổi tin tức tình báo với nhau, ngay cả cách Việt Nam bỏ phiếu tại Liên Hiệp Quốc trong cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine cũng y hệt Trung Quốc v.v… Hoa Kỳ và các nước dân chủ trên thế giới biết rõ như vậy nên cũng chẳng nước nào thực sự có lòng tin vào Việt Nam.
Nhìn vào những quốc gia nhỏ phải sống cạnh nước lớn, chúng ta thấy các nước nhỏ luôn luôn phải tìm kiếm sự bảo vệ từ đồng minh. Sau khi Nga xâm lược Ukraine, ngay cả những nước chủ trương trung lập bao lâu nay như Phần Lan, Thụy Điển cũng đã phải tìm cách gia nhập khối NATO. Ở khu vực Đông Á, Đài Loan từ lâu đã luôn luôn phải đối phó với âm mưu của Trung Quốc sẽ tiến chiếm bán đảo này một ngày nào đó, nên tích cực mua vũ khí, xây dựng quốc phòng, xây dựng đất nước giàu mạnh cũng như ngày càng có quan hệ tốt với Hoa Kỳ và thế giới, và nếu như Trung Quốc tấn công, chắc chắn Đài Loan sẽ không cô đơn. Hay trong cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine, Mỹ và các nước dân chủ từ Âu sang Á đã tích cực hỗ trợ cho Ukraine, ngay cả khi nếu vì những bất đồng nội bộ mà Mỹ không tiếp tục hỗ trợ được thì Ukraine vẫn còn có thể trông cậy ở các nước Châu Âu, Nhật, Hàn. Sở dĩ Đài Loan hay Ukraine được các nước hỗ trợ trước hết vì họ đang hoặc sẽ đi theo mô hình dân chủ. Còn Việt Nam, nếu lại có chuyện xảy ra với Trung Quốc, chắc chắn thế giới cũng sẽ chỉ lên án Bắc Kinh lấy lệ mà thôi.
Như vậy, cả 3 điều kiện để bảo vệ được đất nước : có đồng minh, đủ mạnh về kinh tế, quốc phòng để không dễ bị bắt nạt, có mô hình thể chế dân chủ để phát huy được nội lực quốc gia và tạo được sự thiện cảm của thế giới tự do từ đó có thể trông cậy được sự hỗ trợ của họ khi cần, Việt Nam đều không có.
Việt Nam cần phải đi theo con đường dân chủ hóa để từ "không" trở thành "có" các điều kiện này. Nhưng có vẻ như đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục đặt sự tồn tại của đảng và chế độ lên trên quyền lợi của đất nước, dân tộc, như từ trước đến giờ vẫn vậy.
Song Chi
Nguồn : RFA, 18/02/2024
Ngày 19/1/2024 là tròn 50 năm Trung Quốc tấn công và chiếm hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa khi đó do Việt Nam Cộng Hòa quản lý. Sắp tới, ngày 14/3/2024 là 36 năm Trung Quốc tấn công ở Trường Sa và lần đầu tiên hiện diện ở đó. Ngoài ra, trong những năm qua, Trung Quốc cũng không ngừng tuần tra trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, đòi hỏi chủ quyền đối với vùng khai thác dầu khí Tư Chính, Vũng Mây, Nam Côn Sơn nằm trong thềm lục địa của Việt Nam theo Luật biển Quốc tế.
RFA trao đổi với nhà nghiên cứu Hoàng Việt về những gì Việt Nam cần làm để gìn giữ và phát triển không gian sinh tồn trên biển trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động nghiêm trọng. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt cho rằng Việt Nam không thể phát triển nếu bỏ qua khai thác nguồn lực trên biển. Đánh giá về hiện trạng Trung Quốc đang chiếm ưu thế mạnh mẽ về mặt quân sự trên biển Đông, ông cho rằng Việt Nam ngày nay có hai nhiệm vụ lớn là giữ đảo và giữ biển. So sánh giữa đảo và biển, ông Hoàng Việt cho rằng trong hai cái nguy là "mất đảo" và "mất biển" thì "mất biển" nguy hiểm hơn vì nguồn lợi quốc gia đa số nằm ở phần biển hơn là phần đảo.
Việt Nam sinh tồn ra sao khi Trung Quốc muốn khóa đường ra biển ?
RFA : Theo ông, biển có vai trò như thế nào trong không gian sống của Việt Nam ? Tại sao biển Đông lại quan trọng với Việt Nam ?
Hoàng Việt : Chúng ta thấy rằng Việt Nam là một quốc gia có nhiều lợi thế phát triển trên biển. Nếu như trong lịch sử những quốc gia phát triển nông nghiệp và công nghiệp sẽ có sức mạnh thì bây giờ phải phát triển về biển. Đây cũng là quan điểm của một lý thuyết gia nổi tiếng là Alfred Thayer Mahan. Trung Quốc đã nhiệt tình áp dụng học thuyết của Mahan vào chiến lược phát triển của mình.
Thực sự mà nói nếu Việt Nam muốn trở thành một cường quốc tầm trung, hay trở thành một nước "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" như các lãnh đạo Việt Nam thường nói, thì phải phát triển kinh tế. Rõ ràng, Việt Nam có rất nhiều tiềm năng, không chỉ trong đất liền mà còn trên biển.
Trong giai đoạn Việt Nam gặp khó khăn thời bao cấp, ngân sách Việt Nam đã được duy trì nhờ khai thác dầu khí trên biển, trong liên doanh dầu khí Việt Xô. Rõ ràng biển đóng vai trò rất lớn. Sau này cũng vậy.
Nhiều quốc gia lớn nhưng không có chiều dài bờ biển dài như Việt Nam. Vấn đề là Việt Nam có tận dụng được không. Việt Nam nằm sát biển khơi nhưng chưa hoàn toàn tận dụng được biển như các quốc gia khác như Nhật Bản.
RFA : Ngày nay, Việt Nam nhận thức như thế nào về tầm quan trọng của sức mạnh trên biển ? Nước này làm những gì để bảo vệ quyền lợi hợp pháp trên biển trong khi có một cường quốc khác đang tìm cách thống trị hoàn toàn vùng biển đó ?
Hoàng Việt : Đối với tư duy về biển, thời Việt Nam Cộng Hòa có nhiều giáo sư luật lừng danh. Trong các cuộc đàm phán về luật biển quốc tế năm 1958 và 1972 thì phía Việt Nam Cộng Hòa đều có đại diện tham gia. Còn phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời chiến thì không để ý nhiều tới biển. Họ tập trung vào mục tiêu thống nhất đất nước.
Nhưng sau 1975 trở đi thì CHxã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nhìn thấy lợi ích của biển và đã làm rất tốt. Họ đã thấy tầm quan trọng của việc giữ được các vị trí tiền tiêu trên biển. Những suốt những năm 1980 thì Đô đốc Giáp Văn Cương đã đưa ra chủ trương với sự đồng ý của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là cho các con tàu cũ phi thẳng lên các bãi đá ở Trường Sa và đóng chốt ở đó. Điều đó cho thấy tầm nhìn của CHxã hội chủ nghĩa Việt Nam về biển đã thay đổi.
Biển là một tài nguyên rất lớn. Nó là một nguồn lực giúp đỡ rất lớn cho các quốc gia phát triển kinh tế. Đó cũng là lí do nhiều quốc gia tham gia vào tranh chấp biển Đông, có tham vọng đối với biển Đông. Việt Nam là một quốc gia giáp biển, tại sao không tận dụng lợi thế ?
Mặc dù Trung Quốc đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, chiếm một số thực thể quần đảo Trường Sa nhưng chưa phải là chúng ta đã mất không gian biển.
Cái nguy hiểm nhất mà nếu chúng ta không giữ được chính là vùng biển. Ta thấy đường lưỡi bò của Trung Quốc xâm lấn vào vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Nhiệm vụ của chúng ta bây giờ không chỉ là nắm giữ các đảo, các thực thể hiện đang giữ ở Trường Sa. Ở Trường Sa hiện nay, Việt Nam là nước chiếm giữ nhiều thực thể nhất. Trong đó có 21 thực thể, theo cách nói dân dã ở Việt Nam là 9 đảo nổi, 12 đảo chìm và tổng cộng 33 điểm đóng quân. Việt Nam là quốc gia kiểm soát trên Trường Sa tốt như vậy.
Nhưng vấn đề là đường lưỡi bò của Trung Quốc lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Thậm chí trong những mỏ dầu khí mà Trung Quốc xếp vào bãi Tư Chính nhưng thực ra nó không ở bãi Tư Chính mà ở bể Nam Côn Sơn. Nhiều lô dầu khí của chúng ta nằm ở bể Nam Côn Sơn. Bể Nam Côn Sơn và bãi Tư Chính cách xa nhau vời vợi và có một rãnh ngầm ngăn cách nên không thể nói nó là sự kéo dài của thềm lục địa. Nhưng Trung Quốc thì muốn nhập nhằng, gộp hai vùng này làm một, cho rằng tất cả chỉ là bãi Tư Chính và sự kéo dài của quần đảo Trường Sa. Nhiều khi chúng ta phải nói rõ chuyện này. Đó là vấn đề chúng ta phải lo.
Đường lưỡi bò Trung Quốc tự vẽ trên Biển Đông đòi chủ quyền phần lớn diện tích vùng biển này. AFP
RFA. Như vậy, theo ông, gìn giữ chủ quyền biển để thế hệ tương lai có nguồn lực tiếp tục phát triển về phía biển là điều cấp thiết ?
Hoàng Việt : Khi vùng đặc quyền kinh tế có rất nhiều mỏ dầu, mỏ khí đốt, thủy hải sản và các tiềm năng khác, mà theo UNCLOS thì thuộc về chúng ta, chúng ta được hưởng. Nhưng chúng ta bị xâm phạm và có nguy cơ không giữ được. Đó mới là nguy cơ lớn chứ không hẳn là việc Trung Quốc chiếm giữ các thực thể.
Vì vậy, có hai nhiệm vụ mà Việt Nam phải làm, mà cho đến nay Việt Nam vẫn làm tốt, một là gìn giữ tất cả các thực thể đang kiểm soát được ở Trường Sa, và hai là gìn giữ được các vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta theo đúng UNCLOS. Việt Nam đang làm rất tốt hai nhiệm vụ này. Mong rằng Việt Nam sẽ giữ gìn được tất cả những nguồn lợi đó cho tương lai. Đó mới là không gian sống của chúng ta.
Biển Đông rất rộng. Chúng ta không sở hữu toàn bộ biển Đông. Chúng ta chỉ có 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế, và 200 hải lý thềm lục địa. Có thể mở rộng thềm lục địa lên tối đa 350 hải lý.
RFA. Với chiều rộng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa như vậy, dường như Việt Nam có biển và thềm lục địa còn rộng lớn hơn đất liền ?
Hoàng Việt : Chắc chắn là như vậy. Tôi không có con số cụ thể để đo lường. Về phía Việt Nam thì Việt Nam cho rằng mình có hơn 1 triệu km2 trên biển. Có nhiều tranh luận về con số này. Nhưng rõ ràng với thực tế là có 200 hải lý mở rộng từ đường cơ sở thì đó là một vùng biển rất lớn, rất nhiều tài nguyên và đó là lợi thế to lớn của Việt Nam.
RFA : RFA xin cảm ơn nhà nghiên cứu Hoàng Việt đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Nguồn : RFA, 31/01/2024
Dưới đây chỉ là năm trong nhiều chiều kích ‘bị che khuất’, chứ không hẳn là những ‘bí mật’ gì đặc biệt. Bang giao Trung – Việt sau chuyến ‘tuần thú’ vừa qua của ông Tập, mọi bí mật – trừ những thỏa thuận ngầm, nếu có – đều đã trở thành các ‘bí mật công khai’…
Có những lý giải khác nhau, về "vận mệnh" và "tương lai", nhưng nhìn tổng quát, đây chỉ là thay đổi cách cách công bố ra ngoài cho dư luận và dân chúng.
Tổng bí thư Tập Cận Bình rời Hà Nội mấy ngày nay mà công chúng vẫn chưa được ‘thưởng lãm’ tứ thơ nào từ lãnh đạo Ba Đình. Không nhẽ lúc ‘Air China’ cất cánh, chẳng ai trong các quan chức ra tiễn đoàn thốt lên nổi :
‘Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Trông về cố quốc phương trời xa xăm’ (?!)
Nếu quả thật thế thì Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí trong ‘Bộ tứ’ chưa thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh… Tứ thơ trên, hồi bấy giờ, ông Hồ lẩy Kiều để bày tỏ tâm trạng bất an của cụ lúc tiễn Lưu Thiều Kỳ rời Việt Nam năm 1963, trong bối cảnh cụ Lưu đang đối mặt với tình thế hiểm nghèo bởi cuộc đấu đá quyền lực trên thượng tầng Bắc Kinh. Và cụ Hồ từng tiên đoán, kiểu gì cụ Lưu cũng sẽ ‘dính đòn’ ông Mao trong cái gọi là ‘Cuộc Cách mạng Văn hóa vĩ đại’. Tuy đau đáu hướng về ‘cố quốc’ như thế, nhưng khi nghe tin ông Mao có ý đồ gửi mấy vạn ‘phu đường’ sang giúp Hà Nội đánh Mỹ, ông Hồ căn dặn ông Lê Duẩn : ‘Chú cứ để họ sang, nhưng hướng dẫn họ chỉ được mở các tuyến đường theo chiều ngang Đông – Tây trên bản đồ, không cho phép họ mở theo chiều dọc Bắc – Nam…’ (1) Ẩn ý của ông Hồ là tránh làm những tuyến đường sau này Trung Quốc sử dụng để kéo quân sang ta.
Còn thời nay, có nhiều cách khác nhau để ‘kéo quân sang’, nhưng câu chuyện ‘bí ẩn’ đầu tiên bị che khuất, chính lại là lịch sử ‘Nhất đới nhất lộ’ (BRI), khi Việt Nam đã ký Kế hoạch hợp tác với Trung Quốc để thúc đẩy kết nối giữa khuôn khổ ‘Hai hành lang, Một vành đai’ với sáng kiến ‘Vành đai và Con đường’. Đặc biệt là hai chính phủ đã ký Hiệp định và Nghị định thư, cũng như đã ký Bản Ghi nhớ giữa các bộ, ngành về xây dựng cầu đường bộ qua sông Hồng khu vực biên giới Bát Xát, Lào Cai, Việt Nam – Bá Sái, Vân Nam, Trung Quốc.Liệu tương lai, có ai đó sẽ hối tiếc, để lời dặn của ông Hồ ‘gone with the wind’ (Cuốn theo chiều gió). Tại sao phải đi vay các Ngân hàng thương mại những khoản lớn, với lãi suất cao, để xây dựng một tuyến đường sắt chủ yếu phục vụ cho lợi ích hàng đầu là vận chuyển hàng hóa Trung Quốc xuống Cảng Hải Phòng để đi ra thế giới ? Dự kiến, tuyến đường sắt này dài hơn 441 km, đi qua chín tỉnh thành gồm : Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh (ga Cái Lân) (2). Tuyến đường có tổng mức đầu tư 10 – 11 tỷ USD. Giáo sư Trần Ngọc Vươ ng từ Đại học Quốc gia đã phản đối vay tiền làm đường chở hàng cho Trung Quốc (3).
Câu chuyện ‘bị ẩn dấu’ tiếp theo là thỏa thuận Việt Nam và Trung Quốc từ nay chỉ chia sẻ… ‘tương lai’, chứ không chia sẻ ‘vận mệnh chung’ nữa ! Có những lý giải khác nhau nhưng nhìn tổng quát, đây chỉ là thay đổi cách cách công bố ra ngoài cho dư luận và dân chúng. Nếu so Tuyên bố chung 2022 lúc ông Trọng sang Bắc Kinh với Tuyên bố chung 2023 vừa rồi thì còn một số điểm khác biệt đáng chú ý nữa. Tuyên bố chung 2022 không có các yếu tố ‘tương lai’ hay ‘vận mệnh’ gì cả. Những yếu tố để xác lập ‘định hướng quan hệ’ trong Tuyên bố năm 2022 chỉ là : Phát triển quan hệ giữa các nước cần tuân theo Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và chuẩn mực cơ bản của quan hệ quốc tế, hợp tác cùng thắng, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, kiên trì giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình (4). Như vậy, phải thừa nhận một thực tế là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhân nhượng ông Tập một bước khá căn bản để đổi lại việc Việt Nam, chỉ trong vòng hai tháng cuối năm đã có những ‘cú lật kèo’ khá ngoạn mục, để có thể vượt cấp quan hệ với Mỹ lên hai bậc, hoàn thiện nốt bước tiến với Nhật Bản v à sắp tới đây với Úc lên ‘Đối tác chiến lược toàn diện.’
Liên quan đến khánh tiết và truyền thông cũng có thể gộp thành ‘góc khuất’ thứ ba. Tiệc trà giữa ông Trọng với ông Tập là câu chuyện sẽ còn tốn nhiều giấy mực.Về kịch bản, đó là sự ‘copy’ lại tiệc trà ông Tập đãi ông Trọng ở Bắc Kinh, nhưng rút kinh nghiệm lần trước, cả hai Tổng bí thư đều không ai đem chất lượng các loại trà của mỗi nước ra để so đọ (5). Nhưng khung cảnh ‘sân khấu’ của tiệc trà thì quả là một câu chuyện không thể bỏ qua. Nó quá lòe loẹt, quá ‘lộ hàng’ bởi cái không gian ‘hý kịch’. Tre không ra tre, trúc không ra trúc, ẻo lả, chẳng có gì ‘dáng quân tử’ cả. Dẫu sao, lần này, Lễ tân cũng đã rút kinh nghiệm, tránh cho Thủ tướng Phạm Minh Chính ‘giành thảm đỏ’ với Tổng bí thư Tập Cận Bình, nên đã cẩn thận trải một lúc những hai thảm đỏ từ chân cầu thang máy bay (6).Tuy nhiên, về truyền thông thì dân chúng cực kỳ bất mãn. Những ai có điều kiện xem truyền hình quốc tế, mới có thể nghe được ‘những lời có cánh’ của ông Trọng ca ngợi ông Tập lên tận mây xanh, nào là nhà lãnh đạo xuất sắc được nhân dân Trung Quốc kính trọng, nhân dân Việt Nam yêu mến… Phải chăng v ì những điều không có thực ấy mà Tổng bí thư Trọng muốn ‘nút tai’ người Việt, chỉ cho phép thần dân thấy dung nhan và đôi môi của ‘Hoàng thượng’ mấp máy ?
‘Bí ẩn’ thứ tư liên quan đến ‘sự chồng lấn’ giữ chuyến thăm của Chủ tịch Tập và của Thủ tướng Hun Manet tại Hà Nội. Chưa có bất cứ tin tức nào về cuộc gặp tay ba Việt Nam – Trung Quốc – Campuchia trong hai ngày 12 và 13/12, nhưng giới quan sát đã không bỏ qua bí mật công khai của hiện tượng ‘chồng lấn, này (7). Dư luận có thể đặt câu hỏi : Tại sao chuyến xuất ngoại thứ hai của ‘Hoàng tử’ lại rơi vào đúng lúc ‘Tứ trụ’ trong Bộ Chính trị Hà Nội đang tất tả ngược xuôi tiếp khách. Trong khi đó, Hun Manet vừa gặp Chủ tịch Võ Văn Thưởng tại Bắc Kinh. Và mới đây nhất, Chủ tịch Quốc hội Campuchia Khuon Sudary, cũng vừa kết thúc thăm hữu nghị chính thức Việt Nam. Ngoại trưởng Campuchia Sok Chenda Sophea bày tỏ : ‘Có thể ví chuyến thăm Việt Nam (vừa qua) của Thủ tướng Hun Manet như công việc trồng cây, chăm hoa, yêu cầu chúng ta cần phải thường xuyên chăm bón, tưới tắm’ (8). ‘Tỉa hoa’ và ‘chăm sóc cây cối’ đâu phải là chuyện gì gấp gáp mà Hun Manet phải ‘nhảy bổ sang’ lúc chủnhà đang bận không mở được mắt. Nếu nhìn kỹ ánh mắt và thần thái của vị quân vương trẻ Hun Manet, nhà lãnh đạo Hà Nội nào nếu còn chút linh cảm chính trị, chắc sẽ ‘không rét mà run’ (9).
Cuối cùng, ‘chiều kích bí ẩn’ thứ năm là toàn bộ ‘đại hý kịch Đảng cộng sản Việt Nam đưa ra trình diễn đều được Đảng cộng sản Trung Quốc chấp thuận.Phải chăng vì cả hai đảng dường như đang rơi vào thế lưỡng nan, cả về nội trị lẫn ngoại giao, nên đã tìm mọi cách xoay xở sao cho ‘xuôi chèo mát mái’ các bang giao ‘bằng mặt không bằng lòng’. Trong bối cảnh ấy, điều khích lệ với người dân là Hoa Kỳ vẫn ‘kề vai sát cánh’ cùng Việt Nam trong sứ mệnh xây dựng "Không gian Indo-Pacific Tự do và Rộng mở" (FOIP). Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 14/12 nói :‘Hoa Kỳ và Việt Nam có chung ý thức về mục đích và tầm nhìn chung về một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương an toàn, thịnh vượng và cởi mở, trải dài từ sự hợp tác chặt chẽ về di sản chiến tranh và các vấn đề nhân đạo đến an ninh khu vực, thịnh vượng chung, hợp tác sâu sắc hơn trong việc giải quyết các vấn đề khủng hoảng khí hậu, bệnh truyền nhiễm, buôn lậu ma túy và động vật hoang dã, tăng cường hợp tác hàng hải và chống tội phạm xuyên quốc gia’ (10). Tập Cận Bình dù có lớn tiếng xúi giục, Hà Nội hãy cùng Bắc Kinh, ngăn chặn ‘các thế lực bên ngoài’ muốn gây rố i ở Châu Á – Thái Bình Dương, thì lời kích động ấy cũng rơi tõm vào thinh không !
Trần Đông A
Nguồn : VOA, 16/12/2023
Tham khảo
(1) https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/story/2006/05/060510_leduan_part3
(3) https://www.youtube.com/watch?v=GwIzbCuoAsQ
(4) https://www.voatiengviet.com/a/nguoi-viet-co-muon-chia-se-tuong-lai-voi-trung-quoc-/7398078.html
(6) https://www.youtube.com/watch?v=1GHscqAV28g
(7) https://www.youtube.com/watch?v=GwIzbCuoAsQ
(8) https://tuoitre.vn/hom-nay-thu-tuong-campuchia-hun-manet-den-viet-nam-2023121107041236.htm
Việt Nam đã "chọn phe" Trung Quốc
Chia sẻ tương lai chung vì "hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại" chỉ là khẩu hiệu. Thực chất, về kinh tế, Việt Nam đã gắn khuôn khổ "hai hành lang một vành đai" vào sáng kiến "vành đai con đường" của Trung Quốc. Về chiến lược, câu "vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại" có khác gì vì "chủ nghĩa xã hội", vì "thế giới đại đồng" thời đỉnh cao của chủ nghĩa cộng sản ? Đây là một cam kết "chiến lược" giữa hai hay nhiều quốc gia có chung một tầm nhìn.
Hầu hết học giả Việt Nam đã không tiên đoán được điều này. Hầu hết đề cho rằng Việt Nam "kháng cự" trước sự mời mọc của Trung Quốc về các sáng kiến như "Vành đai con đường" hay "cộng đồng chung vận mệnh". Theo tôi các học giả đã bỏ qua yếu tố "thời thế".
Việt Nam "gặp thời thế thế thời phải thế" !
Mỹ đã ủng hộ một cách nhiệt tình Do Thái trong chiến dịch quân sự tiêu diệt quân khủng bố Hamas. Quân Hamas đột kích vào lãnh thổ Do Thái 7/10/2023, đã thảm sát dã man trên 1000 dân Do thái vô tội.
Bất kỳ lực lượng vũ trang nào, khi họ giết chóc dân lành nhóm vũ trang đó là nhóm khủng bố.
Vấn đề là quân Do thái tràn ngập dải Gaza, đến nay đã giết trên 18.000 dân Palestine vô tội, trong đó có khoảng 1/3 là trẻ em.
Giết dân lành vô tội là khủng bố. Quân Do thái giết trên 18 ngàn dân Palestine vô tôi thì họ là gì nếu không phải là khủng bố, là vi phạm tội ác diệt chủng ?
Ngoài ra, từ khi lập quốc 1948 đến nay, Do thái luôn áp dụng chính sách "thực dân" và "apartheid" để chiếm đất và cô lập, khiến dân Palestine sống trong một "trại tù không mái che".
Mỹ vẫn ủng hộ Do Thái vô điều kiện. Mỹ đã bỏ phiếu chống (veto) tất cả những đề nghị của các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc yêu cầu một cuộc "ngưng bán nhân đạo" để cứu dân lành…
Trong khi bên Ukraine thì Nga đang trên đà chiến thắng. Nga đã xâm lược Ukraine, chiếm đoạt lãnh thổ của quốc gia này đồng thời gây tội ác chiến tranh vì đã giết dân lành Ukraine vô tội.
Ukraine yếu thế vì thiếu viện trợ cũng như đạn được từ phía Mỹ. Nhiều ý kiến cho rằng Ukraine hiện lâm vào cảnh "khi đồng minh tháo chạy" của Việt Nam Cộng Hòa.
Mỹ không thể cùng lúc ủng hộ Do thái, xâm lược lãnh thổ Palestine đồng thời gây thảm trạng cho dân lành, lại vừa ủng hộ Ukraine tự vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và chống lại quân xâm lược Nga. Mỹ đã chọn đứng về Do thái và buông bỏ Ukraine.
Dĩ nhiên hành vi của Mỹ đã tạo sự hoài nghi nơi các quốc gia như Việt Nam. Và dĩ nhiên Việt Nam lo ngại sẽ lâm vào hoàn cảnh Ukraine.
Ta thấy Trung Quốc hung hăng uy hiếp Phi trên Biển Đông. Ta cũng thấy Venezuela hung hăng áp quân cận biên giới Guyane đe dọa xâm chiếm lãnh thổ.
Thái độ ủng hộ Do thái của Mỹ khiến trật tự quốc tế đảo lộn và không quốc gia nào tin tưởng vào trật tự và luật lệ quốc tế nữa.
Trung Quốc có đủ các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa". Việt Nam vì vậy phải ngả về phía Trung Quốc, để bảo vệ những thứ còn có thể bảo vệ được. Việt Nam ngả về phía Trung Quốc là do chính sách thiếu nhứt quán của Mỹ về quan niệm "tôn trọng trật tự và pháp luật quốc tế".
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 15/12/2023
Người Việt có muốn ‘chia sẻ tương lai’ với Trung Quốc ?
Trân Văn, VOA, 14/12/2023
Đâu phải tự nhiên mà khi tuyên truyền cho chuyến thăm Việt Nam của ông Tập Cận Bình, ông Hùng Ba – Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam – lặp đi, lặp lại việc Việt Nam và Trung Quốc "chia sẻ vận mệnh chung", vừa nhấn mạnh đó là "đặc trưng trong quan hệ hai nước" !
Tại sao Việt Nam và Trung Quốc chỉ chia sẻ "tương lai", không chia sẻ "vận mệnh" nữa ? Đã có những lý giải khác nhau !
Ông Tập Cận Bình – Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc kiêm Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc – vừa rời Việt Nam và mang theo cam kết của Việt Nam :Sẽ cùng Trung Quốc tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng "cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam – Trung Quốc" có ý nghĩa chiến lược (1).
"Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam – Trung Quốc" là gì ? Vì sao đột nhiên xuất hiện trong "Tuyên bố chung" lần này ? Cần lưu ý, trước giờ, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam luôn cam kết cùng Trung Quốc "chia sẻ vận mệnh chung". Chẳng hạn tháng 11 năm ngoái, trước khi kết thúc chuyến thăm Trung Quốc, ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tập Cận Bình cũng công bố một "Tuyên bố chung", tại phần ba của "Tuyên bố chung" này, ông Trọng thay mặt Việt Nam khẳng định sẽ "chia sẻ vận mệnh chung" với Trung Quốc(2). Rồi tháng 6 năm nay, khi thăm Trung Quốc, ông Phạm Minh Chính (Thủ tướng Việt Nam) và ông Lý Khắc Cường (Thủ tướng Trung Quốc) cùng phát hành "Thông cáo báo chí chung", ở phần ba của thông cáo này, ông Chính thay mặt Việt Nam tái khẳng định tiếp tục "chia sẻ vận mệnh chung" với Trung Quốc(3).
Đâu phải tự nhiên mà khi tuyên truyền cho chuyến thăm Việt Nam của ông Tập Cận Bình, ông Hùng Ba – Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam – vừa lặp đi, lặp lại với các cơ quan truyền thông chính thức tại Việt Nam việc Việt Nam và Trung Quốc "chia sẻ vận mệnh chung", vừa nhấn mạnh đó là "đặc trưng trong quan hệ hai nước" (4) !
Tại sao Việt Nam và Trung Quốc chỉ chia sẻ "tương lai", không chia sẻ "vận mệnh" nữa ? Đã có những lý giải khác nhau nhưng nhìn một cách tổng quát, đó là thay đổi cần ghi nhận. Nếu so "Tuyên bố chung 2022" với "Tuyên bố chung 2023" thì còn một số khác biệt đáng chú ý khác. "Tuyên bố chung 2022" không có những yếu tố này khi xác lập "định hướng quan hệ". Đó là : Phát triển quan hệ giữa các nước cần tuân theo Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và chuẩn mực cơ bản của quan hệ quốc tế, hợp tác cùng thắng, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, kiên trì giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình (Đoạn 4, Phần 1 "Tuyên bố chung 2023").
Tạm thời xin chưa bình luận tại sao vì những khác biệt vừa kể dẫu đáng ngẫm nghĩ nhưng chính những yếu tố mới, vừa được nêu trong "Tuyên bố chung 2023" lại mâu thuẫn với một số yếu tố khác trong chính tuyên bố này. Chẳng hạn, tại sao đã khẳng định"phát triển quan hệ giữa các nước cần tuân theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc, luật pháp quốc tế và chuẩn mực cơ bản của quan hệ quốc tế" mà "phía Việt Nam" lại "cho rằng các vấn đề Hồng Kông, Tân Cương, Tây Tạng là công việc nội bộ của Trung Quốc" ? Chẳng lẽ đưa yếu tố đó vào "Tuyên bố chung 2023" là để đổi lấy "phía Trung Quốc ủng hộ các nỗ lực của phía Việt Nam trong việc duy trì ổn định xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia và thúc đẩy đoàn kết dân tộc" ? Trung Quốc đã hoặc sẽ can dự vào những xung đột giữa chính quyền Việt Nam với các cộng đồng thiểu số tại Việt Nam ?
Tương tự, tại sao lần này, Việt Nam đột nhiên lớn tiếng minh định : "Công nhận Đài Loan là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ ‘Đài Loan độc lập’ dưới mọi hình thức, ủng hộ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, không phát triển bất cứ quan hệ cấp nhà nước nào với Đài Loan" (1), bất kể từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa tới nay, dòng vốn đầu tư từ Đài Loan vào Việt Nam không ngừng gia tăng và càng ngày càng trở thành quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam ? Đâu phải tự nhiên mà gần đây, Việt Nam liên tục bày tỏ cả sự hào hứng lẫn hi vọng được hưởng lợi lớn khi dòng vốn đầu tư của Đài Loan đang dịch chuyển từ Trung Quốc sang các quốc gia trong khối ASEAN(5). Minh định như thế vào lúc này, trong bối cảnh như hiện nay là khôn hay dại ?
***
Chuyến thăm Việt Nam của ông Tập Cận Bình là dịp để Việt Nam ký 36 "thỏa thuận hợp tác" (6). Tám "thỏa thuận" đầu tiên liên quan đến "hợp tác" tuyên truyền, dịch – xuất bản các tác phẩm kinh điển, phối hợp giữa Ban Nội chính của hai đảng và Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng của hai chính phủ.
28 "thỏa thuận" còn lại được đặt tên là "hợp tác trên các lĩnh vực thực chất" nhưng ngoài "thúc đẩy kết nối giữa khuôn khổ ‘hai hành lang, một vành đai’ với sáng kiến ‘vành đai và con đường’ giữa hai bên" và "xây dựng một cây cầu bắc qua sông Hồng đoạn chảy ngang Lào Cai (Việt Nam) – Vân Nam (Trung Quốc)", chủ yếu là những "thỏa thuận" nhằm "ghi nhớ" kiểu như "ghi nhớcác yêu cầu đối với việc xây dựng vùng sạch bệnh lở mồm long móng có sử dụng vaccine" hay "triển khai giao lưu hữu nghị đảng bộ địa phương giữa Thành ủy Hải Phòng, Đảng cộng sản Việt Nam và Tỉnh ủy Vân Nam, Đảng cộng sản Trung Quốc",...
Cách nay hai tháng (10/2023), khi trả lời tờ Tiền Phong về tương lai quan hệ Việt – Trung, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam từng bảo rằng, một trong những yếu tố mà hai đảng, hai nhà nước sẽ "đẩy mạnh kết nối" là LÒNG DÂN (7). Trong bài viết được cho là của ông Tập Cận Bình gửi tờ Nhân Dân – cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Việt Nam – để quảng cáo nhận thức, tình cảm đối với Việt Nam, ông Tập Cận Bình xiển dương "bốn kiên trì" xem đó như định hướng mới cho quan hệ Việt – Trung :Kiên trì tin cậy lẫn nhau, kiêntrì hài hòa lợi ích, kiêntrì hữu nghị thân thiết, kiêntrì đối xử chân thành(8). Không rõ LÒNG DÂN có phải là yếu tố tác động đến việc đổi "chia sẻ vận mệnh chung" thành "cộng đồng chia sẻ tương lai" chăng và cũng chưa rõ người Việt có chấp nhận "kiên trì" trong việc "chia sẻ tương lai" của dân tộc, của xứ sở với Trung Quốc không ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 14/12/2023
Chú thích
(3) https://nhandan.vn/thong-cao-bao-chi-chung-viet-nam-trung-quoc-post760064.html
(5) https://thesaigontimes.vn/don-lan-song-thuong-mai-va-dau-tu-sau-cuoc-chuyen-dich-lon-tu-dai-loan/
(6) https://vnexpress.net/viet-trung-ky-36-van-ban-thoa-thuan-hop-tac-4688057-p2.html
(7) https://tienphong.vn/viet-trung-ket-noi-di-toi-thanh-cong-post1578043.tpo
************************
Tập Cận Bình đến Việt Nam trong sự ngoảnh mặt của người Việt
Tuấn Khanh, RFA, 14/10/2023
Cây viết bình luận thời sự về chính trị Á Châu, ông Donald Kirk đã nhận định một cách ngắn gọn là "kết thúc thất bại" khi mô tả chuyến đến Việt Nam của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Các nhà quan sát khác thì cũng đồng quan điểm, cho rằng Tập đã không hề chinh phục được trái tim và khối óc của người Việt Nam trong chuyến thăm Hà Nội, mà nếu so sánh gần, điều này hoàn toàn tương phản với thái độ của người dân Việt từ những chuyến đi của các đời tổng thống Mỹ.
Lế đường trung tâm Thành phố Hà Nội vắng hoe người khi đoàn xe của Tập Cận Bình chạy qua
Mặc dù lần trước Tổng thống Mỹ Joe Biden đến Việt Nam là để nhận lời mời về việc kết nối một mối quan hệ lên một tầm cao khác, sau nửa thế kỷ coi nhau là thù địch ; còn Tập Cận Bình đến Việt Nam đem theo nhiều gợi ý về quyền lợi ký kết cùng với Đảng trưởng Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, về 36 "văn kiện hợp tác", từ ngoại giao, viễn thông đến đường sắt… chuẩn bị cho cuộc ăn mừng đồng minh lịch sử 50 năm miền Bắc đã chiến thắng miền Nam Việt Nam. Nhưng sự chờ đón và những bình luận trên mạng xã hội có thể nhận thấy, chuyến đi của lãnh đạo hai quốc gia lớn này là thực sự rất khác biệt trong lòng người Việt.
Đó là ấn tượng nói chung của người Việt Nam nói với phóng viên nước ngoài, khi chứng kiến lễ ký kết hôm thứ Tư 13 tháng 12, của Chủ tịch Tập và Tổng bí thư Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia hiếm hoi đang cùng một hệ ý thức trong việc cầm quyền, tuy nhiên trong lần này, TTXVN đưa rằng ông Trọng nhấn mạnh, chuyến thăm Việt Nam lần thứ ba của ông Tập là một "dấu ấn mới" đặc biệt quan trọng trong "lợi ích chung của cả hai nước".
Trong sự long trọng tiếp đón của Hà Nội, người ta nhìn thấy rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam muốn cho thấy sự khắng khít và trọng thị với mối quan hệ với Trung Quốc. Từ đầu đến cuối, chuyến đi hai ngày ngắn và bảo mật của ông Tập, được coi là đến với một đồng minh lâu năm, đã hoàn toàn im lặng trong lòng người dân Việt. Người ta chỉ có thế biết được tin tức nhỏ giọt qua tin tức truyền hình do nhà nước kiểm soát. "Chẳng có ai quan tâm", một người Việt Nam nói khi nhìn vào ảnh chiếc xe limo của ông Tập đang đi từ sân bay vào trung tâm Hà Nội.
Còn nhớ, khi Tổng thống Donald Trump tới Hà Nội dự hội nghị thượng đỉnh lần thứ hai với lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un vào tháng 2 năm 2019, rồi sau đó là Tổng thống Joe Biden vào tháng 9, không khí xã hội Việt Nam đã làm dấy lên sự tò mò gần như ngưỡng mộ. "Mọi người xếp hàng để xem họ", một người Việt Nam giấu tên nói.
Nhận xét này đã được nhà quan sát lâu năm người Australia, Carl Robinson, người thường xuyên đến thăm Việt Nam cho biết, bởi đối với người Việt Nam, "Hoa Kỳ đại diện cho tự do. Còn Trung Quốc chẳng có ý nghĩa gì cả", ông Robinson nói, "Bạn sẽ không biết mọi người thực sự đang nghĩ gì, khi các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát ở Việt Nam ca ngợi việc ký kết hàng loạt các thỏa thuận, mà người dân qua kinh nghiệm cho thấy hầu như không có khả năng mang lại nhiều kết quả như đã hứa".
Tuy nhiên, cũng theo nhà báo người Úc, Carl Robinson, thì có thể nhận thấy khi nói chuyện với người Việt, "Cảm giác của công chúng rất hoài nghi". Rốt cuộc, "Họ hiểu biết tất cả những điều này trước đây", ông nói, "Hà Nội hầu như không đồng quan điểm với người dân Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Quốc, và người dân có vẻ nhìn thấu những gì đang diễn ra".
Trên thực tế, ông Robinson tin rằng, "Phần lớn tình trạng tham nhũng tràn lan ở Việt Nam là do đầu tư của Trung Quốc gây ra, và đó là một phần do mối quan hệ quá thân mật với giới thượng lưu và quan chức".
Được biết, trước chuyến thăm của ông Tập, Việt Nam và Trung Quốc đã bất đồng không chỉ về chi tiết thỏa thuận mà còn về triển vọng tổng thể.
Đài truyền hình Đức Deutsche Welle đưa tin từ Hà Nội cho biết : "Ban đầu, 45 thương vụ được đề xuất nhưng 8 thương vụ – gắn liền với các tài liệu quan trọng và quý hiếm – đã không được ký kết". Trong nhiều tháng, "Trung Quốc và Việt Nam đã tranh luận về ý nghĩa thực sự của cụm từ 'chung vận mệnh' - một cách nói có ý ràng buộc - trong khi Việt Nam có vẻ thích ý tưởng rộng hơn về 'tương lai chung'. Theo Deutsche Welle, cuối cùng ông Tập đã không đạt được thỏa thuận như mong muốn về việc khai thác đất hiếm cần thiết ở Việt Nam cho các sản phẩm điện tử.
Phần được công bố trong chuyến đi lần này, là về việc xây dựng các tuyến đường sắt và sản xuất các sản phẩm của Trung Quốc tại Việt Nam, nhưng hai bên vẫn tranh cãi về các yêu sách của Trung Quốc đối với Biển Đông, bao gồm cả việc khoan dầu và khí đốt tự nhiên. Đôi khi, Trung Quốc và Việt Nam tạm làm giãn các cuộc tranh cãi quá nhạy cảm đó bằng các quyết định "tuần tra chung" ở vùng biển đang tranh chấp. Carlyle Thayer, nhà tư vấn và giáo sư lâu năm ở Úc, cho biết : "Đó là vấn đề khó chịu lớn nhất trong quan hệ song phương Việt - Trung. Không làm sao để có được các giải pháp để làm cho nó tốt hơn".
Trên bề mặt, sự tiếp đón nồng nhiệt của Hà Nội dành cho ông Tập, được nhiều nhà quan sát coi là phương thức "ngoại giao cây tre" của Việt Nam, mà sự co giãn của Việt Nam đang dao động giữa việc khuất phục Trung Quốc và tỏ ra thân thiện với kẻ thù cũ là Mỹ.
Ông Robinson nói với tờ The New York Sun : "Trung Quốc có thể làm chậm lại và thậm chí đóng cửa hoàn toàn giao thông xuyên biên giới". Việt Nam biết rõ mình dễ bị tổn thương như thế nào cả về kinh tế và quân sự. Tuy nhiên, không có gì có thể được nói công khai", ông Robinson nhận định. "Nhất là ở Việt Nam lúc này, mọi biểu hiện giận dữ chống lại Trung Quốc của công chúng đều bị dập tắt ngay lập tức, nhưng bạn vẫn thường nghe người ta nói mỉa mai với nhau rằng Việt Nam đang là thuộc địa của Trung Quốc".
Tuấn Khanh
Nguồn : RFA, 14/12/2023
******************************
Cộng đồng chia sẻ tương lai với Trung Quốc chỉ là cái vỏ rỗng ?
VOA, 14/12/2023
Việt Nam tham gia ‘Cộng đồng chia sẻ tương lai’ với Trung Quốc chỉ là ‘nỗ lực làm yên lòng Bắc Kinh’ sau khi Hà Nội xích gần về phương Tây, các nhà quan sát nhận định với VOA, và việc này ‘về cơ bản không thay đổi gì quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc hay với Mỹ’.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đón Chủ tịch Tập Cận Bình hôm 12/12 năm 2023. Hai nhà lãnh đạo đồng ý xây dựng 'Cộng đồng chia sẻ tương lai'
Hôm 12/12, Việt Nam nhất trí xây dựng ‘Cộng đồng chia sẻ tương lai’ với Trung Quốc theo lời đề nghị của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sau cuộc gặp giữa ông Tập với Tổng bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.
Tuyên bố chung của hai nước ghi rằng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc ‘có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại’.
Theo giải thích của ông Tập trong bài viết trên báo Nhân dân của Việt Nam thì ‘Cộng đồng chia sẻ tương lai’ có nghĩa là Trung Quốc ‘gắn kết sự phát triển của mình với sự phát triển của các nước láng giềng để mỗi nước đều có cuộc sống tươi đẹp’.
Ông Tập Cận Bình cũng nhấn mạnh tương lai Châu Á ‘nằm trong tay người dân Châu Á’ trong ngụ ý nhằm loại vai trò của Mỹ ra khỏi khu vực.
Để lôi kéo Việt Nam tham gia ý tưởng này, Trung Quốc đã hứa hẹn sẽ mở cửa hơn nữa đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam, nhất là nông sản, và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho Việt Nam để tăng cường kết nối hai nước.
‘Giữ thể diện cho ông Tập’
Việt Nam chấp nhận đề xuất này của Trung Quốc là để ‘giúp ông Tập giữ thể diện’ và ‘giữ ổn định’ sau khi họ đã nâng cấp quan hệ với Mỹ thành Đối tác Chiến lược Toàn diện hồi đầu tháng 9, ông Greg Poling, giám đốc Chương trình đông nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) ở Washington D.C., nói với VOA.
"Tất cả thông tin đều cho thấy Hà Nội không muốn gia nhập ý tưởng của Trung Quốc về cộng đồng chung vận mệnh nhưng cuối cùng họ cảm thấy cần phải nhượng bộ trên vấn đề này", ông Poling nói thêm.
Ông lưu ý khái niệm này lúc đầu có tên là ‘Cộng đồng chung vận mệnh’ nhưng sau đó đã được điều chỉnh thành ‘Cộng đồng chia sẻ tương lai’ để có sự bao trùm hẹp hơn. Theo lời ông thì khái niệm này chỉ là ‘ngôn từ rất kêu nhưng nội dung không có gì nhiều’.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Giang từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore nhắc lại ý tưởng về Cộng đồng chung vận mệnh của ông Tập Cận Bình không phải là điều gì mới mẻ và trước Việt Nam đã có 6 nước Đông Nam Á ký kết tham gia cộng đồng này.
"Khái niệm rộng và bao trùm nhiều vấn đề nhưng mà trên thực tế thực hiện như thế nào thì không được cụ thể lắm. Cho nên tôi nghĩ việc ký kết này nhìn chung mang ý nghĩa nhiều hơn về hình thức bên ngoài", ông Giang nói với VOA.
Ông lưu ý cách nói ‘chung vận mệnh’ ‘hơi nhạy cảm với Việt Nam’, khó được Việt Nam chấp nhận, nên phải đổi thành ‘chia sẻ tương lai’.
Khi được hỏi việc Việt Nam đồng ý với ý tưởng này có phải thành công của ông Tập trong chuyến công du Việt Nam hay không, ông Giang nói : "Phần nào đây là động thái tái cân bằng của Việt Nam khi mà trong năm qua Việt Nam đã có rất nhiều những cải thiện đáng kể về quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây".
Theo lời ông giải thích thì khi chấp nhận ý tưởng này, Hà Nội muốn trấn an Bắc Kinh rằng họ ‘sẽ không bỏ rơi Trung quốc để chạy sang phía bên kia cũng như sẽ không tham gia vào nỗ lực kiềm tỏa Trung Quốc’.
Cho nên chuyên gia cho rằng đây là động thái ngoại giao ‘khá bình thường’ của Việt Nam để đảm bảo an ninh của Việt Nam với Trung Quốc trong khi tạo điều kiện cho Việt Nam có bước phát triển mới.
‘Không có gì thay đổi’
"Cho dù là gì đi nữa, cộng đồng này không có ý nghĩa ngoại giao gì đối với Việt Nam – Trung Quốc vẫn chỉ là một đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam giống như Mỹ, Hàn, Nhật", ông Greg Poling nói và lưu ý rằng các văn kiện được hai nước ký kết ‘đều rất mơ hồ’.
"Việt Nam sẽ tiếp tục vận dụng tối đa đường lối đối ngoại độc lập và tự chủ trong khi đi cùng phe với Mỹ và những nước đồng chí hướng khác trên các vấn đề quan tâm chung, trong đó an ninh trên biển".
Ông Poling nhấn mạnh Hà Nội đã từ chối ký kết hợp tác với Trung Quốc về khoáng sản trọng yếu, bao gồm đất hiếm, mặc dù chính bản thân ông Tập vận động.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Giang chỉ ra trong hệ thống phân cấp về quan hệ ngoại giao của Việt Nam, cao hơn Đối tác chiến lược Toàn diện là ‘Quan hệ đặc biệt’ mà Việt Nam có với Cuba hay Lào chứ không phải với Trung Quốc, và ‘Cộng đồng chia sẻ tương lai’ không tồn tại trong các khái niệm ngoại giao của Việt Nam.
Dẫn Tuyên bố chung giữa hai nước, ông Giang cho rằng Việt Nam ‘đã cố gắng chèn vào những khái niệm mà Trung Quốc không thích’ như ‘tuân thủ luật pháp quốc tế’ hay Công ước Quốc tế về Luật biển, tức UNCLOS’.
"Khi mà có thêm một cái gọi là ‘Cộng đồng chia sẻ tương lai’ giữa Việt Nam và Trung Quốc thì tôi nghĩ không thay đổi nhiều về bản chất mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước", ông Giang nói.
Khi được hỏi liệu Việt Nam có bị Bắc Kinh lôi kéo khỏi các nước phương Tây, ông Giang nói : "Việc Việt Nam đồng ý tham gia Cộng đồng chia sẻ tương lai này không có nghĩa là Việt Nam hoàn toàn đi vào quỹ đạo của Trung Quốc hay chấp nhận khái niệm của Trung Quốc về trật tự thế giới".
Lợi ích kinh tế
Ông Giang chỉ ra trong 36 văn bản ký kết thì đa số ‘tập trung chủ yếu vào thương mại, đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng đường sắt, đường bộ’.
Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất cho nông sản của Việt Nam. Điển hình là trái sầu riêng, sau khi được Trung Quốc mở cửa thị trường cho nhập khẩu chính ngạch hồi năm 2022, thì chỉ trong vòng 10 tháng đầu năm 2023, Việt Nam đã xuất gần 2 tỉ đô la Mỹ sầu riêng sang Trung Quốc, theo số liệu của giới chức thương mại Việt Nam.
Trong 36 văn kiện hợp tác được ký kết nhân chuyến thăm của ông Tập, có hiệp định xây cầu đường bộ qua biên giới và bản ghi nhớ về tăng cường hợp tác viện trợ phát triển đường sắt qua biên giới.
Trước đó, trả lời báo chí trong nước, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, ông Hùng Ba, nói rằng nước ông sẽ tiến tới cho phép nhập khẩu dừa tươi của Việt Nam và sẽ hỗ trợ Việt Nam xây dựng các tuyến đường sắt từ Nam Ninh (Quảng Tây) đến Hà Nội và từ Hà Khẩu (Vân Nam) qua Lào Cai đến Hà Nội và Hải Phòng.
Ông Nguyễn Khắc Giang nhận định rằng Hà Nội ‘rõ ràng cố gắng giữ ổn định quan hệ kinh tế-thương mại’ với Trung Quốc và ‘đang có nhu cầu rất lớn về vốn’ để chuyển đổi sang năng lượng xanh và xây dựng cơ sở hạ tầng’ nên cũng muốn thu hút thêm nguồn lực đầu tư từ Trung Quốc ở những dự án không quá nhạy cảm.
Do đó, ông cho rằng ít nhất cộng đồng này ‘có lợi cho Việt Nam về giao thương và đầu tư với Trung Quốc’.
"Phải đảm bảo làm sao có những chính sách liên quan đến việc thông thương hàng hóa Việt Nam được minh bạch rõ ràng thay vì trở thành công cụ để Trung Quốc gây sức ép khi xảy ra những vấn đề phi kinh tế", ông lưu ý.
Khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ hồi tháng 9, hợp tác kinh tế là nội dụng chủ đạo được đề cập giữa hai nước. Ông Giang cho rằng nhu cầu tăng trưởng kinh tế trong nước là động lực thúc đẩy Việt Nam có các động thái ngoại giao với Mỹ và Trung Quốc.
"Với Việt Nam thì trong tất cả các cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn thì Việt Nam ở trong thế rất thuận lợi để thu hút đầu tư và hỗ trợ từ hai bên, và Việt Nam rõ ràng đã rất khôn ngoan trong việc cố gắng đi ở giữa để tận dụng tối đa lợi thế ấy".
Biển Đông
Cả hai nhà nghiên cứu Greg Poling và Nguyễn Khắc Giang đều cho rằng ‘Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc’ sẽ ‘không thay đổi gì tình hình trên Biển Đông’.
Ông Poling cho rằng không ai ở Việt Nam mong chờ sẽ sử dụng được đường dây nóng về đánh bắt cá giữa hai nước trên Biển Đông vừa được thiết lập còn ông Giang nhấn mạnh lập trường của Bắc Kinh và Hà Nội về Biển Đông vẫn không đổi.
Việt Nam là nước Châu Á duy nhất mà ông Tập đến thăm trong cả năm qua, và là nước thứ hai sau Nga ông Tập đến thăm mà không kết hợp các hoạt động đa phương.
"Đây là chuyến công du nước ngoài cuối cùng của tôi trong năm nay", ông Tập được Đài truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV dẫn lời nói với Chủ tịch Việt Nam Võ Văn Thưởng. "Điều này hoàn toàn cho thấy vị trí đặc biệt của mối quan hệ Trung-Việt trong tổng thể ngoại giao Trung Quốc".
Nguồn : VOA, 14/12/2023
***********************
Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định thúc đẩy hợp tác đường sắt với Trung Quốc là chủ yếu
RFA, 14/12/2023
"Tăng cường thúc đẩy hợp tác đường sắt là một trong những hợp tác chủ yếu giữa Việt Nam và Trung Quốc trong giai đoạn tới".
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Hà Nội hôm 13/12/2023 - AFP
Đó là trả lời của Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Phạm Thu Hằng, vào ngày 14/12 khi báo chí hỏi về văn kiện được ký kết liên quan đến hợp tác đường sắt giữa Hà Nội và Bắc Kinh trong chuyến thăm của Chủ tịch, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc, ông Tập Cận Bình, đến Việt Nam trong hai ngày 12 và 13/12 vừa qua.
Ngoài việc khẳng định đó là một trong những hợp tác chủ yếu giữa hai phía trong thời gian tới, bà Phạm Thu Hằng cho biết cụ thể "hai bên đã nhất trí nghiên cứu thúc đẩy xây dựng đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai- Hà Nội- Hải Phòng ; nghiên cứu các tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Đồng Đăng- Hà Nội, Móng Cái- Hạ Long- Hải Phòng vào thời điểm phù hợp".
Các dự án này theo lời bà Phạm Thu hằng sẽ góp phần tăng cường hợp tác kết nối giữa khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai" với "Sáng kiến vành đai con đường (BRI)" giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Hôm đầu tháng 12 vừa qua, Reuters loan tin Việt Nam và Trung Quốc đang nỗ lực nâng cấp đáng kể các tuyến đường sắt còn kém phát triển đi qua trung tâm đất hiếm của Việt Nam và đến cảng biển hàng đầu của nước này ở phía Bắc.
Thủ tướng Việt Nam, ông Phạm Minh Chính được dẫn lời kêu gọi nâng cấp tuyến đường sắt Côn Minh ở nam Hoa Lục với thành phố cảng Hải Phòng ở phía Bắc của Việt Nam trong một tuyên bố đưa ra vào tháng 11, sau khi Bộ trưởng Thương Mại Trung Quốc, ông Vương Văn Đào, tiến hành chuyến thăm được nói hiếm hoi đến Việt Nam.
Nguồn : RFA, 14/12/2023
**************************
Tập Cận Bình : Chuyến công du Việt Nam là ‘đỉnh cao thành công’
VOA, 14/12/2023
Chủ tịch Tập Cận Bình nói rằng chuyến công du Việt Nam vừa rồi là "đỉnh cao thành công của nỗ lực ngoại giao" của Bắc Kinh trong năm 2023 và "ấn tượng" trước lời ca tụng "tình anh em" của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội ngày 12/12/2023.
"Chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam là đỉnh cao thành công của những nỗ lực ngoại giao của Trung Quốc trong năm nay và có tầm quan trọng to lớn", Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói hôm 13/12 khi kết thúc chuyến thăm cấp nhà nước hai ngày tới Việt Nam, theo truyền thông Trung Quốc.
Cổng thông tin Chính phủ Trung Quốc (State Council) hôm 14/12 dẫn lời ông Tập nói rằng trong chuyến thăm này, ông và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cùng tuyên bố xây dựng cộng đồng cùng chia sẻ tương lai Trung Quốc - Việt Nam với ý nghĩa chiến lược.
Nhà lãnh đạo Trung Quốc nói rằng định vị mới này đã đưa quan hệ Trung Quốc - Việt Nam đến "một điểm khởi đầu lịch sử mới và sẽ đẩy quan hệ Trung Quốc - Việt Nam lên một tầm cao mới".
Ông Tập nói rằng điều làm ông ấn tượng nhất là việc ông Trọng nhấn mạnh nhiều lần rằng mối quan hệ "tình hữu nghị và tình anh em" giữa Trung Quốc và Việt Nam là điểm khởi đầu và nền tảng của mối quan hệ Trung Quốc - Việt Nam.
Tương tự, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị, người tháp tùng ông Tập trong chuyến đi này, nói rằng chuyến thăm "đã đạt được thành công to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng, trở thành cột mốc mới trong quan hệ hai đảng, hai nước Trung Quốc - Việt Nam", đài CRI cho biết hôm 14/12, một ngày sau chuyến thăm Hà Nội của phái đoàn ông Tập.
Truyền thông nhà nước Việt Nam cũng ca ngợi chuyến thăm của ông Tập, nói chuyến thăm này "góp phần quan trọng vào phát huy tình hữu nghị truyền thống Việt Nam - Trung Quốc ; nâng tầm quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong thời kỳ mới, thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới".
Các nhà bình luận nói rằng về mặt từ ngữ, định vị "cộng đồng chia sẻ tương lai" giữa hai nước được thiết lập hôm 12/12 "dễ chấp nhận hơn" so với định vị "cộng đồng chung vận mệnh" mà ông Tập đề xuất trước đó, mặc dù về bản chất trên thực tế hai định vị này khó có thể cho thấy sự khác biệt.
Từ Thành phố Hồ Chí Minh, nhà thơ, nhà báo độc lập Hoàng Thụy Hưng, người thường bày tỏ phản đối sự bá quyền và tranh giành lãnh hải của Trung Quốc ở Biển Đông, nêu nhận định với VOA :
"Không biết vì lý do gì mà được chỉnh thành "cộng đồng chia sẻ tương lai" giữa Trung Quốc và Việt Nam, nghe có vẻ dễ chấp nhận hơn. Đúng là hai nước liền biên giới với nhau và có rất nhiều quan hệ mật thiết từ văn hóa cho đến kinh tế, chưa nói đến chế độ chính trị. Việt Nam không thể và không bao giờ có thể thoát ly được khỏi quan hệ gắn bó như thế.
"Chế độ chính trị có thể thay đổi, chứ không bất biến, nhưng văn hóa, kinh tế, xã hội giữa hai nước chắc chắn là luôn luôn sẽ chia sẻ với nhau, trong lịch sử cũng như trong tương lai".
Ông Nguyễn Khắc Giang, một học giả thuộc Viện ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore, nêu nhận định với AP hôm 13/12 rằng sự nhượng bộ khoa trương từ Hà Nội "không có nghĩa là Việt Nam ủng hộ các sáng kiến chính trị do Trung Quốc dẫn đầu, mà là một hành động phòng ngừa tế nhị, đặc biệt là sau khi nâng cấp với Hoa Kỳ và Nhật Bản gần đây".
Giới học giả và các nhà quan sát phương Tây nói rằng chuyến thăm của ông Tập đến Việt Nam là nhằm thắt chặt hơn nữa với Hà Nội sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden hồi tháng 9, và chuyến thăm Nhật vào tháng trước của Chủ tịch Võ Văn Thưởng, nâng Mỹ, Nhật ngang tầm với Trung Quốc.
Mặc dù tránh không đề cập trực tiếp đến Washington trong các bài phát biểu tại Việt Nam, nhưng ông Tập Cận Bình hôm 13/12 kêu gọi Hà Nội cùng Bắc Kinh hãy ngăn chặn "các thế lực bên ngoài muốn gây rối ở Châu Á-Thái Bình Dương", ám chỉ Hoa Kỳ.
Trong tuyên bố chung hôm 13/12, Trung Quốc và Việt Nam nhất trí nâng quan hệ lên một giai đoạn mới với "sự tin tưởng lẫn nhau về chính trị lớn hơn, hợp tác an ninh thực chất hơn, nền tảng xã hội vững chắc hơn, phối hợp đa phương chặt chẽ hơn và quản lý tốt hơn các khác biệt".
Hai bên cũng nói sẽ tăng cường hợp tác an ninh và chia sẻ thông tin tình báo, chú ý đến những rủi ro của cái gọi là "cách mạng màu" do "các thế lực thù địch, phản động" gây ra. Về "những bất đồng trên biển", hai nước cho biết sẽ "tích cực tìm kiếm các biện pháp giải quyết cơ bản, lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được".
Nguồn : VOA, 14/12/2023
Những quân cờ sắp đặt
Nguyễn Nam, VNTB, 27/06/2023
Chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Việt Nam diễn ra trong lúc hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan và hai hộ tống hạm của Hoa Kỳ đang có chuyến thăm Đà Nẵng trong 5 ngày, bắt đầu từ 25/6.
Liệu đó có phải là trùng hợp ngẫu nhiên ?
Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định, chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là luôn coi trọng duy trì và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc
Theo tường thuật từ phía Bộ Ngoại giao Việt Nam, ngày 26/6, hội đàm giữa Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Lý Cường diễn ra sau lễ đón chính thức trọng thể tại Đại lễ đường Nhân dân ở thủ đô Bắc Kinh, Trung Quốc.
Thủ tướng Lý Cường cũng khẳng định Trung Quốc luôn coi Việt Nam là hướng ưu tiên trong tổng thể chính sách ngoại giao láng giềng ; luôn ủng hộ Việt Nam thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao vai trò quốc tế.
Theo đó, hai bên nhất trí thúc đẩy triển khai hiệu quả Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc về tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện ; duy trì trao đổi và đẩy mạnh giao lưu.
Trong đó, mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực trọng yếu như ngoại giao, quốc phòng, an ninh ; tăng cường hợp tác thực chất trên các lĩnh vực và giao lưu hữu nghị giữa các địa phương và các đoàn thể nhân dân.
Hai bên nhất trí xây dựng đường biên giới trên đất liền hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ; kiểm soát tốt bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định trên biển ; tăng cường phối hợp trong các diễn đàn quốc tế, khu vực.
Phía Việt Nam bày tỏ sớm ký kết Thỏa thuận tìm kiếm cứu nạn trên biển ; khôi phục toàn diện các chuyến bay thương mại ; tăng cường hợp tác quản lý nguồn nước lưu vực sông Mekong – Lan Thương.
Trước đó, cũng trong tháng năm 2023 đã diễn ra một loạt sự kiện ngoại giao nổi bật của Việt Nam với 4 nước thuộc Đối thoại Tứ giác An ninh (QUAD) là Mỹ, Nhật, Ấn, Úc.
Thủ tướng Australia Anthony Albanese đã thăm Việt Nam từ ngày 3-4 tháng 6. Tiếp theo là Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Rajnath Singh thăm Việt Nam từ ngày 7-10 tháng 6, và sau đó Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phan Văn Giang thăm Ấn Độ từ ngày 17-20 tháng 6. Trong hai chuyến thăm cấp cao này, Ấn Độ tặng Việt Nam tàu hộ vệ tên lửa INS Kirpan.
Nhật Bản với tàu khu trục chở máy bay JS Izumo (có khả năng đóng vai trò tàu sân bay với tiêm kích F-35) và JS Samidare đã cập cảng Cam Ranh từ ngày 20 đến 23 tháng 6.
Khi tàu sân bay Nhật Bản JS Izumo rời Cam Ranh thì nhóm tác chiến tàu sân bay USS Ronald Reagan di chuyển lên hướng bắc khá gần căn cứ Cam Ranh, cách khoảng 50 hải lý, trên đường di chuyển đến Đà Nẵng. "Khả năng cao là hai tàu này sẽ diễn tập ở gần Cam Ranh. Chỉ là không biết Việt Nam có tham gia, và nếu tham gia thì có công bố hay không thôi" – một nhà báo nhận xét.
Cũng theo quan sát của nhà báo này khi ông có mặt với tư cách khách mời báo chí trên hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan hôm 26/6, thì đây là hiện thân của sức mạnh Mỹ đến Việt Nam trong hòa bình. Càng có ý nghĩa hơn khi nó đến vào dịp kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước.
"Có mặt ở Đà Nẵng những ngày này, chứng kiến sự nhộn nhịp của các dịch vụ hậu cần, lưu trú, và sôi nổi của thành phố mới thấy các chuyến thăm của tàu sân bay không chỉ bao hàm yếu tố chính trị, an ninh mà còn cả góc độ kinh tế.
Mấy khi có cơ hội đón tiếp hơn 5.000 du khách trong lúc du lịch vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc trở lại. Ngoài ra là hàng trăm lượt tàu, xe trung chuyển tấp nập… Đó là một cơ hội kinh tế cần được đặt lên bàn cân để tăng cao hơn nữa tần suất của các chuyến thăm" – vị nhà báo bình luận.
Nhìn chung, các chuyến thăm chính thức cấp cao và giao lưu quân sự không dễ chuẩn bị trong thời gian ngắn. Những chuyến thăm này diễn ra sau một thời gian dài lên kế hoạch. Như vậy có thể là một sự tình cờ nhưng lại mang tính sắp đặt theo kịch bản nào đó giữa các bên liên quan ; và hàng loạt diễn biến ấy xem ra sẽ thêm vốn liếng trên bàn ‘hòa đàm’ của Thủ tướng Việt Nam với gã hàng xóm thích dùng vũ lực để bắt nạt láng giềng.
Trung Quốc đề nghị Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quân sự, tránh làm "phức tạp" tình hình Biển Đông
Nhân chuyến công du của thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính (25-28/06/2023), Trung Quốc đã đề nghị hai bên hợp tác chặt chẽ hơn với nhau về mặt quân sự, đồng thời thúc giục Việt Nam sớm đúc kết Bộ Quy Tắc Ứng Xử về Biển Đông (COC) và tránh làm tình hình Biển Đông "phức tạp" thêm.
Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính và động nhiệm Trung Quốc Lý Cường duyệt đội danh dự tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, Trung Quốc ngày 26/06/2023 via Reuters - Pool
Theo hãng tin Anh Reuters, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Phan Văn Giang, thành viên phái đoàn thủ tướng Việt Nam, đã có cuộc hội đàm với đồng nhiệm Trung Quốc Lý Thượng Phúc, ngày hôm nay 27/06/2023, tại Bắc Kinh. Lãnh đạo bộ quốc phòng Trung Quốc khẳng định rằng Bắc Kinh sẵn sàng hợp tác với Việt Nam để tăng cường liên lạc ở cấp cao và hợp tác giữa quân đội hai nước.
Đối với ông Lý Thượng Phúc, trong bối cảnh tình hình quốc tế đang hỗn loạn và an ninh của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương đang phải đối mặt với nhiều thách thức, "Trung Quốc và Việt Nam cần tiếp tục hợp tác và đoàn kết chặt chẽ với nhau trong một hành trình mới của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ lợi ích chiến lược chung của hai nước và đóng góp tích cực cho hòa bình và ổn định khu vực".
Bộ trưởng Trung Quốc cho rằng quan hệ giữa quân đội hai nước đã phát triển tốt đẹp, và phía Trung Quốc sẵn sàng thúc đẩy quan hệ lên một tầm cao mới.
Theo Reuters, cuộc tiếp xúc giữa hai bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Trung Quốc diễn ra trong bối cảnh tàu sân bay Mỹ USS Ronald Reagan vừa ghé cảng Đà Nẵng của Việt Nam ngày 25/06 trong một chuyến thăm thứ ba của một hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ kể từ khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam kết thúc.
Chuyến ghé cảng Việt Nam của tàu sân bay Mỹ diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ ở Biển Đông, một vùng biển mà Bắc Kinh khẳng định chủ quyền trên phần lớn diện tích, bất chấp các tuyên bố chủ quyền của nhiều nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Chuyến thăm cũng diễn ra chỉ ít lâu sau khi Việt Nam lên tiếng phản đối Trung Quốc liên tục đưa tàu xâm nhập vùng đặc quyền Kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông.
Bắc Kinh yêu cầu Hà Nội sớm đúc kết COC
Tranh chấp Việt Nam-Trung Quốc về Biển Đông dĩ nhiên cũng được hai bên đề cập đến nhân chuyến công du của thủ tướng Việt Nam.
Theo Reuters, hôm 26/06/2023, nhân cuộc hội đàm với đồng nhiệm Việt Nam Phạm Minh Chính tại Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc Lý Cường tuyên bố rằng Trung Quốc sẵn sàng hợp tác với Việt Nam để quản lý các bất đồng thông qua đối thoại và tham vấn, đồng thời đẩy nhanh các cuộc tham vấn về Bộ Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Đông.
Theo báo chí chính thức Trung Quốc, trong phần liên quan đến Biển Đông, ông Lý Cường còn nói thêm : "và tránh các hành động có thể làm tình hình phức tạp hoặc nghiêm trọng thêm".
Về phía Việt Nam, báo chí trong nước ghi nhận là thủ tướng Phạm Minh Chính cũng nhấn mạnh đến "tầm quan trọng của việc kiểm soát thỏa đáng bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông" đồng thời cho rằng hai bên cần : Tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của nhau ; giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 ; phát huy hiệu quả các cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển ; thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên Bố về Ứng Xử của các bên ở Biển Đông (DOC), phấn đấu xây dựng Bộ Quy Tắc ứng Xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.
Nhà nước Việt Nam sẽ làm khó khi các tổ chức Xã hội dân sự và nhiều các nhân lên tiếng phản đối Trung Quốc gay hấn ở Biển Đông ? Và, Việt Nam nên giải quyết dứt điểm tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ra sao ?... là những nội dung được bàn luận trong buổi hội thảo sau đây, mời quí vị cùng theo dõi.
Khách mời gồm: Ông Lê Thân, Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng ; ông Đinh Kim Phúc, Nhà nghiên cứu biển Đông ; Vũ Đức Khanh Luật sư tại Canada
Nguồn : RFA, 05/05/2023
Không ai ngờ trong bối cảnh như hiện nay, các viên chức hữu trách ở Việt Nam lại moi phương châm "16 chữ vàng" và "tinh thần bốn tốt" ra dùng lại để chứng minh thiện chí của Đảng cộng sản Việt Nam.
Dân Việt tưởng niệm 25 năm trận chiến Gạc Ma chống Trung Quốc
Trong vài năm gần đây, sự hung hăng của Trung Quốc nhằm hiện thực hóa yêu sách về chủ quyền tại biển Đông đã khiến phương châm "16 chữ vàng" - láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai và "tinh thần bốn tốt" - láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt (được Trung Quốc đề ra và xác lập như kim chỉ nam cho quan hệ Trung – Việt) tuyệt tích tại Việt Nam.
Không ai ngờ trong bối cảnh như hiện nay, các viên chức hữu trách ở Việt Nam lại moi phương châm "16 chữ vàng" và "tinh thần bốn tốt" ra dùng lại để chứng minh thiện chí của Đảng cộng sản Việt Nam, chính quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với Trung Quốc(1). Chẳng lẽ chỉ vì ông Nguyễn Phú Trọng là chính khách đầu tiên được Trung Quốc mời thăm Trung Quốc ngay sau khi Đại hội 20 của đảng cộng sản Trung Quốc kết thúc ?
Nếu đem "16 chữ vàng" và "tinh thần bốn tốt" so với những gì vừa diễn ra thì có thể thấy những láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai và láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt đúng là hàng "độc" !
***
Mỹ sẽ sớm nâng quân số đồn trú tại Philippines, Indonesia và tăng số lượng đơn vị trú đóng được hoán chuyển theo định kỳ. Theo Trung tướng Bartolome Bacarro - Tham mưu trưởng quân đội Philippines thì Mỹ muốn xây dựng thêm các cơ sở quân sự tại năm khu vực ở phía Bắc Philippines. Hai trong năm khu vực này nằm ở tỉnh Cagayan - đối diện với Đài Loan và sẽ giống như những tiền đồn để phòng ngừa và ứng phó với xung đột Đài – Trung. Còn các căn cứ quân sự ở khu vực Palawan và Zambales (những tỉnh giáp với biển Đông) sẽ tạo điều kiện để quân đội Mỹ có thể hỗ trợ Phiplppines nhanh hơn, tốt hơn khi xảy ra xung đột giữa Philippnes và Trung Quốc ở vùng biển hai bên đang có tranh chấp về chủ quyền. Đó là những thông tin mới nhất liên quan đến hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và Philippines sau Hiệp định gia tăng hợp tác quốc phòng được ký 2014.
Từ đó đến nay, quân đội Mỹ đã xây dựng hệ thống nhà ở, cơ sở huấn luyện chung, kho cất – trữ phương tiện quân sự, trong một số căn cứ quân sự của Philippines. Khi tình hình thay đổi, việc đồn trú tại Philippines không còn cần thiết, Mỹ sẽ giao toàn bộ các hệ thống này cho quân đội Philpippnes sử dụng. Quân đội Mỹ cũng đã gửi nhiều đơn vị cố vấn quân sự (Security Force Assistance Brigade – SFAB) đến Philippines để hỗ trợ huấn luyện quân đội Philippines suốt từ 2014 đến nay. Ngoài việc cùng tham gia các cuộc tập trận chung theo định kỳ với các quốc gia khác trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (như Pacific Pathways) quân đội Mỹ và quân đội Philippines còn tổ chức những cuộc tập trận song phương (như Salaknib’ 22) để gia tăng khả năng và hiệu quả phối hợp khi cần.
Những điều tương tự đã, đang hoặc sẽ diễn ra tại một số quốc gia thuộc khối ASEAN như Indonesia, Malaysia, Thái Lan. Ông Lloyd Austin – Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ vừa nhắc lại lý do Mỹ hành xử như vẫy : Việc càng ngàycàng nhiều quốc gia có cùng chí hướng- cùng nhau duy trì các nguyên tắc chung của luậtpháp quốc tế để bảo vệ trật tự quốc tế là điều đặc biệt quan trọng (2).
***
Sau khi Nga xâm lược Ukraine, cả thế giới chật vật xoay sở với tác hại từ cuộc chiến do Nga khởi xướng, hợp tác quân sự, hợp tác quốc phòng để bảo vệ luật pháp quốc tế, ngăn chặn sử dụng vũ lực trở thành xu thế chung. Đó là lý do Đông Á thu hút sự chú ý cao hơn của cộng đồng quốc tế. Bảo vệ trật tự ở biển Đông không chỉ là chuyện riêng của Mỹ và một số quốc gia Đông Nam Á. Tuy sẽ gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế nếu đối đầu với Trung Quốc nhưng Canada vừa loan báo sẽ chi 1,7 tỉ Mỹ kim cho hoạt động tuần tra, tình báo và an ninh thông tin ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương để xây dựng quan hệ chặt chẽ hơn với các đồng minh ở Châu Á nhằm chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc(3) Trong vô số thông tin có liên quan đến hợp tác quân sự, hợp tác quốc phòng nhằm kiềm chế Trung Quốc, không thấy thiên hạ đề cập đến Việt Nam.
Ý tưởng của Mỹ :Xây dựng hệ thống kho, dự trữ quân cụ, quân nhu tại Việt Nam nhằm giúp quân đội Mỹ triển khai nhanh các chiến dịch nhân đạo, giúp giải quyết hậu quả thiên tai tại khu vực Đông Nam Á nhờ các nguồn tiếp liệu đã sẵn sàng… dường như đã chết. Ý tưởng này được tướng Dennis Via nêu ra năm 2016 khi là Tư lệnh Bộ Chỉ huy Tiếp vận của Lục quân Mỹ. Lúc đó, một số nguồn thạo tin còn đề cập đến khả năng, nếu Việt Nam đồng ý, hệ thống kho tiếp liệu, dự trữ quân cụ, quân nhu cho các chiến dịch nhân đạo sẽ được thiệt lập ở miền Trung Việt Nam. Sau tướng Via, tướng Robert Brown (Tư lệnh Lục quân Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương từ 2016 đến 2019) tiếp tục lập lại ý tưởng này nhưng ngoài Việt Nam, tướng Brown tính thêm Malaysia, Bangladesh, Cambodia như những nơi có thể nhắm tới !
Giống như tướng Via, tướng Brown giải thích tại sao quân đội Mỹ bận tâm về chuyện này :Đó là khu vực chắc chắn sẽ xảy ra những thảm họa. Kế hoạch này nhằm tư vấn, hỗ trợ cứu được nhiều mạng người nhất trong toàn khu vực (4) !
Trước nay, quân đội Mỹ đã và vẫn tiếp tục thực hiện các chiến dịch nhân đạo, hỗ trợ nhiều quốc gia, khu vực thoát ra khỏi các thảm nạn. Tại sao họ đã xác định Việt Nam là địa điểm lý tưởng để xây dựng hệ thống cất trữ phương tiện, vật dụng dành riêng cho các chiến dịch nhân đạo và hợp tác Mỹ - Việt càng ngày càng chặt chẽ nhưng ý tưởng đó dường như chẳng đến đâu ?
Tại sao trong thời điểm hợp tác quân sự, hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và nhiều quốc gia khác với một số thành viên ASEAN càng lúc càng sôi động lại không thấy bóng dáng Việt Nam ? Câu trả lời nằm ở phía Việt Nam. Sau khi Việt Nam tuyên bố sẽ cương quyết thực hiện "chính sách ba không" (Không liên minh quân sự. Không cho bất kỳ quốc gia nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam. Không sử dụng quan hệ song phương nhắm vào một quốc gia khác), rồi tăng thêm một "không" (không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) thành "chính sách bốn không" và cương quyết giữ chặt các "không" ấy bất kể tình thế của Việt Nam ra sao, chắc là thiên hạ đã nản. Không phải tự nhiên mà có các "không" ! Cứ ngẫm ắt sẽ thấy, các "không" thụ thai và ra đời từ "vàng" và "tốt".
Trừ Trung Quốc, chẳng có chính quyền của quốc gia nào hứa sẽ giúp Đảng cộng sản Việt Nam duy trì vai trò lãnh đạo "toàn diện" và "tuyệt đối" tại Việt Nam. Muốn được "người bạn lớn" tận tình hỗ trợ thì phải xài "vàng" và "tốt". "Vàng" và "tốt" đúng là hàng "độc" !
Trân Văn
Nguồn : VOA, 28/11/2022
Chú thích
(3) https://www.stripes.com/theaters/americas/2022-11-27/canada-military-ties-indo-pacific-8208193.html