Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

jeudi, 17 août 2017 21:07

Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám

Bài 4 (trong Một hồ sơ về thảm họa dân tộc)

 

Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám

 

cmt8

 

Ghi chú tháng 8/2015

Bài này được viết ra năm 1991, giữa cao điểm của làn sóng dân chủ thứ ba làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản và phong trào cộng sản thế giới. Gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua nhưng những nhận định của nó vẫn còn rất thời sự, có lẽ còn thời sự hơn nhiều so với khi được viết ra. Kết luận vào năm 1991 của bài này là thế hệ 1990 phải hơn thế hệ 1945 để đất nước có lối thoát. Mong ước này đã không được toại nguyện, nhưng một thế hệ mới đã xuất hiện được thông tin đầy đủ hơn và với ý thức chính trị rõ rệt hơn. Tiến bộ tuy chậm nhưng có thực.

Đăng lại bài này tôi cũng xin ghi nhận hai thiếu sót :

Một là, tôi đã không nhấn mạnh thiệt hại lớn nhất mà Đảng Cộng Sản đã gây ra cho dân tộc trong Cách Mạng Tháng 8. Đó là sự tàn sát những người yêu nước trong các đảng phái quốc gia, như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt. Họ là những trí thức yêu nước chân chính duy nhất vào lúc đó. Những người trí thức khác hoặc chỉ học để làm quan hoặc chìm đắm trong thơ văn lãng mạn. Còn những người cộng sản ? Họ đặt lý tưởng cộng sản lên trên dân tộc, họ tranh đấu và hy sinh cho lý tưởng cộng sản và phong trào cộng sản quốc tế hơn là cho dân tộc. Đó chính là lý do họ chủ trương cuộc kháng chiến võ trang. Đó cũng là lý do khiến họ tàn sát những người yêu nước để giành độc quyền kháng chiến. Những người yêu nước chân chính đã bị tiêu diệt gần hết. Ý chí và tình cảm dân tộc gần như đã bị bẻ gẫy.

Hai là, sự sợ hãi không phải là lý do duy nhất khiến chế độ toàn trị vẫn còn tiếp tục. Một nguyên nhân quan trọng khác là sai lầm phương pháp. Do quen bị áp đặt những lý luận khiên cưỡng một số đông đảo trí thức Việt Nam quay lại ức hiếp trí tuệ của chính mình. Thay vì dựa vào sự hiểu biết và lý luận để rút ra kết luận họ chọn lựa trước những giải pháp tiện lợi hoặc an toàn rồi loay hoay biện hộ cho những lập trường trái ngược với cả thực tế lẫn lý luận đúng đắn. Sự coi thường kiến thức và lý luận này đã khiến nhiều người cố bám vào ảo tưởng có thể cải tổ chế độ qua những yêu cầu và kiến nghị. Nhưng thực tế đã chứng tỏ rằng không một chế độ cộng sản nào có thể cải tổ được và giải pháp duy nhất đối với một chính quyền tham nhũng là thay thế nó bằng một chính quyền khác. Chúng ta đang có một chế độ cộng sản rất tham nhũng.

NGK

-------------------------------

Trong lịch sử thế giới chưa có chủ nghĩa nào khơi dậy nhiều đam mê và gây ra nhiều xung đột đẫm máu cho nhiều dân tộc bằng chủ nghĩa cộng sản. Việt Nam đã là một trong những nạn nhân đau đớn nhất. Chủ nghĩa cộng sản và những thảm kịch mà nó đem tới đã biến Việt Nam từ vị trí một nước nhiều triển vọng bậc nhất thành một trong những quốc gia nghèo đói, lạc hậu và bế tắc nhất. Ba mươi năm chiến tranh huynh đệ tương tàn, hàng triệu người thiệt mạng, dân tộc bị chia rẽ trầm trọng. Thành tích của Đảng Cộng Sản Việt Nam tai hại một cách đáng sợ.

cach1

Chủ nghĩa cộng sản và những thảm kịch mà nó đem tới đã biến Việt Nam từ vị trí một nước nhiều triển vọng bậc nhất thành một trong những quốc gia nghèo đói, lạc hậu và bế tắc nhất.

Tôi chưa bao giờ bị chủ nghĩa cộng sản cám dỗ cả. Nhưng cộng sản đã chinh phục được những con người tôi rất quí mến. Càng lớn lên tôi càng khám phá ra rằng những trí thức, văn nghệ sĩ mà tôi ngưỡng mộ nhất trong thời niên thiếu phần lớn đã di theo cộng sản và vẫn còn tiếp tục thán phục cộng sản. Từ khi bắt đầu theo dõi hoạt động chính trị, niềm đau lớn nhất của tôi là nhiều bạn bè quí mến nhất của tôi lần lượt ngả theo cộng sản. Cộng sản, đặc biệt là cộng sản Việt Nam, đã có một sức quyến rũ ghê gớm. Ghê gớm đến nỗi nhiều trí thức lỗi lạc mặc dầu đã hiến trọn cuộc đời cho cộng sản để chỉ được một chỗ đứng chầu rìa bạc bẽo, mặc dầu phải chứng kiến những tội ác kinh khiếp của nó, vẫn không thể dứt bỏ nó. Sức thu hút mãnh liệt ấy bắt đầu từ một biến cố trọng đại rồi cứ trên đà đó mà tiếp tục. Biến cố trọng đại đó là Cách Mạng Tháng Tám.

"Bài học 45" là điều được những người chống cộng nhắc đi nhắc lại nhiều nhất. Trong những công kích gần đây nhắm vào chủ trương "hòa giải và hòa hợp dân tộc" của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, "bài học 45" cũng được viện dẫn nhiều nhất. Người ta phê phán chúng tôi là không thuộc lịch sử, không biết "bài học 45". Có lần Trần Thanh Hiệp nhăn mặt vì giận dữ nói với tôi : "Làm sao người ta có thể tưởng tượng là mình không biết đến những sự kiện tầm thường như vậy được nhỉ ?".

Tựu trung "bài học 45" được viện dẫn và lý luận như thế này : "Vào những năm 1945-1946, phe Quốc Gia có lực lượng mạnh, có thể thắng được Cộng Sản nhưng vì đã ngây thơ, cả tin vào cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản rồi bị lường gạt và tiêu diệt. Bài học cay đắng đó chứng tỏ rằng thỏa hiệp vời cộng sản là chết. Vì vậy những kẻ còn nói chuyện thỏa hiệp, liên hiệp, hòa giải, v.v. với cộng sản chỉ có thể hoặc ngây thơ, ấu trĩ, hoặc tay sai cộng sản, hoặc cộng sản trá hình".

Cái nhìn này được rất nhiều người chia sẻ. Nó đã trở thành một phần của ký ức tập thể.

Suy nghĩ và hành động của chúng ta lệ thuộc rất nhiều ở ký ức tập thể. Khi ký ức tập thể sai thì những phân tích và kết luận khó có thể đúng. "Bài học 45" đã được ghi nhận như thế trong ký ức tập thể của chúng ta. Nhìn lại giai đoạn 1945-1946 vì vậy là điều cần thiết.

Trái với khẳng định của nhiều người, vào thời điểm 1945, phe quốc gia không mạnh, cũng không yếu, mà phải nói là không đáng kể, trong khi đảng cộng sản đã bành trướng khắp nơi và đã nắm trọn được tình hình.

Cán cân lực lượng ngay từ lúc đầu đã lệch hẳn về phía cộng sản. Nhượng Tống, sáng lập viên Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuốn hồi ký Nguyễn Thái Học của ông, cho biết rằng khi Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập cuối năm 1927 thì Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, tiền thân của đảng cộng sản, thành lập năm 1925, đã có cơ sở ở khắp nơi và Việt Nam Quốc Dân Đảng không thể nào cạnh tranh được với họ. Nhờ hoạt động táo bạo, Việt Nam Quốc Dân Đảng đã phát triển nhanh trong vòng hai năm, và được cả nước biết đến và hưởng ứng sau cuộc khởi nghĩa liều lĩnh tháng 2-1930. Nhưng Việt Nam Quốc Dân Đảng đã phải trả bằng tính mạng của chính mình cho uy tín này. Toàn bộ ban lãnh đạo bị tiêu diệt, một số nhỏ trốn thoát dang Trung Hoa. Những đảng viên còn lại trong nước như rắn không đầu không liên lạc được với nhau nữa và cũng không biết phải làm gì, lại bị truy lùng ráo riết nên hoàn toàn tê liệt, cái uy tín có được đã không khai thác được. Đến năm 1931, khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng lên kiên cường không kém và cũng bị đàn áp dã man không kém cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng thì đảng cộng sản cũng chiếm được tình cảm của quần chúng ngang hàng với Việt Nam Quốc Dân Đảng. Chỉ khác một điều là cơ cấu của họ vẫn còn và họ khai thác được cảm tình này để thu hút quần chúng trong khi Việt Nam Quốc Dân Đảng đã gục ngã.

Nhìn lại thập niên 1930, người ta phải ngỡ ngàng về sự ủy mị của trí thức Việt Nam lúc đó. Sau hai cuộc khởi nghĩa đẫm máu của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Xô Viết Nghệ Tĩnh, bên lề những biến động lớn của thế giới, thanh niên Việt Nam tại các thành phố vẫn chỉ biết mê mải đèn sách với mộng ra làm quan hay đắm chìm trong một phong trào lãng mạn rất khó hiểu. Oái oăm thay, thập niên 1930 lại được coi như là thời đại vàng son của tiểu thuyết, thơ tình, nhạc ướt át, tranh ấn tượng. Những người cộng sản ít ra đã không trùm chăn nằm ngủ trong giai đoạn này, sự dũng cảm của họ không thể chối cãi được. Sau Cách Mạng Tháng Tám, trí thức Việt Nam ngỡ ngàng tỉnh dậy, hổ thẹn vì sự hèn nhát của mình và bị thôi miên bởi sự dũng cảm của người cộng sản, từ đó về sau nhiều người đã phục tùng họ một cách không điều kiện.

Một bước ngoặc quan trọng đã làm cho thế thắng của đảng cộng sản không thể đảo ngược được là giai đoạn 1936-1938 khi Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire) lên nắm chính quyền tại Pháp. Mặt trận này là một liên hiệp giữa Đảng Xã Hội Pháp và Đảng Cộng Sản Pháp, và vì vốn chống chính sách thuộc địa nên đã dành nhiều dễ dãi cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam. Đảng cộng sản đã chụp lấy cơ hội để hoạt động và phát triển công khai trong khi những cơ sở còn lại của Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn chỉ giới hạn trong một vài hoạt động bí mật. Đảng cộng sản vì vậy đã độc chiếm được cuộc đấu tranh giành độc lập. Họ đã phối hợp được hoạt động bí mật với hoạt động công khai, đã xây dựng được cơ sở ở khắp nơi, đã có cơ quan ngôn luận, đã len lỏi và khuynh đảo được nhiều tổ chức nghiệp đoàn và hiệp hội, đã chủ động được nhiều cuộc đình công và phá hoại, gây tiếng vang và phấn khởi ở khắp nơi. Khi Thế chiến II bùng nổ và Nhật vào Đông Dương, họ là tổ chức tranh đấu duy nhất thực sự có hoạt động. Thế ưu thắng áp đảo của họ cứ thế mà tiếp tục. Nạn đói 1945, trong đó hàng triệu người bị chết, đã đem lại cho khẩu hiệu xóa bỏ giàu nghèo của cộng sản một hấp lực ghê gớm. Phẩm giá và mạng sống của người nghèo lúc đó không bằng chén gạo, củ khoai. Hấp lực của cộng sản còn đi xa hơn thế nữa, nó còn buôn bán cái ảo tưởng là những người vô học cũng có thể là những cấp lãnh đạo. Chính cái ảo tưởng đó đã làm say sưa nhiều người mộc mạc đến độ họ sẵn sàng chết cho đảng. Nhưng cũng chính cái ảo tưởng đó đã khiến cho sự dốt nát ngự trị trong chính quyền cộng sản và đập phá đất nước cho đến ngày nay.

Tương quan lực lượng đã như vậy, về đường lối thì sao ?

Người ta trông đợi rất nhiều ở nhóm Phong Hóa Ngày Nay, đặc biệt là ở ông Nguyễn Tường Tam và người em xuất chúng của ông là Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long. Họ được coi là những nhà trí thức lỗi lạc nhất lúc đó. Đảng Đại Việt Dân Chính của họ ra đời năm 1943 với một cương lĩnh mà ông Nguyễn Tường Bách, em ruột của hai ông Tam, Long và cũng là một nhân vật cốt cán của Đại Việt Dân Chính, đánh giá như sau : "đó là một sự kết hợp hỗn tạp của chủ nghĩa quốc gia trong đó có thành phần của chủ nghĩa Tam Dân, lại có cả thành phần của chủ nghĩa phát xít", ông Bách nhận định : "cái cương lĩnh hỗn tạp ấy dĩ nhiên không thể lôi kéo được quần chúng". Đó là tư tưởng của nhóm trí thức sáng giá nhất lúc đó. Việt Nam Quốc Dân Đảng thì cũng vẫn không có đường lối nào rõ rệt cả. Sau này Đại Việt Dân Chính sát nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng và các ông Tam, Long, Bách trở thành những nhân vật cốt cán của Việt Nam Quốc Dân Đảng, ta có thể hiểu rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng tán thành cái "cương lĩnh hỗn tạp" đó. Vào thời điểm này, con người đầu tư vào tư tưởng nhiều nhất là ông Lý Đông A, nhưng luận thuyết của ông không phải là một cương lĩnh chính trị, nó chỉ giới hạn ở lý thuyết và lại mang nhiều ngộ nhận về mặt triết lý và ngôn ngữ. Vả lại Đảng Đại Việt Duy Dân của Lý Đông A không phát triển trong quần chúng, không đóng vai trò đáng kể nào trong những năm 1945/1946 cả.

Tư tưởng chỉ đạo đã như vậy, chiến lược của phe quốc gia lại quá nông cạn. Đa số các tổ chức ra đời lúc đó trông đợi ở Nhật đánh đổ Pháp và trao quyền cho họ. Họ không nhận ra một số sự thật hiển nhiên là Nhật không thể đánh đổ Pháp ; Chính quyền Đông Dương của Pháp lúc đó phục tùng chính phủ Vichy, đồng minh của Đức, mà Đức lại là đồng minh của Nhật, nên Nhật không thể có ý định đánh đổ chính quyền thuộc địa Pháp. Vả lại Nhật còn nhiều vấn đề cấp bách khác cần phải đối phó hơn là đuổi Pháp để trao trả độc lập cho Việt Nam. Họ còn cần Pháp giữ gìn anh ninh trật tự, bảo đảm hậu cần cho họ tại Việt Nam. Pháp đã chấp nhận như vậy và đó là tất cả những gì Nhật muốn. Kiến Quốc Quân của Việt Nam Quang Phục Hội đã phải trả cái giá vô cùng đắt cho lòng tin ở Nhật, nhưng các đảng phái quốc gia vẫn chưa vỡ mộng, hoặc vỡ mộng nhưng không nhìn thấy đường lối nào khác. Nhật chỉ đảo chính Pháp khi quốc xã Đức đã đầu hàng và chính quyền thuộc địa Pháp sắp ngả theo phe Đồng Minh, nhưng lúc đó Nhật cũng đã tuyệt vọng và không còn nhờ cậy được nữa. Đến khi Nhật đã thua rõ rệt, các nhóm quốc gia lưu vong lại ngả sang nương tựa Tưởng Giới Thạch.

Đường lối và chiến lược bao giờ cũng là căn bản khởi đầu của mọi cuộc đấu tranh chính trị. Các đảng phái quốc gia đã thiếu đường lối và không có chiến lược chung nên đã không kết hợp được. Người ta nói nhiều về khủng hoảng lãnh đạo và chê trách các lãnh tụ quốc gia lúc đó là nặng đầu óc lãnh tụ, không ai chịu ai. Nhưng đó chỉ là hiện tượng ngoài mặt, lý do căn bản là phe quốc gia đã thiếu đường lối và chiến lược. Khủng hoảng lãnh đạo là hậu quả tất nhiên của khủng hoảng về lập trường.

Tổ chức rời rạc, đường lối không có, chiến lược cũng không, các phe phái quốc gia nhỏ bé hoàn toàn rối loạn. Đầu năm 1945 cộng sản, dưới danh nghĩa Việt Minh, đã kiểm soát được tình hình.

Ông Trần Trọng Kim, thủ tướng chính phủ Nam Triều thành lập tháng 4/1945, một tháng sau ngày Nhật đảo chính Pháp, nhận định trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi như sau : "Đảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh huyện này, phá huyện kia, lính Bảo An ở các nơi phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn nhưng cũng không chống lại nữa" ; tại miền Bắc, khâm sai Phan Kế Toại "sợ hãi và chán nản, chỉ nói chuyện xin từ chức". Đến gần ngày Nhật đầu hàng, ông Hồ Tá Khanh, bộ trưởng kinh tế của chính phủ Trần Trọng Kim, đề nghị "phong trào Việt Minh mạnh lắm, nội các Trần Trọng Kim nên thôi đi để cho họ làm việc may ra họ cứu được nước". Ông Hồ Tá Khanh không hề có cảm tình nào với Việt Minh cả.

Việt Minh không hề giấu giếm là sẽ dùng bạo lực để nắm chính quyền một mình vì lúc đó họ thấy mình là lực lượng duy nhất. Thủ tướng Trần Trọng Kim ra Bắc, bí mật tiếp xúc với họ xin thỏa hiệp, họ chỉ cử một "thiếu niên" (theo lời ông Trần Trọng Kim) tới gặp. Thiếu niên này không thèm xưng cả tên tuổi, chỉ nói thẳng cho ông Trần Trọng Kim hay là họ không cần hợp tác với ai cả, họ sẽ cướp toàn bộ chính quyền bằng võ lực dù cho nhân dân có mười phần chết chín đi nữa. Ông Trần Trọng Kim gởi hai bộ trưởng Phan Anh ra Bắc và Hồ Tá Khanh vào Nam để vận động các nhân sĩ, cả hai ông đều bị Việt Minh bắt giữ trên đường đi. Việt Minh đã kiểm soát toàn bộ lãnh thổ.

Ngay khi Nhật đầu hàng, ngày 14/8/1945, Việt Minh lập tức khởi nghĩa làm chủ tình hình khắp nơi, tới ngày 19/8/1945 họ huy động dân chúng xuống đường tràn ngập các cơ quan và nắm chính quyền tại Hà Nội. Điều này chứng tỏ họ đã có kế hoạch chu đáo. Ngày 25/8, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2/9, ngày Nhật hoàng ký văn kiện đầu hàng cũng là ngày Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và công bố nội các đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Các đảng phái quốc gia hoàn toàn vắng mặt.

Tháng 10/1945, quân Trung Hoa tiến vào Việt Nam, đem theo một số lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Việt Cách). Nhờ sự che chở của quân Trung Hoa, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Cách bắt đầu công khai hoạt động, đả kích Việt Minh, đòi chia quyền. Báo Việt Nam của Việt Nam Quốc Dân Đảng bắt đầu đả kích cộng sản mạnh mẽ, Việt Cách lập được một trụ sở và một loa phóng thanh ở đường Quan Thánh. Trong hồi ký Những Ngày Chưa Quên ông Đoàn Thêm thuật lại là các buổi phát thanh của Việt Cách mới đầu lôi kéo cả ngàn người, nhưng càng về sau càng thưa thớt. Trần Thanh Hiệp có mặt tại trụ sở Quan Thánh trong suốt giai đoạn này cũng nhìn nhận như vậy. Ảnh hưởng của phe quốc gia chỉ giới hạn ở trong một vài khu phố tại Hà Nội, ra ngoài các khu này họ có thể bị bắt và bị thủ tiêu dễ dàng. Ngoài Hà Nội, các cán bộ phe quốc gia bị phát hiện sẽ bị thủ tiêu ngay. Người ta nói nhiều đến các chiến khu của phe quốc gia ở phía Bắc Hà Nội, nhưng mọi nhân chứng trong thời gian đó đều xác nhận đó chỉ là những thị xã hoàn toàn bị cô lập. Quân quốc gia ở đó trong đại bộ phận là các toán lính khố xanh của Pháp trước đây bơ vơ sau ngày Nhật đảo chính và được các lãnh tụ phe quốc gia kết nạp trên đường theo quân Trung Hoa về Hà Nội. Mỗi thị xã chỉ có vài chục tay súng và bị quân du kích Việt Minh vây kín. Sau này, khi các cấp lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng theo quân Trung Hoa rút về nước thì khi họ triệt thoái khỏi nơi đâu các thị xã lọt vào tay Việt Minh tới đó. Tất cả bị xóa bỏ trong vòng vài ngày.

Một số người quốc gia mong đợi quân Trung Hoa đánh dẹp Việt Minh giùm mình. Cũng may cho họ mà sự kiện này không xảy ra, nó không đem lại cho họ chính quyền mà chỉ khiến họ trở thành những kẻ phản quốc. Dù quân Trung Hoa có ra tay đánh Việt Minh chăng nữa, họ cũng chỉ có thể đẩy quân Việt Minh ra khỏi Hà Nội và Hải Phòng mà thôi, phần còn lại của cả lãnh thổ vẫn ở trong tay Việt Minh. Các tướng Trung Hoa biết như vậy nên mặc dầu họ không ưa Việt Minh và muốn bênh vực phe quốc gia, họ chỉ có thể làm áp lực để Việt Minh nhượng bộ phe quốc gia được phần nào hay phần ấy.

Chính do áp lực của quân Trung Hoa mà đầu tháng 3/1946, Hồ Chí Minh đã phải nhượng bộ giải tán chính phủ mà ông đã thành lập từ 6 tháng trước và chấp nhận thành lập một chính phủ liên hiệp với sự tham dự của những bộ trưởng thuộc các đảng phái quốc gia hay không có đảng phái. Vì Việt Minh đã làm chủ tình hình nên chính phủ này hoàn toàn không có một thẩm quyền nào cả. Ông Huỳnh Thúc Kháng (bộ trưởng Nội Vụ) tâm sự với ông Trần Trọng Kim rằng mọi quyết định đều do địa phương, ông không làm gì cả, còn ông Nguyễn Tường Tam thì nói rằng hồ sơ Bộ Ngoại Giao của ông chỉ có ba lá đơn của người Tàu nhờ tìm nhà và tìm hộ cái ví bị mất cắp. Khi quân Trung Hoa sắp rút đi, ông Nguyễn Hải Thần, phó chủ tịch chính phủ, bỏ nước sang Tàu. Các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng sau đó cũng theo đường Việt Trì, Yên Bái chạy sang Trung Hoa. Chính phủ liên hiệp tan rã sau bốn tháng. Từ đó Việt Minh thẳng tay tàn sát đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Chính phủ liên hiệp tháng 3/1946 dầu sao cũng đã có một tác dụng tốt cho phe quốc gia, nhờ đó mà các cán bộ phe quốc gia không bị tàn sát thẳng tay trong vài tháng. Sau này tôi có dịp nói chuyện nhiều lần với ông Vũ Hồng Khanh, chủ tịch Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhân vật quan trọng nhất của phe quốc gia lúc đó. Ông Khanh nói rằng nhờ có chính phủ liên hiệp mà nhiều đồng chí của ông đã có thì giờ trốn thoát hoặc sang Trung Hoa, hoặc sang những địa phương khác nếu không thì đã có thể bị tàn sát hết. Tôi nghe rất nhiều người chê ông Vũ Hồng Khanh là dở. Ông Vũ Hồng Khanh quả nhiên không phải là người lãnh đạo xuất sắc, ông kém về nhiều mặt, nhưng ông hơn đa số những người chê ông. Mỗi lần nghĩ tới ông, tôi lại nhớ tới câu nói của ông Ngô Thời Nhiệm : "gặp thời thế thế thời phải thế".

Sức mạnh của Việt Minh so với phe quốc gia áp đảo đến nỗi cho tới mãi sau này đại đa số những người cộng sản có vai trò quan trọng vào thời điểm Cách Mạng Tháng Tám mà tôi đã được gặp, kể cả những người ngày nay đã thất vọng, chỉ coi các phe phái quốc gia lúc đó như là những bọn phá đám dựa hơi quân Trung Hoa, hay quân Pháp tại miền Nam, để gây khó khăn cho họ. Thái độ của họ, dù thiên vị, cũng phản ánh tương quan lực lượng lúc đó.

Cũng có người hiểu biết hơn, nhìn nhận rằng sau Cách Mạng Tháng Tám, phe quốc gia đã hoàn toàn tuyệt vọng nhưng lại chê nội các Trần Trọng Kim là hèn nhát đã đầu hàng Việt Minh và đã để cho Việt Minh chiếm cả nước, nhờ thế mới tạo được sức mạnh. Ông Trần Trọng Kim trả lời rằng những người này ở ngoài cuộc nên không biết rằng lúc đó nội các của ông không làm được gì khác hơn là đầu hàng. Trần Trọng Kim đã hỏi người chỉ huy Đoàn Thanh Niên Tiền Tuyến, đạo quân nòng cốt của chính phủ, và đã được người chỉ huy trả lời rằng cá nhân ông ta sẵn sàng chống lại Việt Minh, nhưng quân của ông ta thì không có gì bảo đảm. Các đội quân giữ kinh thành cũng đều đã ngả theo Việt Minh hết. Quân Nhật lúc đó có đề nghị dẹp quân Việt Minh giùm cho chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng ông Trần Trọng Kim đã từ chối vì thấy như vậy chỉ gây đổ máu vô ích. Quyết định của chính phủ Trần Trọng Kim là một quyết định sáng suốt của những người có lòng yêu nước và hiểu tình thế.

Cách Mạng Tháng Tám đã là một biến cố vĩ đại trong lịch sử nước ta. Kể từ khi người Pháp đánh chiếm Nam Bộ năm 1863, nước ta đã mất chủ quyền hết thảy 82 năm. Chúng ta đã tủi nhục vì ngoại thuộc trong suốt thời gian đó. Nhưng tủi nhục nhất là năm năm sau cùng. Trước đó chúng ta bị một cường quốc đô hộ nhưng từ năm 1940 trở đi khi Pháp đã bị Đức đánh bại, chúng ta bị một nhóm người Pháp đã mất nước, đã đầu hàng chế ngự và chà đạp mà không làm gì được. Đáng tủi nhất là đám thực dân đã mất nước này chẳng đông đảo gì. Sở dĩ họ đã đứng vững được là vì đã có những người Việt Nam tiếp tay cho họ. Mỉa mai thay, những người này về sau lại là rường cột của các chính quyền được gọi là quốc gia. Chưa bao giờ nước ta nhục đến thế. Ngày 19/8/1945 đã là ngày người Việt Nam đứng dậy, xác nhận nước Việt Nam cũng là một quốc gia như các quốc gia khác và người Việt Nam cũng là những con người như những con người khác trên thế giới.

Người cộng sản đã không cướp đoạt Cách Mạng Tháng Tám của ai. Họ đã chuẩn bị nó, tổ chức thành công nó sau khi đã chấp nhận muôn ngàn thử thách cho nó. Người cộng sản đã chịu phần hy sinh chính trong suốt khoảng thời gian 1931/1945. Máu người cộng sản đã đổ ra nhiều nhất và trong các nhà tù chính trị, tù nhân cộng sản đông gấp ba bốn lần tù nhân của tất cả các đảng phái quốc gia cộng lại. Người cộng sản Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo một mình cuộc khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam trong Cách Mạng Tháng Tám. Họ xứng đáng được hưởng trọn vẹn vinh quang của Cách Mạng Tháng Tám.

Nhưng những nhân chứng của Cách Mạng Tháng Tám đều nhớ rằng cuộc cách mạng ấy đã khởi đầu với những phát súng lục vừa động viên vừa uy hiếp tinh thần quần chúng. Chi tiết này tuy nhỏ mà quan trọng. Đó là thảm kịch của Cách Mạng Tháng Tám, bởi vì bạo lực đã là tinh thần chỉ đạo của nó cũng như của mọi chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này và ngay cho tới bây giờ. Bạo lực này đã tàn sát hàng trăm ngàn người yêu nước thực sự, những đứa con quả cảm nhất của tổ quốc đáng lẽ phải được tôn vinh nhưng đã bị giết chỉ vì không tán thành chủ nghĩa cộng sản.

Tôi phân tích và trình bày sức mạnh áp đảo của cộng sản vào giai đoạn trước và sau Cách Mạng Tháng Tám, không phải để tâng bốc họ mà để thấy rõ tội ác của họ. Với một sức mạnh và một khí thế vượt trội và hơn hẳn như thế, thực ra Việt Minh không cần gì phải tàn sát những người không cộng sản cả. Không ai làm gì được họ hết. Họ vẫn có thể lãnh đạo cuộc tranh đấu giành độc lập, và có lẽ còn thành công mau chóng và dễ dàng hơn nhiều, nếu không tàn sát những người quốc gia. Nhưng họ vẫn tàn sát, như họ đã tàn sát hàng vạn người trong Cải Cách Ruộng Đất, như họ đã hạ nhục tập thể và bỏ tù hàng loạt quân nhân và công chức miền Nam sau ngày 30/4/1975, bởi vì mục tiêu của họ không phải chỉ là giành độc lập mà là giành độc lập để thiết lập chủ nghĩa cộng sản. Họ đã tàn sát bởi vì tình dân tộc, nghĩa đồng bào của họ, nếu có, cũng không có một trọng lượng nào so với chủ nghĩa Mác-Lênin mà họ tôn thờ. Có thể là người cộng sản cũng yêu nước nhưng họ không phải chỉ yêu nước mà còn yêu chủ nghĩa, và họ yêu chủ nghĩa hơn yêu nước và trước khi yêu nước.

Cuốn Thời Dựng Đảng của đảng cộng sản viết về ông Hồ Chí Minh như sau : "các chế độ đời đời nhớ ơn bác Hồ trước hết là người đã truyền bá chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam". Ngày nay khi chủ nghĩa Mác-Lênin đã hiện hình trung thực dưới mắt mọi người và mọi dân tộc như một lầm lẫn tai hại thì những đam mê mà nó khơi dậy bỗng nhiên trở thành kệch cỡm một cách đáng thương và những tội ác mà người ta đã phạm nhân danh nó chỉ còn là một sự đần độn đẫm máu.

Nhưng tại sao "bài học 45" đã đi vào ký ức tập thể của những người chống cộng một cách sai lầm ?

Sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp đã theo quân Anh trở lại Việt Nam và họp lập tức nổ súng chiếm lại các tỉnh phía Nam. Ngày 19-12/1946, chiến tranh thực sự bùng nổ tại miền Bắc và quân Pháp mau chóng chiếm được các thành phố. Đánh chiếm đến đâu, người Pháp lập các cở cấu cai trị đến đó. Năm 1947, họ gộp các cơ cấu này trọng một "chính phủ quốc gia Việt Nam" do một thiếu tướng quân đội Pháp gốc Việt là Nguyễn Văn Xuân cầm đầu. Nguyễn Văn Xuân trước đó một năm đã từng được Pháp cử làm phó chủ tịch "Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc" do Nguyễn Văn Thinh đứng đầu trong một âm mưu tách rời miền Nam khỏi Việt Nam. Âm mưu này thất bại và đã đưa đến cái chết trong ân hận của Nguyễn Văn Thinh nhưng cũng đã giúp cho Nguyễn Văn Xuân được Pháp thăng chức lên thiếu tướng. Chính phủ này là một sản phẩm của Pháp, gồm những người đã làm việc cho Pháp và đi lính cho Pháp. Năm 1948, chính phủ này được bàn giao cho Bảo Đại sau Hiệp ước Elysée ; nó được sự tham gia của một số nhân vật thuộc phe quốc gia trước đây. Nhưng nó hoàn toàn không dính dáng gì với phe quốc gia trước đây mà chỉ là sự tiếp nối của chính quyền thuộc địa Pháp. Các đảng phái quốc gia cũ vẫn tiếp tục bị ngược đãi ngay dưới các chính quyền quốc gia sau này. Gia đình tôi quen biết hai người bị kết án tù chung thân và bị đày ra Côn Đảo sau cuộc đảo chính của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930. Họ chỉ được phóng thích năm 1955, nghĩa là 7 năm sau các chính quyền gọi là quốc gia được thành lập và sau 25 năm tù đày vì "hạnh kiểm tốt". Ông Nguyễn Viết Nguyên, trưởng ban binh bị của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, cũng ở trong một trường hợp tương tự. Ông mất cuối năm 1960. Các đồng chí của ông không được chính quyền Ngô Đình Diệm cho phép làm tang lễ. Họ phải dọa nếu bị cấm sẽ bỏ quan tài ở giữa đường rồi giải tán, chính quyền Ngô Đình Diệm mới nhượng bộ. Trên đường đưa thi hài người anh hùng dân tộc đó đến nơi an nghỉ cuối cùng, cảnh sát đứng gờm gờm hai bên đường sẵn sàng can thiệp.

Tình thế đã thay đổi, độc lập đã trở thành một mục tiêu không thể chối cãi được, các ông quan lại, sĩ quan và cai đội thời Pháp thuộc bỗng dưng trở thành những người lãnh đạo cuộc tranh đấu "chống cộng để bảo vệ chính nghĩa quốc gia". Họ cần hạ uy tín của những người lãnh đạo phe quốc gia cũ, vì dầu sao đi nữa những người này cũng là những người yêu nước hơn họ, chống cộng hơn họ, và chính đáng hơn họ ngàn lần trước dân tộc và lịch sử. "Bài học 45" đã được chế tạo ra như vậy và cho mục đích đó. Dần dần vì được nhắc đi nhắc lại, nó đi vào ký ức tập thể của phe chống cộng. Nhồi sọ và xuyên tạc lịch sử không thuộc độc quyền của phe cộng sản.

Sau cùng, nếu cần rút ra bài học của Cách Mạng Tháng Tám ?

Trước hết, những gì đã xảy ra vào giai đoạn 1945-1946 không chứng tỏ rằng các lãnh tụ phe quốc gia đã dại dột khi liên hiệp với cộng sản. Chính phủ liên hiệp đã có lợi cho phe quốc gia. Nó đã cho phe quốc gia một thời gian tương đối yên ổn để hoạt động và tranh thủ quần chúng. Nhưng thời gian này quá ngắn để phe quốc gia có thể khai thác để thay đổi một tương quan lực lượng quá chênh lệch.

Giai đoạn 1945-1946 cũng không chứng tỏ rằng liên hiệp với cộng sản là chết. Trước đó cũng như trong lúc đó và sau đó đã có nhiều chính phủ liên hiệp tại nhiều quốc gia nhưng không phải phe cộng sản lúc nào cũng thắng, trái lại họ đã bại nhiều hơn thắng. Một chính phủ liên hiệp giữa hai phe không thể sống chung với nhhau chỉ tạo ra một tình huống mới và phe nào có tư thế để vận dụng được tình huống đó thì phe đó sẽ thắng.

"Bài học 45" thực sự là một cơ hội chỉ là một cơ hội cho những ai đã tiên liệu nó, đã chuẩn bị cho nó, đã chờ đợi nó. Người Việt Nam nào, nhất là người Việt Nam không cộng sản, không thấy tủi hổ là sau những hy sinh cao cả của cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng, hầu như suốt thập niên 1930, đa số trí thức Việt Nam đã trùm chăn hưởng thụ, đã say mê những câu thơ lãng mạn, trong khi thế giới biến động mạnh và bất ổn tại châu Âu là điều có thể nhìn thấy và tiên liệu dễ dàng. Việt Nam đã không chuẩn bị cho cơ hội 1940 và đã không chuẩn bị kịp cho cơ hội 1945, vì thế Việt Nam đã là Việt Nam ngày nay. Trong chiều sâu, dân tộc nào không nhiều thì ít cũng xứng đáng với số phận của mình.

Mười sáu năm đã trôi qua kể từ ngày cả nước qui về một mối dưới chế độ cộng sản. Nếu các lực lượng dân chủ tiến bộ thực tâm chuẩn bị nghiêm túc thì chúng ta đã có nhiều cơ hội. Nhưng chúng ta không nhìn thấy những cơ hội đó. Chúng ta đã lãng phí thời giờ và nghị lực vào những hành động hời hợt và giả tạo chỉ có tác dụng làm thuốc tê cho cơn đau mất nước và làm thuốc an thần cho sự tuyệt vọng ngự trị trong lòng. Chúng ta đã không hình thành được một lực lượng có tầm vóc nào mà cũng chưa đạt tới đồng thuận về một đường lối đấu tranh nào. Nếu có cơ hội cứu nước thì với thực trạng hiện nay chúng ta cũng không có khả năng để chụp lấy.

Chuẩn bị cho một cuộc đổi đời và đổi chế độ là một việc phải làm âm thầm và kiên nhẫn từ lâu trước khi cơ hội tới. Phe quốc gia không chuẩn bị trong những năm 1930 nên đã không nắm được cơ hội 1940, và vì mới bắt đầu chuẩn bị từ 1940 trở đi nên đã không đúng hẹn với cơ hội 1945. Năm 1947, Việt Minh đã mất rất nhiều uy tín, nhân dân đã vô cùng bất mãn sau hai năm chịu đựng chính sách khủng bố thô bạo và chờ đợi một giải pháp mới nhưng vì không có một lực lượng dân tộc nào cả nên đã chỉ có giải pháp Bảo Đại. Năm 1954, khi Pháp đã bại trận và người Việt Nam có thể thực sự làm chủ được vận mệnh của mình thì cũng vì không có chuẩn bị nghiêm túc nào cả lại chỉ có Ngô Đình Diệm, con người đã từng hợp tác với Pháp, với Bảo Đại, đã đi đêm với Nhật và đã tiếp tay đắc lực đàn áp Việt Nam Quốc Dân Đảng khi đang làm quan. Khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ cũng chỉ có các tướng tá mà một phần khá lớn xuất thân từ hàng ngũ quân đội Pháp. Cuối cùng Việt Nam đã là Việt Nam ngày nay.

Trong công tác chuẩn bị, điều quan trọng nhất là chuẩn bị về tư tưởng. Một phong trào hành động luôn luôn phải được một trào lưu tư tưởng đi trước. Bởi vậy, đối thoại và thảo luận bộc trực là điều chúng ta không thể tiết kiệm. Và có lẽ trong khi chúng ta thẳng thắn trình bày những khác biệt chúng ta sẽ nhận ra là những khác biệt ấy không quan trọng lắm. Lúc đó chúng ta có thể nghĩ đến kết hợp. Chỉ có thể có kết hợp hành động giữa những con người đồng ý với nhau về mục tiêu phải đạt tới và về con đường phải đi.

Một yếu tố cũng vô cùng quan trọng là niềm tin bởi vì không thể có thắng lợi nếu không có lạc quan. Niềm tin này có ba vế : tin ở sự sụp đổ chắc chắn của chế độ cộng sản để mạnh dạn vượt lên trên những lô gích cũ, những lằn ranh cũ ; tin ở thế tất thắng của dân chủ để dứt khoát từ bỏ những tâm lý và phương pháp lỗi thời và hành động như những người dân chủ chân chính ; tin ở thiện chí của nhau để đừng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và hoảng hốt coi những người khác lập trường với mình là phản bội.

Đảng cộng sản đã tiêu xài hết vốn liếng của họ. Vai trò lịch sử của họ đã hết. Trước những vấn đề lớn của đất nước họ không còn là giải pháp mà là chướng ngại. Hàng ngũ của họ đang tan rã. Những con người từ những quá khứ xung đột đang nhìn cùng về một hướng và hướng đó không phải là hướng Mác-Lênin.

Như một trái cây đã chín, chế độ cộng sản sắp rụng. Nó có thể rụng vì bị rung cây, nó có thể rụng vì một cơn gió nhẹ và nó cũng có thể rụng vì đã quá chín dưới trọng lượng của chính nó. Đất nước này cần một giải pháp thay đổi. Chúng ta đang có cơ hội, tiếc rằng chúng ta đã không đủ chuẩn bị. Nhưng cơ hội vẫn còn đó và vẫn chờ đợi chúng ta.

Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám trước hết là để tái lập một sự thực lịch sử và để có thể rút ra những bài học xác đáng. Nhưng cũng có một lý do khác thúc đẩy tôi viết bài này. Đó là một sự tương đồng giữa thời lỳ 1940-1945 và tình hình hiện nay. Năm 1940 Pháp đã bị bại trận, đã hoang mang và rã rượi, mà chính quyền thuộc địa Pháp vẫn tiếp tục một cách hung bạo bởi vì người Việt Nam, trừ người cộng sản, đã không chuẩn bị trước để nắm lấy cơ hội. Ngày nay hệ thống cộng sản đã sụp đổ, các chế độ cộng sản còn lại chỉ còn là những đứa con côi của một sự phá sản ; không còn người Việt Nam nào, ngay cả những người trong guồng máy cộng sản, muốn chế độ này tiếp tục nữa, nhưng nó vẫn còn đó do quán lực của quá khứ. Quán lực này có một tên gọi : đó là sự sợ hãi. Sợ hãi cho tương lai mình trong một chế độ mới hay sợ hãi một bạo lực đang hấp hối. Chúng ta sẽ đánh bại được chế độ độc tài này nếu tháo gỡ được quán lực ấy. Lịch sử sẽ khai thông ngay vào lúc không còn ai sợ hãi nữa, và lịch sử sẽ thuộc về những ai tìm được giải pháp an toàn và danh dự cho tất cả mọi người.

Thế hệ 1990 phải hơn thế hệ 1940.

Nguyễn Gia Kiểng

(Thông Luận số 41, tháng 9/1991)

Đọc thêm :

Một hồ sơ về thảm họa dân tộc

Bài 1. Rút kinh nghiệm từ hai cuộc Cách Mạng

Bài 2. Nghĩ về một cơn điên của thế giới

Bài 3. Nhìn lại chủ nghĩa Mác-Lênin

Bài 4. Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám

Bài 5. Cuộc chiến đấu thực sự

Khai sáng kỷ nguyên thứ hai

Published in Quan điểm

Chúng ta cần nhớ về một sự kiện lịch sử xảy ra cách đây 72 năm và hậu quả của nó vẫn còn kéo dài đến tận ngày hôm nay : Cách mạng tháng 8 năm 1945.

Theo những gì mà chúng ta được biết thì đó là ngày Việt Nam giành được độc lập, kết thúc hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ và hai nghìn năm phong kiến. Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy và cướp được chính quyền từ tay ‘Đế quốc Việt Nam’ do ông Trần Trọng Kim làm thủ tướng dưới sự bảo hộ của Đế quốc Nhật Bản vừa bị quân đồng minh đánh bại trong Chiến tranh Thế giới lần Hai. Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn buộc phải thoái vị đánh dấu cho sự chấm hết của chế độ phong kiến tại Việt Nam.

Cách mạng tháng 8 đã diễn ra trong một khí thế hừng hực với lòng mong muốn độc lập-tự do của người dân Việt Nam dâng cao ngút trời. Đảng cộng sản (Việt Minh) dù lực lượng không lớn, chỉ vài trăm người với kiến thức thô sơ và rất ít vũ khí nhưng vì là lực lượng duy nhất có tổ chức vào lúc đó nên họ đã nhanh chóng áp đảo được các tổ chức khác và dành được chính quyền trong hòa bình.

cmt81

Cách mạng tháng 8 năm 1945

Hơn 70 năm trôi qua, và đến giờ, có lẽ đa số người Việt Nam đã nhận ra rằng cuộc Cách mạng Tháng 8/1945 đáng lẽ phải mở ra một thời kỳ độc lập và phát triển cho đất nước, Việt Nam hoàn toàn có thể sánh vai với các nước trong khu vực và không đến nỗi tụt hậu bi đát như bây giờ thì tiếc thay, một cơ hội lớn đã bị bỏ lỡ và một thảm kịch, một đại nạn chưa từng có trong lịch sử dân tộc đã bắt đầu từ ngày đó.

Nhìn vào chính trường Việt Nam ngày hôm nay chúng ta có thể cảm nhận một cơn giông bão đang vần vũ báo hiệu cho một cuộc cách mạng sẽ nổ ra, một sự thay đổi bắt buộc phải đến trước khi Việt Nam sụp đổ hoàn toàn. Cuộc cách mạng sắp đến sẽ như thế nào ? Nó sẽ mang đến một cơ hội, một vận hội mới cho đất nước hay tiếp tục mở ra một thảm kịch mới ? Phải làm gì để lịch sử đau thương không tái hiện ?

Một nhà nghiên cứu công phu và có chiều sâu về cuộc Cách mạng tháng 8/1945 chính là ông Nguyễn Gia Kiểng. Ông đã viết nhiều bài viết sâu sắc về chủ đề này và một trong số đó là bài ‘Rút kinh nghiệm từ hai cuộc Cách mạng’ (1). Với bản thân người viết thì cách giải thích của ông về sự kiện này là hoàn toàn thuyết phục. Ông đã tìm được câu trả lời cho câu hỏi ‘Vì sao biến cố lịch sử đó đã xảy ra và đã xảy ra như thế ?’

Nguyên nhân lớn nhất khiến Cách mạng tháng 8 trở thành thảm kịch cho dân tộc Việt Nam đó là vì chúng ta thiếu hụt trầm trọng về ‘tư tưởng chính trị’, người dân và trí thức Việt Nam đã không chuẩn bị về tư tưởng, đội ngũ nhân sự chính trị để đón nhận sự thay đổi vì thế đảng cộng sản Việt Nam, với tư tưởng độc hại là chủ nghĩa Mác-Lênin đã cướp được chính quyền và độc chiếm Việt Nam từ đó đến nay.

AAMT001050

Cách Mạng Tháng 8 sẽ mang đến một cơ hội, một vận hội mới cho đất nước hay tiếp tục mở ra một thảm kịch mới ?

‘Nhìn lại giai đoạn Cách Mạng Tháng 8, chúng ta không thấy một nhà tư tưởng nào và cũng không thấy một người nào chứng tỏ sự hiểu biết tạm được về những triển vọng và nguy cơ đang chờ đợi đất nước lúc đó. Chúng ta không hề thấy một dự án chính trị nào. Thanh niên hăm hở lên đường nhưng lên đường để đi đến đâu thì không biết, chỉ tin là "đi hiên ngang tới phương trời tươi sáng". Rất thơ mộng nhưng không phải giải đáp. Thanh niên thế hệ 1945 thực không may. Sự thiếu sót này đến nay hình như vẫn chưa ý thức đầy đủ. Vẫn còn rất nhiều người nghĩ rằng không cần lý thuyết, chỉ cần hành động, không cần nói mà chỉ cần làm. Vẫn còn rất nhiều người nghĩ rằng có thể tranh đấu mà không cần có tư tưởng. Vẫn có những người cho rằng họ có tư tưởng chỉ vì họ không hiểu thế nào là tư tưởng. Và quần chúng, kể cả quần chúng tốt nghiệp đại học, thì nhìn mọi người và mọi tổ chức như nhau’ (1).

Sự thất bại của đảng cộng sản trong việc quản trị đất nước đã quá rõ ràng trong mọi lĩnh vực. Chưa bao giờ quan chức và đảng cộng sản bị người dân coi thường, chế diễu và nhục mạ nặng nề đến như vậy, tuy nhiên để chuẩn bị cho một Việt Nam dân chủ hậu cộng sản thì không phải ai cũng ý thức được là cần làm những gì ? Cần chuẩn bị ra sao ? Đáng lo hơn khi một số người vẫn không biết, không hình dung ra được tương lai hậu cộng sản sẽ như thế nào ? Họ vẫn không thấy, không biết và không ủng hộ cho bất cứ một lực lượng hay một tổ chức chính trị dân chủ đối lập nào. Sự thiếu hụt trầm trọng về kiến thức và tư tưởng chính trị này dẫn đến hệ quả là đa số ngồi chờ…sung rụng.

Một số trí thức thì ủng hộ cho các phe phái trong đảng ‘đánh nhau’, người thì ủng hộ ông Trọng, người thì ủng hộ ông Dũng. Trong nhiều trường hợp sự ủng hộ đó rất hài hước, nông cạn và thô thiển. Lại có những người đặt câu hỏi rất ngô nghê rằng ngoài cộng sản ra họ không thấy có ai xứng đáng để lãnh đạo đất nước. Có người thì mong một Gorbachev (phiên bản Việt Nam) xuất hiện, có người thì mong đảng ‘tự thay đổi’…Rất ít người đặt niềm tin vào trí tuệ của người Việt, tin vào những người chưa có ‘thành tích khủng bố’ gì trong quá khứ như đảng cộng sản đã làm ! Có người vẫn cho rằng tư tưởng và lý thuyết không cần thiết, cần làm hơn cần nói nhưng làm gì thì họ không biết.

Việt Nam có thừa trí thức trong mọi lĩnh vực nhưng lại rất thiếu ‘trí thức chính trị’. Ai cũng cho rằng mình biết và hiểu rõ về chính trị nhưng thực tế là họ không biết ngay cả những điều cơ bản nhất. Ví dụ, đấu tranh chính trị luôn là đấu tranh giữa các tổ chức chứ không phải giữa các cá nhân. Điều này dẫn đến việc thay vì thành lập, tham gia và ủng hộ cho các tổ chức chính trị thì nhiều người chọn con đường tranh đấu cá nhân. Cũng vì thiếu kiến thức, nên vẫn có người cho rằng có thể tranh đấu mà không cần tư tưởng, vì thế những người đấu tranh một mình sớm muộn cũng sẽ mất phương hướng, lạc lối, bỏ cuộc hoặc sa lầy vào những tranh chấp, cãi cọ cá nhân đời thường. Những người không biết đặt niềm tin vào ai hoặc các tổ chức đối lập dân chủ vì họ không hiểu rằng ai chiến thắng về tư tưởng thì người đó sẽ chiến thắng trong thực tế, một cuộc ‘vận động tư tưởng’ phải đi trước và dẫn đường cho một cuộc ‘cách mạng dân chủ’ trong tương lai.

‘Hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng’ luôn luôn là trách nhiệm và nghĩa vụ của giới trí thức tinh hoa trong mọi thời đại và trong bất kỳ thời điểm nào của lịch sử. ‘Trí thức bao giờ cũng phải là người phát ngôn của đất nước, tư tưởng của trí thức cũng là tư tưởng của quần chúng’. Rất tiếc là không ít trí thức Việt Nam, vì không có tư tưởng gì nên họ không biết ‘hướng dẫn’ người dân làm cái gì và không biết ‘phát ngôn’ cái gì ngoài việc khuyên nhủ, lên án và chửi bới đảng cộng sản.

Chủ nghĩa cộng sản do Mác và Ănghen chủ trương đã được thành lập rất sớm ở Châu Âu sau đó mới được du nhập vào Nga, Trung Quốc và Việt Nam (Đệ nhất Quốc tế được thành lập ngày 28/9/1864), tuy nhiên các đảng cộng sản ở Châu Âu chưa bao giờ dành được chính quyền ở bất cứ đâu bằng con đường danh chính ngôn thuận thông qua các cuộc bầu cử tự do và minh bạch. Lý do khiến các quốc gia ở Châu Âu (trừ nước Nga) đã tránh được thảm họa cộng sản là vì trí thức tại các nước đó đã làm tròn trách nhiệm của mình, họ đã phân tích và lên tiếng cảnh báo cho người dân thấy được sự vô lý, hoang tưởng và độc hại của chủ nghĩa cộng sản. Trong khi đó, tại Việt Nam, trước khi xảy ra Cách mạng tháng 8, thì ngay cả những triết gia nổi tiếng nhất được đào tạo tại Pháp như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường vẫn ủng hộ cộng sản thay vì ủng hộ con đường đấu tranh ôn hòa, bất bạo động của nhà dân chủ đầu tiên của Việt Nam, cụ Phan Chu Trinh.

Ngày hôm nay, sự thiếu hụt về tư tưởng trong giới trí thức Việt Nam vẫn còn đó. Không ít người vẫn ủng hộ chế độ cộng sản dù biết rõ là nó tai hại và đang hủy hoại con người lẫn đất nước Việt Nam. Trí thức Việt Nam vẫn chưa thực sự xem ‘tư tưởng chính trị’ là cần thiết và quan trọng như là kim chỉ nam dẫn đường và hướng dẫn cho một cuộc cách mạng dân chủ trong nay mai. Hay nói như nhà văn Tưởng Năng Tiến trong bài viết ‘Nó rớt rồi sao ?’ rằng người Việt Nam vẫn chưa chuẩn bị để đón nhận dân chủ :

Cứ theo ý của của ông nhà báo (Ngô Nhân Dụng) (khó tính, khó nết) này thì "lỡ" mai, hoặc mốt, đám lãnh đạo Hà Nội chịu đội nón ra đi thì đến ngày kia (hay ngày kìa) nước Việt vẫn chưa có dân chủ đâu. Còn lâu, lâu lắm, bởi người Việt chưa sẵn sàng để sống trong một thể chế tự do ! Mà cái gì chớ "chuẩn bị" thì e không hợp với cái tạng của một dân tộc vốn chỉ thích (mì) ăn liền.

Không tin, cứ thử đặt một câu hỏi nhỏ (cỡ con thỏ) xem : "Nếu tuần sau nó đổ thì tuần tới nữa hệ thống giáo dục ở Việt Nam có vẫn còn tiếp tục dùng những cuốn sách giáo khoa hiện nay không" ?

Mọi người (trong cũng như ngoài) đều sẽ đỏ mặt lên ngay vì chả ai có thể trả lời được câu hỏi giản dị thượng dẫn, trừ nhà giáo Phạm Toàn và nhóm Cánh Buồm. Ít nhất thì nhóm này cũng không đến nỗi ngượng ngập khi đáp rằng tuy ở vào một hoàn cảnh hết sức khó khăn nhưng họ đã "làm việc thiện nguyện để xây dựng bộ sách giáo khoa làm mẫu theo định hướng hiện đại hóa nền Giáo dục Việt Nam".

Thế còn những nhóm khác ? Hàng tỉ bè nhóm, hội hè, đoàn thể, phe đảng (của những kẻ tị nạn chính trị, sống an ổn bên ngoài đất nước) thì làm gì – hơn bốn mươi năm qua – để chuẩn bị cho một Việt Nam mai hậu (2) ?’

Trong giáo dục, Việt Nam may mắn vì có nhà giáo Phạm Toàn và nhóm Cánh Buồm đã bỏ công sức ra để viết một bộ sách dạy học mới theo tiêu chuẩn hiện đại và khai phóng. Vậy còn trong lĩnh vực chính trị thì sao ? Ngoài Dự án Chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên với tên gọi ‘Khai Sáng kỷ Nguyên Thứ 2’ thì đã có một tổ chức chính trị nào có được một ‘Dự án chính trị’ nào khác không ? Đã có bao nhiêu trí thức Việt Nam lên tiếng ủng hộ cho Dự án Chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên ? Những đề nghị trong dự án đó có đúng đắn và khả thi cho Việt Nam hay không ? Ai sẽ ‘thẩm định’ tính khả thi và đúng đắn của các dự án chính trị đó nếu không phải là trí thức Việt Nam ?

Mai này người dân Việt Nam muốn chọn lựa một chế độ chính trị khác ngoài đảng cộng sản ra thì họ biết chọn ai ? Lực lượng hay tổ chức chính trị nào ? Ai sẽ hướng dẫn cho họ ? Làm sao để biết được tổ chức chính trị nào đó tốt hay xấu ? Có viễn kiến hay không ? Trí thức Việt Nam đang làm gì và đang ở đâu ? Bao giờ thì trí thức Việt Nam mới chịu thức tỉnh và lên tiếng ?

Việt Hoàng

(18/8/2017)

  1. https://www.thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/3303-rut-kinh-nghi-m-t-hai-cu-c-cach-m-ng
  2. http://thongluan2016.blogspot.com/2017/03/tuong-nang-tien-no-rot-roi-sao.html
Published in Quan điểm

Ông Trọng vừa ký ban hành quy định của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn các cán bộ cao cấp. Theo đó các cán bộ này phải "tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia, dân tộc và nhân dân"...

loiich1

Theo Quy định của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn các cán bộ cao cấp, cán bộ phải "tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia, dân tộc và nhân dân"

Lãnh đạo nước nào cũng vậy, trước khi nhậm chức phải tuyên thệ trung thành với quốc gia, dân tộc ; tuyên thệ phục vụ vì quyền lợi của dân tộc, của đất nước.

Không có nơi nào như Việt Nam buộc cán bộ cấp cao phải "trung thành với lợi ích của đảng".

"Lợi ích của đảng" là lợi ích của ai mà đứng trên lợi ích của quốc gia, dân tộc ?

Hiến pháp qui định "đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Vấn đề là đảng không có "tư cách pháp nhân".

Hiến pháp qui định "đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân" chớ không qui định đảng chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Khi một chủ thể không chịu trách nhiệm trước pháp luật chủ thể đó không có "tư cách pháp nhân".

Tức là khi chủ trương, đường lối của đảng sai, gây đổ vỡ hay thiệt hại lớn lao cho quốc gia, dân tộc… thì dân lãnh đủ chớ đảng không có trách nhiệm trước pháp luật.

(Cũng như con chó, bản thân nó hay "cắn càn" nên nó có thể gây đổ vỡ thiệt hại cho người khác. Vấn đề là luật pháp không bắt con chó bỏ tù hay buộc nó bồi thường thiệt hại. Đơn giản vì con chó không có "tư cách pháp nhân").

Nếu đảng không có "tư cách pháp nhân" thì làm gì "đảng" có "lợi ích" ?

Chỉ có lợi ích của đảng viên mà lợi ích này đôi khi đối nghịch với quyền lợi của đất nước, của dân tộc.

Vì vậy khi nói "lợi ích của đảng" thì ta phải phân định rõ rệt : lợi ích của đảng là lợi ích của ai ?

VN có cái gọi là "dân chủ tập trung", số ít phục tùng số đông. Cấp dưới phục tùng cấp trên. Địa phương phục tùng trung ương. Rốt ráo lại, mọi người phải phục tùng ông Trọng.

Tức là "lợi ích của đảng" trở thành "lợi ích của đồng chí Nguyễn Phú Trọng".

Trở lại vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.

Chuyện bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vốn là "ý chí" của ông Trọng. Nhờ cái gọi là "dân chủ tập trung", nó trở thành "ý chí của đảng". Cũng nhờ cái dân chủ đó nó trở thành "quyết tâm" của đảng và Nhà nước.

Quy định mà ông Trọng vừa ký, cán bộ cấp cao phải "trung thành với lợi ích của đảng", thật là đúng lúc. Nhờ nó mà ông Trọng phủi sạch mọi trách nhiệm về vụ Trịnh Xuân Thanh.

Trương Nhân Tuấn

Nguồn : fb.nhantuan.truong, 16/08/2017

Published in Diễn đàn

Chủ nhật ngày 30/7/2017 là một trong những ngày tồi tệ nhất trong lịch sử chiếm đóng của đảng cộng sản Việt Nam, khi Bộ công an đồng loạt bắt bốn người bất đồng chính kiến ở những nơi khác nhau và truy tố theo Điều 79 Bộ Luật hình sự - Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

dcs1

Bộ công an đồng loạt bắt bốn người bất đồng chính kiến ở những nơi khác nhau và truy tố theo Điều 79 Bộ Luật hình sự

Cơ quan An ninh điều tra Bộ công an đã khởi tố và bắt giam tổng cộng 6 bị can trong vụ án của Luật sư Nguyễn Văn Đài : (1) Lê Thu Hà (1982) đã bị bắt giam cùng với (2) Luật sư Nguyễn Văn Đài (1969) vào 12/2015 tại Hà Nội ; (3) Phạm Văn Trội (1972) ; (4) Nguyễn Trung Tôn (1972) ; (5) Trương Minh Đức (1960) ; (6) Nguyễn Bắc Truyển (1968).

Đáng chú ý nhất, 3 trong số 4 người bị bắt vào ngày Chủ nhật 30/7, theo Điều 79, là thành viên nòng cốt của Hội Anh Em Dân Chủ, vốn được thành lập bởi Luật sư Nguyễn Văn Đài, vào ngày 24/4/2013, trên không gian mạng Facebook.

Chưa dừng lại ở đó, ngày 4/8/2017, Bộ công an lại tiếp tục bắt giam ông Nguyễn Trung Trực, là phát ngôn viên của Hội Anh em dân chủ tại Quảng Bình, cũng theo Điều 79. Như thế, toàn bộ ban lãnh đạo của Hội Anh em dân chủ đều bị bắt giam và khởi tố theo Điều 79.

Cũng liên quan đến hành vi "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân", trước đó chiều 24/7, công an Nghệ An cũng đã bắt giam ông Lê Đình Lượng (52 tuổi, trú xã Hợp Thành, Yên Thành). 

Vì sao phải bắt những thành viên của Hội Anh em dân chủ ?

Hội Anh em dân chủ là một tổ chức phi chính phủ của những người Việt Nam trong và ngoài nước, đấu tranh bảo vệ quyền con người, được Hiến pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế thừa nhận. Với mục tiêu vận động cho một xã hội dân chủ, tiến bộ, công bằng và văn minh, Hội Anh em dân chủ đã thu hút được sự ủng hộ, tham gia của khá nhiều người và điều này khiến đảng cộng sản run sợ.

- Tình hình Biển Đông đang rất căng thẳng sau khi Trung Quốc ra lệnh cho phía Việt Nam ngừng khoan thăm dò dầu khí tại lô 136-03. Tập đoàn khai thác dầu Repsol của Tây Ban Nha cũng vừa xác nhận chính thức ngưng khoan dầu ở một khu vực ngoài khơi Việt Nam. ("Repsol tạm ngừng khoan dầu ở Việt Nam", BBC, 3/8/2017).

Chính quyền cũng lo lắng sẽ có bùng nổ biểu tình trong nước chống Trung Quốc, khi có nguồn tin Trung Quốc sẽ cho thêm dàn khoan vào Bãi Tư Chính. Bị Trung Quốc đe dọa vũ lực, chính quyền buộc phải dập tan những hiểm họa có thể thổi bùng ngọn lựa chống Trung Quốc, mà chắc chắn sẽ làm tình hình thêm gay gắt, dẫn đến mất khả năng kiểm soát, ảnh hưởng đến quyền lực chính trị và sinh mạng của chế độ. Vì thế, bắt giam những tiếng nói bất đồng chính kiến, phần lớn là thành viên của Hội Anh em dân chủ, nhằm xóa bỏ những mối nguy cơ có thể làm mối quan hệ vốn đang chua chát với Trung Quốc rơi vào khủng hoảng. Sự tồn vong của chế độ là quan tâm duy nhất của đảng cộng sản dù cho có phải bắt bớ người yêu nước, hoặc thậm chí co gối, cúi đầu trước Trung Quốc.

- Theo nguồn tin của Bộ công an, "Cơ quan An ninh điều tra Bộ công an ra quyết định khởi tố bị can, tạm giam 6 bị can trong vụ án Nguyễn Văn Đài cùng đồng phạm hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". (An Ninh Thủ Đô, 31/7/2017). Có nghĩa là, chính quyền lấy cớvìnhững người bị bắt là đồng phạm của Luật sư Nguyễn Văn Đài, nên phải bắt giam để phục vụ điều tra, khởi tố vụ án của Luật sư Nguyễn Văn Đài. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu sa của việc bắt bớ là nhằm triệt tiêu lực lượng nòng cốt của Hội Anh em dân chủ, phá tan những tổ chức có quyết tâm như Hội Anh em dân chủ, nhằm ngăn chặn sự tham gia và phát triển thầm lặng của các tổ chức đối lập khác. Đảng cộng sản Việt Nam rất lo sợ Hội Anh em dân chủ có thể vận động được quần chúng khắp nơi, tham gia phản đối chống Trung Quốc, sau là chống chế độ. Tổ chức và tập thể đoàn kết luôn là mối đe dọa khủng khiếp nhất đối với chế độ cộng sản. Vì thế, bằng mọi giá, đảng cộng sản sẵn sàng mạnh tay tiêu diệt những mầm mống của đấu tranh có tổ chức.

Thực trạng Việt Nam : suy thoái ở mọi nơi

Thứ nhất : suy thoái và phân hóa cùng cực trong nội bộ đảng. Đã rất nhiều lần, các đảng viên cấp cao đã phải than vãn vì lo sợ sự phân rã sẽ giật sập chế độ. Ngay cả Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng đã phải thừa nhận rằng : "Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ là cuộc chiến đầy cam go, nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng và chế độ".

Chưa hết, sự suy thoái tư tưởng của đại đa số các đảng viên ngày càng lan rộng và niềm tin của các đảng viên đối vai trò lãnh đạo của đảng giảm mạnh rõ rệt. Điển hình như UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã phải yêu cầu các công chức kí cam kết không "tự diễn biến", nhằm ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng trong nội bộ. ("Thành phố Hồ Chí Minh : Công chức sẽ ký cam kết không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", Nguyễn Cường, Infonet, 18/4/2017).

Chuyên gia nghiên cứu về vấn đề Việt Nam và Biển Đông, Bill Hayton, vừa tiết lộ thông tin mật về sự chia rẽ sâu sắc của bộ chính trị, liên quan đến những tranh chấp căng thẳng với Trung Quốc tại Biển Đông, trên Foreign Policy, một tờ báo uy tín hàng đầu về quan hệ ngoại giao quốc tế.

"Không ai có thể biết được những quyết định lớn lao được tiến hành ra sao ở Việt Nam, nhưng từ chuyện ngừng khoan dầu của Repsol, có thể thấy rõ ràng rằng Bộ chính trị đang bị chia rẽ hết sức nghiêm trọng. Trong số 19 ủy viên, thì 17 người đồng ý chỉ trích Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc chỉ giả vờ đe dọa. Chỉ có 2 người không đồng ý phản đối Trung Quốc, nhưng 2 người này lại có ảnh hưởng lớn nhất trong bộ chính trị, đó là : Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch" ("The Week Donald Trump Lost The South China Sea", Bill Hayton, Foreign Policy, 31/7/2017).

Thứ hai : nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc và khủng hoảng tài chính. Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên nhận định : "Mỗi năm Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc khoảng 50 tỷ USD. Trong khi đó, nền kinh tế Trung Quốc đang gặp nhiều bất ổn nghiêm trọng, tiền bạc đang chảy ra khỏi Trung Quốc không thể cản nổi". Trong bốn tháng đầu năm 2017, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch đạt 17,6 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2016 ("Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc", H.M, Soha, 30/4/2017).

Theo tạp chí kinh tế The Economist, nợ công của Việt Nam năm 2016 chiếm 63,7% GDP. Năm 2017 dự trù lên đến "đỉnh" là 64,8% GDP. Chưa hết, tình trạng "bội chi" tăng chóng mặt, khiến thâm hụt ngân sách trầm trọng. Tính từ đầu năm đến ngày 15/7/2017, ngân sách nhà nước bội chi 61,8 nghìn tỷ đồng. Theo Viện nghiên cứu Kinh tế và chính sách, nếu không có các biện pháp cắt giảm chi tiêu một cách hợp lý, ngân sách nhà nước sẽ trở nên mất cân bằng một cách nghiêm trọng, nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển sẽ suy giảm hoặc phải tiếp tục vay nợ để bổ sung ("Bội chi ngân sách 61,8 nghìn tỷ đồng trong 7 tháng", N. Mạnh, Bizlive, 30/7/2017).

Thứ ba : bất lực trước mạng xã hội và khủng hoảng niềm tin trong dân. Đảng cộng sản chưa kịp tìm phương án để đối phó với sự phân rã cùng cực trong nội bộ, thì lại phải đau đầu tìm cách ngăn chặn sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội và đối phó với quá trình "tự diễn biến" ngay trong quần chúng. Người dân quay lưng với hệ thống Pháp luật, tìm đến mạng xã hội, để kêu gọi giúp đỡ hoặc phản ánh những vấn đề bức xúc và bất công. Bộ mặt tham nhũng, quan liêu, ngu dốt, ngồi xổm lên Pháp luật của quan chức cũng được phơi bày minh bạch trên mạnh xã hội.

Trong sự bất lực, Lê Quang Tự Do, Phó Cục trưởng Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin, đành răn đe các đồng chí của mình phải làm tốt nhiệm vụ xây dựng hình ảnh tốt đẹp của đảng trong nhân dân : "Các địa phương phải làm tốt các công tác cung cấp thông tin cho báo chí chính thống và đội ngũ báo cáo viên tuyên truyền viên phải làm tốt công tác thông tin cho người dân ở trên mạng" ("Thông tin xấu, độc trên mạng xã hội khiến nhiều người "tự diễn biến"", Nguyễn Hằng, VOV, 6/6/2017).

Việc Việt Nam thông tin Trịnh Xuân Thanh "ra đầu thú" vào 31/7/2017 và công bố một đoạn video Trịnh Xuân Thanh tường thuật vụ việc "tự thú" vào 3/8/2017 thể hiện rõ sự túng quẫn và bất lực của Ban tuyên giáo Việt Nam. Bởi lẽ Bộ ngoại giao Cộng hòa liên bang Đức đã ra tuyên bố cáo buộc hành vi bắt cóc Trịnh Xuân Thanh của an ninh Việt Nam.

Người phát ngôn của Bộ ngoại giao Đức Martin Schaefer lên án vụ bắt cóc đã "vi phạm luật pháp Đức và quốc tế" và nhấn mạnh "Không còn nghi ngờ gì nữa về sự tham gia của cơ quan tình báo và đại sứ quán Việt Nam trong vụ bắt cóc một công dân Việt Nam ngay trên đất nước Đức" ("Relationship between Germany and Vietnam turns sour after alleged kidnapping of oil executive", Menahem Zen, Inquisitr, 3/8/2017).

Bà Petra Schlagenhauf, Luật sư của Trịnh Xuân Thanh nói với BBC, sau khi xem video Trịnh Xuân Thanh "tự thú" trên đài truyền hình Việt Nam : "Đây là "tự thú" ép buộc. Ông ấy bị bắt cóc. Chúng tôi biết, cảnh sát Đức biết, chính phủ Đức biết" ("Đức yêu cầu cho Trịnh Xuân Thanh trở về Đức", BBC, 3/8/2017).

Rõ ràng, Việt Nam đang mất hoàn toàn khả năng kiểm soát truyền thông ; trong khi, niềm tin của nhân dân đối với vai trò của đảng và nhà nước "nhạt hơn nước ốc".

Thứ tư : khủng hoảng văn hóa, đạo đức, và giáo dục nghiêm trọng. Liên tiếp những bản tin cảnh báo sự gia tăng bạo lực khắp mọi miền đất nước. Thay vì "Người trong một nước, phải thương nhau cùng", thì những con người có cùng "máu đỏ, da vàng" chọn bạo lực để hung hãn và tàn ác với nhau.

Văn hóa tôn sùng bạo lực của khá nhiều người Việt ngày càng tăng dưới thời "pháp trị", khiến cho đời sống của người dân, từ nông thôn đến thị thành, trở thành cơn ác mộng.

Giáo dục thì lạc hậu, nhồi sọ, nên dù đã tốt nghiệp đại học, sinh viên ra trường với nỗi lo thất nghiệp vẫn cứ tăng cao. Theo Bộ Lao động, thương binh và xã hội, số lao động là cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ thất nghiệp tiếp tục tăng lên hơn 218.000 người, chiếm gần 50% tổng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thất nghiệp. ("Quí 4/2016 : có 218.000 cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ thất nghiệp", Thùy Dung, The Saigon Times, 31/3/2017).

Tình trạng sử dụng bằng giả tràn lan khắp nơi, từ cấp cao nhất của cơ quan nhà nước, trường học, bệnh viện. Dẫn chứng, người dân Cà Mau bức xúc với thông tin nữ Chủ tịch xã Tam Giang "gian lận" hồ sơ học tập nhưng chỉ kỷ luật nhẹ rồi cho tại vị. Chưa kịp lắng xuống, thì lại xuất hiện thông tin ông giám đốc của một trung tâm y tế bổ nhiệm cậu ruột vào vị trí lãnh đạo khoa, trong khi người này cả bằng Trung học cơ sở cũng không có ("Người dân Cà Mau bức xúc vì nhiều cán bộ gian lận bằng cấp vẫn được ưu ái tại vị", Ngọc Huỳnh, GDVN, 30/7/2017).

Thứ năm : khủng hoảng môi trường toàn diện. Khai thác, chặt phá rừng trái phép tràn lan và ngày càng phức tạp hơn. Diện tích rừng ở Tây Nguyên giảm mạnh mẽ, giảm hơn 13 nghìn ha ("Tây Nguyên : Thảm rừng biến động mạnh", Vũ Vân, Tài nguyên và môi trường, 16/08/2016).

Biển và không khí vẫn tiếp tục ô nhiễm do Formosa. Gần đây, bộ Tài nguyên và môi trường còn cấp phép cho Điện lực Vĩnh Tân 1 nhận chìm 1 triệu m3 bùn cát xuống biển Hòn Cau, Bình Thuận.

Tiến sĩ Nguyễn Tác An, phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật biển Việt Nam, cho rằng : "Nếu việc đổ thải này được chấp thuận, chẳng khác gì một vùng biển rộng lớn bị giết chết, cái nôi sinh sản của thủy sản biến mất. Vậy thì, hàng triệu ngư dân hiện nay và con cháu về sau mất đi bát cơm" ("Đừng để bát cơm ngư dân biến mất", Văn Ngọc – Nguyễn Tiến, SGGP, 26/7/2017).

Vụ trưởng vụ vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng, Phạm Văn Bắc, nhấn mạnh trong buổi họp báo thường kì quí II, năm 2017 rằng, với mức độ sử dụng cát nhưu hiện nay, thì đến năm 2020 sẽ không còn cát để dùng cho công trình xây dựng ("Cảnh báo đến 2020 không còn cát để xây dựng", Tuấn Phùng, Tuổi Trẻ Online, 2/8/2017).

Nghiêm trọng hơn, Việt Nam vẫn tiếp tục cho đầu tư giàn trải, ồ ạt nhiều dự án lớnnhư nhiệt điện, thủy điện, và thép, có nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.Ước tính số ca tử vong sớm ở Việt Nam do ô nhiễm nhiệt điện than sẽ tăng từ 4.300 ca (năm 2011) đến 15.700 ca (năm 2030) ("Tử vong sớm do ô nhiễm nhiệt điện than tại Việt Nam sẽ gia tăng nhanh", Anh Phương, SGGP, 28/7/2017).

Thay lời kết

Trong nước, Việt Nam đang đối mặt với suy thoái kinh tế lẫn chính trị, trong khi niềm tin của nhân dân và chính những đảng viên đối với chế độ không còn nữa. Ngoài Biển Đông, Trung Quốc đe dọa sẽ sử dụng bạo lực nếu phía Việt Nam không ngoan ngoãn nghe lời. Về quan hệ ngoại giao, việc bắt cóc Trịnh Xuân Thanh của an ninh Việt Nam là một hành động ngang ngược và thách thức vô cùng xấc xược đối với Cộng hòa liên bang Đức, vốn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam tại Liên Hiệp Châu Âu (EU). Hiện tại, Cộng hòa liên bang Đức đang tìm kiếm một thỏa thuận về hiệp định thương mại tự do với Việt Nam ; tuy nhiên, vụ bắt cóc "vi phạm luật pháp Đức và quốc tế" chắc chắn sẽ khiến thỏa thuận này bị trì hoãn.

Hình ảnh Việt Nam chưa bao giờ tồi tệ và đáng khinh bỉ trên chính trường quốc tế như lúc này.

"Tứ bề thọ địch" là tình thế hiện tại của chính quyền, đang run sợ và rệu rã trong nỗ lực cứu chế độ khỏi sụp đổ. Với tổng thể suy thoái và bất ổn, đảng cộng sản không còn nhiều lựa chọn : một là giải thể chế độ độc tài toàn trị chào đón dân chủ - đa nguyên ; hai là tiếp tục làm một nhà nước đạo tặc, co gối, cúi đầu thần phục Trung Quốc.

Việc đàn áp và bắt giam liên tục những nhà hoạt động có tiếng nói mạnh mẽ chống sự bành trướng của Trung Quốc, từ đầu năm 2017 cho đến nay, chứng tỏ được sự thần phục vô điều kiện của chính quyền đối với Trung Quốc. Điều này chứng tỏ chính quyền "thà mất nước, không mất đảng".

Mao Trạch Đông với câu nói nổi tiếng : "Every Communist must grasp the truth ; "Political power grows out of the barrel of a gun". (Tạm dịch : "Mỗi người cộng sản cần phải nắm vững được chân lý : Quyền lực chính trị chỉ lớn mạnh từ họng súng).

Đảng cộng sản Việt Nam không dám bóp cò khẩu súng quyền lực của mình, bởi nỗi khiếp sợ đến kinh hoàng đối với Trung Quốc. Khi mà quyền lực chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam bị điều khiển và chi phối bởi đảng cộng sản Trung Quốc, thì việc xem đảng cộng sản Việt Nam, là một phân bộ của đảng cộng sản Trung Quốc, cũng không có gì là quá đáng.

Bộ chính trị, cơ quan quyền lực nhất của đảng cộng sản, đang chia rẻ và phân hóa trầm trọng. Chính quyền ngày càng gia tăng đàn áp và bắt bớ những người yêu nước vì lo sợ cho sự tồn vong của chế độ.Tương lai Việt Nam chắc chắc đen tối nếu đảng cộng sản còn chiếm đóng Đất nước.

Chưa bao giờ như lúc này, những anh chị em mong ước một Việt Nam Dân chủ nên nhận thức được tầm quan trọng và tính hiệu quả của đấu tranh có tổ chức, vốn là cơn ác mộng đối với đảng cộng sảnViệt Nam. Đấu tranh có tổ chức cần được hiểu là đấu tranh theo dự án chính trị và phương pháp của tổ chức với những giai đoạn đấu tranh khác nhau. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên vẫn đang âm thầm và bí mật xây dựng một lực lượng nòng cốt cả trong lẫn ngoài nước. Danh tiếng và ngôi sao cá nhân không bao giờ là nỗi ưu tư của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, nhưng sự an toàn tuyệt đối của các thành viênmới là ưu tiên số 1 của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên.

Sự thất bại thảm hại trong nước lẫn trên chính trường quốc tế của đảng cộng sản chứng tỏ rằng nó là một tập thể vô cùng tồi tệ và kém cỏi. Thế nhưng, đáng tiếc thay, cho đến nay, những người yêu nước, vẫn chưa đồng lòng đoàn kết để knockout đảng cộng sản. Cần phải khẳng định mạnh mẽ rằng : Muốn hạ đo ván đảng cần một tổ chức đối lập mạnh. Phải hình thành được một tổ chức đối lập mạnh làm đối trọng với đảng cộng sảnmới có thể tạo được áp lực buộc đảng phải giải thể. Kỉ nguyên của Dân Chủ - Đa Nguyên sẽ đến với Dân tộc Việt Nam khi mà những người yêu nước ý thức được sức mạnh của tổ chức.

"In this decisive hour of our national history, union means life and division means death" (Emperor Bao Dai

"Trong giờ quyết định của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống và chia rẽ là chết" (Vua Bảo Đại)

Mai V. Pham

Thành viên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

"Đa Nguyên – Bất Bạo Động – Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc"

Tham khảo

  1. http://foreignpolicy.com/2017/07/31/the-week-donald-trump-lost-the-south-china-sea/
  2. http://soha.vn/boi-chi-ngan-sach-618-nghin-ty-dong-trong-7-thang-20170730152548506rf20170730152548506.htm
  3. http://www.sggp.org.vn/dung-de-bat-com-ngu-dan-bien-mat-457865.html
  4. http://www.sggp.org.vn/tu-vong-som-do-o-nhiem-nhiet-dien-than-tai-viet-nam-se-gia-tang-nhanh-458289.html
  5. http://www.baotainguyenmoitruong.vn/tai-nguyen-va-cuoc-song/201608/tay-nguyen-tham-rung-bien-dong-manh-2725606/
  6. http://news.zing.vn/kinh-te-viet-nam-le-thuoc-qua-nhieu-vao-trung-quoc-post620014.html
  7. http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-40814934
  8. http://www.inquisitr.com/4407048/german-vietnam-relationship-alleged-kidnapping/
  9. http://www.thesaigontimes.vn/158567/Qui-4-2016-co-218000-cu-nhan-thac-si-tien-si-that-nghiep.html

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20170802/canh-bao-den-nam-2020-khong-con-cat-de-xay-dung/1362706.html

Published in Quan điểm
vendredi, 28 juillet 2017 17:19

Những cái lưỡi gỗ ngụy ngôn

Khi “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” của đội ngũ tuyên truyền Đảng cộng sản Việt Nam bị tê liệt trước tình trạng đảng viên quay lưng lại chế độ thì chúng lại gay gắt với những ai đã nhìn ra sai lầm của đảng cầm quyền.

Résultat de recherche d'images pour "Hội nghị Trung ương 4 năm 2016"

Hội nghị Trung ương 4 năm 2016

Bằng chứng là từ sau Hội nghị Trung ương 4 năm 2016, nhiều bài viết của Tuyên giáo và Tổng cục chính trị Quân đội đã chĩa mũi dùi tấn công “một bộ phận cán bộ, đảng viên” không còn tuân thủ những quy định viết trong Cương lĩnh, Điều lệ và Nghị quyết đảng. Thậm chí còn có tài liệu được phát tán phê bình chủ trương, chính sách của nhà nước hoặc bác bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh mà Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng đã ra lệnh phải kiên định và tuyệt đối trung thành.

Nội dung các bài viết của giới lý luận còn lên án tình trạng lười học tập chính trị, quan trọng hàng đầu là “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và các Nghị quyết đảng. Đồng thời các dư luận viên của Tuyên giáo và Quân đội cũng tìm cách đổ vạ cho điều được gọi là “các thế lực thù địch” và “diễn biến hòa bình” của đế quốc đã gây ra tình trạng rối ren và chống phá làm cho đảng mất quyền lãnh đạo.

Tình trạng “thay gió đổi chiều” mới của cán bộ, đảng viên đã được Thiện Văn báo động trên báo Quân đội Nhân dân ngày 06/07/2017, theo đó : “Một trong những nổi cộm của biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng chỉ rõ là một bộ phận cán bộ, đảng viên “nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.

Nhưng “một bộ phận” là bao nhiêu trong số trên 4 triệu đảng viên ? Chỉ biết rằng, tại Hội nghị Trung ương 4/XII năm 2016, một Nghị quyết về “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ “ đã được bàn hành ngày 31/10/2016.

Theo nhận xét của Nghị quyết thì đã có “một bộ phận không nhỏ” suy thoái chính trị, đạo đức và lối sống, nhưng đảng không dám nói đến con số chính xác là bao nhiêu.

Nghị quyết chỉ cho biết rằng : “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn ; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”.

Nhưng những thói hư tật xấu của cán bộ đảng viên đã có từ khóa đảng VII thời ông Đỗ Mười làm Tổng bí thư, rồi liên tục qua Khóa đảng VIII thời Lê Khả Phiêu, qua Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), lan sang hai Khóa IX và X của Nông Đức Mạnh. Đến thời ông Nguyễn Phú Trọng thì những khuyết tật này càng nghiêm trọng hơn nên đã được nói thêm một lần, cũng trong Nghị quyết Trung ương 4 của Khóa đảng XI.

Bây giờ ở vào Khóa đảng XII, ông Trọng lại phải tiếp tục đương đầu với những tệ nạn này, qua Nghị quyết 4/XII thì có phải đảng không còn khả năng giải quyết hay ông Trọng đã đầu hàng rồi ?

Vì vậy sau hai năm lăn lộn với khóa đảng XII, ai cũng thấy ông Nguyễn Phú Trọng đã đuối sức ở tuổi 73 (ông sinh năm 1944) nên tình trạng cán bộ, đảng viên chệch hướng, tự mình tách ra khỏi đường đi với đảng, đã có từ trước Hội nghị Trung ương 4 năm 2016, đã tiếp tục với tốc độ nhanh hơn.

Công khai thách đố

Bằng chứng là những người phạm kỷ luật đảng đã không còn chấp hành điều đầu tiên của 19 Điều đảng viên “không được làm”, theo đó họ bị tuyệt đối cấm : “Nói, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng…”.

Ngoài ra, họ cũng đã công khai không chấp hành Điều lệ đảng, như quy định trong Ðiều 2 gồm :

1.Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Ðảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị của Ðảng, pháp luật của Nhà nước….”

2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh ; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.

Họ cũng không tha thiết “Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Ðảng ; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Ðảng ; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Ðảng….” (điểm 4/ Điều 2).

Hay còn bỏ ngoài tai điều bắt “Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Ðảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Ðảng phục tùng Ðại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương”. (Điều 9, Điều lệ đảng).

Như vậy thì còn đảng với đoàn gì nữa, ông Trọng ? 

Đa nguyên - Đa đảng

Hẳn ông còn nhớ trong Nghị quyết 4/XII mà ông ký ban hành ngày 31/10/2016, Trung ương đã công khai thừa nhận những “biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.

Đứng đầu và quan trọng nhất là nhiều cán bộ, đảng viên đã : “Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng". 

Ngoài ra, đảng viên còn : “Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự" . Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai”.

Hay cứ :” “Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng ; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”.

Ngoài ra, khi không còn coi đảng ra gì nữa thì đảng viên cũng chẳng còn sợ hãi ai, theo lời Nghị quyết, để :” Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân”.

Đới với vai trò của Quân đội, đã và đang bị lên án chỉ biết bảo vệ đảng và tranh dành làm kinh tế với tư nhân để tư lợi thay vì rèn luyện để bảo vệ đất nước, trước đe dọa xâm lăng mới của Trung Cộng, thì vô số cán bộ, đảng viên đã :” Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang ; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an…”.

Bây giờ, những điều đảng lo sợ như trên đây vẫn không thay đổi mà còn lan nhanh khiến báo Quân đội Nhân dân phải lên tiếng cảnh giác thêm lần nữa, trong số báo ngày 13/07/2017.

Bài báo viết : “Mục tiêu của những luận điệu hô hào, cổ xúy đòi "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập" không gì khác là hạ thấp và đi tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam, bằng những lời lẽ hết sức mị dân. Họ cho rằng chỉ có “thực hiện chế độ “đa nguyên, đa đảng” thì “xã hội Việt Nam mới nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo” ; chỉ có "đanguyên, đa đảng" thì xã hội mới có dân chủ thực sự...”.

Nói thế, nhưng tác gỉa bài viết, Thành Vinh, cũng không dám phân tích lợi hại giữa một nhà nước có bầu cử dân chủ với nhiều đảng chính trị tham gia, khác với nhà nước chỉ có một đảng tự cho mình cầm quyền như Đảng Cộng sản Việt Nam mà không do dân bầu lên.

Vì vậy, người này chỉ biết nói bừa rằng :”Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” là luận điểm mang nặng tính chất mị dân, rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với những người nhận thức có phần còn hạn chế, từ đó có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, có thể dẫn tới sự dao động về tư tưởng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam ; gây nên sự phân tâm trong xã hội ; làm suy giảm và có thể đi đến mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Viết như thế tưởng đã cởi trói được giây thòng lọng độc tài của đảng đã thắt vào cổ dân từ 1946 nên Thành Vinh đã lập luận cù nhầy và tự biên, tự diễn bằng cái lưỡi gỗ : “Thực hiện chế độ nhất nguyên chính trị, một Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất lãnh đạo xã hội Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sự lựa chọn đúng đắn của chính nhân dân Việt Nam trong quá trình đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một hiện tượng hoàn toàn hợp quy luật, phản ánh những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đã chín muồi trong quá trình vận động của cách mạng Việt Nam” (Thành Vinh-QĐND, ngày 13/07/2017).

Cũng với quan điểm bảo hòang hơn vua và tự cho những cái lưỡi gỗ tuyên truyền không bao giờ sai, Thiện Văn, trong bài viết trên QĐND ngày 06/07/2017 cũng đã nhấn mạnh rằng : “Những ai đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng, nhất thiết phải chấp hành cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và khi nói, viết cần bám sát, dựa trên cơ sở các quan điểm, đường lối của Đảng. Tuy nhiên, thời gian qua, trong khi phần đông CB, ĐV một lòng kiên định với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, tự giác gương mẫu chấp hành cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, thì vẫn còn một bộ phận CB, ĐV có những phát ngôn không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng”.

Bởi vì, theo cái lưỡi gỗ Thiện Văn : “Những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta được xây dựng, ban hành bởi tập thể những người có trình độ hiểu biết cao, kiến thức sâu rộng và được kiến tạo theo một quy trình chặt chẽ, khoa học. Đây là những “sản phẩm” tập hợp, quy tụ tinh hoa trí tuệ xã hội và có giá trị như “cẩm nang” để góp phần định hướng và thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội.

Do vậy, đối với cán bộ đảng viên nói chung, viết và làm theo quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước không chỉ thể hiện thái độ chuẩn mực về chính trị, mà còn là hành vi ứng xử văn hóa của người công dân. Khi đã là thành viên của một tổ chức, đòi hỏi yêu cầu cao về ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm minh như tổ chức Đảng, nếu tùy tiện nói trái, viết lệch hay phê phán chủ trương, đường lối của Đảng là sai cả về lý và tình”.  

Ăn nói như thế thì có ngụy ngôn không ?

Phạm Trần

(28/07/2017)

Published in Diễn đàn
mercredi, 05 juillet 2017 21:38

Quốc tịch của Đảng Cộng Sản

Vụ chính quyền cộng sản Việt Nam tuyên bố tước quốc tịch và trục xuất giáo sư Phạm Minh Hoàng sang Pháp không thể chỉ được nhìn như một biện pháp đàn áp đối với ông Hoàng và đảng Việt Tân. Đây là một xúc phạm nghiêm trọng đối với luật pháp, văn hóa và tư tưởng chính trị cũng như đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Nó cũng một lần nữa nhắc lại bản chất của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

pmh1

Quyết định tước quốc tịch Việt Nam của ông Phạm Minh Hoàng ngày 10/06/2017

Trước hết hãy nhắc lại trường hợp Phạm Minh Hoàng.

Ông Hoàng có quốc tịch Việt Nam ngay từ khi sinh ra tại Việt Nam vì cha mẹ là người Việt Nam. Ông trưởng thành tại Việt Nam, đi du học Pháp một thời gian và được quốc tịch Pháp rồi trở về sinh sống tại Việt Nam từ năm 2000. Ông thường trú tại Sài Gòn và giảng dạy tại đại học Bách Khoa.

Như vậy ngay cả nếu chỉ căn cứ vào luật pháp của chế độ hiện nay thì Phạm Minh Hoàng cũng không thể bị tước quốc tịch. Điều 31 của Luật Quốc Tịch Việt Nam, biểu quyết năm 2008 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2009, qui định chỉ có hai loại người có thể bị tước quốc tịch : đó là những người hoặc thường trú tại nước ngoài hoặc không phải là người có quốc tịch ngay từ khi sinh ra. Việc ông Hoàng ngoài quốc tịch Việt Nam còn có quốc tịch Pháp cũng không có vấn đề gì vì điều 12 của luật này nhìn nhận một người Việt Nam có thể có thêm những quốc tịch khác.

Cần lưu ý một sự chi tiết nhỏ nói lên bản chất của chế độ cộng sản. Phạm Minh Hoàng có hai địa chỉ tại Việt Nam, môt địa chỉ thường trú và một địa chỉ tạm trú. Quyết định tước quốc tịch, do ông Trần Đại Quang nhân danh chủ tịch nước ký, đã được gửi tới địa chỉ tạm trú. Bằng cách này chính quyền cộng sản Việt Nam đã cố tình làm như ông Hoàng không phải là một người thường trú tại Việt Nam, dù Phạm Minh Hoàng đã ở Việt Nam từ 17 năm và có địa chỉ thường trú rõ rệt ; chính quyền cộng sản thừa biết như vậy và đã bắt ông tại địa chỉ này để trục xuất ông sang Pháp. Hành động này không đánh lừa được ai mà chỉ nói lên bản chất trí trá nhỏ mọn của chế độ.

Việc tước quốc tịch của Phạm Minh Hoàng không thể đặt ra vì ông không thuộc diện những người có thể bị tước quốc tịch, nhưng nó cũng đã được thực hiện không đúng thủ tục. Việc tước quốc tịch của một người Việt Nam, ngay cả với những người thuộc diện có thể bị tước quốc tịch, phải xuất phát từ một tòa án hoặc một chính quyền tỉnh (đối với những người không có quốc tịch bẩm sinh và đang thường trú tại Việt Nam) hoặc từ một sứ quán (đối với những người Việt Nam thường trú tại nước ngoài) theo điều 32. Sau đó kiến nghị phải được gửi đến bộ tư pháp, bộ này sẽ chủ trì phối hợp với bộ công an, bộ ngoại giao và các bộ liên hệ và chuyển kết luận chung tới thủ tướng nếu kết luận này đồng ý với kiến nghị tước quốc tịch của tòa án, chính quyền tỉnh hoặc sứ quán khởi xướng kiến nghị. Sau đó thủ tướng, nếu đồng ý, chuyển kiến nghị tới chủ tịch nước để có quyết định sau cùng. Việc tước quốc tịch của một người -cần nhắc lại chỉ đặt ra trong trường hợp người đó thuộc diện có thể bị tước quốc tịch, chứ không phải một người như ông Phạm Minh Hoàng - như vậy rất phức tạp và nghiêm trọng và chỉ có thể giải quyết ở mức độ tối cao của nhà nước.

Trong vụ này đã không có một cơ quan khởi xướng có thẩm quyền nào cả. Không có một tòa án nào xét xử ông Phạm Minh Hoàng và đề nghị tước quốc tịch cả. Cách đây bẩy năm ông Hoàng có bị xử án 3 năm tù trong một phiên tòa tùy tiện nhưng hoàn toàn không có vấn đề tước quốc tịch. Ủy Ban Nhân Dân Sài Gòn cũng không thể khởi xướng kiến nghị vì như thế là tự nhận mình là chính quyền địa phương nơi ông Hoàng thường trú và mặc nhiên nhìn nhận ông Hoàng là một người có quốc tịch bẩm sinh và thường trú tại Việt Nam, nghĩa là không thuộc diện có thể bị tước quốc tịch. Và dĩ nhiên không thể có sứ quán nào đề nghị cả vì ông Hoàng đã ở Việt Nam từ 17 năm nay. Sự tùy tiện đã vượt mọi giới hạn. Đảng Cộng Sản một lần nữa đã xác nhận một cách hùng hồn nhất rằng họ là một đảng hoạt động ngoài vòng pháp luật.

Chúng ta có thể kết luận một cách dứt khoát : quyết định tước quốc tịch đối với Phạm Minh Hoàng của chính quyền cộng sản hoàn toàn vô giá trị, Phạm Minh Hoàng vẫn còn nguyên quốc tịch Việt Nam.

Đây là dịp để chúng ta cùng nhìn lại khái niệm quốc tịch.

Quốc tịch là sự xác nhận tư cách thành viên của một cá nhân, hay tư cách thành phần của một tập thể, đối với một quốc gia. Như vậy trước hết phải hiểu quốc gia là gì. Nghĩa thông thường của một quốc gia là tập thể của những người cùng chia sẻ với nhau một lịch sử, một văn hóa, một ngôn ngữ, một tình cảm liên đới, cùng gắn bó với một lãnh thổ, thường thường là cùng sống trên lãnh thổ đó, nhưng quan trọng hơn hết là cùng chấp nhận xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung. Trong những yếu tố đó quan trọng nhất và có tính bắt buộc là tình cảm liên đới và sự chấp nhận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung.

Khái niệm quốc gia đã là một trong những đề tài triết lý chính trị được thảo luận nhiều nhất. Định nghĩa chính xác nhất là định nghĩa theo đó quốc gia là một tình cảm, một không gian liên đới và một dự án tương lai chung (1).

Chính vì quốc gia, và do đó quốc tịch, là một khi niệm tinh thần và tình cảm mà nó chỉ có thể bị từ bỏ bởi chính người mang quốc tịch chứ không thể bị tước bỏ bởi bất cứ quyền lực nào.

Dĩ nhiên về mặt hành chính và pháp lý phải có xác nhận cụ thể một người là hay không là thành viên của một quốc gia, nghĩa là có hay không có quốc tịch, nhưng sự xác nhận cụ thể này không thể mâu thuẫn với khái niệm nền tảng về quốc gia và quốc tịch. Luật chỉ là sự thể hiện những giá trị tinh thần và đạo đức trong sinh hoạt xã hội, luật không đúng không phải là luật như Plato đã từng nói cách đây 24 thế kỷ. Chính vì thế mà các nước văn minh đều không cho phép tước quốc tịch của một công dân trừ những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và cũng chỉ có thể áp dụng cho những người không có quốc tịch ngay từ lúc sinh ra. Một số quốc gia, như Hoa Kỳ, không cho tước quốc tịch trong bất cứ trường hợp nào đối với bất cứ công dân nào.

Luật Quốc Tịch 2008 của Việt Nam được soạn thảo với sự giúp đỡ của các luật gia Pháp nên có nội dung tương tự như luật quốc tịch của Pháp. Tuy nhiên chính quyền cộng sản đã thêm vào đó ý thức hệ cộng sản, một điều không thể chấp nhận được.

Điều 1 định nghĩa quốc tịch như sau : "Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Sai và xấc xược. Nhà nước Việt Nam là của mọi người Việt Nam, "nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" chỉ là của những người cộng sản, hay đúng hơn chỉ là bộ máy thống trị của những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chưa kể là ngày nay ngay cả những cấp lãnh đạo cộng sản cũng phải nhìn nhận rằng cụm từ "xã hội chủ nghĩa" chỉ còn là một khẩu hiệu rỗng nghĩa.

Điều 31 : "Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Tại sao lại "nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" ? Đó chỉ là quốc hiệu nhất thời do một lực lượng thống trị áp đặt.

Ban lãnh đạo cộng sản hình như lẫn lộn quốc tịch với quyền công dân. Họ thống trị đất nước một cách tùy tiện và do đó không tôn trọng quyền công dân của những người chống đối lại họ (và ngược lại những người này cũng không coi họ là một chính quyền chính đáng), nhưng quốc tịch và quyền công dân là hai khái niệm khác nhau. Trẻ thơ mới sinh ra chưa có quyền công dân nhưng đã có ngay quốc tịch ; người ngoại quốc thường trú có hầu hết các quyền và bổn phận của người dân bản xứ dù không có quốc tịch.

Khi lẫn lộn quốc tịch, điều mà họ phải tôn trọng, với quyền công dân, điều mà họ có phương tiện để thao túng một cách tùy tiện, cũng như khi đồng hóa đất nước Việt Nam với cái gọi là "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" Đảng Cộng Sản Việt Nam đã coi đất nước như là của riêng họ. Họ đã hành xử như một lực lượng chiếm đóng và thống trị.

Một điều đặc biệt đáng lưu ý là trường hợp của cộng đồng người Việt hải ngoại, mà đại đa số là những người đã phải bỏ nước ra đi không muốn hoặc không thể sống dưới chế độ cộng sản.

Luật Quốc Tịch 2008 (điều 13.2 và điều 26.3) qui định những người Việt ở nước ngoài phải đăng ký để giữ quốc tịch tại các sứ quán trước ngày 01/07/2014 nếu không sẽ bị mất quốc tịch. Đây là một hành động thách thức và bắt chẹt những người không chấp nhận chế độ cộng sản : các người phải phục tùng ta nếu không sẽ mất quốc tịch ! Nhưng trước kỳ hạn một tuần, ngày 24/06/2014, vì gần như không ai đăng ký cả, chính quyền cộng sản đã cho biểu quyết Luật Sửa Đổi Luật Quốc Tịch 2008 bãi bỏ hai điều khoản này. Như thế có nghĩa là họ đã phải nhượng bộ và nhìn nhận mọi người Việt hải ngoại và con cháu vẫn giữ nguyên quốc tịch Việt Nam.

Trở lại với vụ Phạm Minh Hoàng. Tại sao chính quyền cộng sản lại làm một hành động thô bạo, sai trái và ngây ngô đến như thế ? Họ bị mọi người quan tâm tới đất nước hoặc có chút kiến thức về luật pháp khinh và giận để bù lại được gì ?

Chắc chắn không phải là vì sợ Phạm Minh Hoàng sẽ phát triển cơ sở đảng Việt Tân trong nước vì Phạm Minh Hoàng bị theo dõi rất sát và cũng không ngây thơ đến nỗi đi tiếp xúc để kết nạp thành viên cho Việt Tân trong hoàn cảnh đó. Cũng không phải là để mở đường cho chính sách tước quốc tịch của những người dân chủ ở nước ngoài và có hai quốc tịch vì trên điểm này chính quyền cộng sản đã tự ý lùi bước. Nếu có thì cũng chỉ nhắm một vài người thôi và cũng chỉ làm mất mặt chế độ chứ chẳng có tác dụng gì. Người dân chủ nào cần được sự công nhận quốc tịch của một chính quyền độc tài hung bạo và không hiểu gì về quốc tịch ?

Lý do thực sự có lẽ chỉ giản dị là Đảng Cộng Sản nhìn tất cả những người đối lập dân chủ như những cái gai trước mắt cần phải nhổ đi và họ trục xuất tất cả những ai mà họ coi là thù địch và có thể trục xuất. Phạm Minh Hoàng là một trường hợp như thế. Thế giới tuy thấy hành động của họ là ngang ngược nhưng cũng chỉ ngao ngán chứ không phản ứng bởi vì các chính quyền dân chủ thường tránh không phê phán một hành động của một chính quyền khác là đúng hay sai trừ khi có sự bạo hành, bắt giam và bỏ tù. Cái giá mà họ phải trả chỉ là sự khinh thường, nhưng tự trọng là điều rất xa lạ đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam. Sau Phạm Minh Hoàng, Mẹ Nấm, Nguyễn Văn Đài và nhiều người khác sẽ phải chọn lựa giữa lưu đày và những án tù rất nặng, tương tự như Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ.

Quốc tịch là mối quan hệ gắn bó đối với đất nước và nhất là đối với tương lai đất nước nhưng chính sách của Đảng Cộng Sản là bách hại những người quan tâm tới tương lai đất nước. Đối với họ một công dân Việt Nam tốt là một người không quan tâm tới đất nước. Cố gắng của họ là hủy diệt tình cảm quốc gia và thay vào đó bằng sự phục tùng Đảng. Cũng đừng quên rằng một trong những tư tưởng nền tảng của chủ nghĩa Mác -Lênin là xóa bỏ các quốc gia. Không nên trông đợi Đảng Cộng Sản tôn trọng tinh thần dân tôc. Quốc tịch thực sự của Đảng Cộng Sản là Đệ Tam Quốc Tế.

Và họ không chỉ phá hoại đất nước trong tình cảm mà còn cả trong chủ quyền, lãnh thổ và môi trường. Các tài liệu sau này sẽ chứng minh rằng các đảo ở Trương Sa không bị chiếm mà đã bị dâng cho Trung Quốc để đổi lấy ơn huệ được thần phục. Họ đã cho Trung Quốc thuê dài hạn nhiều khu rừng đầu nguồn và thiết lập những khu của riêng người Trung Quốc, đã cho Formosa quy chế của một nhượng địa, đã biến Việt Nam thành một bãi rác để Trung Quốc trút bỏ những thiết bị cho những nhà máy than, thép, đạm, giấy không thể thiết lập ở Trung Quốc nữa vì quá lỗi thời và ô nhiễm. Điều 31 của Luật Quốc Tịch qui định : "Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài (và những người được nhập tịch Việt Nam) có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam …". Trong tinh thần của luật này những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam là những người đáng bị tước quốc tịch nhất.

Đảng Cộng Sản đã thất bại trên tất cả mọi phương diện và trong tất cả mọi địa hạt. Nó đã chỉ thành công được một điều là phá hoại đến mức báo động tinh thần dân tộc. Sự phẫn nộ bất lực kéo dài quá lâu đối với một chính quyền tham bạo đã dần dần trở thành sự chán nản với chính đất nước Việt Nam. Năm 2008 khi luật này được thông qua đa số người Việt hải ngoại đã mừng vì khi hết hạn đăng ký quốc tịch họ sẽ hoàn toàn không còn là người Việt Nam nữa và sẽ rũ bỏ được mọi liên hệ với chính quyền này. Tại Đức tôi đã gặp một người được đặc cách giữ quốc tịch Việt Nam đã dứt khoát đòi bỏ quốc tịch Việt Nam vì "em không chấp nhận một quan hệ nào với chúng nó nữa". Anh này là một người sinh ra và lớn lên tại miền Bắc. Thật đau buồn.

Tước quốc tịch là một điều rất nghiêm trọng. Nó xúc phạm tới cội nguồn, lý lịch, tình cảm và phẩm gía của một con người. Chính vì thế mà luật pháp của các nước văn minh đã cấm việc tước quốc tịch hoặc chỉ cho phép trong những trường hợp rất đặc biệt với những lý do rất nghiêm trong. Tuy vậy không một quốc gia nào đã lên tiếng trong vụ Phạm Minh Hoàng, ngay cả nước Pháp, dù là nước đã giúp Việt Nam soan thảo luật quốc tịch và cũng là nước có bổn phận bảo vệ Phạm Minh Hoàng. Tại sao ? Lý do là vì các quốc gia chỉ can thiệp khi có vấn đề nhân đạo, nghĩa là những bản án tù rất dã man. Một lần nữa chúng ta được nhắc nhở rằng những vấn đề lớn của Việt Nam chỉ có thể giải quyết được bởi người Việt Nam. Và thực ra chúng ta chưa hề có lý do nào để nghĩ khác. Mỹ là nước, ít nhất cho tới gần đây, quan tâm tới nhân quyền tại Việt Nam nhất, nhưng mối quan tâm đó đã không ngăn cản quan hệ thương mại Mỹ Việt đem lại 32 tỷ USD thặng dư cho chế độ Hà Nội mặc dù những vi phạm nhân quyền trắng trợn. Hỗ trợ quốc tế rất quý báu nhưng tương lại Việt Nam vẫn chủ yếu chỉ tùy thuộc người Việt Nam chúng ta.

Chế độ cộng sản phải chấm dứt để đất nước Việt Nam có thể có một tương lai. Chúng ta cũng không còn nhiều thời giờ vì đất nước đã quá tụt hậu và sự thất vọng đã quá cao. Nhưng tới bao giờ chế độ này mới chấm dứt ? Câu trả lời dứt khoát là : khi những người dân chủ Việt Nam hiểu rằng tự do phải đấu tranh để có và đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân cả mà luôn luôn phải là đấu tranh có tổ chức.

Nguyễn Gia Kiểng

(07/2017)

(1) Khái niệm quốc gia là một trong những tư tưởng nền tảng được trình bày trong Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, dự án chính trị của THDCĐN, Chương IV.

Published in Quan điểm
mercredi, 05 juillet 2017 08:22

Đã tan hàng rã đám chưa ?

Đội ngũ lãnh đạo tuyên truyền và làm công tác bảo vệ độc tài cai trị cho Đảng Cộng sản Việt Nam đã quáng gà trong lý luận để loạn ngôn trong hành động.

phong1

Tài liệu hoc tập nội bộ : "phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên" hiện nay (2013) - Ảnh minh họa

Hiện tượng này đang lên cao trong phong trào được gọi là "phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên", thi hành song song với công tác đổi mới cơ cấu lãnh đạo trên mọi lĩnh vực sau Hội nghị trung ương 5, Khóa đảng XII từ ngày 5 đến 10/05/2017.

Đứng đầu chỉ huy đợt tiến công mới là Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban bí thư trung ương, kiêm Chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương.

Tuy còn quá sớm để kết luận phong trào làm sạch mới nội bộ đảng sẽ phải kéo dài bao nhiêu năm, nhưng hiện nay chưa có bằng chứng và yếu tố tốt để giúp đảng viên tin công tác khó khăn này sẽ kết thúc thành công vào cuối nhiệm kỳ khóa đảng XII, năm 2021.

Cá nhân - lợi ích nhóm

Lý do vì đứng đầu lực cản đổi mới và làm sạch đảng là sự tồn tại khó tróc rễ của bệnh "cá nhân chủ nghĩa". Khuyết tật di căn này từ lâu đã ăn sâu và lan rộng trong nội bộ, bất chấp các đợt tự phê bình và phê bình trong đảng được thực hiện từ khóa đảng XI năm 2011.

Song song với "cá nhân chủ nghĩa" là "quyền lợi phe nhóm", hay còn được gọi là "lợi ích nhóm" trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên có chức có quyền.

Hai kẻ nội thù này đã cấu kết với nhau để thi đua tham nhũng, tổ chức móc ruột các dự án kinh tế và đầu tư trong các doanh nghiệp nhà nước và đầu tư của nước ngoài.

Đáng chú ý là các dự án kinh tế đã tiêu phí nhiều nghìn tỷ bạc của dân trong nhiều năm mà đảng cứ nhắm mắt cho đắp chiếu.

Báo chí Việt Nam liệt kê 12 dự án này gồm :

1. Nhà máy Sản xuất xơ sợi Đình Vũ

2. Dự án Nhà máy Bột giấy Phương Nam

3. Dự án Nhà máy Gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2

4. Nhà máy Nhiên liệu sinh học Bio-Ethanol Dung Quất

5. Dự án Nhà máy Đạm Ninh Bình

6. Dự án Nhà máy Đạm Hà Bắc

7. Nhà máy Đạm DAP 1 Hải Phòng

8. Nhà máy DAP 2 Lào Cai

9. Dự án Ethanol Bình Phước

10. Dự án Ethanol Phú Thọ

11. Nhà máy Đóng tàu Dung Quất

12. Dự án liên doanh giữa đối tác mỏ Quý Sa và Nhà máy Gang thép Lào Cai

Cũng đáng chú ý là khi công tác phòng, chống tham nhũng tiếp tục thất bại thì Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng chỉ biết than vãn còn nhiều khó khăn. Ông cho rằng công tác này không thể làm xong một sáng một chiều mà phải có thời gian, là việc làm lâu dài và của toàn dân.

Nhưng ai cũng biết tham nhũng và lợi ích nhóm là hai kẻ thù rất hung ác đối với những ai dám cả gan tố cáo chúng. Trong hoàn cảnh phổ biến "chờ được vạ thì má đã sưng", hay "quan tòa bao che tội phạm"ở Việt Nam bây giờ thì có cho ăn vàng dân cũng không dám nghe đảng xíu dại để lãnh đạn.

Người dân cũng biết hai kẻ nội thù này đã và đang làm suy thoái nền kinh tế và gây khó khăn trong đời sống cho hàng triệu người dân. Do đó, ưu tiên hàng đầu của nhà nước là phải thanh toán tham nhũng cho bằng được, với bất cứ gía nào, để cứu dân khỏi đòi nghèo và lạc hậu.

Đằng này, đảng lại tập trung phần lớn khả năng tài chính và nguồn nhân lực để tuyên truyền, vận động cho phong trào phòng, chống "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" trong nội bộ, là hai con đẻ của tham nhũng và lợi ích nhóm.

Lý do nhiều đảng viên muốn "tự biến xa đảng" vì khi thủ trưởng, trường phòng, chủ tịch xã, bí thư huyện, bí thư tỉnh, giám đốc sở v.v. cứ giầu lên mãi mà mình thì muôn đời nghèo xơ, nghèo xác thì có ai còn chưa biết mình đã ngu để tiếp tục tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa giết người Mác-Lênin, hay cứ cắm đầu "học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" ?

Như vậy, thì có phải đảng đã sử dụng chiêu bài mập mờ "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" để trốn trách nhiệm đã thoái hóa trước nhân dân mà tiếp tục cầm quyền ?

Nhưng không chỉ có đánh lận con đen như thế mà lãnh đạo còn không dám nhận đảng đang rã đám vì một số không nhỏ đảng viên và người dân không còn tin đảng nữa.

Họ mất niềm tin vào đảng vì cán bộ đã ăn hết cả cái để dành của dân, và ngồi lên đầu dân từ đời cha đến đời con cháu để hút hết công sức và mồ hôi nước mắt lao động của dân. Đảng còn che đậy những thỏa hiệp kinh tế mờ ám với Trung Quốc như Bauxite Tây Nguyên hay Formosa Hà Tĩnh, trong khi lại mặc thây cho quân Trung Quốc tự tung tự tác thao túng chủ quyền ở Biển Đông.

Cái mồm loa tuyên truyền của Ban Tuyên giáo đảng chỉ nhìn nhận có một bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viên bị dao động trước âm mưu "diễn biến hòa bình" của các "thế lực thù địch".

Diễn biến - chuyển hóa ở đâu ?

Bằng chứng từ ngày 27/12/2012, Bộ biên tập Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận hàng đầu của trung ương đã đứng ra phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học : "Phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên hiện nay".

Theo Tạp chí này thì : "Đảng ủy Khối các Cơ quan trung ương và Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam đồng tổ chức. Hơn 200 cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan đảng, các bộ, ngành ở trung ương, các nhà khoa học tới dự Hội thảo".

Cuộc hội thảo tuy quy tụ những cái đầu lớn, nhưng lại chỉ biết chạy tội cho đảng khi họ lập luận rằng :"Thuật ngữ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ thực sự xuất hiện gần đây sau chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch chống các nước xã hội chủ nghĩa và các nước có khuynh hướng tiến bộ không theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Bằng thủ đoạn chống phá, các thế lực thù địch tạo sự tự diễn biến, tự chuyển hóa từ bên trong nội bộ" (Tạp chí Cộng sản, 22/3/2013).

Từ cái nhìn rất chung chung, trốn tránh sự thật thê thảm đang làm lung lay tận gốc nền tảng tổ chức và lãnh đạo của đảng, các tham luận viên đã "vạch lá tìm sâu" xem "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" từ đâu mà có và kẻ đứng sau là ai.

Trần Đại Quang

Tiêu biểu như Trần Đại Quang, Đại tướng, Bộ trưởng công an trước khi lên chức Chủ tịch nước thì quanh co nói rằng : "Tự diễn biến" là quá trình đấu tranh giữa các mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong nội tâm người cán bộ, đảng viên trước những tác động phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế. Trong đó, yếu tố tiêu cực và tư tưởng tư bản chủ nghĩa dần dần tăng lên ; yếu tố tích cực, cách mạng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa phai nhạt dần. Đây là quá trình biến đổi từ bên trong chủ thể, đến một thời điểm nhất định, sự biến đổi này sẽ chuyển sang hành động của chủ thể".

Nhà báo Hà Đăng giải thích thêm : "Tự diễn biến" là quá trình biến đổi từ bên trong cán bộ, đảng viên theo chiều hướng từ đúng sang sai, từ tốt sang xấu, từ tích cực sang tiêu cực, từ tiến bộ sang phản tiến bộ. Biểu hiện rõ nhất là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. 

Còn "tự chuyển hóa" là sự nối tiếp của quá trình "tự diễn biến", nhưng ở cấp độ cao hơn. Đó là sự thay đổi về chất của quan điểm chính trị lẫn đạo đức, lối sống, khiến cho cán bộ, đảng viên không còn là chính mình nữa, chẳng những đánh mất vai trò tiên phong, gương mẫu mà có khi trở thành kẻ phản bội, chống lại Đảng và Nhà nước ta, thậm chí chuyển sang hàng ngũ kẻ thù. tự diễn biến, tự chuyển hóa là nói về quá trình diễn ra trong chính nội bộ ta".

Bài tổng thuật trên Tạp chí Cộng sản của Nguyễn Thị Vy trích quan điểm của một số tham dự viên khác nói rằng : "Tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ ta do nhiều yếu tố trước hết là nguyên nhân chủ quan". Bà này nhấn mạnh : Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới chưa được luận giải kịp thời ; một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên ở các cấp, các ngành thoái hóa, biến chất, chạy chức, chạy quyền, tranh giành, kèn cựa địa vị, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật và chuẩn mực văn hóa, đạo đức ; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên và chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ ; sự phát triển mạnh mẽ của các trang mạng xã hội và hệ thống thông tin đại chúng ; tình trạng quản lý cán bộ, đảng viên lỏng lẻo dẫn tới hiện tượng chạy chức, chạy quyền ; tác động của mặt trái của cơ chế thị trường v.v.".

Với mớ lập luận dông rài như thế, không người nào dám chỉ ra nguyên nhân cốt lõi của "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" trong đảng viên là nhân dân đã ruồng bỏ trong thực tế Chủ nghĩa cộng sản và Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Có còn chăng là đối với thiểu số lãnh đạo và những đảng viên có chức có quyền được tiếp tục tham nhũng và cai trị để chia quyền lợi.

9 biểu hiện

Bằng chứng đảng viên tự mình tách ra khỏi đảng đã được Nghị quyết trung ương 4 khóa XII chỉ rõ trong 9 biểu hiện nguyên văn như sau :

1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng".

2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng ; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang ; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an ; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ; chia rẽ quân đội với công an ; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.

6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập ; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.

7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.

8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng ; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan ; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.

9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.

Viết ra như thế, nhưng thay vì nhìn vào sự thật rằng mình đã thoái trào và đang bị nhân dân ruồng bỏ thì lãnh đạo lại chối quanh và tập trung đổ tội gây ra khủng hỏang cho "các thế lực thù địch" mà chính đảng cũng không biết chúng là ai và đền từ đâu.

Tuy nhiên lập luận này không mới mà chỉ nhắc lại những điều mọi người đã biết từ Khóa đảng VIII, thời Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. Khi ấy, Nghị quyết trung ương 6 (lần 2) về xây dựng, chỉnh đốn đảng ra đời năm 1999.

Từ đó đến khi có Nghị quyết trung ương 4 khóa đảng XII năm 2016, tổng cộng qua hơn 4 khóa đảng (mỗi khóa có nhiệm kỳ 5 năm) mà tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức của cán bộ, đảng viên cứ mỗi ngày một nghiêm trọng, tụt dốc thêm thì có phải là Đảng đã tan hàng và rã đám rồi không ?

Phạm Trần

(05/07/2017)

Published in Diễn đàn

Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết một năm triển khai thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" ngày 18/5, ông Võ Văn Thưởng Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương nói : "Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý".

doithoai1

Đối thoại đối với đảng cộng sản Việt Nam là chuyện xa xỉ

Bình thường ra thì đây là một tin rất đáng mừng, đáng khích lệ. Tuy nhiên, nói Đảng cộng sản Việt Nam "không sợ đối thoại" thì giới đấu tranh không chỉ hoài nghi mà là không tin.

Quả thật, đối thoại đối với đảng cộng sản Việt Nam là chuyện xa xỉ. Nhà báo Bùi Tín viết trên VOA : "Tôi phải bấm mạnh vào đùi để xem mình đang tỉnh hay mê sau khi đọc tin này". 

Trên thực tế thì chưa bao giờ có chuyện nhà cầm quyền cộng sản ngồi đối thoại với những người bất đồng chính kiến về những vấn đề hệ trọng của đất nước như đường lối chung, đường lối đối ngoại, đường lối kinh tế, chính sách đất đai… Đã có rất nhiều kiến nghị của nhân sĩ trí thức, kể cả đại công thần của chế độ như ông Võ Nguyễn Giáp đều bị xếp vào một xó và không bao giờ được trả lời. Kiến nghị thì có thể đáp ứng, tiếp thu nhiều hoặc ít hoặc không tiếp thu, nhưng trả lời cũng còn không có, thế thì nói gì đến đối thoại. 

Thôi thì chẳng đối thoại, chẳng tiếp thu kiến nghị nhưng giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của dân họ cũng ì ra. Vì vậy, có những dân oan đi kiện vài chục năm nhưng đơn bị đùn đẩy, chuyển vòng vo, oan khất vẫn oan khuất, chờ chực vẫn chờ chực. Luật qui định lãnh đạo mỗi tháng tiếp dân một hoặc hai lần nhưng thử hỏi có ông nào đến kỳ ra phòng tiếp dân ngồi để đối thoại ? Dân chất vấn thì lờ đi, coi như không biết, dân bức xúc biểu tình phản đối thì bỏ vào tù cho khỏi biểu tình nữa.

Ông Võ Văn Thưởng có vẻ rất liều khi nói "không sợ đối thoại". Đối thoại gần nghĩa với bút chiến. Còn nhớ hồi đầu năm 2013, ông Hồ Quang Lợi Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội khi ấy (sau làm Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo Việt Nam) khoe có 900 dư luận viên sẵn sàng bút chiến (bây giờ thì đông hơn nhiều). "Đáng sợ" hơn cả là là lực lượng "phóng viên bấm nút, phản ứng nhanh", nhóm "chuyên gia" tham gia "bút chiến" trên mạng Internet. Nghe mà rùng mình. Ông Lợi cho biết "Đến nay, đã xây dựng được 19 trang tin điện tử, hơn 400 tài khoản trên mạng".

Bút chiến cũng là một hình thức đối thoại, chỉ khác nhau là không trực diện tranh luận tay đôi. Bút chiến là một bên nêu ra quan điểm của mình về một sự việc, một vấn đề, một bên phản biện bằng lý lẽ. Thoạt đầu, khi ông Hồ Quang Lợi thông báo tổ chức nhóm chuyên gia bút chiến trên internet, cánh blogger và giới còm sĩ hồ hởi lắm, cứ tưởng là sẽ được tranh luận sòng phẳng, thẳng thắn. Thế nhưng qua gần 5 năm, hãy xem dư luận viên của ông Lợi bút chiến như thế nào. Những ai tham gia mạng xã hội đều thấy lực lượng dư luận viên đông như giặc. Điều dễ nhận ra là nick của đám này thường là không có bài viết, chỉ có mấy bức hình để đấy và không có thông tin về mình. Mỗi dư luận viên lại có rất nhiều nick, chặn nick này lại mọc ra nick khác như Phạm Nhan. Còn nội dung bút chiến của họ là gì hãy vào các trang fb hay blog của những người đấu tranh thì thấy nhan nhản những câu chửi bới tục tĩu kiểu như "đm mày" "thằng phản động", "muốn vào tù hả" v.v. Trời ơi, thế mà gọi là bút chiến sao ? Không thấy có comment nào phân tích, bạn nói thế không đúng ở chỗ nào. Còn các blog, các website của dư luận viên thì sao ? Lướt qua thấy đầy rẫy những bài viết xuyên tạc, bịa đặt, dựng chuyện, cắt ghép, photoshop hình ảnh để bôi nhọ những người hoạt động dân chủ, nhân quyền. Đi đầu các blog, website kiểu này là trang Việt Nam Thời báo - vntb.org.

Quả là bút chiến, đối thoại như thế thì cũng hãi thật.

Ngoài ra, nhà cầm quyền còn các kiểu "đối thoại" khác. Đó là kiểu "đối thoại" rất nhanh và kịp thời. Ai chưa tin thì cứ xuống đường mà xem, sẽ được "đối thoại" liền. Công an, trật tự đô thị, thanh niên xung phong đập cho vài người máu me be bét rồi mời về đồn "đối thoại". Nhiều khi công an còn xông vào tận nhà người đấu tranh, cưỡng bức thậm chí khiêng vứt lên ô tô mang về đồn để "đối thoại". Tôi cũng đã mười mấy lần được mời "đối thoại" kiểu như thế. Gần đây nhất, ngày 17/6, Phạm Văn Trội cũng được công an đến nhà bắt đi "đối thoại". 

"Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý".

Lời ông Võ Văn Thưởng rất hay. Nhưng cách "tranh luận" chụp mũ, chửi bới, cách nhà cầm quyền "đối thoại", "cọ xát" xưa nay làm ai cũng hãi. Còn "hình thành chân lý" là chân lý gì ? Đó là chân lý chỉ có đảng cộng sản Việt Nam mới đủ khả năng lãnh đạo đất nước, tất cả đã "có đảng và nhà nước lo". Lập ra một đảng để đối thoại ắt vào tù.

Ông Thưởng cho biết, Ban Tuyên giáo Trung ương đang chờ Ban Bí thư thông qua một văn bản hướng dẫn về việc tổ chức trao đổi và đối thoại với những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Có thể sẽ có các cuộc đối thoại theo kiểu các ông bà cứ nói và tôi ghi nhận, nhưng tiếp thu hay không là quyền của tôi. Cũng có thể đối thoại theo kiểu ở tòa án. Luât sư tranh tụng thì cứ tranh tụng. Luật sư đưa ra các lý lẽ bảo vệ thân chủ mà Hội đồng xét xử không bác bỏ nổi nhưng vẫn tuyên theo án bỏ túi. 

Vì vậy, đừng ngạc nhiên khi không ai tin nhà cầm quyền sẵn sàng đối thoại trên tinh thần lắng nghe và tranh luận đến cùng.

Nguyễn Tường Thụy

Nguồn : RFA, 21/06/2017

Published in Diễn đàn
dimanche, 04 juin 2017 22:34

Đối thoại với cộng sản !

Sau khi ông Võ Văn Thưởng, ủy viên bộ chính trị, trưởng ban Tuyên giáo trung ương thông báo cho biết là đang xin ý kiến của Ban bí thư đảng để hợp thức hóa việc ‘đối thoại’ với những người bất đồng chính kiến thì dư luận Việt Nam nổi lên tranh cãi khá gay gắt.

doithoai1

Ông Võ Văn Thưởng, ủy viên bộ chính trị, trưởng ban Tuyên giáo trung ương cho biết là đang xin ý kiến của Ban bí thư đảng để hợp thức hóa việc ‘đối thoại’

Có hai luồng ý kiến chính, một bên lên tiếng ủng hộ chủ trương ‘đối thoại’ của đảng cộng sản Việt Nam, xem đây là hành động thiện chí và cởi mở của chính quyền vì thế những người bất đồng quan điểm với nhà nước và đảng nên nắm lấy cơ hội. Ý kiến thứ hai thì cho rằng không nên tin đảng cộng sản, rằng đây là chiêu bài ru ngủ và dối trá chứ không thật tâm của chính quyền…

Theo chúng tôi thì cả hai luồng ý kiến này đều đúng và có lý. Tuy nhiên vấn đề không phải nằm ở chổ đó mà vấn đề mấu chốt quan trọng nhất nằm ở chổ khác đó là sự ‘tương quan lực lượng’ giữa hai bên đối thoại.

Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên chủ trương ‘hòa giải dân tộc’ và ‘đấu tranh bất bạo động’ cho nên việc ‘đối thoại’ và ‘thỏa hiệp’ từng giai đoạn với đảng cộng sản là lẽ đương nhiên. Đây là quá trình tất yếu mà một cuộc cách mạng bất bạo động phải đi qua. Vấn đề quan trọng là ‘đối thoại’ và ‘thỏa hiệp’ như thế nào để đạt được kết quả mà không đánh mất mình, không bị ‘hòa tan’ hoặc phải chấp nhận mọi điều kiện mà đảng cộng sản đưa ra ?

Đầu tiên phải nhắc lại một điểm rất quan trọng mà chúng tôi đã nhiều lần trình bày đó là ‘đấu tranh chính trị luôn luôn là đấu tranh giữa các tổ chức chính trị với nhau chứ không phải giữa các cá nhân’. Một cá nhân dù giỏi giang đến đâu cũng chỉ là một cá nhân. Cá nhân đó không bao giờ đủ tư cách để ‘đại diện’ cho bất cứ ai, ngoài bản thân người đó. Chỉ có các tổ chức chính trị mới đủ tư cách ‘đại diện’ cho các khuynh hướng chính trị (khác nhau) của hơn 90 triệu người dân Việt Nam. Như vậy, nếu Đảng cộng sản Việt Nam chỉ muốn ‘đối thoại’ với các cá nhân bất đồng chính kiến thì đó là chuyện riêng giữa đảng và một số công dân Việt Nam, trong trường hợp này chúng ta không cần bận tâm và mất thời gian vô ích.

Nếu thật lòng đảng cộng sản muốn ‘đối thoại’ để mở ra một không gian chính trị cởi mở thì muốn hay không đảng cộng sản cũng phải ‘đối thoại’ với các tổ chức chính trị dân chủ đối lập của người Việt trong và ngoài nước. Khả năng này rất khó xảy ra. Giả sử ông Võ Văn Thưởng và một số nhân vật ‘tiến bộ’ trong đảng có tấm lòng và thật tâm muốn đối thoại thì cũng không dễ vì sẽ vấp phải sự chống đối quyết liệt của những thành phần bảo thủ. Lý lẽ của phe bảo thủ rất đơn giản nhưng lại có sức thuyết phục cao, đó là ‘phong trào dân chủ quá yếu và hoàn toàn chưa đe dọa hay gây ra bất cứ một sức ép nào thì việc gì đảng phải thay đổi, như thế là hạ mình, là tự lấy đá ghè chân…’.

Một cuộc ‘đối thoại’ chỉ có thể công bằng và có kết quả tốt đẹp khi ‘tương quan lực lượng’ giữa hai bên phải tương đương nhau. Nếu một trong hai phía quá yếu thì bên yếu sẽ bị áp đặt hoàn toàn. Ví dụ, hai người muốn góp vốn để kinh doanh hay thành lập công ty, một người có 10 tỉ đồng, một người chỉ có 1 tỉ đồng thì rõ ràng người có 10 tỉ phải có quyền quyết định mọi chuyện chứ không thể có chuyện hai người có quyền quyết định ngang nhau. 

Trước đây từng có ý kiến đưa ra để phản bác lập trường ‘hòa giải dân tộc’ của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên rằng ‘cộng sản là dối trá và luôn trở mặt, từ hồi năm 1946, khi Việt Minh ‘cho không’ hai đảng Việt Quốc và Việt Cách 70 ghế trong quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rồi hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, rồi hiệp định Paris 1973, rồi chủ trương hòa hợp và hòa giải dân tộc của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam… tất tật đều bị đảng cộng sản xé bỏ và nuốt lời khi họ xong việc’. Chúng tôi đâu có khờ khạo đến mức không biết điều đó ? Vấn đề là các đảng phái quốc gia và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa quá yếu vì không có lực lượng, không có tổ chức, không có nhân sự chính trị cho nên không được quần chúng hậu thuẫn và vì thế mới bị cộng sản lật lọng. Đảng cộng sản Ba Lan đâu có lật lọng được trước Công Đoàn Đoàn Kết ?

Vấn đề quan trọng nhất của phong trào dân chủ và tất cả mọi người Việt Nam yêu nước hiện nay đó là hãy ủng hộ cho một tổ chức chính trị dân chủ đối lập đứng đắn và có viễn kiến để tổ chức chính trị đó có tầm vóc như Công Đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan. Khi đó thì dù không muốn, đảng cộng sản Việt Nam cũng phải ngồi vào bàn đàm phán với đối lập dân chủ để mở ra một trang sử mới cho dân tộc. 

Hiện tại phong trào dân chủ có một ‘tư thế’ rất mạnh để mang đến cuộc ‘đối thoại’ đó là chúng ta có lẽ phải và chúng ta thuận theo dòng chảy của lịch sử còn đảng cộng sản thì không. Tuy nhiên vì không có tổ chức nòng cốt dẫn đầu nên chuyện ‘đối thoại’ với đảng cộng sản có lẽ không xảy ra và nếu có xảy ra thì cũng sẽ không có kết quả gì.

Tất nhiên nếu đảng cộng sản đủ sáng suốt và khôn ngoan thì nên ‘đối thoại sớm’ với phong trào dân chủ khi đảng còn mạnh và còn nắm thế thượng phong. Quyền lợi và nhân phẩm của các đảng viên đảng cộng sản sẽ được đảm bảo và tôn trọng. Muốn thế, đảng cộng sản phải đặt quyền lợi của đất nước và dân tộc lên trên lợi ích của các phe nhóm trong đảng.

Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên luôn cổ vũ cho một cuộc thay đổi ‘từ trên xuống dưới’, tức là đảng cộng sản và các tổ chức đối lập dân chủ ‘đối thoại’ với nhau để cùng mở ra một lối thoát cho cả dân tộc như trường hợp Đài Loan hay Hàn Quốc trước đây : chính quyền chủ động dân chủ hóa đất nước. Một mình đảng cộng sản không thể nào làm được việc này vì uy tín của họ trong dân chúng quá thấp và những đổ vỡ họ gây ra cho dân tộc là quá lớn.

Đạo đức của con người trong xã hội Việt Nam khủng hoảng nghiêm trọng vì thế mọi sự cố gắng thay đổi dù thiện chí đến đâu cũng vấp phải sự chống đối của nhiều người vì thế đối lập dân chủ cũng rất cần đến sự ủng hộ và tham gia của đảng cộng sản trong thời gian chuyển giao này.

Suốt 35 năm qua, chưa bao giờ Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên xin xỏ, kiến nghị hay yêu cầu bất cứ một điều gì từ đảng cộng sản Việt Nam. Chúng tôi cũng chưa bao giờ kêu gọi người dân Việt Nam làm điều nọ điều kia… Có những người không hiểu vấn đề nên cho rằng chúng tôi chỉ nói mà không làm, chúng tôi hàn lâm, bàn phím… Sự thật thì chúng tôi đang cố gắng để làm một việc không thể không làm đối với một tổ chức chính trị đó là ‘xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt’ khoảng 1000 người và tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng Việt Nam bằng một ‘Dự án chính trị’ khả thi và nghiêm túc thông qua các trang Website, Blog và Facebook của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Chúng tôi chỉ hành động khi nào có thực lực (tức là đã được đa số người dân Việt Nam ủng hộ và hưởng ứng) và đã hành động thì nhất định phải thắng lợi.

Như vậy vấn đề đặt ra hiện nay không phải là ‘có nên đối thoại với đảng cộng sản hay không, mà là chúng ta sẽ đối thoại với họ khi nào ? Nội dung ra sao ? Với tư cách gì ?...

Chúng tôi xin trích lại một đoạn trong Dự án chính trịKhai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (chương VII - Đấu tranh thiết lập dân chủ đa nguyên) như sau :

"Trong đấu tranh để đòi bầu cử tự do cũng như để giành thắng lợi qua các cuộc bầu cử tự do đó, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên lúc nào cũng chủ trương xóa bỏ hận thù, tôn trọng mọi người và mọi chính kiến để hợp tác với nhau và cùng nhau xây dựng tương lai Việt Nam chung. Tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc này không thể bị đồng hóa với thái độ sẵn sàng cấu kết và đồng lõa với bất cứ ai. Thái độ của Tập Hợp rất minh bạch. Tập Hợp có mục tiêu và đường lối rõ ràng và Tập Hợp sẽ kiên trì theo đuổi. Tập Hợp sẽ dồn mọi cố gắng để giành thắng lợi trong bầu cử tự do. Nếu thắng, Tập Hợp sẽ cùng với các tổ chức chính trị đồng minh chia sẻ trách nhiệm trước dân tộc. Nếu không may thắng lợi về tay những lực lượng khác lập trường, Tập Hợp sẽ tiếp tục đấu tranh trong cương vị của một đối lập đứng đắn và trách nhiệm.

Như tất cả mọi cuộc vận động chính trị, cuộc đấu tranh này sẽ đòi hỏi nhiều thỏa hiệp. Đấu tranh bất bạo động có nghĩa là chấp nhận đi đến thắng lợi sau cùng qua các thỏa hiệp giai đoạn. Tập Hợp sẽ chấp nhận những thỏa hiệp giai đoạn, nhưng sẽ không sợ đánh mất chính mình vì đã có tư tưởng nền tảng và những định hướng lớn làm kim chỉ nam. Tập Hợp sẽ chấp nhận những thỏa hiệp giai đoạn có tác dụng rút ngắn lộ trình dân chủ nhưng sẽ không nhân nhượng trên ba lập trường căn bản : lý tưởng dân chủ đa nguyên, tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, và phương thức đấu tranh bất bạo động".

Việt Hoàng

(04/06/2017)

Published in Quan điểm

Sau khi đọc bài "Ông Đinh La Thăng còn có thể làm được gì ?", một thân hữu đặt cho chúng tôi hai câu hỏi rất thú vị rằng : Các đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam có thể nào cứu được đảng không ? Trường hợp Gorbachev ở Liên Xô là như thế nào ?

cuu1

Ai có thể cứu được Đảng cộng sản Việt Nam ?

Để trả lời câu hỏi này thì chúng ta cần trả lời trước những câu hỏi như : Đảng cộng sản Việt Nam là gì ? Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay là những ai ? Ai trong họ có thể cứu được đảng ?

1. Đảng cộng sản Việt Nam là gì ?

Có thể tóm gọn rằng Đảng cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị duy nhất cầm quyền tuyệt đối ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Mặc dù xuất hiện và cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim như là một chính đảng yêu nước nhưng sự thực Đảng cộng sản Việt Nam là một chi nhánh của chủ nghĩa cộng sản quốc tế được Liên Xô hậu thuẫn.

Đảng cộng sản Việt Nam chiến thắng và giành được chính quyền năm 1945 vì họ là tổ chức chính trị duy nhất có tổ chức, cán bộ được đào tạo bài bản và có kỹ thuật khủng bố. Tuy thế, trong giai đoạn 1945-1975 Đảng cộng sản Việt Nam đã mê hoặc rất nhiều người dân và trí thức Việt Nam rằng họ là một chính đảng yêu nước và có tinh thần dân tộc. Giải thích cho sự ‘cám dỗ’ này không khó, trí thức Việt Nam nói riêng và người dân Việt Nam nói chung chưa đủ hiểu biết và kiến thức để nhận ra sự hoang tưởng và nguy hiểm của chủ nghĩa cộng sản, trong đó có cả những triết gia nổi tiếng như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường… Sau năm 1975, sự trù phú và văn minh của miền Nam đã thức tỉnh nhiều người dân miền Bắc Việt Nam. Khi sự thực được phơi bày thì bạo lực lên ngôi. Các tiếng nói bất đồng với đảng đều được cánh cửa nhà tù rộng mở đón chào.

Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay đã quá tha hóa vì tham nhũng. Trước đây khi còn chiến tranh thì muốn hay không đảng phải giữ cho bộ mặt được sạch sẽ để thu phục lòng dân hai miền, tất cả cho chiến thắng. Thế nhưng sau khi đất nước ‘thống nhất’, Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo trên cả nước thì không còn gì ngăn cản họ bộc lộ những dã tâm và tham vọng. Đảng cộng sản Việt Nam hành xử như một đội quân chiếm đóng. Họ tiêu diệt tất cả mọi tiếng nói đối lập và phản kháng, họ mặc sức tham nhũng và độc quyền mọi thứ, từ lẽ phải đến nước uống, điện thắp hàng ngày. Đảng cộng sản Việt Nam cũng không hề có viễn kiến hay bất cứ một dự án chính trị gì. Trước đây hô hào nhân dân đánh Mỹ, đánh Pháp, đánh Nhật, đánh Trung Quốc… bây giờ quay lại cầu cạnh những quốc gia này.

Bao nhiêu kỳ đại hội đảng với không biết bao nhiêu là nghị quyết nhưng Đảng cộng sản Việt Nam vẫn không thể thay đổi được gì. Tham nhũng ngày càng nghiêm trọng, các chính sách chồng chéo, thuế phí tăng liên tục… Mọi kỳ họp chỉ bàn mỗi việc duy nhất là ‘vấn đề nhân sự’, tức là đấu đá phe nhóm, tranh giành quyền lợi trong nội bộ đảng. Tóm lại Đảng cộng sản Việt Nam ngày hôm nay chỉ đơn thuần là một tập hợp lỏng lẻo giữa các nhóm lợi ích, núp sau thần tượng Hồ Chí Minh và mớ lý thuyết lỗi thời là chủ nghĩa cộng sản để trục lợi và vơ vét tài nguyên của đất nước.

2.Đảng viên cộng sản là những ai ?

4,5 triệu đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là một tập hợp của nhiều người với nhiều mục tiêu khác nhau. Những đảng viên ‘trung kiên’ và gạo cội, tham gia vào đảng vì lý tưởng cộng sản, là thành phần nòng cốt của đảng, không còn nhiều, phần thì đã mất vì tuổi tác, phần thì đã già, và trong những người còn sống không ít người đã nhận ra sai lầm khi đối diện với thực tế phũ phàng khi về hưu. Thành phần này chiếm khoảng 30%. Tuy nhiên một số người vì đã lỡ tin vào chủ nghĩa cộng sản, đã hy sinh cả tuổi thanh xuân cho lý tưởng nên lúc tuổi xế chiều đành phải ‘cố đấm ăn xôi’, không lẽ lại phủ nhận hoàn toàn quá khứ của mình ? Thành phần cựu chiến binh và cựu công an về hưu, thường là ủng hộ Đảng cộng sản Việt Nam nhiệt tình nhất vì lương hưu của họ khá cao so với mặt bằng chung của mọi người. Một cấp tá công an hay bộ đội về hưu nhận lương cả chục triệu mỗi tháng trong khi con em họ làm công nhân quần quật cả tháng chỉ được khoảng 4-5 triệu đồng.

Thành phần thứ hai trong đảng đó là các cán bộ viên chức đang hưởng lương và làm việc trong bộ máy chính quyền bao gồm 2,8 triệu cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong tổng số 11 triệu người ăn lương nhà nước. Thành phần này có thể chiếm đến 60% số lượng đảng viên. Ai cũng biết là nếu làm nhà nước mà không phải là đảng viên thì không thể nào tiến thân được vì vậy đa số cán bộ công chức nhà nước đều là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Thành phần này, ai cũng thấy rõ là họ vào đảng chỉ vì quyền lợi cá nhân, cơm áo gạo tiền chứ chẳng mấy ai vì lý tưởng cộng sản.

Khoảng 10% đảng viên mới là những người bị cám dỗ bởi sự giàu có của tầng lớp đảng viên có chức có quyền. Họ mong muốn và hy vọng vào đảng để rồi một ngày nào đó họ và con em họ cũng được giàu sang phú quí. Đây là một hiện tượng tâm lý đám đông mà thời nào cũng có. Dù rằng mong muốn đó sẽ không bao giờ đạt được vì một lẽ ‘con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa’. Bộ máy công chức của đảng ngày càng phình to nhưng vẫn không đủ chỗ cho con cháu họ lấy đâu ra chỗ cho dân đen ?

Vậy có bao nhiêu phần trăm đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam sẵn sàng sống chết hy sinh vì đảng ? Rất khó dự đoán nhưng có lẽ không nhiều, chỉ một vài nghìn người. Ngay cả 200 vị trong Ban chấp hành trung ương đảng và 500 vị đại biểu quốc hội, thử hỏi có mấy ai tin rằng chế độ này sẽ trường tồn ? Chắc chắn không đến 1/3. Nếu tin vào đảng thì họ đã không gửi con cái ra người ngoài du học rồi gửi tiền sang mua bất động sản để định cư luôn ở các nước đó. Nếu tin đảng thì các vị đại biểu quốc hội không bỏ cả triệu đô ra để mua quốc tịch nước ngoài…

3. Ai là đảng viên có đủ uy tín để cứu đảng ?

Bộ máy sàng lọc quái gở của hệ thống đảng ‘hồng hơn chuyên’ đã loại bỏ khỏi hệ thống đảng những người có năng lực và tài năng thực sự. Tất nhiên phải như vậy vì những kẻ kém cỏi và thiếu tự tin không bao giờ dám dùng người giỏi vì sợ họ sẽ không nghe lời và vạch cái sai cái dốt của đảng ra cho mọi người thấy. Những người lãnh đạo càng cao cấp thì năng lực càng hạn chế và uy tín càng mờ nhạt. Những người như ông Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Nông Đức Mạnh… đã được đặt vào ngôi cao vì sự ba phải hơn là tài năng của họ.

Khủng hoảng lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay chính là khủng hoảng nhân sự. Rõ ràng là không bình thường khi đảng phải giữ ông Nguyễn Phú Trọng lại làm tổng bí thư bất chấp mọi nguyên tắc của đảng và nhất là khi ông tuổi tác đã quá cao.

Như chúng tôi đã trình bày nhiều lần. Đảng cộng sản Việt Nam chưa bao giờ là một chính đảng đúng nghĩa nên nó không có một đội ngũ nhân sự chính trị đúng nghĩa, tức là những người dấn thân, tham gia vào đảng vì một lý tưởng cao đẹp và trong sáng là phục vụ nhân dân. Tất cả đảng viên cao cấp trong đảng hiện nay đều là những kẻ cơ hội, phe nhóm và lợi ích cá nhân. Ông Trọng có lẽ ít cơ hội nhất nên mới được giữ lại làm tổng bí thư.

Những đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam có lương tâm và tấm lòng với đất nước không ít, nhưng đa số đều là những đảng viên cấp thấp, không có tiếng nói trong các vấn đề hệ trọng liên quan đến đảng. Họ là những người cô đơn. Biết, thấy rõ sự bất công và sự cần thiết phải thay đổi nhưng không thể làm gì được. Mọi ý kiến hay đề nghị cải tổ dù nho nhỏ cũng đều gặp phải bức tường chắn khổng lồ của mấy ông bí thư chỉ biết còn đảng còn mình. Ngay cả ông Trần Độ, Trần Xuân Bách trước đây hay ông Đinh La Thăng mới đây đều bị loại khỏi mọi chức vụ vì lên tiếng phản đối hay có vấn đề gì đó. Ngay cả khi họ có muốn ‘phất cờ khởi nghĩa’ cũng không ai theo, vì tất cả đảng viên trong đảng đều lo giữ nồi cơm của mình vì mục đích của họ vào đảng cũng chỉ có vậy.

Những đảng viên thật lòng muốn cứu đảng có lẽ không có. Thứ nhất có ai lại muốn cứu những người bất tài, thượng đội hạ đạp, không coi mình ra gì ? Thứ hai có muốn cứu cũng không cứu được vì họ thiếu một thứ quan trọng đó là ‘tổ chức’. Không có tổ chức và hậu thuẫn bởi dân chúng thì không đảng viên nào có thể thay đổi được gì.

Ông Nguyễn Tấn Dũng đã thất bại và phải rời vũ đài chính trị vì không có sự hậu thuẫn của một tổ chức chính trị mặc dù phe nhóm của ông từng là hùng mạnh nhất trong đảng trước đại hội 12. Quá trình chuyển hóa từ một chế độ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân trị là một tất yếu và ông Dũng đã đi theo vết xe đổ đó. Một vài người lãnh đạo trong đảng có lẽ nhận ra mối nguy đó nên quyết tâm hạ bệ ông Dũng. Quá trình này chỉ bị ‘tạm dừng’ khi ông Trọng còn ngồi đó, khi ông Trọng đi rồi thì sẽ có một kẻ khác thay thế và hành động như ông Dũng ngay lập tức. Sự đấu đá và tranh giành quyền lợi giữa các phe phái trong nội bộ đảng ngày càng gay gắt và đã đến lúc không thể khoan nhượng.

Trường hợp của ông Gorbachev khi lên cầm quyền là lúc Liên Xô đã hoàn toàn kiệt quệ về kinh tế sau khi sa lầy ở Afghanistan và chạy đua vũ trang với Mỹ. Ông Gorbachev đã lấy một quyết định dũng cảm là ‘cải tổ’ và ‘mở cửa’ nhằm cải thiện nền kinh tế và mở ra một không gian rộng hơn cho người dân được bày tỏ chính kiến của mình. Ông cũng từ bỏ học thuyết can thiệp vào các nước khác trong khối Warsawa, rút quân khỏi Afghanistan, giải tán liên bang Xô-viết. Những việc ông làm đã khiến cho thành phần bảo thủ trong đảng cộng sản Liên Xô tức giận dẫn tới cuộc đảo chính hồi tháng 8/1991. Yeltsin đã đập tan cuộc đảo chính và trở thành tổng thống đầu tiên của nước Nga. Vai trò của ông Gorbachev chấm dứt.

Bộ máy tuyên truyền của Đảng cộng sản Việt Nam luôn đổ lỗi cho ông Gorbachev vì làm sụp đổ Liên Xô. Sự thật thì ông Gorbachev đã làm những việc cần làm trong thời điểm quyết định với những biện pháp hòa bình và cởi mở. Ông đã cố gắng để cứu lấy Liên Xô nhưng lịch sử đã đến hồi sang trang. Ông Gorbachev không thể làm khác và không có ông thì sẽ có người khác và hậu quả có thể tồi tệ hơn rất nhiều. Vì lẽ đó mà ông đã được trao giải Nobel Hòa Bình tháng 10/1990.

Vậy câu hỏi cuối cùng là các đảng viên cộng sản có thể làm được gì cho đất nước ? Cho tương lai của mình và con cháu mình ? Việc cứu đảng có lẽ không nên đặt ra vì nó vô ích và vô duyên. Ông Putin sau khi nắm quyền hoàn toàn tại Nga cũng không hề có ý định khôi phục lại đảng cộng sản Nga mà ông từng là đảng viên. Di sản của đảng cộng sản quá lớn và kinh khủng khiến Putin từ bỏ ý định phục hồi nó dù rằng ông ta cũng là một nhà độc tài. Tổng bí thư Đảng cộng sản Nam Tư Milovan Djilas sau khi "phản tỉnh" từng tuyên bố : "20 tuổi mà không theo cộng sản là không có trái tim. 40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản, là không có cái đầu".

Việc cần làm và nên làm trong lúc này đối với các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là nên tìm hiểu về một "dự án chính trị" nghiêm túc và khả thi để thay đổi đất nước (dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai là một gợi ý). Sau đó cần liên kết lại với nhau để tạo ra một lực lượng chính trị mới và cuối cùng là liên minh với một tổ chức chính trị đối lập dân chủ đứng đắn và có viễn kiến để hình thành một liên minh chính trị có tầm vóc để hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng.

Việt Hoàng

(28/5/2017)

Published in Quan điểm