Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

05/05/2020

Hòa giải và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam có khả thi ?

Cánh Cò

Hòa giải, biện pháp nào khả thi ?

Cánh Cò, RFA, 05/05/2020

Không nhớ rõ ai là người trưng ra cụm từ hòa giải hòa hợp dân tộc, nhưng mỗi khi nghe đến cụm từ này, đặc biệt giữa những ngày tháng 4 hàng năm thì không ít người tỏ ra tin rằng người Việt khó lòng ngồi lại với nhau để hòa giải những bất đồng, những gút mắc từ 45 năm qua khi mà chiếc xe tăng cắm cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam húc đổ hàng rào dinh Độc Lập mở đường cho làn sóng của bên thắng trận tràn vào khắp miền Nam và gây nên những thảm cảnh cho hàng triệu người.

hoagiai1

Chiếc xe tăng cắm cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam húc đổ hàng rào dinh Độc Lập mở đường cho làn sóng của bên thắng trận tràn vào khắp miền Nam và gây nên những thảm cảnh cho hàng triệu người.

Những thảm cảnh ấy không có trong sách giáo khoa, không có trên mặt báo chính thống và cũng không có lấy một phân cảnh nào trên hệ thống truyền hình quốc gia. Những thảm cảnh ấy im lặng nằm sâu trong ký ức của nhân dân miền Nam, sâu đến nỗi mỗi lần nhớ lại hay có ai nhắc tới thì không ai bảo ai lặng lẽ chậm nhanh giòng lệ hay chí ít cũng quay mặt đi che nỗi buồn nay đã nhăn nheo với thời gian.

Nhưng có nhăn nheo cũ mốc thế nào thì nạn nhân miền Nam cũng nhớ tới nó. Nhớ vì nó quá uất ức, quá nhẫn tâm và nhất là quá sức chịu đựng của con người.

Hòa giải, nếu có thì ai có bổn phận phải là người cúi đầu nhận lỗi ? Bởi chỉ có thật tâm nhận lỗi thì hòa giải mới có ý nghĩa và lúc ấy dân tộc mới có thể ngã mình nghỉ ngơi sau bao nhiêu năm chia lìa, gãy khúc.

Cảm giác đầu tiên của người thắng cuộc khi nhắc tới hòa giải là tâm lý luôn nghĩ người miền Nam lúc nào cũng đau đáu nỗi dằn xé của câu chuyện từ 45 năm trước kéo dài đến tận bây giờ. Kẻ thua trận là những người lên án, phủ nhận mọi chính sách hòa giải của chính phủ. Họ không chấp nhận ngồi vào chiếc bàn tròn dân tộc, họ nhìn thành tựu của người thắng trận là thành quả của bóc lột, cưỡng chế và đánh tráo từ ngữ lẫn khái niệm từ đó bên thắng trận đòi hỏi bên thua phải mở lòng ra cùng nhau xây dựng và phát triển đất nước. Họ kêu gọi không nên mang nặng hiềm khích, thành kiến và nhìn nhận thành tựu của đất nước như một kết quả không thể phủ nhận.

Lập luận đó vừa ngụy biện vừa trốn chạy sự thật. Nạn nhân lúc nào lại chẳng kêu đau và oán thán kẻ làm cho họ tan nhà nát cửa ? Bên thất trận rõ ràng là nạn nhân và không có một từ ngữ nào có thể thay thế nhằm diễn tả căn cước của họ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Vì là nạn nhân họ không thể chạy tới trước kẻ thắng trận tuyên bố chúng tôi bỏ qua không thù hận các anh nữa, chúng tôi xem các anh là đồng bào ruột thịt mặc dù chính các anh trù dập gia đình chúng tôi. Chúng tôi tình nguyện cùng các anh chung tay bảo vệ và phát triển đất nước và sẽ tuân theo mọi chỉ thị, chính sách mà các anh đề ra.

Những lập luận như thế chỉ có bọn dư luận viên, Việt kiều giả danh yêu nước, hay những kẻ túng quẩn phải chạy vào cơ sở nhà nước xin việc…liệu những kẻ như vậy có xứng đáng nói chuyện hòa giải hay không ?

Yêu cầu nạn nhân mở lời hòa giải là một yêu cầu ngây ngô và bất lương chính trị, nó không khác gì người bị đánh phải xin lỗi kẻ đánh mình để sau đó nghe vài lời "không có chi" của kẻ thủ ác.

Hòa giải không phải không làm được, nhưng ít ra phải phân định ai là người phải hành động một cách thiết thực trong tinh thần nhận lỗi và sửa sai.

Chính quyền đã sai từ những ngày đầu tiên sau khi chiếm được Sài Gòn. Thay vì ổn định lòng dân để lo phát triển đất nước, bên thắng trận đã nói dối với thành phần sĩ quan của quân đội thua trận, bắt hàng trăm ngàn người giam cầm liên tục trong gần hai thập niên, gây căm phẫn khắp nơi từ vĩ tuyến 17 trở vào tận mũi Cà Mau. Xác tù cải tạo chết vì bệnh tật, đói khát, hay bị tra tấn, trốn trại... không trại giam nào không có. Cho tới 45 năm sau, những xác chết vô thừa nhận ấy vẫn co quắp nằm trong vòng kẽm gai hoặc vùi lấp đâu đó không ai hay biết.

Sai lầm thứ hai là đánh tư sản mại bản gây ra sự hoảng loạn cùng cực cho nhân dân. Hàng trăm ngàn người bị đuổi ra khỏi nhà mình với hai bàn tay trắng, tha phương cầu thực không biết trôi nổi về đâu giữa lúc Sài Gòn hò reo chiến thắng. Những con người tội nghiệp ấy có kẻ phát điên phát khùng, có kẻ thân tàn ma dại, có kẻ ra nước ngoài với hai bàn tay trắng…

Sai lầm nối tiếp sai lầm khi chính sách kinh tế mới tiếp tay tạo nên nỗi sợ hãi khủng khiếp khiến hàng triệu người bỏ quê hương tìm đường vượt biên chấp nhận thà chết hơn là sống dưới một chế độ chỉ có chính sách hủy diệt. Họ ra đi và hàng trăm ngàn người chết không toàn thây trên biển Đông. Xác của họ trôi dạt trên nhiều hòn đảo và mỗi nơi chỉ có vài cây thánh giá, một ít bia mộ làm bằng…45 năm sau họ vẫn còn tha hương và chưa bao giờ được yên giấc ngàn thu như một con người.

Ba yếu tố làm cho bộ mặt miển Nam bi thảm ấy phải được san lấp mặc dù khó khăn và đầy trắc trở cũng phải làm cho bằng được nếu thật lòng muốn hòa giải.

Trước nhất đừng mở miệng nói thêm những mỹ từ nào nữa hãy âm thầm thành lập một Ủy ban Hòa giải Quốc gia có khả năng và quyền lực thật sự. "Khả năng" dựa trên tính chính danh từ Thủ tướng Chính phủ hay Chủ tịch nước cho phép và cử người điều hành. "Quyền lực" dựa trên sự ủy nhiệm của cấp cao nhất và sự ủy nhiệm này có mục đích phá bỏ mọi ngăn trở từ những nhóm quyền lực ăn theo quá khứ.

Hãy có kế hoạch gom nhặt hài cốt của người quá cố tại các trại cải tạo song song với việc ngoại giao với các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines cảm ơn và xin phép họ cho cải táng hài cốt của những thuyền nhân Việt Nam đang nằm trên đất nước của họ. Thành lập một nghĩa trang chung cho những cải tạo nhân và thuyền nhân bất hạnh. Không cần phải hoành tráng to đẹp nhưng cần nhất tấm lòng trân trọng yêu thương họ như đồng bào ruột thịt.

Đối với người sống, thương phế binh VNCH là lớp người cần hòa giải nhất. Sau chiến tranh họ trở thành kẻ sống thừa và nấp vào tình thương của xã hội mà sống. Hãy chấp nhận họ như một thành viên trong ngôi nhà Việt Nam đau khổ vì chiến tranh. Hãy công nhận tư cách thương phế binh của họ như thương binh miền Bắc và cung cấp cho họ đủ sống. Nếu không làm như thế khi nhìn thấy những thân thể tàn phế lang thang kiếm ăn trên đường phố thì mọi nổ lực dành cho người chết sẽ không còn bao nhiêu ý nghĩa.

Đối với tài sản của người bị đánh tư sản mại bản hãy trả lại nếu họ có đơn đòi. Phải chấp nhận sự thật rằng đây là tài sản hợp pháp mà họ hay con cháu họ có quyền thừa hưởng. Mọi áp lực từ người thừa hưởng hiện tại cần phải được giải quyết thỏa đáng, đừng phạm sai lầm một lần nữa khi thẳng tay đuổi họ ra khỏi nơi cư trú vì chính sách hòa giải. Có thể phải xây chung cư cho họ tái định cư nhưng không cần phải nhà to cửa rộng để mua lấy sự im lặng của những người này.

Việc làm của chính phủ không cần khoa trương và nhất là đừng kêu gọi sự tiếp tay tài chánh của người Việt hải ngoại. Trong thời đại Internet hôm nay người Việt trên toàn thế giới nhìn vào và họ tự biết phải làm gì trước sự thành tâm hòa giải của chính quyền trong nước. Hãy để họ tình nguyện ca ngợi thành quả của Ủy ban Hòa Giải Quốc gia, khi ấy ai là người được lợi trong chính sách này chắc không phải là điều khó hiểu.

Cánh Cò

Nguồn : RFA, 05/05/2020 (canhco's blog)

*******************

Khi kẻ cầm súng nói chuyện hòa giải

Cánh Cò, RFA, 04/05/2020

Như lệ thường cứ đến ngày 30 tháng 4 là người ta lại nhắc lại việc hòa hợp hòa giải dân tộc. Bên cạnh những kỷ niệm đau đớn về ngày được mệnh danh là "giải phóng", người dân miền Nam và hải ngoại mỗi lần nghe nhắc tới cụm từ "hòa giải hòa hợp" thì chừng như càng xót xa hơn, bởi trong thâm tâm họ, những nạn nhân trước, trong và sau cuộc chiến hai chữ hòa giải chỉ nói lên được một ngữ cảnh : tuyên truyền cho chế độ.

hoagiai2

Nguyễn Chí Vịnh trịch thượng và kiêu căng, thói kiêu căng của kẻ chiến thắng

Năm nay báo chí vẫn gọi là ngày kỷ niệm 45 năm ngày giải phóng và thống nhất đất nước trong khi người ta biết chắc rằng hai chữ "giải phóng" chỉ là cưỡng từ đoạt lý. Có hai bài thuyết giảng về ngày này được báo chí chăm chút, bài thứ nhất của ông Nguyễn Thiện Nhân, bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, và bài thứ hai của ông Thứ trưởng Bộ quốc phòng Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Bài của ông Nguyễn Thiện Nhân hình như đọc cho những người ngồi trong phòng họp nghe và sau đó được phân phối cho hệ thống Đảng để học tập và theo dõi, người dân không ai đá động tới, nó vô bổ và rổn rảng tiếng búa liềm.

Bài của ông Nguyễn Chí Vịnh thì khác, ông trả lời báo chí những câu hỏi có vẻ đi xa hơn vòng vây của guồng máy và cũng có thể đây là ý kiến của ông khi gợi ý cho báo chí những điều ông muốn nói. Người dân chú ý ông đá động tới vấn đề hòa giải hòa hợp, nhưng càng đọc người ta càng thấy ông trịch thượng và kiêu căng, thói kiêu căng của kẻ chiến thắng.

Trả lời câu hỏi : "Nói đến ngày chiến thắng 30/4, chúng ta thường nói về hòa hợp, hòa giải dân tộc. Thượng tướng có nhận xét gì về tiến trình này ?" ông Vịnh cho rằng : "Khi nói về chiến thắng 30/4, đúng là một nửa thì vui, một nửa thì không vui. Tuy nhiên, tôi đồng ý rằng, chiến thắng này đem lại lợi ích cho cả người thắng lẫn kẻ thua và thời gian đã chứng minh điều ấy".

Lời ích cho kẻ thắng thì ai cũng biết. Cứ nhìn vào nơi ăn chốn ở, tài sản chìm nổi của kẻ chiến thắng thì "lợi ích" của họ không đếm xuể. Nhưng nếu nói đến lợi ích của kẻ thua thì e rằng ông Vịnh chỉ nói lấy được. Lợi ích của họ là nhiều năm trong tù cải tạo, tài sản bị tịch thu khi Đỗ Mười chủ trương đánh tư sản mại bản. Hàng triệu người bỏ mạng trên biển đông hay trong những cánh rừng của đất nước Campuchia khi vượt biên sang Thái. Hàng trăm ngàn gia đình bị lùa đi kinh tế mới và sống đời sống rất "lợi ích" nhưng không ai mong muốn và lợi ích cuối cùng của những kẻ thất trận là niềm uất ức theo đuổi họ khôn nguôi trong suốt 45 năm nay.

Ông Vịnh nói đúng "Trong những năm đầu sau 1975, hận thù rất lớn, nhất là từ những người từng làm việc ở chế độ cũ. Tâm tư về sự thua cuộc của họ rất nặng nề" nhưng ông Vịnh lại sai trầm trọng khi cho rằng : "Điều đó khiến chúng ta trải qua giai đoạn rất khó khăn về hòa giải dân tộc. Chúng ta vừa phải giúp người dân nhận thức vấn đề thật đúng đắn, đồng thời khẳng định có kẻ thắng, người thua, không thể "hòa cả làng. Từ đó, các chính sách của Đảng và Nhà nước giúp những người trong chế độ cũ cảm thấy không bị kì thị, miễn là họ yêu nước. Chúng ta cũng không quay lại bới móc chuyện họ đã làm cho những kẻ xâm lược".

Đúng là Đảng cộng sản trong suốt 45 năm nay chưa bao giờ ngừng lên tiếng về chiến thắng trong ngày 30 tháng 4. Đảng đã khẳng định chỉ có Đảng mới có thể lèo lái con thuyền dân tộc tới chiến thắng ngoạn mực này và vì vậy kẻ thua phải chịu trừng phạt và dĩ nhiên không thể "hòa cả làng" như ông Vịnh xác định.

Tuy nhiên khi ông Vịnh cho rằng "các chính sách của Đảng và Nhà nước giúp những người trong chế độ cũ cảm thấy không bị kì thị" thì ông tỏ ra không khéo léo khi nói dối. Nói dối trắng trợn và không chớp mắt.

Chưa ngừng lại ở đó, ông Nguyễn Chí Vịnh tuy không phải là một yếu nhân của chính phủ nhưng lại phát ngôn khiến mọi chính sách của nhà nước về vấn đề hòa giải hòa hợp trở nên hài hước khi ông nói rằng "quan trọng nhất hiện nay là vị thế quốc gia và sự phát triển đất nước. Rõ ràng, không thể có chuyện kẻ thua mà xây dựng đất nước Việt Nam như ngày hôm nay được".

Trong câu nói trên ông chia thành hai đối trọng. Đối trọng thứ nhất là kẻ thắng, kẻ tự hào rằng đất nước được như ngày nay đều hoàn toàn trông cậy vào họ. Đối trọng thứ hai là kẻ thua, kẻ thua thì không có chuyện xây dựng đất nước như hôm nay được.

Ông quên rằng trước khi thua cuộc những kẻ bại trận từng có một vị thế quốc gia khiến nhiều nước phải nể phục. Họ từng có Sài Gòn hòn ngọc viễn đông, họ từng có Quốc hội lưỡng viện cùng một nền báo chí độc lập không bị chính phủ cưỡng đoạt. Họ từng có một hệ thống giáo dục mà ngày nay khi nhắc lại không ai có thể phê phán như hệ thống giáo dục hôm nay. Họ từng có tiếng vang trên những diễn đàn chính trị quốc tế cũng như họ từng có hàng trăm ngàn trí thức thật sự vì nước vì dân.

Ông Thượng tướng vốn không biết tới chế độ Việt Nam Cộng Hòa có lẽ lúc ấy ông còn quá trẻ để biết sự thực và vì vậy ông tiếp tục lừa bịp chính mình khi khẳng định rằng "Chiến tranh phải có kẻ thắng, người thua. Có điều là thắng rồi nhưng không trả thù mà khoan dung, tạo điều kiện cho anh quay lại cuộc sống bình thường. Đó là tấm lòng nhân ái của đất nước Việt Nam".

Vâng nhờ "khoan dung" mà hàng trăm ngàn sĩ quan chế độ cũ trôi nổi khắp thế giới với cái mác "ngụy" trên vai áo. Cái mác ấy khiến cho bao thế hệ sau đó lâm vào cảnh dở khóc dở cười vì nhờ chính quyền khoan dung và tạo điều kiện cho họ đi bán chợ trời thay vì vào ghế đại học.

Bởi vì ông là người cầm súng trong văn phòng máy lạnh và vì vậy khó ai tin rằng ông thực sự bỏ cây súng sang một bên để cầm lên cây viết, phác thảo những câu chữ về hòa giải đối với đối phương vốn từng là đối thủ của bề trên của ông. Ông chưa đủ tư cách phát ngôn một vấn đề lớn như thế của quốc gia dân tộc. Ông chí có tư cách trong vai trò Thứ trưởng Quốc phòng đó là bảo vệ đất nước trước mọi kẻ thù mà kẻ thù trước mắt đáng lo nhất là Trung Quốc.

Trước kẻ thù này ông có dám hào nhoáng trong câu chữ, khệnh khạng trong ý tưởng hay nhỏ nhẹ, tránh né đáng hỗ thẹn như ông đã từng nói nhiều lần trước đây ?

Cánh Cò

Nguồn : RFA, 04/05/2020 (canhco's blog)

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Cánh Cò
Read 540 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)