Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Tư liệu

28/05/2021

Giải luận 2 : Đất nước

Lê Hữu Khóa

Đất nước

datnuoc1

Chính trị thật

Hãy làm rõ một định đềcó độc đảng thì không có chính trị, có độc tài thì không có chính giới, có độc trị thì không có chính trường, có độc tôn thì không có chính kiến. Ta xin dùng định đề này để xác nhận lần nữa là các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam không phải là chính trị gia, đây là định đề mà tôi đã viết qua sách và bài, đã phân tích và giải thích trong các giảng đường đại học quốc nội cũng như quốc tế. Trong bài này tôi dùng hệ chính (chính trị, chính giới, chính trường) qua hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) biết dựa trên hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) để giải luận thảm kịch của Việt Nam hiện nay, và khi không có ba hệ này, thì Việt tộc chỉ bị cai trị, mà xã hội Việt sẽ không có các chính trị gia Việt để quản trị văn hóa Việt, giáo dục Việt, kinh tế Việt… vì chính trị chi phối không những đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, mà chính trị quyết định toàn bộ thân phận của một dân tộc, toàn thể số kiếp của một quốc gia.

datnuoc2

Văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền

Nếu toàn cầu hóa tạo thuận lợi cho tự do hợp tác, tự do liên minh giúp nhân loại đi dễ dàng vào hướng hòa bình cùng chung sống không chiến tranh. Nhưng một chính quyền mới có ý thức dân chủ, có nhận thức nhân quyền, thì phải luôn tỉnh thức là chiến tranh vẫn còn, và có thể ngày càng nhiều, với những loại mâu thuẫn mới, xung đột mới gây ra những đại nạn mới, những hiểm họa mới. Với các nguồn cơn tới từ xung đột giữa các quốc gia, với gốc rễ tới từ mâu thuẫn giữa những tôn giáo, mà ta còn phải thấy-cho-thấu là chiến tranh sẽ tới với các lực lượng đạo giáo có chủ thuyết quá khích, cực đoan. Chúng gây ra chiến tranh với tên gọi là thánh chiến, nhưng tâm địa của chúng là quân sự xã hội, công an hóa cộng đồng, với ý đồ là hủy diệt những giá trị phổ quát của nhân loại, đó là văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền.

Cộng hòa & Dân chủ

Bọn cực đoan, sẵn sàng quá khích bằng bạo lực để xây dựng một loại bạo quyền mới, trong đó không có nam nữ bình quyền, xã hội bình đẳng mà chúng chỉ muốn thực thi một loại tà quyền mới, nơi mà nhân tính bị vét sạch, nhân lý bị nạo rổng, không còn để bảo vệ nhân phẩm. Nhưng làm sao thoát được các hiểm họa chiến tranh tới từ các lực lượng cực đoan có ý đồ xây dựng cực quyền bằng các loại ý thức hệ quá khích ? Câu trả lời vẫn ở trong nội lực làm nên bản lĩnh cùng tầm vóc của Cộng hòa với các định đề phổ quát : tự do, công bằng, bác ái. Và của Dân chủ với các định luận phổ thông : đa nguyên, bình đẳng, nhân quyền.

Quốc sách bảo vệ, quốc sách đào tạo

Quốc sách dài hạn bảo vệ các thế hệ mai hậu có xã hội biết giáo dục dân chúng phải đầu tư cho tuổi trẻ, chính là vốn liếng và sức sống của một dân tộc. Tạo nguyên khí quốc gia bằng cách đào tạo nhân tài như những chủ thể yêu dân tộc, quý giống nòi, thương đất nước, nhưng sẵn sàng đi xa để học rộng, đi nhiều đàng để học nhiều sàng khôn. Quốc sách dài hạn đào tạo nhân tài, bằng cuộc chuyển biến toàn diện não bộ để thay đổi não trạng của loại đi du học để kiếm bằng tìm chức, tránh luôn loại đi tha phương chỉ để vinh thân phì gia, mà biến thành quốc sách học mọi người khôn để đủ khôn rồi mau khôn rồi thực sự trưởng thành thật khôn. Tức là khôn đúng và không khôn lỏi, mà ta đã mắt thấy tai nghe qua kinh nghiệm của không những của Tây Âu rồi Bắc Mỹ, mà không quên Bắc Âu (Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan), và lại càng chú tâm học kỹ hiểu sâu kinh nghiệm của các láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với ta như : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour.

Quốc sách toàn quốc, quốc sách quốc tế

Quốc sách dài hạn về hợp tác toàn quốc với tất cả thành phần trong xã hội với chủ thuyết hợp tác dài lâu thông minh hơn cạnh tranh ngắn hạn. Lập ra liên minh toàn giữa những địa phương vì môi trường, dựng lên những liên hiệp với các vùng cao, vùng xa vì môi sinh. Từ đó đưa khoa học môi trường cùng các kỹ thuật vận dụng năng lượng sách, tái tạo được như năng lượng mặt trời thành một mạng lưới hoàn chỉnh, rồi lần lượt trong quyết tâm loại các công nghiệp bẩn, các nguyên nhân ô nhiễm ra khỏi đất nước. Quốc sách dài hạn về hợp tác quốc tế trên bình diện ở mức rộng nhất, thứ nhất là loại ý thức hệ viễn vông, thứ hai là không chỉ thấy thương mại và kinh tế, thứ ba là nhận ra tính đa dạng, đa thể của kẻ xa người gần mà lâu dài là học văn minh của họ để làm giàu cho văn hóa của chính mình, và cụ thể nhất là đưa được những thành quả văn hiến của họ vào nền tảng giáo dục của mình. Luôn lấy hợp tác như chủ sách quốc gia để tìm bạn mới, ngày càng xa về địa dư và luôn có sáng kiến mới về hợp tác với bạn cũ đang gần mình.

datnuoc3

Ý thức xa bằng tri thức rộng

Ý thức xa là tri thức rộng là thấy sóng to gió lớn để thấu vị thế đầu sóng ngọn gió, nhưng vẫn vững tay chèo, thông minh trong thử thách, thông thái trong thăng trầm, đây là kinh nghiệm dày dạn của các quốc gia yêu văn minh dân chủ, quý văn hiến nhân quyền. Giữa nội chiến Nam Bắc của Hoa Kỳ, các chính khách sáng suốt đã gặp nhau và viết lên được Hiến pháp của đất nước này, như khẳng định những giá trị vĩnh hằng của nhân loại vì nhân phẩm. Giữa nội loạn trong đảo điên của đầu thế kỷ XX, các chính khách tỉnh táo của Pháp quốc đã viết được văn bản cho Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, làm nền tảng cho văn minh vì nhân phẩm. Giữa thế chiến thứ hai làm nhân loại điêu đứng, các chính khách của Âu châu đã hợp tác với các chính khách của Hoa Kỳ để lập ra đồ hình vì nhân vị của nhân loại là thành lập LIên Hiệp Quốc ra đời và tồn tại vì hòa bình cho nhân loại.

Nhân quyền biết bảo vệ nhân phẩm

Chúng ta chuyển hóa não trạng, chuyển biến não trạng theo hai hướng của phạm trù đạo, chúng ta đã có ít nhất định hướng để thăng hoa trong nhân kiếp bằng đạo đức hay, đẹp, tốt, lành của tổ tiên Việt đã để lại cho chúng ta từ tiền đồ tới giáo dục, có trong văn minh Việt làm nên văn hiến Việt. Bằng đạo lý cao, sâu, xa, rộng của cả một nhân loại biết yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền, đã có mặt và sẽ giúp chúng ta nếu chúng ta muốn học hỏi về nhân quyền biết bảo vệ nhân phẩm.

datnuoc4

Chủ thể sáng tạo

Trong thế kỷ có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, thì một chính quyền khi thực hiện được cơm no áo mặc cho dân, chỉ là bước đầu trên con đường đi tìm nhân phẩm. Và con đường này sẽ dài và nếu có các lãnh đạo tinh anh, thì nhân lộ này sẽ vô cùng sáng lạn khi chính quyền thực sự thông minh đi vào hệ sáng (sáng kiến, sáng tác, sáng chế, sáng lập, sáng tạo). Tại đây mỗi công dân được giáo dục và giáo dưỡng như một chủ thể sáng tạo không những có bổn phận với dân tộc, có trách nhiệm với đất nước, và luôn vận dụng hệ sáng để phục vụ đồng bào và đồng loại.

Tính toán trong toan tính của các cường quốc

Phải thấy cho thấu là có rất nhiều tính toán trong toàn cầu hóa hiện nay, giữa các cường quốc, giữa các châu lục đã có văn minh dân chủ, gữa các quốc gia đã có văn hiến nhân quyền, họ đang tính toán gì ? Họ đang toan tính gì ? Tại đây khi nhận các chức năng cùng nhiệm vụ của các tư vấn quốc tế, để nhận ra nơi "quần hùng kiếm hội quốc tế" là nơi quyết định nhiều chuyện về mệnh số của nhiều quốc gia mà trong đó chính các lãnh đạo của các quốc gia này cũng không biết. Cụ thể là có nhiều quyết sách quốc tế từ kinh tế tới thương mại, từ chính trị tới quân sự, từ giáo dục tới văn hóa mà các quần thể chính sách quốc tế trong và ngoài Liên Hiệp Quốc luôn ở thế thựợng phong để áp đặt lên mệnh số cô lẻ của các quốc gia nhỏ bé chỉ biết đóng cửa để thực thi bạo quyền độc đảng toàn trị.

Dự phòng, dự phóng

Biến đổi khí hậu với quá trình tăng nhiệt độ trong bao năm qua sẽ tiếp tục tác động vào sinh hoạt của con người, khi thiên tai truy bức môi trường, truy hiếp con người, từ hạn hán tới bão lụt, từ ô nhiễm không khí tới nhiễm độc nguồn nước… ngày càng bất ngờ hơn, ngày càng dữ dội hơn, tất cả sẽ tác động lên trực tiếp và thấm đậm lên quan hệ giữa chính quyền và nhân dân. Các chính quyền đứng không vững trước các tai họa tới từ các thiên tai là những chính quyền không biết dự phòng, vì không có dự phóng. Cụ thể là các chính quyền này đang nằm trong tay của các lãnh đạo vô minh trước các chỉ báo của khoa học, vô tri trước các báo động của các khám phá mới nhất của khoa học về các dữ kiện về môi trường, về các dữ liệu được cập nhật thường xuyên. Đó là thực trạng hiện nay của chính quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam, nơi mà vô tri trị, vô minh trị sẽ làm ra vô học trị, để rồi sẽ dẫn dắt tới : vô hậu trị, nơi mà thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam làm nên thảm họa ngay trên dòng sinh mệnh của Việt tộc.

An imprisoned idea

Não bộ kín cổng cao tường, não trạng bế môn tỏa cảng

Thiên tai vừa bất ngờ hơn, vừa thường xuyên hơn, lại đặt trong bối cảnh của toàn cầu hóa từ khoa học, kỹ thuật tới kinh tế, thương mại, có kẻ thua người thắng, với quy luật mạnh được yếu thua, cho sinh ra quan hệ bạo hành của loại cá lớn nuốt cá bé. Từ đây, phản xạ co cụm vào bản sắc quốc gia với loại não bộ kín cổng cao tường, tạo ra phản ứng của não trạng bế môn tỏa cảng, để rồi sinh ra hành động phản kháng thụ động trong tiêu cực của ngăn sông cấm chợ. Đây chính là chỉ báo của sự thiếu tự tin, sự mất niềm tin, trống sự vận não, vắng sự vắt não, từ đây sẽ sinh ra các hành vi tiêu cực. Từ kỳ thị chủng tộc tới phân biệt đối xử giữa các sắc tộc, rồi sau đó là giữa các thành phần xã hội, và sau cùng là nội loạn xã hội, với phản xạ phòng ngự tạo ra bạo động, với phản xạ đề kháng tạo ra bạo hành. Các chính quyền không biết dự phòng, và không có dự phóng. Cụ thể là không có sự trợ lực của các dự án cho tương lai với các dữ kiện, dữ liệu khách quan của mọi ngành khoa học sẽ lúng túng rồi sa vào ngõ cụt mà tự sụp đổ.

Việt Nam, quê hương gấm vóc

Khi chế độ độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam bị bứng đi, thì chính quyền trọng đa nguyên, yêu dân chủ, quý nhân quyền, cùng lúc phải trong môi sinh, cụ thể là có một quốc sách với quyết tâm trọn vẹn lấy lại sự thật và biểu tượng : Việt Nam, quê hương gấm vóc. Một sự thật và một biểu tượng đã bị mất từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền và đã ô uế hóa môi trường, đồi bại hóa môi sinh, biến đất Việt thành bãi rác của Tàu nạn, với các hiểm nạn của khai thác bốc xít tại Tây Nguyên, nhà máy thép Formosa tại Hà Tĩnh, tới mạng lưới nhiệt điện than trùm phủ lên cả nước, gây hiểm họa môi trường từ không khí tới đất, nước, biển. Lập lại tên gọi Việt Nam, quê hương gấm vóc với các kinh nghiệm thành công về môi trường của nhiều quốc gia, trong đó không những có kinh nghiệm của các quốc gia từ Tây Âu tới Bắc Mỹ, mà nhất là các quốc gia láng giềng ngày tại Á châu trọng đa nguyên, yêu dân chủ, quý nhân quyền, biết bảo vệ môi trường, biết bảo trọng môi sinh. Và ta không quên sự thành công của Costa-Rica, quý tài nguyên, trọng thiên nhiên, yêu môi trường, đã biến môi sinh thành sức mạnh của chính mình không những về du lịch mà cả về quan niệm đạo đức trước mỗi sinh vật, một quan niệm nâng nhân trí và nhân tri.

Đa tri thông minh, đa nguyên thiết thực

Một đa tri thông minh là một đa nguyên được thiết thực hóa ngay trong bối cảnh hiện nay với thực trạng toàn cầu hóa, nơi mà biên giới và lãnh thổ giữa các quốc gia đã được rộng mở. Một đa tri sáng suốt là một đa tri được truyền thông hóa cấp vĩ mô toàn cầu nơi mà tự do thông tin cùng khoa học truyền thông biết trực tiếp chuyển tải tin tức thì mọi khám phá khoa học, mọi ứng dụng kỹ thuật để tiến bộ có mặt trong đời sống hàng ngày vì nhân sinh. Từ thực tế này, các giá trị và nội dung của đa tri phải được vận hành trong bối cảnh toàn cầu hóa với các khám phá hằng ngày của mọi chuyên ngành khoa học, nơi mà mạng xã hội trực tiếp tham dự rồi tham gia vào sinh hoạt đa nguyên.

Đa tri luận

Thực trạng toàn cầu hóa hiện nay, đòi hỏi đa tri luận phải thích ứng với thế giới hóa, tại đây một quốc gia đã có một chính thể đa nguyên và muốn bền trong dân chủ, muốn vững trong nhân quyền thì phải nắm được các quy luật của kinh tế luận toàn cầu. Rời bỏ phản ứng kinh tế trước mắt, sản xuất tức khắc, tiêu thụ tức thì. Buông đi phản xạ kinh tế bản năng, làm ngay ăn chóng, làm đâu ăn đó. Loại ra hành tác kinh tế sống còn, mai làm mai ăn, không nhìn xa trong rộng.

Tự chủ trong chủ quyết

Tự chủ trong chủ quyết, từ quyết tâm tới quyết đoán, vì công lý của công bằng, để tự chủ bảo vệ được cái lý đúng, đúng từ định nghĩa tới diễn đạt, để tự chủ bảo vệ được cái đức tốt, tốt từ định đề tới áp dụng trong giáo dục, để tự chủ bảo vệ được cái luật minh, trong nghĩa công minh trong công pháp. Vĩnh viễn dứt bỏ cái tồi bại của các tòa án âm binh hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, với các "án bỏ túi", với đám thẩm phán chỉ cúi đầu theo lệnh của bạo quyền độc đảng, có hậu đài là tà quyền thanh nhũng, ma quyền tham tiền. Với các thẩm phán chính là những tội đồ của dân tộc, với các án oan, với biến nạn nhân thành "kẻ giết người", như vụ án Đồng Tâm năm 2020 ; mà trên cả nước thì bạo quyền độc đảng toàn trị đã biến hằng triệu đồng bào chúng từ dân lành một sớm một chiều thành dân oan.

datnuoc6

Sạch

Khi chữ sạch là gốc, rễ, cội, nền cho mọi quốc sách để nhận trở lại quốc hiệu Việt Nam, quê hương gấm vóc, thì phải sạch từ trên xuống dưới, định chế sạch với lãnh đạo sạch, nơi mà tà quyền trong phản xạ quan hệ-hậu duệ-tiền tệ không có chỗ đứng trong một chế độ mới trọng đa nguyên vì trọng đa tài, yêu dân chủ để bảo vệ cộng hòa, quý nhân quyền để giữ nhân phẩm. Trong chế độ mới này, "luật chơi dân chủ-sân chơi nhân quyền-trò chơi đa nguyên" không có ghế ngồi cho sinh hoạt bạo quyền độc đảng toàn trị, chỉ biết thanh trừng giữa các đồng chí bằng các thủ đoạn man rợ. Độc đảng để độc quyền hoàn toàn ngược lại với tiến bộ nhân trí và văn minh nhân tri với tinh thần tôn trọng lẫn nhau để cùng hợp tác, mà tạo sức bật cho dân tộc, tạo dàn phóng cho các thế hệ mai hậu. Sạch trong du lịch để sạch thực phẩm, sạch dịch vụ, sạch nhân cách khi phục vụ khách du lịch quốc nội và quốc tế. Sạch trong não bộ biết "ăn ở có hậu" với đồng loại và nhân loại để có não trạng sống mà "biết người biết ta", không buôn gian bán lận. Sạch trong ăn hiền ở lành với đồng bào cũng như với đồng loại, với thân bằng quyến thuộc cũng như với tha nhân người xa kẻ lạ.

Nhân sinh quan sạch, thế giới quan sạch, vũ trụ quan sạch

Trạng từ sạch không hề là một ngữ vựng suông, mà là một thượng tầng kiến trúc sạch từ định chế tới cơ chế, có "sân chơi", "trò chơi", "luật chơi" rành mạch của tam quyền phân lập, có lập pháp biết giữ sạch, có hành pháp biết làm sạch, có tư pháp biết xử sạch. Cũng là một hạ tầng kiến trúc sạch, từ kinh tế tới lao động, có sinh hoạt xã hội biết tự giữ sạch, có quan hệ xã hội biết tự dọn sạch, có đời sống xã hội biết tự lau sạch. Từ bạo quyền công an trị tới tà quyền tham nhũng trị bị quét sạch, từ ma quyền tham tiền trị tới quỷ quyền ngu dân trị bị xua sạch.

Sạch là thuật ngữ làm nên tổng tri để tạo điều kiện cho xuất hiện một nhân sinh quan sạch có chỗ dựa của nhân phẩm, nơi con người đi nhận ra nhân bản sạch làm nên nhân văn đẹp, nơi nhân lý sạch làm nên nhân tính tốt, nơi nhân tâm sạch làm nên nhân từ cao. Một thế giới quan sạch có chỗ dựa của nhân quyền nơi con người đi nhận ra nhân trí sạch làm nên nhân tri đẹp, nơi nhân nghĩa sạch làm nên nhân đạo lành, nơi nhân lộ sạch làm nên nhân vị cao. Một vũ trụ quan sạch có chỗ dựa của nhân sinh quan biết yêu thiên nhiên, quý môi trường, trọng môi sinh, nơi con người đã nhận ra một thế giới quan sạch tha nhân có đường đi nẻo về trên hành tinh này, nơi đồng bào và đồng loại chỗ đứng, ghế ngồi cùng quyền tự do đi lại trong sự tôn trọng lẫn nhau bằng cách giữ sạch những nơi mình sống và những nơi người khác đang sống.

Câu chuyện có học-có hậu

Hãy phân tích rõ vai trò và chức năng của trí tuệ ; chính là hiện thân của có học-có hậu khi trí tuệ được trợ lực bởi lý trí biết giải thích để nhận ra sự thật ; vì trí tuệ được trợ duyên bởi tuệ giác biết giải luận để nhận ra lẽ phải. Câu chuyện có học-có hậu chính là con đường sống của Việt tộc, đây là chân trời của tất cả thế hệ tương lai. Hậu quả cùng hệ quả qua các hệ lụy của hằng số vô học được toan tính bởi hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) mang khuyết tật của vốn vô học, lấy bất nhân thất đức của ăn tươi nuốt sống mà nuốt trọn cái ăn hiền ở lành biết làm nên cái ăn ở có hậu trong giáo lý Việt. Hậu quả cùng hệ quả qua các hệ lụy của hằng số vô hậu đã và đang ngăn chặn con đường phát triển kinh tế vì một xã hội tiến bộ, biết thăng hoa một dân tộc trong một đời sống văn minh, đã bị hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) của tập đoàn lãnh đạo độc đảng toàn trị, mà bản chất là một tập đoàn tội phạm đã bứng đi cội đạo lý Việt ăn ở có nhân mười phần không khó ; đã bị bứt đi rễ giáo lý Việt đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn.

Biến hệ ngu thành chính sách

Vô minh, có thượng nguồn của hệ ngu (ngu si, ngu đần, ngu dại) ngay trong não trạng của một cá nhân mang vào sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, tổ chức xã hội bằng hệ hành (hành vi, hành động, hành tác) của mình. Bi nạn của một dân tộc, của một đất nước tới từ những các cá nhân lãnh đạo biến hệ ngu này thành chính sách, tên gọi của nó là : ngu dân, đây là loại hệ lụy của một chế độ chính trị áp đặt lên một giống nòi, một xã hội, lên luôn tất cả các chân trời tương lai của nhiều thế hệ mai hậu. Một cá nhân lãnh đạo vô minh khi tạo ra một đảng cầm quyền vô minh, thì sẽ dựng lên một chế độ độc đảng vô minh, sẽ tạo ra một định chế toàn trị vô minh, sẽ xây lên một hệ thống chuyên chính vô minh. Tất cả hệ lụy này sẽ thủ tiêu không những nhân tri, nhân trí mà nó hủy diệt nhân tính, nhân lý của dân tộc đó, mà không quên thanh trừng luôn nhân bảnnhân văn của dân tộc đó.

Mất trọn nhân tri

Vô tri, vì không hiểu nên không biết một chuyện cơ bản trong nhân sinh là phải học, học mới biết, học đây là học thật, học để hiểu, hiểu để phân tích sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, tổ chức xã hội. Hiểu để giải thích tới nơi tới chốn từ hiệu quả tới hậu quả, từ hệ lụy tới hệ luận về chính sách, chế độ, định chế, hệ thống… Nơi nào vô tri ngự trị thì nơi đó, xã hội đó, dân tộc đó sẽ mất trọn nhân tri, nhân trí, nhân tính, nhân lý, nhân bản, nhân văn. Khi vô tri được xem là một thực trạng không nắm hiểu biết tới từ một thực tế bất tri vì không có hiểu biết, chính nó sẽ tạo ra thất tri tức là không có sự hiểu biết có căn bản, có căn cơ, có căn cứ. Khi mất nguồn cội căn bản này thì sẽ tiếp tục đánh mất mọi hiểu biết tiếp theo, sau này. Vì quy luật của sự hiểu biết là tiến trình thăng hoa, từ dưới lên trên, từ thấp lên cao, từ dễ tới khó, có hiểu biết căn bản ban đầu sẽ có căn cơ hiểu biết thêm các chuyện khác khó hơn, phức tạp hơn. Như vậy, câu chuyện học để hiểu, là câu chuyện học thật để hiểu thật, học từ gốc, rễ, cội, nguồn để cá nhân được hiểu tới nơi tới chốn về cành, lá, chồi, nhụy, lộc, hoa, trái… Câu chuyện học thật để hiểu thật hoàn toàn ngược lại với chuyện mua bằng bán cấp trong chế độ vô minh với cơ chế vô tri hiện nay với học giả-thi gia-điểm giả-bằng giả, từ lãnh đạo tới cán bộ.

datnuoc7

Vô nhân trong vô quốc

Vô học-vô hậu có thể trở thành vô nhân trong vô quốc, nếu là hậu quả hiện tiền, rồi thành hệ quả của một đất nước bị xâm lược, một dân tộc bị đồng hóa, một giống nòi sẽ bị "bụi đời hóa" ngay trên quê hương của mình thì đây không phải là vô hậu thì còn là gì nữa ? Tại đây, phải vạch mặt chỉ tên một hệ thống giáo dục độc đảng toàn trị chỉ biết tuyên truyền ngu dân để phục vụ chuyên chính vô học, để phục dịch chuyên chính vô hậu. Vạch mặt chỉ tên các tội phạm chính là các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, lập lý lịch vô học để họa chân dung vô hậu rồi chú giảng rành mạch chúng là những tội đồ của giáo lý, là những tội phạm của giáo dục, là những tội nhân của giáo khoa, với giáo trình ngu dân để kéo dài trong truyền kiếp vô học, với giáo án tuyền truyền để dẫn đến ngõ cụt của một nhân kiếp vô hậu.

Chống cực quyền trong lãnh đạo

Khi một hệ thống giáo dục tôn trọng dân chủ, tôn vinh nhân quyền, thì thiếu niên từ trung học phổ thông được học để phân giải mà phân biệt : chống độc tài trong cơ chế chính trị để chống cực quyền trong lãnh đạo ; chống độc tôn trong cơ chế tôn giáo để chống cuồng quyền trong giáo hội ; chống độc quyền trong cơ chế xã hội để chống lạm quyền trong đời sống xã hội, quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội. Giải luận để chống lại hệ độc (độc tài, độc quyền, độc trị) từ độc đảng trong tổ chức chính trị tới độc tôn trong tổ chức tôn giáo bằng lý luận : Khi một độc tài muốn độc quyền, thì chính quyền sẽ trở thành bạo quyền.

Khi một đa nguyên muốn đa quyền, thì nó sẽ tự biết đa hòa, đa bình.

Cơ ngơi của nhân quyền

Chống độc quyền bằng đa quyền, chống bạo quyền bằng đa nguyên được xây dựng ngay trên thượng nguồn bằng tự do ngôn luận song hành cùng tự do thảo luận, đây là cơ bản của dân chủ mà cũng là cơ ngơi của nhân quyền, đã có trong cơ chế của dân chủ hy lạp trước công nguyên, đã được vận dụng từ nhiều thế kỷ tại Âu châu và Bắc Mỹ, Không bị một bạo quyền lãnh đạo nào có thể vu cáo các công dân là những lực lượng thù địch, khi các các công dân này sử dụng quyền tự do ngôn luận của mình. Không bị một tà quyền lãnh đạo nào vu khống là những đối tượng chống phá chính quyền, khi các công dân này sử dụng quyền tự do thảo luận của mình. Đã thực sự là công dân thì không sợ một ma quyền lãnh đạo nào vu oan mình là những cá nhân hay tập thể chống người đang thi hành công vụ, khi các công dân sử dụng quyền tự do trao luận của mình. Không sợ một điếm quyền lãnh đạo nào dùng luật an ninh mạng để vu họa là những cá nhân hay tập thể làm mất an ninh trật tự xã hội, khi các công dân này sử dụng quyền tự do truyền thông của mình.

datnuoc8

Giang sơn gấm vóc

Đồng bào cũng là gốc, cội của mọi câu hỏi mà ta đặt ra cho ta, cho đồng bào, cho đất nước trước vận mệnh chỉ mành treo chuông hiện nay. Khi chúng ta mở cửa ra khỏi nhà mà mọi con dân Việt phải hít thở một bầu không khí bị ô nhiễm nặng nhiệt điện than của Tàu họa. Khi chúng ta đi chợ, làm bếp, ăn uống với thực phẩm bẩn, hóa chất độc của Tàu hoạn. Khi chúng ta thấy quê hương Việt không còn là giang sơn gấm vóc mà là một bãi rác kinh hoàng từ Tây Nguyên tới Vũng Áng, từ núi rừng tới bờ biển của Tàu nạn. Khi chúng ta thức giấc nửa đêm để nhận ra là biển đảo Việt đang bị chiếm giữ bởi Tàu tặc. Chính vận mệnh chỉ mành treo chuông hiện nay trước Tàu tà (Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn, Tàu tặc) phải đánh thức tâm thức đồng bào.

Đất mẹ quê cha

Đồng bào, không phải là một vật thể ở ngoài tôi để tôi mổ xẻ phân tích rồi phân loại như mọi vật thể vô tri hoặc hữu tri mà tôi thấy chung quanh tôi. Đồng bào, cũng không phải là một hiện thể ở trong tôi như các nội tạng của thân thể tôi để y khoa có thể soi rọi mà chữa bệnh rồi trị bệnh cho tôi. Đồng bào, là biểu tượng có từ rễ của rễ, gốc của gốc, cội của cội, nguồn của nguồn, để giải thích mọi hiện thể máu, xương, gân, cốt của riêng tôi mà khoa học không chuẩn đoán được nòi của nòi, giống của giống, tông của tông, tích của tích đã có mặt ngay trong thượng nguồn của thựơng nguồn từ khi cha sinh mẹ đẻ ra tôi. Đồng bào, là hai từ mà tôi sẽ không cảm nhận được như một vật thể ở ngoài tôi, mà tôi phải cảm nhận được sự vận hành của nó ngay trong tôi bằng tình cảm yêu nước thương nòi của tôi, để tôi phải cảm nhận được nhịp hành tác của nó ngay trong tôi về ý nghĩa đất mẹ quê cha của tôi. Đồng bào chính là sự tận dụng tối đa dường như tuyệt đối của nội lực đồng thai, sung lực đồng mẹ, hùng lực đồng cha, mãnh lực đồng tộc để Việt tộc luôn tồn tại mà không tồn vong !

Chủ động giữ nước, chủ quyết giữ nòi

Đồng bào, chỉ hai chữ nhưng vừa sâu, vừa cao trong mỗi chúng ta không để cuộc đời này bị các bọn buôn dân bán nước xé tan nát đất nước ta, làm tan tác giống nòi ta. Chủ động giữ nước, chủ quyết giữ nòi, làm nên chủ thể có tâm thức trong một nhân dạng tỉnh thức, để nắm chính vận mạng của mình ngay trong hiện tại, để luôn sáng suốt mà chuẩn bị cho mọi thử thách trong tương lai : đây là tâm nguyện của phạm trù đồng bào tạo nên tâm thức giúp các con dân Việt gần nhau hơn chỉ cần biết một giá trị : đồng bào. Chữ hai chữ đồng bào mà mọi người Việt được trang bị đầy đủ và mạnh mẽ một liên minh với hùng lực vô song : tâm tưởng-tâm trí-tâm khảm-tâm thức-tâm nguyện.

Đất nước như nền mẹ, nền cha

Đất nước, như nền mẹ, nền cha làm nên nền đất, nền nước, nền rừng, nền biển của Việt tộc, nơi mà giống nòi Việt làm nên dân tộc Việt đứng vững, đứng bền trên đó để nhận ra sự thật của hoàn cảnh đất nước, họan cảnh dân tộc, thảm cảnh giống nòi hiện nay trước họa ngoại xâm tới từ Tàu tặc. Hãy đứng chắc, đứng mạnh trên đất nước này để nhận diện ra các dị diện nội xâm : quỷ quyền độc tài trong phản dân hại nước, tà quyền độc trị trong buôn dân bán nước, ma quyền độc tôn trong buôn tông bán tổ. Hãy đứng cao, đứng rộng để nhận ra các quái dạng của chúng ; chúng là ma trơi sống nhố nhăng trong biệt phủ, biệt dinh của chúng ; chúng là ma xó sống với túi đầy tiền của đồng bào, với thẻ xanh, quốc tịch ngoại, chuẩn bị luồn chạy khi đất nước vang bước ngoại xâm ; chúng là ma bùn sống chui, sáng làm công an, trưa đánh bạc lận, tối tụ họp với côn đồ, với lưu manh, với du đảng, với xã hội đen chờ khuya khoắt để tự họp rồi toan tính như âm binh trong bóng tối.

Môi trường bị đốn, nhân đạo bị chặt

Hãy có ý thức được bằng kiến thức : không có môi trường thiên nhiên nuôi nấng con người thì làm gì có văn hóa. Với nhận thức bằng tri thức là không có môi sinh thiên nhiên nuôi dưỡng con người thì không có một văn hóa nào có thể tồn tại được. Cặp đối nghịch thủa nào văn hóa-thiên nhiên, nơi mà văn hóa có lãnh thổ riêng, thiên nhiên có lãnh thổ riêng, lãnh thổ với biên giới rành mạch, giờ đã thành cặp đôi song hành, đồng hội đồng thuyền : văn hóa bảo vệ thiên nhiên, để thiên nhiên tiếp tục nuôi con người có văn hóa ! Mọi định nghĩa về văn hóa mà môi trường bị xóa, môi sinh bị khử, đều là những định nghĩa mang những khuyết điểm về kiến thức, tạo ra khuyết tật về tri thức, nơi mà nhân đạo cần có môi trường và nhân phm cần có môi sinh. Khi ta đứng trước và thấy các cánh rừng từ Sa Pa tới Nha Trang bị đốn, bị nạo, thì ta thấy bị tổn thương từ nhân lý tới nhân tính. Không có nhân lý sinh tồn nào của con người mà không có môi trường, không có nhân tính nào tồn tại với con người không có môi sinh. Tàn phá rừng để mưa kéo bùn về vùi lấp con người, nhà cửa, sông ngòi… Chính nhân lý với nhân tính tạo ra nhân tđối với thiên nhiên, như là sự thông minh biết bảo vệ môi trường như bảo vệ sự sống của chính mình.

datnuoc9

Khu thải bùn đỏ tại nhà máy sản xuất alumina Tân Rai. (Ảnh : boxit.vinacomin.vn)   

Đất nước này đã bị tổn thương ?

Khi ta đứng trên các vùng có khai thác quặng mỏ trên Tây Nguyên - như hàng loạt các quả bom hóa chất trộn với bùn ô nhiễm sẵn sàng lăn xuống các bình nguyên bên dưới, thì ta thấy bị tổn thương từ nhân tri tới nhân trí. Tại sao bạo quyền lãnh đạo vô tri đã để Tàu ha tàn phá môi trường tới mức tàn mạt hóa chính nhân cách của họ, tại sao tà quyền tham nhũng lại để Tàu hon tàn phá môi sinh tới độ đốn mạt hóa chính nhân diện của chúng. Khi ta đứng trên nhìn xuống khu khai thác thép của Formosa- một vùng biệt cấm Việt tộc đi lại ngay trên đất Việt- đã một sớm một chiều giết gọn, hủy sạch môi sinh của một không gian rộng của biển Việt tại miền Trung. Ta thấy bị tổn thương từ nhân bn tới nhân vcủa cả một dân tộc, với độc đảng toàn trị đã mở cửa cho công nghiệp độc vào xóa trắng sức sống của môi sinh, nơi có hằng triệu đồng bào đang sinh sống nhờ môi trường biển.

Đát nước này với các làng ung thư

Phải giải thích được thảm trạng đã trở thành thảm họa cho Việt tộc : các thành phố bị ngập lụt sau mỗi trận mưa tới từ các quy hoạch vô tri, vô minh, vô giác, hoàn toàn vắng bóng kiến thức làm nên tri thức, ý thức dựng nên nhận thức là : không được hủy sông ngòi, không được diệt các dòng chảy, và khi nước không thoát được thì nước sẽ hại, sẽ giết người. Các nhà máy thủy điện sau các trận xả lũ đã giết dân và súc vật, thì chúng cũng để lại trong thiên nhiên, trong đồng ruộng, trong canh tác một bãi tha ma của ô nhiễm, với các tổn hại đi cùng với các tổn phí khi con người muốn để tái tạo lại môi trường ban đầu. Các nhà máy nhiệt điện ngày ngày để khói và tro bay trong không khí đã tồn đọng lại trong buồng phổi, trong nội tạng của con dân Việt. Hậu nạn là sự xuất hiện của các làng ung thư, các thống kê hằng năm về số người bị ung thư tại Việt Nam tăng cao kinh hoàng. Nguyên nhân chính là biến thiên nhiên thành tro, biến môi trường thành khói, để rồi tất cả thành chất độc, làm ra cht chết hủy diệt hằng ngày Việt tộc. Nhân cách con người khai thác thiên nhiên chính là cách sng và chết con người trên trái đất này : có hu hay không có hu ! Mà có hu thì sng, không có hu thì phi là chết ! Và chết trong đớn hèn và tủi nhục, vì đã sống không xứng đáng với chính môi trường đã nuôi nấng mình.

datnuoc10

Môi trường - môi sinh : tính liên kết

Ta gặp ít nhất 3 loại lịch sử về môi trường rất khác nhau : lịch sử hình thành trái đất có đơn vị tính toán hằng trăm triệu năm, lịch sử con người trên trái đất có đơn vị tính toán triệu năm, lịch sử của công nghệ hóa tác động trên môi trường có đơn vị tính toán trăm năm. Khi các chuyên gia khoa học khác nhau khảo xác về môi sinh, họ sẽ gặp ít nhất 3 loại địa lý môi sinh khác nhau : địa lý môi sinh không có con người, ở dạng nguyên thủy, địa lý môi sinh có mặt con người ; sống chung với thiên nhiên, địa lý môi sinh có con người là yếu tố quyết định sự sống còn của môi sinh. Khi các công trình khoa học khác nhau đi sâu vào điều tra về môi trường và môi sinh, thì các công trình này gặp ít nhất 3 loại nhận định làm nên định đề nghiên cứu môi trường và môi sinh. Trái đất là một thực thể sống, trong môi trường có môi sinh, trong môi sinh có đa sinh vật cùng chung sống trên không gian chung là trái đất. Thực thể sống này đa đạng chung sống trong một tổ chức phức tạp, tính đa dạng này làm nên sự phong phú của môi trường, sự phong phú này tạo ra sức mạnh tự sinh sôi nảy nở của các sinh vật sống cùng một không gian kín là trái đất. Trái đất là một hệ thống liên kết,từ sinh vật này tới sinh vật kia đều có sự liên kết dựa trên tính hỗ tương, bổ sung cho nhau để sống còn. Chính sự liên kết này làm nên liên minh giữa các sinh vật để sống chung, tạo một hệ thống liên kết sống dựa vào nhau. Trái đất là một tổng thế, vừa là thực thể sống, vừa là hệ thống liên kết trong đó con người là một phần tử trong một tổng hợp phức tạp, đa dạng, phong phú.

Quyền-tiền dễ truy hủy môi trường

Phần tử con người đã đi những chặn đường từ cá thể tùy thuộc vào thiên nhiên tới chủ thể chế ngự, quản lý, khai thác, tiêu huỷ các môi trường và môi sinh trong thiên nhiên. Chính chủ thể này, vừa sử dụng vừa khám phá môi trường ; vừa tận dụng vừa có ý thức qua quá trình khai thác rồi tiêu hủy thiên nhiên, để từ đó có nhận thức là số phận của con người hoàn toàn tùy thuộc vào số kiếp của thiên nhiên, trong đó môi trường và môi sinh phải được bảo vệ bởi chính con người đang sống trên đó. Trên chủ đề môi trường và môi sinh trước thảm trạng ô nhiễm là sự thất bại toàn bộ của Đảng cộng sản Việt Nam khi nó độc quyền lãnh đạo đất nước qua bạo quyền, qua tà quyền tham quan, qua ma quyền tham nhũng vì tham tiền. Chính Đảng cộng sản Việt Nam đã gây ra bao hậu quả, bao hệ lụy khi để tình trạng hiện nay đất nước là môi trường mà môi sinh bị hủy diệt từ vi mô tới vĩ mô. Một đất nước bị bẩn bởi công nghiệp bẩn từ luyện kim tới khai thác tài nguyên, từ thủy điện tới nhiệt điện… mà thảm nạn là ung thư hóa không những môi trường và môi sinh mà cả con người, trong đó các thế hệ tương lai phải trả những giá vô cùng đắt về bi nạn của quy luật lấy quyền-tiền để truy hủy môi trường, truy diệt môi sinh. Một quốc sách sáng suốt về môi trường, tỉnh táo về môi sinh, để từ đó chế tác ra sức thông minh trong lãnh đạo, biết cứu không những thiên nhiên và tài nguyên, mà cả con người cùng đạo lý làm người là quý môi trường, trọng môi sinh.

Ăn tàn diệt tận, cả môi trường lẫn môi sinh

Đã có trong giáo lý của tổ tiên Việt : đối với môi trường thì phải biết uống nước nhớ nguồn, đối với môi sinh thì không được ăn tươi nuốt sống, và đối với cả hai (môi trường và môi sinh) thì phải biết bảo vệ nguồn cội như bảo vệ chính sinh mạng của mình : cây có cội, nước có nguồn. Đối với môi trường thì phải biết ăn cây nào rào cây nấy, đối với môi sinh thì không được ăn tàn diệt tận, và đối với cả hai (môi trường và môi sinh) thì phải ăn ở có hậu, nếu muốn ăn đời ở kiếp trên quê hương, trên đất nước của mình. Sự vắng mặt tuyệt đối và toàn diện của một quốc sách sáng suốt về môi trường, tỉnh táo về môi sinh để từ đó chế tác ra sức thông minh trong lãnh đạo (mà ta có thể so sánh với sự thành công hiện nay của Costa Rica) đã nói lên sự thảm bại bi đát của Đảng cộng sản Việt Nam : không có kiến thức tri thức sâu rộng nên không có ý thức nhận thức sâu xa về môi trường và môi sinh, không có đạo lý đạo đức hay đẹp nên không có giáo lý giáo dục tốt lành về môi trường và môi sinh. không có kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức lại không có đạo lý, đạo đức, giáo lý, giáo dục, nên không có hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo) để có hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) cho các quốc sách về môi trường và môi sinh.

Môi trường : một món hàng

Môi trường tại Việt Nam đã trở thành một món hàng làm ra tiền, ra rất nhiều tiền, để làm giàu một cách nhanh nhất và bất chính nhất của các quan chức trong chế độ độc đảng toàn trị này. Hỏa hoạn tại nhà sản xuất bóng đèn Rạng Đông, với ô nhiễm do lượng thủy ngân lan tràn trong không khí, và khi gặp mưa thì đọng tụ lại trên đất, thấm qua lòng nước, mà mọi thực vật đang sống trong chu vi của nhà máy này đều là nạn nhân. Cách xử lý có trách nhiệm của Xã là khuyên dân nên bảo phòng ô nhiễm, đã bị bọn có chức quyền cấp Quận và thành phố Hà Nội khiển trách là : báo động sai lầm gây hoang mang. Trong khi đó thanh tra của Bộ Môi trường đã có kết luận là ô nhiễm thủy ngân có mặt và đang gây tác hại lên môi trường. Như vậy, trước các tai nạn môi trường thì thái độ vô trách nhiệm vì vô tri hay vì vô cảm của các cấp lãnh đạo Quận và Thành phố đã là phản xạ của loài âm binh sống trong bóng tối của tà quyền tham quyền và ma quyền tham tiền, mà bất chấp số phận của người dân và môi trường ngay tại khu xẩy ra hỏa hoạn với ô nhiễm thủy ngân. Mọi cuộc đấu tranh vì môi trường để minh bạch hóa sự có mặt của ô nhiễm có thể đe dọa tới mạng sống của con người, sự sống còn của môi sinh, sự trong sạch của môi trường đều phải bắt đầu ngay trên thượng ngun của thượng tng kiến trúc chính trị, nơi mà thượng cp lãnh đạo không hề quyết định và chỉ đạo với ưu tiên đôi : con người và môi trường, mà chỉ là thượng tôn độc đảng để độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn…

datnuoc11

Vô giác với môi trường, vô cảm với môi sinh

Sự cẩn trọng trước lòng tham hin ti của con người khi nó muốn khai thác triệt để thiên nhiên, nạo vét tài nguyên, truy hủy môi trường, xóa diệt môi sinh. Hãy định nghĩa để định luận về lòng tham hin ti, từ ăn tươinuốt sng bằng nghiến rng, nuốt đất với thái độ ăn cháo đá bát khi tài nguyên của thiên nhiên bị cạn kiệt, với hành vi bây chết mc bây với những hậu quả của ô nhiễm. Tương lai của nhân loi không hề là sự nối dài tự nhiên một cách máy móc từ hiện tại tới tương lai, từ hôm nay tới ngày mai. Tương lai của nhân sinh là chân trời trong đó có kết quả của lương tri hoặc hậu quả của vô tri, với những hiệu quả của nhân bản hoặc với hệ lụy của vô minh. Vì vô giác với môi trường, vô cảm với môi sinh, khai thác bừa bãi, vô tội vạ, vơ vét tài nguyên cho tới khi của môi trường gục ngã, môi sinh đuối quỵ, thì chân trời sẽ xám tối rồi đen nghịt để đưa con người vào thẳng cõi chết ! Chết trong vô tri, vô minh, vô giác, vô cảm là một cái chết xu, ti, tc, d, tới từ cái tội thâm, độc, ác, him với môi trường và môi sinh. Ssng làm nên sc sng nhờ môi trường sạch với môi sinh lành kết tụ ra nhân tính với ít nhất ba kết luận : Trái đất trong tương lai (rất gần) là dsng hay khó sng. Cụ thể là sống được hay không sống được, mà câu trả lời là thái độ của nhân loại đối xử ra sao với môi trường sống của mình.

Từ vô tri thức tới vô trách nhiệm

Nếu trong thế kỷ qua nhân lý giúp nhân loi đã lột mặt nạ bạo hành của thực dân, bạo động của đế quốc trên môi trường, thì chính quyền và lãnh đạo chính trị hiện nay phải quyết đoán trong quyết sách bảo vệ đất-nước. Tiền đồ của tổ tiên, tương lai của các thế hệ mai sau không ngừng ở con người, mà phải mở rộng, mở sâu, mở cao ra quan niệm về Vit tc không những là dân tc Vit mà còn là môi trường Vit luôn song hành, song đôi, song lứa, đồng hội đồng thuyền, cùng đồng bào Vit. Hãy phân tích và giải thích môi trường và môi sinh bằng những hthng ca quan h : quan hệ giữa con người và thiên nhiên, quan hệ giữa các sinh vật có mặt trên trái đất, quan hệ giữa con người và sinh vật cùng nhau tác động trên môi trường. Đây vừa là môi trường tri thức của nhân sinh, mà còn phải là môi trường về nhận thức qua giáo dục. Trước thảm cảnh môi trường bị tàn phá, môi sinh bị hủy diệt từ vô tri thức tới vô trách nhiệm của chính quyền do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thì ngược lại tại các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, họ đã đưa vào giáo dục, giáo khoa, giáo trình những hthng ca quan hgiữa con người và sinh thái. Bi kịch của độc đảng, qua độc tài nhưng bất tài, độc trmà không biết quản trị môi trường là đây. Sau gần nửa thế kỷ lấy độc quyn để tự độc tôn đã biến quê hương gấm vóc thành một bãi rác độc hại, ngày ngày ung thư hóa môi trường.

Vẫn sống được ? Khó sống được ? Không thể sống được ?

Trên các phân tích và giải thích về các hậu quả mà môi trường phải gánh chịu với sự khai thác, tiêu xài, phá hoại của con người : ô nhiễm môi trường chỉ là một phần tử của tổng thể về biến đổi môi trường trong đó có biến đổi khí hậu, với nhiệt độ tăng lên, từ đây nếu nóng thêm vài độ hay nóng thêm hằng chục độ thì trái đất sẽ ra sao ? Từ đây, con người phải trả lời là tăng bao nhiêu độ thì vẫn sống được ? Khó sống được ? không thể sống được ? Đây là câu hỏi về sự sống đang bị đe dọa bởi nhiệt độ tăng. Khủng hoảng môi trường, cũng là một ngữ pháp cần sự nghiêm túc trong lý luận, vì theo định nghĩa thì khủng hoảng là hậu quả xấu làm nên một chu trình tiêu cực, và khi các hậu quả xấu qua đi thì tình trạng ban đầu sẽ trở lại như lúc đầu. Như vậy phạm trù khủng hoảng môi trường đã sai ngay khi ta dùng nó, vì nhân loại đã vào một quy trình mới sau khi làm thiệt hại môi trường, và con người sẽ không còn có điều kiện để tái tạo lại môi trường khi nó chưa bị thiệt hại, chưa bị tàn hủy. Thay đổi kỹ thuật khai thác,cũng là một loại ngữ pháp mang nhiều nhược điểm, vì thay đổi kỹ thuật khai thác hoặc canh tác, tức là chỉ thay đổi cách vận dụng, sử dụng, tận dụng thiên nhiên, mà không hề làm thay đổi những gì đã mất trong môi trường, trong môi sinh, trong thiên nhiên. Như vậy, những sinh vật bị diệt chủng sẽ là những mất mát vĩnh viễn, không sao lấy lại được.

datnuoc12

Môi sinh đang quỵ gục

Vận dụng nhân tri để bảo vệ môi trường, dùng nhân trí để bảo quản thiên nhiên, thì nhân học môi sinh đã có một quá trình nhận thức về lịch sử khai thác tài nguyên thiên nhiên của con người với bao hậu quả và hệ lụy, trong đó có hai quy trình song song của nhân sinh từ hơn hai thế kỷ qua : Khi tiền tệ không những được sử dụng như công cụ trung gian trong các dịch vụ trao đổi trong kinh tế, thương mại, mà tiền tệ con là vốn gốc để định giá các sản phẩm, và nó đã được khai thác để trở thành vốn trung tâm để mua bán các tài nguyên có trong thiên nhiên. Khi công nghiệp mang hiệu năng của sự tiến bộ tới từ khoa học kỹ thuật, thì con người đã hiểu sai về môi trường và môi sinh là sự tiến bộ này sẽ không bao giờ ngừng, như khoa học kỹ thuật sẽ không bao giờ ngưng thăng tiến, cùng các tài nguyên được xem như là vô tận, không giới hạn. Hiện nay hai sai lầm này của con người đang bắt nhân loại phải trả những giá rất đắt, từ cạn kiệt tài nguyên tới ô nhiễm môi trường, đã gián tiếp hay trực tiếp nói lên sự thông minh rất giới hạn của con người trong lịch sử là : tài nguyên trong thiên nhiên là hữu hạn, mà không hề vô hạn. Môi trường khi bị khai thác triệt để, thì môi sinh bị hủy diệt. Cả hai nhận định trên đều mang lại một hậu quả chung là chính sinh mạng của con người đang bị đe dọa bởi môi trường ô nhiễm, và môi sinh đang quỵ gục.

Cùng một dòng sinh mệnh

Khi nguồn nước lẫn không khí, khi động vật và thực vật bị truy diệt ngay trong môi sinh của chúng bởi con người ; và phạm trù lý luận dit chng môi sinh (écocide) đã dần dần thành hiện thực, tại đây con người phải xem lại thật kỹ hai lãnh vực : chính trị kiến thức làm nên chính sách khoa học kỹ thuật phải biết tôn trọng hơn nữa môi sinh. Chính sách khoa học kỹ thuật làm nên hành động khai thác thiên nhiên để sử dụng tài nguyên phải biết bảo vệ hơn nữa môi trường. Từ đó sinh ra hai quan niệm mới trong nhân học môi sinh, và hai quan niệm mới này làm nên định đề là thiên nhiên và con người, môi sinh và nhân sinh có cùng mt dòng sinh mnh, chỉ một dòng, và không thể tách rời thành hai dòng được, với một thực tế mới : hin tại đôi của thiên nhiên và con người, đồng hội đồng thuyn, từ sinh sống tới sinh tồn, trong một không gian chung là trái đất ; tương lai đôi của môi sinh và nhân sinh, đồng cam cng kh, từ sống còn tới sống sót, cũng chỉ trong một không gian chung là trái đất. Hãy thận trọng hơn nữa về hai ngữ pháp : đồng hội đồng thuyền, đồng cam cng khgiữa các châu lục, có châu lục giàu từ tài nguyên tới khoa học, có châu lục khai thác môi trường của các quốc gia láng giềng, cùng lúc để lại các hậu quả kinh hoàng, các hệ lụy khủng khiếp cho các quốc gia láng giềng.

Bất công về sinh mệnh và số phận trước các hiểm họa về môi trường

Trung Quốc đã đối xử vô cùng bất nhân đối với Việt Nam khi khai thác các tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam, cùng lúc gây ô nhiễm môi trường một cách tồi tệ trên môi sinh Việt. Từ khai thác bauxite trên Tây Nguyên tới các nhà máy luyện thép, từ các nhà máy nhiệt điện ngay trên đất Việt với các công trình thủy điện ngay trên thượng nguồn sông Mê Kông trên lãnh thổ của Trung Quốc, hiện đang đe dọa sự sống còn của đồng bằng sông Cửu Long. Khi người ta nói bằng ngữ pháp đẹp : cùng mt dòng sinh mnh, với ngữ văn hay : đồng hội đồng thuyn, thì chính các chuyên gia về nhân học môi sinh thấy và thấu rất rõ là cùng mt dòng sinh mnh, nhưng khi gặp hóa chất độc, có kẻ chết trước, có người chết sau. Đồng hội đồng thuyn, nhưng kẻ giàu được ngồi hạng danh dự với bảo hiểm vững, có kẻ ngồi dưới thấp lòng thuyền không một bảo hiểm trong tay khi thuyền gặp giông bão. Cái bất bình đẳng về môi trường luôn song hành cùng cái bất bình đẳng trong sức mạnh kinh tế, tài chính, khoa học, kỹ thuật ; nên ngay khi có cùng mt dòng sinh mnh, mà vẫn có nhiều số phận khác nhau về tuổi thọ cũng như về bảo hiểm. Và khi đồng hội đồng thuyn, có kẻ giữ lái thuyền với chỗ thượng hạng, có người phải khoanh tay, mà giao số mệnh cho kẻ lái thuyền. Hãy đặt tên cho hai sự thật này : bất bình đẳng về kinh tế, tài chính, khoa học, kỹ thuật tạo ra bt công về sinh mệnh và số phận trước các hiểm họa về môi trường và môi sinh.

Từ dễ sống tới khó sống

Trong lịch sử của mình, con người không chỉ định cư trên trái đất, mà định cư bằng sinh hoạt khai thác thiên nhiên, tận dụng môi trường, rồi tư hữu hóa tài nguyên, đến chiếm đoạt môi sinh mà cách sử dụng chỉ theo ý thích, ý muốn, ý đồ của con người, mà không theo một quy luật phân chia hay chung chia với bất cứ sinh vật nào. Trên thực tế của môi trường hiện nay, con người khám phá ra là chính con người đã biến trái đất tự một môi trường dsinh sng thành một môi trường ngày càng khó sinh sng, với ô nhiễm từ không khí trên cao tới các nguồn nước sâu dưới đất. Từ dsng tới khó sng bởi chính các sinh hoạt của con người tự gây ra ô nhiễm, với tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, đây chính là sự thất bại vừa bất ngờ, vừa kinh hoàng của con người đã tự chặn con đường sống của mình. Để thấy cho thấu sự thất bại này, và tỉnh táo trong sáng suốt để đi tìm một lối ra, một lối thoát, để thoát chết bởi chính các tai họa do mình tạo ra ! Sự thật về chuyện ngày càng khó sống ta thấy rõ từng ngày, từng giờ : biến đổi khí hậu, với nhiệt độ tăng cùng các thảm họa hỏa hoạn. Biến đổi khí hậu, với nhiệt độ tăng cùng với lũ lụt, sạt lở… Biến đổi khí hậu, với nhiệt độ tăng cùng biến đổi môi sinh.

Không hề có sự tôn trọng hệ sinh thái nguyên thủy

Khi con người trở thành yếu tố có mãnh lực quyết định sự sống còn của thiên nhiên, tài nguyên, môi trường, thì cũng cùng lúc con người đưa các hóa chất mới cùng các sáng tạo sinh học mới vào đời sống con người, rồi tác động thẳng lên đời sống của các sinh vật khác không phải là con người, nhưng cùng chung chia với con người một môi sinh, đó là sự xuất hiện của : thuc trsinh trực tiếp thay đổi các kháng thể, tác động từ canh nông qua chăn nuôi, tự động vật tới thực vật… Hóa cht chng ry để bảo vệ canh tác, cùng lúc diệt nhiều sinh vật khác, biến truy diệt hệ đa sinh thái trong môi trường. OGM, dùng khoa học để đổi giống, biến chất các sinh vật, và các sinh vật mới lai giống này tạo ra các hậu quả mới cho các sinh vật đã sống từ lâu trong môi trường ban đầu. Chưa hết, cũng chính con người trên con đường từ sử dụng tới tận dụng thiên nhiên, từ vận dụng tới tư dụng môi sinh, đã đi ngày càng sâu vào tư-dng-vì-tư-li của riêng nó, khi con người biến rừng thành đất canh tác với sự tham gia của các công nghệ nặng. Rồi biến đất canh tác đa dạng biết tôn trọng hệ đa sinh thái thiên nhiên tới kinh tế. Có quốc gia vừa giàu có lại vừa tham lam, khai thác của thiên nhiên thành đất chỉ canh tác một loại hoa màu, mà chọn lựa hoa màu chỉ dựa vào lợi nhuận của kẻ đầu tư, không hề có sự tôn trọng hệ sinh thái nguyên thủy.

datnuoc13

Chiến trường xưa nay không còn bóng giặc

Từng đoàn xe xem rừng núi như nhà...

Tội ác trên môi trường, tội ác trên đồng loại

Lịch sử con người từ khi con người biết đi thật xa để tìm tài nguyên trong thiên nhiên tới khi xuất hiện chế độ thực dân có biệt tài là : khai phá, khai quật, khaithác các tài nguyên trong thiên nhiên cho đến khi cạn kiệt, bất chấp ô nhiễm, giúp chúng ta nhận ra một định đề là : những chế độ, những chính quyền, những lực lượng sinh hoạt và sinh sống qua qua trình truy cùng dit tn môi trường và môi sinh là những tội phạm làm một lúc hai tội ác : tội ác trên môi trường và môi sinh, với ô nhiễm từ khí tầng tới địa tầng ; tội ác trên đa số nhân loại đã mất môi trường và môi sinh để sinh sống. Loi ti ác đôi này, ngày ngày ta thấy rất rõ trên môi trường Việt, với bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, dùng bạo luật với bạo hành của loài trm, cắp,cướp, git từ đất đai tới tài nguyên, và bất chấp môi sinh đang quỵ gục, môi trường đang hấp hối. Khi con người trở thành yếu tố có mãnh lực quyết định sự sống còn của thiên nhiên, tài nguyên, môi trường, môi sinh mà tên gọi khoa học của nó là anthropocène, thì ta cũng đừng quy chụp bừa bãi và chung chung là lỗi của con người ! Không đâu, đây là lỗi của các hthng, các chế độ chỉ biết khai thác môi trường để trục lợi, chỉ vì tư lợi của chúng ; và đa số con người trong nhân loại không phải là tác giả mà thường là nạn nhân của các hệ thống, các chế độ chỉ biếtbòn rút rồi vơ vét tài nguyên, chỉ biết mạo dạng lập thủy điện để lấy gỗ rừng, mặc cho lũ quét giết hại từ thiên nhiên tới đồng bào …

Tỉnh thức để tìm ra cách sống mới

Khi ta nêu tên chế độ và các hệ thống tham nhũng của nó, thì ta phải biết đào sâu hơn nữa trên phân tích để giải thích là từ thực dân tới cộng sản, chỉ cùng một ý đồ đã thành ý thc hlà kẻ cầm quyền lực là những kẻ trc li hóa thiên nhiên, vli hóa môi trường, tư lợi hóa môi sinh. Với ý thức thượng nguồn về các tai họa truy diệt môi trường, để có nhận thức hạ nguồn về chính dòng sinh mệnh của nhân loại còn hay mất môi trường. Từ đây, nhân loại phải vận dụng tối đa hệ thc : kiến thc tạo tri thc, ý thc sinh nhn thc, để phải tnh thc mà tìm ra một cách sng mi, tức là một cách quan hmi (trong, sạch, lành, mạnh) với môi trường và môi sinh : cách sng mi trong quan hmi với khả năng áp dụng và ứng dụng hệ thức trên không gian rộng nhất của nhân loại, qua thời gian dài nhất của nhân sinh, trong đó mọi cộng đồng, mọi sinh vật được hưởng đầy đủ hệ thc này để cùng nhau sinh tồn trên cùng một trái đất.

Sự vắng bóng các chính sách về môi trường

Cuối tháng Tám của năm 2019, Hà Nội vừa bị xếp hạng là thành phố hiện nay đang bị ô nhiễm nhất thế giới ; trước tin này người Việt sững sờ khám phá là thủ đô của Việt Nam đang ô nhiễm hơn cả những thành phố của Trung Quốc bị xếp hạng trên hàng đầu những thành phố ô nhiễm nhất bao năm qua. Người Việt vừa có thêm một kinh ngạc mới : không khí trùm phủ trên không gian Việt mang cái độc hại của ung thư cấp vĩ mô, từ cấp vùng đã dần lên cấp quốc gia, với một chính quyền độc tài nhưng hoàn toàn bất tài trong quản lý môi trường. Sự vắng bóng các chính sách về môi trường chắc chắn tới từ sự vắng mặt các tri thức về môi trường trong giới lãnh đạo hiện nay, nơi mà độc đảng lãnh đạo vẫn giữ độc quyền sử dụng, khai thác môi trường như khai thác các tài nguyên vô tri, các không gian vô giác, với sự vắng biệt các kiến thức căn bản về hệ sinh thái trên đất nước Việt. Muốn quản lý hệ sinh thái thì không chỉ cần các kiến thức về môi trường hc, mà còn cả các tri thức về nhân hc nữa ! Nếu nhân học nghiên cứu, phân tích, giải thích về sinh hoạt của con người trên môi trường, thì chính con người tác động trực tiếp và làm thay đổi môi trường bằng các sinh hoạt của con người. Tri thức đôi (môi trường học và nhân học) hiển nhiên hiện diện trong lập luận các chính sách về môi trường trong các quốc gia trọng môi sinh, quý nhân quyền, bằng sự sáng suốt của dân chủ.

Quan hệ giữa các sinh vật

Ngay trong ngữ pháp : quản lý môi trường, các chuyên gia cũng rất thận trọng, vì động tự quản lý, quản trị, là ngữ pháp đặt con người lên trên thiên nhiên, nên một liên minh thông minh giữa môi trường học và nhân học là đưa ra ngay trên thượng nguồn các định đề sáng suốt, mang đầy đủ nội lực của nhân tri : Con người muốn bảo vệ môi trường một cách thông minh thì con người phải biết sng chung với môi sinh trong thiên nhiên, nơi đây cụm từ sng chung với các sinh vật khác, từ động vật tới thực vật, mà con người không hề có một quyền sở hữu gì cả trên số phận các sinh vật này. Ngược lại phải tôn trọng từ tchtới tdo, từ ttn tới tsinh của mọi sinh vật trong môi sinh. Con người sẽ biết thích ng nếu biết sng chung của mọi sinh vật, cụm từ thích ứng của nhân sinh vào môi sinh, giúp con người nhận ra ít nhất ba loại quan hệ có trong môi sinh : quan hệ giữa con người và thiên nhiên, quan hệ giữa con người và các sinh vật trong thiên nhiên, quan hệ giữa các sinh vật, từ động vật tới thực vật có trong thiên nhiên. Con người sẽ biết chia scùng các sinh vật vì biết thích ng để sng chung với các sinh vật này, thì chính con người không thể tiếp tục xem thiên nhiên là kho dự trữ lương thực, và các sinh vật này sống trong thiên nhiên này khi gặp con người là bị giết để bị nuốt, bị nhai, bị ăn… mà chính con người phải tìm ra các quan hệ sng chung-thích ng-chia svới các sinh vật này không còn là mồi mà là các đối tác cùng nhau vừa bảo quản, vừa trông nom môi trường.

Môi trường của nhiều tổ chức xã hội

Khi liên minh giữa môi trường học và nhân học hình thành, thì câu chuyện môi trường vẫn chưa được giải quyết, trong ba cụm từ sng chung-thích ng-chia s, thì động từ làm nên động tác thích ng mang nhiều ẩn số, trong đó có hai ẩn số cần được mổ xẻ đúng. Tthích ng vi bn chất môi trường bằng chính nội lực, bản lĩnh, năng khiếu làm nên hiu quthích ng của mình qua từng sinh vật, tại đây thích ứng của một con ó với mọi môi trường từ trời cao tới vực thẳm hoàn toàn khác với một con rùa không có khả năng để bay, không có năng khiếu vượt vực thẳm như ó. Tthích ng vi mật độ trên môi trường, mà mật độ của các khu vực đông dân hơn 1000 người trong thành thị, không phải là mật độ 1 người trong rừng, nơi mà con người dễ gặp các sinh vật khác hơn là người gặp người. Từ hai nhận định trên, môi trường học đề nghị hai phạm trù lý luận : môi trường trao tng, tại đây môi trường là không gian trao tặng các nguồn thực phẩm, tài nguyên để các sinh vật sự dụng mà tồn tại, với điều kiện là các sinh vật nhận phải tham gia trọn vẹn để bảo vệ sự tồn tại vững cũng như sự tái sản suất bền của môi trường qua không gian và thời gian. Môi trường ca nhiu tchc xã hi của nhiều sinh vật khác nhau, tại đây tổ chức xã hội của con người, của động vật, của thực vật rất khác nhau về sinh hoạt, đời sống, quan hệ giữa các thành viên sống cùng một xã hội. chính cụm từ tchc xã hi trong môi trường là một chỉ báo khách quan để thấu hiểu các hậu quả của từng xã hội sinh vật lên môi trường.

datnuoc14

Môi trường què quặt của độc đảng và tham nhũng

Hai phạm trù phân tích này : môi trường trao tng môi trường ca nhiu tchc xã hi, cho ta thấy chính con người đã tạo ra các hậu quả trầm trọng trên không gian của môi trường với các hệ lụy qua thời gian trên môi sinh. Hãy trở lại với câu chuyện Hà Nội bị xếp hạng là thành phố hiện nay đang bị ô nhiễm nhất thế giới, để lấy ra ít nhất hai kết luận. Thứ nhất, môi trường trao tng không còn đủ lực để trao tặng, mà ngược lại nó mang những độc chất vừa tiêu diệt môi trường, vừa truy hủy mọi môi sinh từ con người tới thiên nhiên, từ động vật tới thực vật. Thứ nhì, môi trường ca nhiu tchc xã hi, nhưng trong tình hình của Việt Nam hiện nay nó đã trở thành một môi trường ca mt tchc xã hi có đầu sỏ là hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn), với đầu nậu là hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền). Tương lai Việt sẽ xám tối như thiên nhiên Việt hiện nay, khi môi trường không thể tự sinh, môi sinh không thể tự tồn, khi độc đảng giữ độc quyn độc tin.

Môi trường án treo, môi sinh tù treo

Phạm trù lý luận : môi trường án treo, môi sinh tù treo, tới tự nhận định các tai họa từ ô nhiễm tới hủy hoại môi trường, các họa nạn từ truy diệt tới xóa sổ các sinh vật có trong môi sinh. Từ đây, dẫn tới kết luận là con người không thể tái tạo lại môi trường nguyên thủy ban đầu của thiên nhiên, mà con người chỉ có tái tạo thiên nhiên theo hiểu biết giới hạn của con người. Thiên nhiên được con người tái tạo, không còn là thiên nhiên ban đầu, và nó sẽ không bao giờ trở lại nội dung, ý nghĩa, giá trị ban sơ của nó. Tư duy về một thiên nhiên bất di bất dịch, vừa vĩnh hằng vừa phổ quát, thực sự đã không còn, bao năm qua đã không đúng nữa. Hình ảnh thiên nhiên thủa nào là môi sinh của muôn loài, nơi mà các sinh vật sinh sôi nảy nở trong độc lập và tự chủ với các sinh hoạt con người, giờ đây đã hoàn toàn sai. Hãy tìm đến một định đề mới là không có một sinh vật nào hiện nay hoàn toàn độc lập và tự chủ trong môi sinh dưới sự khai thác thiên nhiên của con người trong bao thế kỷ qua. Hãy nhận ra một định luận mới là sinh hoạt khai phá rồi khai thác thiên nhiên một cách triệt để trong phong cách sinh sống và lao động của con người đã biến con người trở thành một chủ lực cột trụ trung tâm, ngày ngày làm thay đổi nội chấtcủa môi trường, như ta đã thấy qua thay đổi khí hậu tạo ra biến hóa rồi biến chất môi trường.

Vai trò chủ lực của con người

Nghịch lý càng sâu khi con người trở thành một chủ lực cột trụ trung tâm, ngày ngày thay đổi môi trường, bằng sinh hoạt của nó và chính các sinh hoạt này làm thay đổi khí hậu tới môi sinh, thì con người phải nhận định lại thế nào là một hệ sinh thái mới với vai trò chủ lực của con người. Từ đây, ra đời một nhận định mới, vừa cho môi trường học, vừa cho nhân học với các khám phá và ứng dụng của các ngành sinh học, sinh hóa các sinh vật mới đã, xuất hiện, từ thực vật tới động vật, nửa thuần giống, nửa nhân tạo. Sự xuất hiện các sinh vật mới, từ thực vật tới động vật, vừa lai giống, vừa lai chất, tạo ra các nhu cầu mới trong một quan hệ mới với môi trường. Như vậy lãnh thổ xuất hiện của các sinh vật mới không còn thuần giống mà lai giống đã và đang làm thay đổi môi trường. Mọi sự thay đổi về lãnh thổ hàm chứa một sự thay đổi mới trên biên giới giữa các sinh vật nguyên thủy được xem là nguyên chất, và các sinh vật không thuần chất vì đã lai giống. Đây là thay đổi lớn và sâu, vì con người không thể tiếp tục tư duy và lý luận : thiên nhiên giản dị vì thuần nhất trong một môi sinh thuần chất trong giản đơn. Thay đổi lớn và sâu tạo ra thay đổi rộng và xa trong mọi định nghĩa, định đề, định luận không chỉ cho nhân học mà cho tất cả các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn.

Từ sinh sống tới sinh hoạt, từ sống còn tới sống sót

Câu chuyện về thay đổi từ lãnh thổ tới ranh giới giữa các sinh vật được xem là nguyên chất có trong nguyên thủy, và các sinh vật không thuần chất vì đã lai giống, cũng có giá trị cho các phân tích vĩ mô. Sự có mặt thường xuyên các sinh hoạt của con người sống nhờ rừng và tái tạo lại rừng với quan niệm của nhân sinh không nguyên sinh, không nguyên thủy. Nhưng cùng thời điểm này, chúng ta phải nhận thức thật sắc nhọn một loại hiểm họa khác.Trong mùa hạ cuối tháng 8 năm 2019, thảm nạn cháy nhà máy sản xuất bóng đèn Rạng Đông, tại Hà Nội với sức ô nhiễm độc hại của thủy ngân với số lượng cao. Thảm họa của một nhà máy bốc cháy ngay khu dân cư đã tạo ra ô nhiễm rộng lớn ngay trong môi trường của thủ đô, ô nhiễm độc hại không những không khí mà cả mọi sinh vật từ động vật tới thực vật, từ nguồn nước tới con người. Nơi mà hóa chất của thủy ngân đe dọa từ sức khỏe tới tính mạng mọi sinh vật, nơi mà môi trường một sớm một chiều trở thành độc hại với con người đang tiêu thụ cây trái đã bị thủy ngân nhiễm độc. Khi con người đã trở thành một chủ lực trung tâm ngày ngày làm thay đổi môi trường, thì chính con người phải trả lời cho rõ là con người mun tiếp tc hay không mun tiếp tc xem môi trường là đối tác có tầm quan trọng tuyệt đối từ sinh sống tới sinh hoạt, từ sống còn tới sống sót của con người trên trái đất này hay không ?

15datnuoc15

Đây là hình ảnh trong căn phòng ở một ngôi Chùa . Như chúng ta thấy căn phòng được thiết kế toàn bằng nguyên liệu gỗ quý, bao gồm cả chiếc bàn gỗ cổ thụ hàng trăm năm tuổi. 

Sống nhờ thiên nhiên nên tôn kính môi sinh, tôn trọng môi trường

Con người phải "chịu khó" mà trở lại các quan niệm của các cộng đồng sắc tộc nguyên thủy đã sống nhờ, sống dựa vào thiên nhiên và đã từ lâu xem mọi sinh vật, từ động vật tới thực vật, ngang hàng với con người, như con người. Xem mọi sinh vật ngang hàng với con người, như con người không hề là một bước lùi của nhân sinh, mà chính là sự thông minh của nhân tri luôn là chỗ dựa cho nhân loại. Ta thường xuyên gặp hai kinh nghiệm tri thức, như hai loại chủ thuyết luôn đối chọi, kình chống, xung đột nhau trong thế kỷ qua : chthuyết con người chủ đạo, khai phá rồi khống chế thiên nhiên, chủ động rồi chủ yếu trong vai trò khai thác thiên nhiên, chế ngự để quản lý môi trường, con người tự cho mình vị thế trên cao để điều chế môi sinh. Và chthuyết con người không chyếu, mà vai trò chủ yếu thuộc về thiên nhiên trong đó con người chỉ là một phận tử của hệ đa sinh thái và các sinh vật không con người, dù lớn dù nhỏ, đều có giá trị sống và quyền sống như nhau. Hai chủ thuyết này vẫn tồn tại trong thế kỷ này, một bên là con người được quyền tiếp tục khai thác thiên nhiên, một bên khuyên răn con người nên trở lại thái độ minh triết của các cộng đồng nguyên thủy là sống nhờ thiên nhiên nhưng tôn kính môi sinh, tôn trọng môi trường, không khai thác thiên nhiên đến kiệt quệ, quỵ gục.

Chung để chia và chia để chung

Tài nguyên trong thiên nhiên không vô hạn, và khi con người khai thác tài nguyên trong thiên nhiên, thì chính con người gây ít nhất hai hậu quả : ô nhiễm môi trường và truy diệt môi sinh, đây chính là nhược điểm chính của chthuyết con người chủ đạo. Thiên nhiên ban đầu thủa nguyên thủy không thể tái tạo lại được nữa, và nếu có thể tái tạo được, thì sinh hoạt để sinh sống của con người cũng sẽ tiếp tục làm cho môi trường thiên nhiên nguyên thủy này thay đổi, biến dạng, đây chính là các nhược điểm chính của chthuyết con người không chyếu. Sẽ không có một môi trường thiên nhiên nguyên thủy, cũng như sẽ không có một môi trường thiên nhiên không bóng người sống nhờ thiên nhiên. Trong lịch sử của thiên nhiên, cũng như trong lịch sử của con người, luôn có cùng một mu schung là con người sống trong môi trường thiên nhiên, và môi trường thiên nhiên thay đổi, biến hóa cùng con người, cả hai tạo ra một tổng thể chung để chia chia để chung.

Cái đẹp, cái hay, cái sạch

Trong môi trường thiên nhiên, có hai loại sinh vật : con người và các sinh vật không phải con người ; và con người khi vận dụng kiến thc tri thc của nó để đưa khoa học kỹ thuật vào thiên nhiên, thì chính con người phải có ý thc bảo vệ môi trường, phải có nhn thc bảo trì môi sinh. Khi con người có đầy đủ hệ thc (kiến thc, tri thc, ý thc, nhn thc) làm nên nhân tố quyết định sự sống còn và sống sót của môi trường thiên nhiên, thì chính con người phải có trách nhim bảo vệ môi trường, có bn phn bảo trì môi sinh. Hệ thc (kiến thc, tri thc, ý thc, nhn thc) này không đơn độc, cô lẻ, mà luôn có ít nhất ba chỗ dựa của nhân đạo : đạo lý bảo vệ cái đẹp của thiên nhiên ; đạo đức bảo quản cái hay của môi sinh ; luân lý bảo trì cái sch của môi trường. Cả ba : cái đẹp, cái hay, cái sch không phải là những danh từ suông, không phải là những tính từ buông, mà chính là tiêu chuẩn làm nên mô thức của con người để có đối xử đẹp thiên nhiên, có ng xhay với môi sinh, có hành xsch với môi trường để được sống còn, sống sót cùng lực bảo vệ được nhân phẩm của chính mình.

Trách nhiệm bảo vệ môi trường, bổn phận bảo trì môi sinh

Trong thảm trạng của môi trường Việt hiện nay ngày ngày và dần dần đưa Việt tộc vào một thảm họa môi trường, vào một thảm nạn môi sinh, công dân Việt phải là chủ thể Việt có trách nhiệm bảo vệ môi trường, có bổn phận bảo trì môi sinh, yêu cầu bạo quyền độc đảng hiện nay phải tôn trọng đạo lý bảo vệ cái đẹp của thiên nhiên ; tà quyền tham quan hiện nay phải tôn trọng đạo đức bảo quản cái hay của môi sinh ; ma quyền tham đất, tham tài nguyên phải tôn trọng luân lý bảo trì cái sch của môi trường. Nhân sinh luôn mang theo hai loại vấn đề đặc thù do chính con người tạo ra, mỗi vấn đề có nội dung riêng của nó, có giá trị riêng của nó, có hoàn cảnh riêng của nó, có khó khăn riêng của nó, đó là nhân sinh trong nhân lý và nhân sinh trong môi sinh.

datnuoc16

Rừng già Việt Nam bị tàn phá để các công ty kinh doanh hàng gỗ khai thác, buôn bán và phô trương về sự quý hiếm. Ảnh minh họa thớt gỗ dùng làm bàn họp

Nhân sinh trong môi sinh

Nhân sinh trong nhân lý mang ít nhất ba nội dung, cả ba nội dung này như ba hằng số trong nhân lý, tức là có mặt trong nhân tính, nhân tri, nhân vị của con người : quan niệm sở hữu, nơi mà quyền sở hữu không những có trong phản xạ của con người mà nó còn được hiến pháp, luật pháp bảo vệ như một quyền trung tâm trong nhân sinh. Quan niệm tư lợi, ở đây đòi hỏi quyền lợi của cá nhân, tập thể, cộng đồng, quốc gia luôn dẫn tới phạm trù tư lợi, chính định chế và cơ chế từ nhân quyền tới dân chủ, đều chấp nhận và công nhận cặp đôi quyền lợi-tư lợi này. Quan niệm cá nhân, tại đây cá nhân được quyền có cả hai : sở hữu tư lợi, cả hai đóng vai trò chủ động về sự ra đời của chủ nghĩa cá nhân, vừa làm nền tảng, vừa là động cơ của các định chế và cơ chế từ nhân quyền tới dân chủ. Nhân sinh trong môi sinh cũng có ít nhất ba vấn đề, ít nhiều được xem vừa là các hằng số, vừa là các ẩn số, chính đây là nghịch lý của nhân sinh, mà cho tới nay con người vẫn chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng, chưa có cách giải quyết toàn lý. Con người khai thác tài nguyên rồi biến năng lượng để sử dụng, các tài nguyên thành năng lượng từ : củi, than cho tới các khoáng chất, mỏ quặng, dầu hỏa… các năng lượng này ngày càng cạn dần, mà chính con người hiện nay vẫn chưa chế tạo được năng lượng nhân tạo để sử dụng, mà không cậy nhờ vào môi trường thiên nhiên. Năng lượng mặt trời cũng như năng lượng gió hoàn toàn không đáp ứng được sức tiêu thụ hiện nay của con người.

Cấp số tăng con người, cấp số giảm thiên nhiên

Con người luôn tăng về dân số, mà đơn vị hiện nay là nhiều tỷ và cấp tăng số này sẽ không hề giảm về mức độ cũng như về mật độ, với không gian của môi trường luôn bị lấn át, truy ép. Cấp số tăng của con người là cộng và nhân, song hành cùng cấp số giảm của môi trường thiên nhiên là trừ và chia, với diện tích của thiên nhiên ngày càng bị thu hẹp và không gian nhân sinh ngày càng căng, càng rộng. Con người luôn tăng về tuổi thọ, tác động trực tiếp lên hiện cảnh đất chật người đông, và chỉ có con người tăng về tuổi thọ, và không có một sinh vật nào được có tuổi thọ dài để có mặt lâu và bền trên trái đất này. Bối cảnh đôi là người đang sống vẫn đông, và thế hệ mới sẽ xuất hiện cũng sẽ đông, sẽ nhiều, mà thực tế của dân số học (nhân khẩu học) của nhân sinh không hề tách biệt với hệ môi trường, và tại đây nhân sinh chính là sức ép trực tiếp, không ngừng nghỉ trên môi trường. Đã không còn đất trống, rừng hoang như chốn không người nữa, tức là không còn một nơi trú ẩn nào trên quả địa cầu này mà các sinh vật có thể tới đó để lẩn tránh sức ép của con người, vì con người đã thu gọn không gian của trái đất trong tầm kiểm soát bằng khoa học và kỹ thuật của nó. Đã không còn sự tăng trưởng bình yên, sự phát triển tự nhiên của các sinh vật, từ động vật tới thực vật, mà ngược lại có rất nhiều động vật và thực vật đã và đang bị diệt chủng, bị con người truy sát, hoặc bị tiêu diệt bởi biến đổi khí hậu với môi sinh luôn bị truy nã như chúng.

Nhân luật vì quyền sống của thiên nhiên

Đã không còn các sắc tộc sống tách biệt, các quốc gia sống biệt lập, các châu lục tách xa nhau, mà ngược lại với toàn cầu hóa hiện nay của giao thông, truyền thông, truyền tin… cùng sự khai thác tràn lan từ tài nguyên tới thiên nhiên trong bối cảnh của một thế giới tiêu thụ không ngừng nghỉ môi trường, thì nhân sinh đang đi từ gặm nhấm tới nuốt trọng môi sinh. Ta phải đi sâu, xa, rộng, cao lên với các khám phá mới của sinh học giúp con người có nhận thức mới là ranh giới giữa động vật và thực vật ngày càng bị thu ngắn lại, bị xóa mờ đi để con người nhận ra một không gian lớn hơn của các sinh vật. Những nhận thức mới về các sinh vật, có động vật và thực vật như là những sinh vật có cảm nhận, có cảm quan và có ý thức cùng nhận thức có thể dẫn tới cảm xúc. Chính con người phải thay đổi tư duy của chính mình, tức là thay đổi nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan về các sinh vật. Các quốc gia văn minh, yêu dân chủ, trọng nhân quyền đã đi nhiều bước bằng những luật pháp bảo vệ môi trường bằng các nhận thức đã nêu ở trên, đây là cái thiếu trong luật pháp hiện nay của Việt Nam, bởi bạo quyền độc đảng vô cảm ? Bởi tà quyền tham quan vô tri ? Bởi ma quyền tham tiền vô giác ? Trước mắt, thì mọi công dân Việt với nhân cách của chủ thể bảo vệ môi trường Việt, bảo trì môi sinh Việt, bảo quản thiên nhiên Việt phải đòi hỏi sự ra đời của một bộ luật thật sự văn minh về môi trường, và đừng ngần ngại đặt tên cho nó là nhân luật vì quyền sống của thiên nhiên.

datnuoc17

datnuoc17bis

Rừng Trường Sơn Đông Tây (Lào và Campuchia) gần như còn nguyên vẹn, trong khi rừng Trường Sơn Đông đang trở thành trơ trụi. Ảnh minh họa Bản đồ vệ tinh khu vực 2.400 km2 tại tỉnh Kon Tum. Nguồn : Google Earth ; Đường biên giới chỉ để tham khảo.

PowerPoint-Präsentation

Phóng to khu vực 6 km2 rừng bị phá trụi chỉ còn ruộng đất đỏ. Nguồn : Google Earth , Đường biên giới chỉ để tham khảo. 

Vong quốc trong môi trường, vong thân trong môi sinh, vong hồn trong đất nước

Không cần rời thành phố, người dân cũng thấy và hiểu môi trường chung quanh mình đang bị tàn phá một cách thảm hại. Ngập lụt thường xuyên các đường phố trong các đô thị sau mỗi trận mưa to, mà lý do phá rừng là chủ yếu, cây rừng không còn để ngăn chặn hữu hiệu các trận

mưa. Ngập lụt thường xuyên các đường phố trong các đô thị mỗi trận mưa to, mà lý do ngăn hủy các dòng chảy của sông ngòi, dễ dàng làm ngập lụt cả thành phố. Khi rời thành phố, người dân đã thấy và nhận ra là môi trường chung quanh mình đang bị hủy diệt một cách tàn khốc. Những cánh rừng bị trọc đầu, trần thân, với sự khai thác vô tội vạ của con người, nơi mà kẻ có tiền đã mua chuộc bằng tham nhũng, để bóc trần tận xương tủy những cánh rừng nguyên sinh. Những bìa rừng với bộ áo xanh tươi bên ngoài, nhưng khi người ta vào sâu một chút trong rừng, thì cảnh trần trụi là sự rỗng nát của môi trường, tàn lụi của môi sinh, đã bị nạo vét một cách vô lương tri nhất. Khi trở lại thành phố, người dân cũng thấy được và thấu ra là môi trường chung quanh mình đang bị truy diệt một cách tồi tệ. Những biệt thự, biệt phủ của các tham quan, sống giầu sang như loại ký sinh trùng được béo bổ hóa qua tham ô, tham nhũng. Bọn sâu dân mọt nước này tự cho phép chúng trộm, cắp, cướp, giật các loại gỗ quý hiếm để xây biệt thự, biệt phủ của chúng.

Bọn sâu dân mọt nước để diệt rừng cướp gỗ

Những biệt thự, biệt phủ của các bọn tham quan sâu dân mọt nước này đã tạo ra diệt rừng cướp gỗ theo nghĩa bất nhân nhất trong nhân tính. Chúng ăn mọt ngay trên môi trường để có các loại gỗ quý hiếm để xây biệt thự, biệt phủ của chúng. Khi người thành phố nghe và thấy các cây quý hiếm khi chưa bị đốn đã được khắc tên các tham quan trên thân gỗ, người dân mới hiểu ra là ngay trong chuyện trộm, cắp, cướp, giật giữa đám tham quan, chúng có phản xạ ký sinh trùng loài ruồi nhặng lúc tranh, giành, sang, đoạt từng cây gỗ quý ngay trong rừng. Bọn tham quan sâu dân mọt nước này đã sâu rừng mọt gỗ theo nghĩa bỉ ổi nhất đối với môi trường qua hành động gặm, nhai, nuốt, nghiến từng sinh vật của môi trường thiên nhiên. Với lòng tham không đáy, chúng diệt môi trường ngay trên thượng nguồn của môi sinh. Chúng sẵn sàng thanh trừng, thủ tiêu, tàn sát nhau như người dân đã thấy chúng thanh toán nhau tại Yên Bái. Trong phản xạ ăn tàn phá tận của loài tham quan mục súc vô luân luôn có phản ứng phản rừng hại biển, nên chúng chỉ cần đi thêm một bước nữa là chúng sẽ phản dân hại nước, đi thêm hai bước nữa thì chúng sẽ buôn dân bán nước. Loài tham quan này hoàn toàn vô cảm trước Tàu tặc đã và đang cướp biển, đảo, đất của ta !

Loài tham quan tư hữu hóa những cái chết !

Vô giác trước cảnh Tàu họa, kiểu Formosa, đã hủy diệt cả một môi trường rộng lớn tại miền Trung của non nước Việt ! Chúng vô tri với Tàu hoạn đưa thực phẩm bẩn, hóa chất độc vừa giết con dân Việt, vừa diệt môi sinh Việt ! Chúng vô minh trước Tàu nạn với các nhà máy nhiệt điện theo mô thức của Tàu phỉ phế thải tro bay bừa bãi trên nhiều vùng của đất nước Việt ! Chúng vô luân nhắm mắt- cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước mô hình âm binh của Tàu tà là truy diệt từ con người tới môi trường, để hủy bại Việt tộc. Khi bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền kết cấu lại với nhau để thành loài âm binh ăn tàn môi trường, phá mạt môi sinh, thì chính chúng đã đốn mạt hóa nhân tính, nhân lý của chính chúng, vì nhân tri, nhân trí đã vắng bóng trong nhân phẩm của chúng. Mạt vận hóa nhân nghĩa, nhân từ của chính chúng, vì nhân văn, nhân bản đã biệt tăm trong nhân đạo của chúng. Nên loài tham quan này đừng mong có nhân vị trong nhân gian, nhân thế ! Chỉ vì nhân cách của loài tham quan truy cùng diệt tận môi trường và môi sinh là nhân cách chỉ biết sống với các sinh vật chết vì đã bị chúng giết, để chúng trưng bày ngay trong biệt phủ, biệt thự của chúng. Vì chúng chỉ thấy đẹp với các động vật và thực vật đã bị chúng giết chết, chúng sống để tư hữu hóa những cái chết !

Vong quốc ngay trong môi trường của Tổ tiên Việt

Nhân dạng của loài tham quan sâu rừng mọt gỗ đã ăn tận phá mạt trong phản xạ phản rừng hại biển chỉ biết tôn vinh cái chết do bị giết tới từ cái ác làm ra cái tội trời không dung đất không tha, qua tội ác hủy môi trường, tội phạm diệt môi sinh ! Chúng là bọn tội đồ với đất-và-nước của đồng-bào-Việt, vì chúng đã ăn rừng, cạp cây, giết thú trong thiên nhiên, nên chúng sẽ không có mồ xanh cỏ đẹp khi chúng xuống huyệt, chúng chỉ có mồ khô cỏ héo mà thôi ! Nhân diện của loài tham quan trộm, cắp, cướp, giật các loại gỗ quý hiếm để xây biệt thự, biệt phủ của chúng, với khuôn mặt có miệng lưỡi của âm binh chỉ biết gặm, nhai, nuốt, nghiến từng sinh vật trong môi trường thiên nhiên. Chúng có hàm răng của xấu, tồi, tục, dở của loại ăn tươi nuốt sống ! Chúng có mắt tham, mũi nhũng của thâm, độc, ác, hiểm của loài ăn cháo đá bát, nên chúng đã vong quốc ngay trong môi trường của tổ tiên Việt, chúng đã vong thân ngay trong môi sinh của dân tộc, nên chúng vong hồn ngay trong đất nước Việt.

Lê Hữu Khóa

(23/03/2021)

---------------------

lhk0 Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille

Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Lê Hữu Khóa
Read 737 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)