Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

11/12/2019

Fareed Zakaria và ‘Nỗi sợ hãi Trung Quốc mới'

Phạm Phú Khải

Sự tri dy ca Trung Quc là mt thách thc ln, và có th nói ln nht, đi vi Hoa Kỳ nói riêng, và trt t thế gii hin nay nói chung, trong na đu thế k này. Nhưng Hoa Kỳ có nên quá lo lng đ ri đ ra các chiến lược đi phó với Trung Quc thiếu hiu qu và vin kiến, hoc phn tác dng, hoc nguy him cho an ninh và hòa bình ca nhân loi, là ni dung bài viết mi nht ca hc gi Fareed Zakaria trên tp chí Foreign Affairs (1). Zakaria hin nay cũng là người điu hp chương trình Global Public Square (GPS) trên CNN.

scare1

Zakaria công nhn Trung Quc là nước đáng quan ngi trước nhng bng chng quá rõ ràng, đc bit trong 5 năm qua

Với ta đ "Ni s hãi Trung Quc mi" (The New China Scare) đăng vào hôm qua 6 tháng 12, các lập lun ca Zakaria mang đc tính ca người c võ và tin tưởng vào ch nghĩa quc tế cp tiến (liberal internationalism, mặc du Zakaria ph nhn là ông đứng hn v mt xu hướng chính tr nào) : lc quan, thc tế, và ôn hòa. Dù đng ý hay không vi Zakaria, nhng bài viết, phát biu, tranh lun, điu hp chương trình, và sách báo nghiên cu ca ông trong ba thp niên qua đáng đ cho chúng ta tìm hiu và suy ngẫm.

Bài viết này khá dài, nhưng tôi xin trình bày ba lun đim chính ca Zakaria đ tóm tc vào các ý tưởng đáng chú ý nht : Mi lo ngi ; cách (nên) đánh giá ; cách đi phó.

Về mi lo ngi đi vi Trung Quc

Trước hết Zakaria công nhn Trung Quc là nước đáng quan ngi trước nhng bng chng quá rõ ràng, đc bit trong 5 năm qua, qua các chính sách phi cp tiến (illiberal policies) : t vic cm t do ngôn lun đến qun thúc thiu s sc tc tôn giáo ; t vic gia tăng kiểm soát chính tr đến thc hin nhà nước kinh tế (economic statism) ; ngoài nước, Trung Quc tr thành đi th cnh tranh, và có nhng nơi, là đch th ca Hoa Kỳ. Chính vì thế mà lưỡng đng, gii thành trì quân s, các cơ quan truyn thông chính yếu ti Hoa Kỳ, hu như đng thun vi nhau rng Trung Quc hin nay là mi đe da sng còn (vital threat) đi vi Hoa Kỳ v kinh tế và chiến lược, và Washington cn có mt chiến lược cương trc hơn đ ngăn chn Trung Quc. Ngay c người dân Hoa Kỳ, chiếm tỷ l 60 phn trăm, cũng có quan đim không thun đi vi Cng hòa Nhân dân Trung Quc.

Nhưng Zakaria đt vn đ là liu các d kin/s tht nói trên có làm cho Trung Quc tr nên mi đe da sng còn, và nếu là như thế thì mi đe da này nên được x lý ra sao ? Lý do là vì nếu không đánh giá đúng mi đe da thì h qu ca nó rt là tai hi, như đã tng thy trong thi Chiến tranh Lnh vi Liên Xô đưa đến s lm dng tai hi bi Thượng nghị sĩ McCarthy ; đưa đến cuc chy đua vũ khí ht nhân v.v… Zakaria cho rng chiến tranh lạnh vi Trung Quc có th kéo dài hơn, tn kém hơn, có kh năng to ra kết qu bt đnh. Hơn na, chiến tranh, t chiến tranh Korea, đến Vit Nam, đến Afghanistan và Iraq, khi đã vào cuc, thì s ng h ca dân chúng M ngày càng suy gim, đ ri sau đó hầu như mi người đu đi tìm chiến lược rút lui (exit strategy), mà Henry Kissinger tng nhn xét.

Cho nên để tránh con đường mòn này, Hoa Kỳ cn dành thi gian đ phân tích k càng nhng gi đnh đng sau s đng thun mi v Trung Quc. Zakaria lit kê ba giả đnh rng : mt, chính sách tiếp cn/kết ni (engagement) đã tht bi vì nó không "chuyn hóa s phát trin bên trong và cách hành x bên ngoài ca Trung Quc" ; hai, chính sách ngoi giao ca Trung Quc là mi đe da ln nht đi vi quyn li ca Hoa Kỳ nói riêng và trật t quc tế cp tiến nói chung mà Hoa Kỳ đã góp phn xây dng sau năm 1945 ; ba, mt chính sách tích cc đi đu vi Trung Quc s phn công li mi đe da này tt hơn là phương cách đã áp dng trước đây. Zakaria phê bình c ba gi định này.

Về cách đánh giá mi lo ngi này

Sự đng thun lưỡng đng ti Hoa Kỳ được hình thành đi vi nhng thay đi đáng k và nhng quan ngi v Trung Quc. Tuy Zakaria đng ý rng Trung Quc ngày càng tham vng và qu quyết hơn, và biết kết hp s đàn áp chính trị vi chính sách tuyên truyn mang đc tính dân tc ch nghĩa thi Mao, nhưng đ có mt phn hi hiu qu đòi hi s nhn thc rõ ràng v các chiến lược ca Hoa Kỳ t đó đến nay.

Zakaria cho rằng gn 5 thp niên qua, chiến lược ca Hoa Kỳ t thời của Richard Nixon đến nay không ch thun tiếp cn (engagement) mà còn mang tính ngăn cn (deterrence). Các nhà làm chính sách Hoa Kỳ vào cui thp niên 1970 kết lun rng kết np Trung Quc vào h thng chính tr và kinh tế quc tế có li hơn thay vì để nó nằm ngoài, như thế làm cho nó bc bi và quy phá. Cho nên Washington va ng h Trung Quc gia nhp vào cng đng quc tế, đng thi tiếp tc ng h các quyn lc khác ti Á châu, k c vic bán vũ khí cho Đài Loan. Ch trương/phương thc này còn được gọi là chiến lược phòng nga ri ro (hedging strategy, đ bo v ngược li các thit thòi bng các bin pháp cân bng).

Zakaria biện lun Washington làm như thế vì mun quyn lc ca Trung Quc được kim soát và các quc gia láng ging cm thy an toàn. Zakaria cho rằng chiến lược/ch trương này tiếp tc được các tng thng kế nhim ca c hai bên duy trì. Zakaria bin lun nếu nói chiến lược này tht bi thì là thiếu cái nhìn lch s. Zakaria đưa ra bao nhiêu bng chng khác nhau t trước khi Hoa Kỳ tiếp cận vi Trung Quc, mà Trung Quc dưới thi Mao Trch Đông là mt chế đ thi nát nht, cho đến nay thì nó đã là mt quc gia có trách nhim hơn nhiu. Chng hn, t năm 2000 đến 2018, Trung Quc đã ng h182 trên 190 nghị quyết của Hi đng Bo an Liên Hip Quc áp đt các bin pháp trng pht đi vi các quc gia được coi là đã vi phm các quy tc hoc chun mc quc tế.

Về lĩnh vc kinh tế thôi, thì cách hành x ca Trung Quc như chuyn giao công nghệ mang tính bt buc, thc hành thương mi không công bng, tiếp cn hn chế cho các công ty nước ngoài, thiên v quy đnh cho người dân đa phương, thì theo Zakaria, cũng bng Nht Bn vào thp niên 1980 và 1990. Nhưng khi s tăng trưởng ti Nht giảm dn, nhng ni s hãi quá thái này cũng gim xung.

Tất nhiên, cách mà Tp Cn Bình quyết tâm s dng vai trò ca nhà nước đ chiếm v thế áp đo v kinh tế trong các đa ht quan yếu s đưa đến nhng thách thc mi. Nhưng theo Zakaria thì ưu thế ln nhất ca Trung Quc không đến t s sn sàng vi phm các quy tc mà t chính tm vóc ca nó. Tht ra thì nhng quc gia có nh hưởng nào mà không làm thế. Ngay c Hoa Kỳ là quc gia đng đu danh sách s dng các rào cn không da vào thuế quan (nontariff barriers) trong thương mi vi các nước khác, ri đến n Đ, Nga, và Trung Quc đng th 5. Đng Tiu Bình ch trương "du sc mnh, ch thi gian", nhưng lúc đó Trung Quc ch chiếm 1 phn trăm tng sn lượng toàn cu. Bây gi chiếm 15 phn trăm. Trong vòng 10 đến 15 năm, nó s có th tr thành nn kinh tế ln nht v mi mt. Khi càng ln mnh nó càng mun thêm quyn lc, kim soát và nh hưởng, mun đóng vai trò ln hơn trong vòng và toàn cu. Cho nên Zakaria cho rng vic Trung Quc trước sau gì cũng tìm kiếm mt bin pháp nh hưởng đc lp ln hơn là kết qu t nhiên. Cho nên Hoa Kỳ, Châu Âu và các nước khác cn ghi nhn như thế.

Zakaria biện lun nếu Washington đnh nghĩa mi n lc ca Trung Quc là nguy him, nó s thiết kế đ Hoa Kỳ chng li sng động t nhiên trong quan h quc tế, điu mà hc gi Graham Allison gi là by Thucydides (the Thucydides trap). Đi phó vi mt quyn lc đang tri dy có kh năng đe da tư thế ca mình k t năm 1945 là mt thách thc mi và đc nht k t năm 1945 cho đến nay.

Tóm lại, Zakaria kết lun rng Trung Quc đã hành đng theo nhng cách được xem là can thip (interventionist), theo ch nghĩa trng thương và đơn phương (mercantilist and unilateral), nhưng thường ít hơn rt nhiu so vi các cường quc khác. Tuy sự xâm phm nhân quyn ca Trung Quc là mt thách thc ln đi vi nhân loi, và có th đe da các khía cnh ca trt t quc tế cp tiến, nhưng theo Zakaria, ch ni điu này thôi thì không nên xem là mi đe da sng còn đi vi h thng quc tế rng mở da trên quy tc.

Về chiến lược đi phó vi mi lo ngi này

Zakaria phê bình các chiến lược đi phó vi Trung Quc, nht là chiến lược ngăn chn (containment), tách ri (decoupling), xu hướng chng li toàn cu hóa, và cho rng nó s đưa đến nhiu thit hại và phí tn đáng k, k c các chính sách ca chính quyn Trump trong thi gian qua (tuy Zakaria có đánh giá rng ch trương tách ri đ to thế tương thuc/interdependence là thông minh vì nó giúp Hoa Kỳ có ưu thế so vi Trung Quc).

Zakaria biện lun rằng "Mt trt t quc tế b b gy, chia đôi, được đánh du bi các hn chế ca chính ph và thuế đi vi thương mi, công ngh và du lch, s dn đến s thnh vượng gim sút, s bt n dai dng và trin vng xung đt quân s thc s đi vi tt c nhng người liên quan".

Thay vì chọn các gii pháp trên, Zakaria cho rng mt chính sách thông thái hơn là biến Trung Quc thành đi tác có trách nhim (responsible stakeholder), vì vn còn có th thc hin được (2). Zakaria lit kê mt lot hành đng mà Washington nên làm để Bc Kinh hành x có trách nhim hơn, như khuyến khích tm nh hưởng ca Bc Kinh mnh m hơn trong vùng và xa hơn nếu nó được s dng đ cng c h thng quc tế. N lc tham gia ca Trung Quc đ gii quyết nn hâm nóng toàn cu, lan rng vũ khí hạt nhân, ra tin và khng b thì nên được khuyến khích và trân trng. Điu quan trng nht là Washington cn cho Bc Kinh biết lp trường rõ ràng ca mình v nhng ln ranh mà Bc Kinh không th vượt qua. Chng hn, Washington nên cho biết rõ ràng rng các chiến thng ca Bc Kinh bng quân s lên Đài Loan và Hng Kông s gp s lên án ca quc tế. Nếu Bc Kinh hành đng nguy him không cân nhc ti Hng Kông hoc Đài Loan, thì chính sách hp tác ca Hoa Kỳ s không th thc hin được trong nhiu năm. Zakaria biện lun Bc Kinh đã hưởng li nhiu, đã phát thnh trong thế gii mn đnh. H không mun tàn phá thế gii này.

Zakaria kết lun bài viết bng cách phê bình tác phm ca "100 năm chy đua" ca Michael Pillsbury mà chính quyn Trump đã khen ngợi. Zakaria phn bin nếu cho rng đây là cuc chy đua đường trường, t đng minh ca Liên Xô đến s rn nt sau đó, t Bước Nhy vt Vĩ đi đến Cách mng Văn hóa đến câu chuyn thành công trên con đường tư bn, t s thù nghch sâu đm vi Tây phương cho đến quan h thân thiết vi Hoa Kỳ, ri tr li thái đ thù nghch v.v… thì nhiu trong s đó có th kết thúc hoàn toàn (tc không th gi là đua đường trường). Theo Zakaria thì Hoa Kỳ nên tiếp tc chính sách tiếp cn cng vi ngăn cn, bt Trung Quc phải điều chnh trong khi Hoa Kỳ cũng t điu chnh mình đ to không gian cho nó, thì chiến lược chy đua này s đt kết qu.

Vài suy nghĩ ngắn

Bài viết trên ca Zakaria có nhiu lun đim khá thuyết phc, và chc chn s làm cho chúng ta suy nghĩ, và s gây lắm tranh cãi. To được s quan tâm và tranh lun đã là mt phn thành công ca tác gi.

Nhưng đ đánh giá Trung Quc cho chính xác hơn thì cn phi phân tích vai trò ca Đng cộng sản Trung Quc. Tuy nhiên, Zakaria không phân tích nó trong bài này, và khi nhắc đến trong bài v phát biu cNgoại trưởng Mike Pompeo tại vin Hudson (mà Michael Pillsbury làm giám đc) thì ch yếu đ bác b cái nhìn này. Nhng nhà phân tích khác nJohn Garnaut, Michael PillsburyRichard McGregor, chẳng hn, đu hiu Tp Cn Bình là s sng và tâm hn ca Đảng cộng sản Trung Quốc hin nay, và Đng là tt c trong mi mt đi sng chính tr, kinh tế, xã hi, văn hóa v.v… ti Trung Quc. Các tác giả này đu nghin ngm sâu sc nhng tài liu mt ca Đng. 12 chiến lược bao vây Trung Quc của tiến sĩ Pillsbury trên bình din rng cũng không đi ngược li cách nhìn vn đ ca Zakaria (Nên nh ni dung ca tác phm quan trng hơn là ta đ ca tác phm).

Cho nên để đánh giá cho gn s tht hơn, nht là vi các chế đ cng sn, thì cn phi có thông tin tình báo, cn tiếp cn nhng bí mt mà nhng nghiên cứu hc thut vi cp mt bình thường không th nhìn thy tường tn vn đ và không thy bc tranh tng th. Đây cũng là mt thiếu sót ln ca bài này.

Phạm Phú Khải

Nguồn : VOA, 11/12/2019

********************

(1) Nỗi sợ hãi Trung Quốc mới - Tại sao Mỹ không nên hoảng sợ về kẻ thách thức mới nhất của mình

Fareed Zakaria [1], Foreign Affairs, 6/12/2019.

scare2

Khách tham quan trước bức ảnh của Tập Cận Bình tại Trung tâm Triển lãm Bắc Kinh, tháng 9/2019 - Ảnh Jason Lee / Reuters

Vào tháng 2/1947, Tổng thống Mỹ Harry Truman đã hội ý với các cố vấn chính sách đối ngoại cao cấp nhất của ông ta, George Marshall và Dean Acheson, và một ít các nhà lãnh đạo quốc hội. Chủ đề là kế hoạch của chính quyền hỗ trợ chính phủ Hy Lạp trong cuộc chiến chống lại một cuộc nổi dậy của cộng sản. Marshall và Acheson đã trình bày lý lẽ của họ đối với kế hoạch ấy. Arthur Vandenberg, chủ tịch Ủy ban đối ngoại thượng viện, lắng nghe một cách kỹ lưỡng và sau đó đã đưa ra sự ủng hộ của mình kèm một lời cảnh báo. 'Cách duy nhất ngài sẽ có được những gì ngài muốn', ông được kể là đã nói với tổng thống, 'là phát biểu và hù dọa cả nước'.

Trong vài tháng sau đó, Truman đã làm đúng điều ấy. Ông ta đã biến cuộc nội chiến ở Hy Lạp thành một phép thử về khả năng của Mỹ đối đầu với chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Khi ngẫm tới lời hùng biện mở rộng của Truman về việc trợ giúp các nền dân chủ ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, Acheson thú nhận trong hồi ký của mình rằng chính quyền đã đưa ra một lập luận 'còn rõ hơn cả sự thật'.

Một cái gì đó tương tự thế đang xảy ra ngày nay trong cuộc tranh luận của người Mỹ về Trung Quốc. Một sự đồng thuận mới, bao gồm cả hai đảng, nhóm nắm quyền quân sự và các thành tố chính của truyền thông, cho rằng Trung Quốc hiện là mối đe dọa sống còn đối với Mỹ cả về kinh tế lẫn chiến lược, rằng chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc đã thất bại, và Washington cần một chiến lược mới, cứng rắn hơn nhiều để ngăn chặn nó. Sự đồng thuận này đã làm dịch chuyển lập trường của công chúng về phía một sự thù địch gần như có tính bản năng : theo thăm dò ý kiến, 60% người Mỹ hiện có quan điểm bất lợi về nước Cộng hòa Nhân dân này, một mức cao kỷ lục kể từ khi Trung tâm nghiên cứu Pew bắt đầu đặt câu hỏi đó vào năm 2005. Nhưng giới tinh hoa Washington đã làm cho lý lẽ của họ 'còn rõ hơn cả sự thật'. Bản chất của thách thức từ Trung Quốc khác xa và phức tạp hơn nhiều so với những gì đám gieo rắc hoang mang mới miêu tả. Về vấn đề chính sách đối ngoại quan trọng nhất độc nhất vô nhị trong vài thập kỷ tới đây, nước Mỹ đang tự sắp đặt cho mình một thất bại đắt giá.

Hãy nói cho rõ : Trung Quốc là một chế độ đàn áp sử dụng các chính sách hoàn toàn hẹp hòi, từ việc cấm tự do ngôn luận đến giam giữ các nhóm thiểu số tôn giáo. Trong năm năm qua, nó đã tăng cường kiểm soát chính trị và tập trung quyền lực kinh tế trong nước. Ở nước ngoài, nó đã trở thành người cạnh tranh và ở một số nơi thì là đối thủ của Mỹ. Nhưng câu hỏi chiến lược cốt yếu cho người Mỹ ngày nay là liệu những thực tế này có khiến Trung Quốc trở thành một mối đe dọa sống còn [với Mỹ] hay không, và tới mức mà các thực tế ấy như thế, mối đe dọa đó nên được giải quyết như thế nào ?

Các hậu quả của việc phóng đại mối đe dọa của Liên Xô đã là rất lớn : những lạm dụng thô bạo trong nước trong thời kỳ McCarthy ; một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân nguy hiểm ; một cuộc chiến dài, vô ích và không thành công ở Việt Nam ; và vô số các can thiệp quân sự khác ở nhiều quốc gia được gọi là Thế giới thứ ba. Các hậu quả của việc không nắm được cái thách thức Trung Quốc ngay hôm nay sẽ còn lớn hơn. Mỹ có nguy cơ phung phí những lợi ích đã giành được một cách khó nhọc từ bốn thập kỷ can dự với Trung Quốc, khuyến khích Bắc Kinh áp dụng các chính sách đối đầu của riêng nó, và đưa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới vào một cuộc xung đột nguy hiểm với quy mô và phạm vi không biết được mà nó sẽ gây ra nhiều thập kỷ bất ổn và không an toàn. Một cuộc chiến tranh lạnh với Trung Quốc có thể sẽ kéo dài và tốn kém hơn nhiều so với chiến tranh lạnh đối với Liên Xô, với một kết cục không chắc chắn.

Cam kết đứt quãng

Henry Kissinger đã lưu ý rằng Mỹ đã tham gia vào tất cả các can dự quân sự lớn của mình kể từ năm 1945 - tại Hàn Quốc, Việt Nam, Afghanistan và Iraq - với sự nhiệt tình và hỗ trợ lưỡng đảng to lớn. 'Và sau đó, khi chiến tranh phát triển', Kissinger nói, 'sự hỗ trợ trong nước cho nó bắt đầu tan rã'. Một cách mau chóng, mọi người đều đã tìm kiếm một chiến lược [để] thoát ra.

Để tránh đi lại cái con đường đó, Mỹ nên dành thời gian để xem xét kỹ các giả định đằng sau sự đồng thuận mới [về] Trung Quốc. Theo nghĩa rộng, chúng là như sau. Thứ nhất, sự tham dự đã thất bại vì nó đã không 'làm chuyển đổi được sự phát triển bên trong và hành vi bên ngoài của Trung Quốc', như các cựu quan chức Mỹ Kurt Campbell và Ely Ratner đã viết trong tạp chí này vào năm 2018. Thứ hai, chính sách đối ngoại của Bắc Kinh hiện là mối đe dọa đáng kể nhất đối với lợi ích của Mỹ, và bằng cách bành trướng, là mối đe dọa quan trọng nhất tới trật tự quốc tế dựa trên quy tắc mà Mỹ tạo ra sau năm 1945. Ngoại trưởng Mỹ, Mike Pompeo, đã đi còn xa hơn, khi nói trong một bài phát biểu năm 2019 tại Viện Hudson rằng 'Đảng Cộng sản Trung Quốc là một đảng Marx-Lenin tập trung vào đấu tranh và thống trị quốc tế'. Và thứ ba, một chính sách đối đầu chủ động với Trung Quốc sẽ chống lại mối đe dọa đó tốt hơn là một sự tiếp tục cách tiếp cận trước đó.

Sự đồng thuận lưỡng đảng này đã hình thành để đáp lại những thay đổi đáng kể và đáng lo ngại theo nhiều cách ở Trung Quốc. Kể từ khi chủ tịch Tập Cận Bình trở thành người cầm quyền tối cao của đất nước, tự do hóa kinh tế của Trung Quốc đã chậm lại và cải cách chính trị của nó - trong mọi trường hợp đều hạn chế - đã bị đảo ngược. Bắc Kinh giờ đây kết hợp sự đàn áp chính trị với tuyên truyền dân tộc chủ nghĩa tương tự như trong thời đại của Mao. Ở nước ngoài, Trung Quốc đầy tham vọng và quyết đoán. Những thay đổi này là có thật và đáng lo ngại. Nhưng chúng nên làm thay đổi chính sách của Mỹ như thế nào ?

Thành hình nên một phản ứng hiệu quả thì đòi hỏi phải bắt đầu với một sự hiểu biết rõ ràng về chiến lược [về] Trung Quốc của Mỹ cho tới thời điểm này. Điều mà sự đồng thuận mới đang bỏ lỡ là trong gần 5 thập kỷ kể từ việc mở cánh cửa vào Bắc Kinh của tổng thống Mỹ Richard Nixon, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc chưa bao giờ đơn thuần là cam kết tham dự cả ; nó đã là sự kết hợp của tham dự và răn đe. Vào cuối những năm 1970, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ đã kết luận rằng việc tích hợp Trung Quốc vào hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu tốt hơn là để nó ngồi ngoài, bực bội và quậy phá. Nhưng Washington đã kết hợp nỗ lực đó với sự hỗ trợ nhất quán cho các quốc gia quyền lực Châu Á khác - bao gồm, tất nhiên, tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan. Cách tiếp cận đó, đôi khi được mô tả như là một 'chiến lược phòng ngừa rủi ro', đảm bảo rằng khi Trung Quốc trỗi dậy, sức mạnh của nó đã được kiểm tra và các nước láng giềng của nó cảm thấy an toàn.

Trong những năm 1990, không còn kẻ thù Liên Xô nào để mà ngăn chặn nữa, Lầu Năm Góc đã cắt giảm chi tiêu, đóng cửa các căn cứ và giảm số quân trên khắp thế giới - ngoại trừ ở Châu Á. Chiến lược Châu Á-Thái Bình Dương 1995 của Lầu Năm Góc, được gọi là Sáng kiến ​​Nye, đã cảnh báo về các tham vọng chính sách đối ngoại và xây dựng quân đội của Trung Quốc và tuyên bố rằng Mỹ sẽ không giảm sự hiện diện quân sự tại khu vực này. Thay vào đó, ít nhất 100 ngàn lính Mỹ sẽ ở lại Châu Á trong tương lai gần. Việc bán vũ khí cho Đài Loan sẽ tiếp tục vì lợi ích hòa bình ở eo biển Đài Loan - nghĩa là răn đe Bắc Kinh sử dụng vũ lực chống lại hòn đảo tự trị ấy mà chính phủ đại lục coi là một phần của Trung Quốc.

Cách tiếp cận phòng ngừa rủi ro này được duy trì bởi các tổng thống của cả hai đảng. Chính quyền George W. Bush đã lật ngược hàng thập kỷ chính sách lưỡng đảng và ôm lấy Ấn Độ như một cường quốc hạt nhân, phần lớn để thêm một kiểm tra khác về Trung Quốc. Dưới thời tổng thống Barack Obama, Mỹ đã tăng cường răn đe, mở rộng dấu chân ở Châu Á bằng các thỏa thuận quân sự mới với Úc và Nhật Bản, và nuôi dưỡng mối quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam. Đó cũng là mục đích của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, được thiết kế để cung cấp cho các nước Châu Á một nền tảng kinh tế cho phép họ chống lại sự thống trị của thị trường Trung Quốc. (Chính quyền Trump đã rút khỏi thỏa thuận đó vào đầu năm 2017). Cá nhân Obama đã đối đầu với ông Tập về vấn đề không gian mạng của Trung Quốc và áp thuế nhập khẩu lốp xe để trả đũa các chính sách thương mại không công bằng của Trung Quốc.

Nói rằng [chiến lược] bảo hiểm rủi ro đã thất bại thì toát lên tính thiếu quan điểm lịch sử. Đầu những năm 1970, trước khi Nixon mở cánh cửa vào Trung Quốc, Bắc Kinh đã là chế độ đểu cáng vĩ đại nhất thế giới. Mao Trạch Đông bị ám ảnh bởi ý tưởng rằng ông ta là người cầm lái một phong trào cách mạng sẽ hủy diệt thế giới tư bản phương Tây. Đã chẳng có biện pháp nào là quá cực đoan cho mục đích đó - kể cả sự hủy diệt hạt nhân cũng không loại trừ. 'Trong trường hợp xấu nhất và nếu một nửa nhân loại đã chết', Mao giải thích trong một bài phát biểu tại Moscow năm 1957, 'nửa còn lại sẽ còn lại trong khi chủ nghĩa đế quốc sẽ bị san phẳng tới tận mặt đất và cả thế giới sẽ trở thành xã hội chủ nghĩa'. Trung Quốc của Mao đã xúi bẩy và tài trợ cho các cuộc nổi dậy chống phương Tây, các phong trào du kích và các phong trào tư tưởng trên khắp thế giới, từ Mỹ Latinh đến Đông Nam Á. Theo một ước tính, Bắc Kinh đã chi từ 170 triệu đến 220 triệu USD từ năm 1964 đến 1985 chỉ riêng ở Châu Phi, đào tạo 20 ngàn chiến binh từ ít nhất 19 quốc gia.

Để so sánh, Trung Quốc ngày nay là một quốc gia có trách nhiệm đáng kể trên mặt trận địa chính trị và quân sự. Nó đã không tham chiến từ năm 1979. Nó đã không sử dụng lực lượng quân sự giết chóc ở nước ngoài kể từ năm 1988. Nó cũng đã không tài trợ hoặc hỗ trợ cho các lực lượng ủy nhiệm hay các cuộc nổi dậy vũ trang ở bất cứ đâu trên thế giới kể từ đầu những năm 1980. Kỷ lục không can thiệp đó là độc nhất vô nhị trong số các cường quốc trên thế giới. Tất cả các thành viên thường trực khác của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đều đã sử dụng vũ lực nhiều lần ở nhiều nơi trong vài thập kỷ qua - một danh sách, tất nhiên, do Mỹ dẫn đầu.

Trung Quốc cũng đã đi từ chỗ tìm cách làm suy yếu hệ thống quốc tế đến chi một khoản lớn để củng cố nó. Bắc Kinh hiện là nhà tài trợ lớn thứ hai của Liên Hiệp Quốc và chương trình gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Nó đã triển khai 2.500 nhân viên gìn giữ hòa bình, nhiều hơn tất cả các thành viên thường trực khác của Hội đồng bảo an cộng lại. Từ năm 2000 đến 2018, Trung Quốc đã ủng hộ 182 trong số 190 nghị quyết của Hội đồng bảo an áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia được coi là đã vi phạm các quy tắc hoặc chuẩn mực quốc tế. Hẵng cứ cho là như thế này, các nguyên tắc neo giữ chính sách đối ngoại của Bắc Kinh hiện nay - 'tôn trọng chủ quyền', 'toàn vẹn lãnh thổ', và 'không can thiệp' - được cổ vũ phần lớn bởi một mong muốn chống lại sự can thiệp của phương Tây. Tuy nhiên, chúng nhấn mạnh một sự chuyển dịch đáng chú ý từ một chương trình nghị sự cách mạng cấp tiến sang một mối quan tâm bảo thủ về sự ổn định. Ai đó đã dự đoán vào năm 1972 rằng Trung Quốc sẽ trở thành người bảo vệ nguyên trạng quốc tế, song ít ai đã tin được điều đó là có thể.

Địa vị thương mại

Sự đồng thuận mới về hành vi kinh tế của Trung Quốc thì cho rằng Trung Quốc đã buộc các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ của họ, đã trợ cấp cho 'các công ty thành công nhất của quốc gia' và đặt các rào cản chính thức và không chính thức trên con đường các công ty nước ngoài tìm cách thâm nhập thị trường Trung Quốc. Nói tóm lại, Bắc Kinh đã sử dụng nền kinh tế quốc tế mở để củng cố hệ thống trung ương tập quyền và chủ nghĩa trọng thương của riêng mình.

Đúng là những chính sách không công bằng này đòi hỏi phải chú ý và hành động từ phần còn lại của thế giới. Chính quyền Trump xứng đáng nhận được một sự tín nhiệm nhất định nào đó cho việc giải quyết vấn đề này - đặc biệt là trong bối cảnh Tập đã ôm lấy [kinh tế] trung ương tập quyền sau nhiều thập kỷ tự do hóa. Nhưng sự đảo ngược này lớn và lâu dài đến thế nào ? Các tập quán của Trung Quốc thì khác với các nước thị trường mới nổi khác hiện nay ra sao ? Và một lần nữa, phản ứng đúng của người Mỹ là gì ?

Hầu hết tất cả các nhà kinh tế đều đồng ý rằng Trung Quốc có được nhiều thành công kinh tế của mình nhờ ba yếu tố cơ bản : chuyển đổi từ kinh tế học cộng sản sang cách tiếp cận dựa trên thị trường hơn, một tỷ lệ tiết kiệm cao giúp đầu tư vốn lớn, và tăng năng suất. Trong ba thập kỷ qua, nước này cũng đã mở cửa đáng kể cho đầu tư nước ngoài - nhiều hơn so với nhiều thị trường mới nổi lớn khác - cho phép vốn đổ vào. Trung Quốc là một trong chỉ có hai nước đang phát triển được xếp hạng trong 25 thị trường hàng đầu đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài kể từ năm 1998. Trong nhóm BRICS gồm các thị trường mới nổi lớn (bao gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi), Trung Quốc luôn được xếp hạng là nền kinh tế mở và cạnh tranh nhất. Còn như tác động của các chính sách trọng thương của Trung Quốc đối với nền kinh tế Mỹ, cựu Bộ trưởng tài chính Mỹ, Lawrence Summers, đã lưu ý rằng 'không thể tranh luận một cách nghiêm túc rằng các thực tế thương mại không công bằng của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến tăng trưởng của Mỹ thậm chí là 0,1% mỗi năm'.

Điều đáng chú ý là trên mặt trận kinh tế, hầu hết mọi trách nhiệm đổ cho Trung Quốc ngày nay - chuyển giao công nghệ bắt buộc, thực hành thương mại không công bằng, việc tiếp cận hạn chế đối dành cho các công ty nước ngoài, thiên vị pháp lý cho các công ty địa phương - cũng đã được đổ cho Nhật Bản trong những năm 1980s và 1990s. Vào thời điểm đó, cuốn sách đầy ảnh hưởng 'Địa vị thương mại : Nước Mỹ đang nhượng tương lai của mình lại cho Nhật Bản như thế nào và Làm thế nào để giành lại nó' (Trading Places : How America Is Surrendering Its Future to Japan and How to Win It Back) của Clyde Prestowitz đã giải thích rằng Mỹ chưa bao giờ tưởng tượng ra được việc giao dịch với một quốc gia mà 'công nghiệp và thương mại [có lẽ được] tổ chức như một phần của một nỗ lực nhằm đạt được các mục tiêu quốc gia cụ thể'. Một cuốn sách được đọc rộng rãi khác của thời đại đó có tựa đề 'Cuộc chiến sắp tới với Nhật Bản'. Khi tăng trưởng của Nhật Bản giảm dần, những nỗi sợ hãi thái quá này cũng vậy.

Trung Quốc hôm nay đặt ra một số thách thức mới, đặc biệt là quyết tâm của Tập Cận Bình để nhà nước đóng vai trò hàng đầu trong việc giúp nước này giành được địa vị thống trị về kinh tế trong các lĩnh vực quan trọng. Nhưng trong lịch sử rộng lớn với nhiều điều ít được để ý, lợi thế lớn nhất của Trung Quốc trong hệ thống thương mại toàn cầu không đến từ việc họ sẵn sàng vi phạm các quy tắc mà chỉ từ quy mô/kích cỡ của nó. Các quốc gia và công ty muốn tiếp cận với Trung Quốc và sẵn sàng nhượng bộ để có được nó. Điều này hầu như không làm cho Trung Quốc trở nên bất thường. Các quốc gia khác có ảnh hưởng tương tự thường đi xa nữa với hành vi tương tự hoặc tệ hơn - không ai khác hơn là chính Mỹ cũng vậy. Một báo cáo năm 2015 của gã khổng lồ về dịch vụ tài chính, Credit Suisse, cung cấp một danh sách hữu ích về các rào cản chống lại hàng hóa nước ngoài đã được các nước lớn đưa ra từ năm 1990 đến 2013. Với tổng số gần 450 rào cản, Mỹ là một liên minh riêng mình. Tiếp theo là Ấn Độ, sau đó là Nga. Trung Quốc đứng ở vị trí thứ 5, với chỉ một phần ba các rào cản phi thuế quan được áp đặt so với Mỹ. Bức tranh đã không thay đổi mấy trong những năm kể từ đó.

Hầu hết các thay đổi gần đây trong chính sách kinh tế của Bắc Kinh đã là tiêu cực, nhưng thậm chí cái đó cũng vẫn chưa phải là toàn bộ câu chuyện. Trung Quốc đang thay đổi theo một số đường lối, đôi khi mâu thuẫn nhau. Ngay cả với việc quay trở lại sự kiểm soát nhà nước lớn hơn dưới thời Tập, thì một thị trường tự do hoang dã cũng đã phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực rộng lớn như hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ. Cũng đã có việc tự do hóa trong lập quy thực sự nào đó - thậm chí là cải cách hành chính và tư pháp, như nhà khoa học chính trị Yuen Yuen Ang [2] đã nêu chi tiết. Sự hỗ trợ của chính phủ cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước lớn hơn so với vài năm trước, nhưng Bắc Kinh đã từ bỏ cái một thời đã từng là một phần trung tâm của chiến lược trọng thương của mình : sử dụng một đồng tiền được [có chủ ý] định giá thấp để thúc đẩy tăng trưởng. Nhà kinh tế học Nicholas Lardy [3] đã tính toán rằng sự kết thúc của chủ nghĩa trọng thương tiền tệ chiếm 'khoảng một nửa sự chậm lại tăng trưởng của Trung Quốc kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu'.

Hoặc xem đó là cái gì, cái nói theo Peter Navarro, cố vấn thương mại hàng đầu của tổng thống Mỹ Donald Trump, vấn đề số một trong tranh chấp thương mại của Mỹ với Trung Quốc : 'hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ của chúng ta'. Việc Trung Quốc tham gia vào chuyện trộm cắp tràn lan sở hữu trí tuệ là một thực tế được chấp nhận rộng rãi - ngoại trừ trong số các công ty Mỹ đang kinh doanh tại Trung Quốc. Trong một cuộc khảo sát gần đây về các công ty như vậy do Hội đồng doanh nghiệp Mỹ-Trung (US-China Business Council) thực hiện, bảo vệ sở hữu trí tuệ đứng thứ 6 trong danh sách các mối quan tâm cấp bách, đã giảm xuống từ vị trí thứ 2 trong năm 2014. Các công ty này lo ngại nhiều hơn về tài trợ của nhà nước cho các công ty đối thủ và việc trì hoãn phê duyệt giấy phép cho sản phẩm của họ. Tại sao sự thay đổi này lại từ năm 2014 ? Năm đó, Trung Quốc đã tạo ra các tòa án chuyên ngành đầu tiên để xử lý các vụ án sở hữu trí tuệ. Năm 2015, các nguyên đơn nước ngoài đã đưa 63 vụ ra Tòa án Sở hữu trí tuệ Bắc Kinh. Tòa án đã phán quyết cho các công ty nước ngoài thắng kiện trong tất cả 63 vụ.

Tất nhiên, những cải cách như thế này thường chỉ được thực hiện khi đối mặt với áp lực của phương Tây và, mặc dù thế, bởi vì chúng phục vụ lợi ích cạnh tranh của chính Trung Quốc - công ty nộp đơn xin cấp bằng sáng chế lớn nhất trên toàn thế giới năm ngoái là gã khổng lồ viễn thông Trung Quốc Huawei. Nhưng cũng đúng là nhiều nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách cấp cao của Trung Quốc đã lập luận rằng nước này sẽ hiện đại hóa và phát triển kinh tế chỉ khi nó theo đuổi cải cách hơn nữa. Không làm thế, họ đã cảnh báo, sẽ khiến đất nước bị mắc kẹt trong 'bẫy thu nhập trung bình' - số phận chung của các quốc gia thoát nghèo nhưng vấp phải bức tường với mức GDP khoảng 10 ngàn USD trên đầu người, đã thất bại trong việc hiện đại hóa nền kinh tế, hệ thống pháp quy và pháp lý của họ hơn nữa.

Chừng nào sự phát triển chính trị của Trung Quốc còn đáng quan ngại, phán quyết này vẫn còn không rõ ràng. Trung Quốc đã không mở cửa chính trị của mình đến mức như nhiều người đã dự đoán ; trong thực tế nó đã tiến tới sự đàn áp và kiểm soát lớn hơn. Đối xử tồi tệ của Bắc Kinh với người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, một khu vực ở tây bắc Trung Quốc, đã tạo ra một cuộc khủng hoảng nhân quyền. Nhà nước cũng đã bắt đầu sử dụng các công nghệ mới, như phần mềm nhận dạng khuôn mặt và trí tuệ nhân tạo, để tạo ra một hệ thống kiểm soát xã hội kiểu Orwell [4]. Những thực tế này là một thảm kịch đối với người dân Trung Quốc và là một trở ngại cho đất nước tham gia lãnh đạo toàn cầu. Tuy nhiên, sẽ là một sự cường điệu khi thêm chúng vào làm bằng chứng cho sự thất bại của chính sách của Mỹ. Trong thực tế, rất ít quan chức Mỹ từng lập luận rằng sự tham dự sẽ dẫn một cách không thể lay chuyển nổi tới nền dân chủ tự do ở Trung Quốc. Họ hy vọng rằng nó sẽ diễn ra như vậy, thậm chí mong đợi điều ấy, nhưng trọng tâm của họ luôn đặt vào việc tiết chế hành vi bên ngoài của Trung Quốc, điều mà họ đã đạt được.

Băng qua lằn ranh

Dưới thời Tập, chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã trở nên tham vọng và quyết đoán hơn, từ việc theo đuổi vai trò lãnh đạo của nó trong các cơ quan của Liên Hiệp Quốc cho tới Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI, Belt and Road Initiative) mênh mông và việc xây dựng các hòn đảo ở Biển Đông. Những động thái này đánh dấu một bước đột phá đối với sự thụ động xưa của đất nước trên trường quốc tế, bị kìm giữ bởi câu ngạn ngữ của nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây là Đặng Tiểu Bình 'Giấu sức mạnh, chờ thời' [5]. Đặc biệt, việc xây dựng quân đội của Trung Quốc là quy mô và được thiết kế theo cách gợi ý rằng một kế hoạch dài hạn đang được thực hiện một cách có hệ thống. Nhưng mức độ ảnh hưởng chấp nhận được đối với Trung Quốc sẽ là gì, với trọng lượng kinh tế của nó trên thế giới ? Nếu Washington không đặt câu hỏi này trước tiên, họ không thể đưa ra những tuyên bố nghiêm túc về những việc sử dụng quyền lực nào của Trung Quốc là vượt qua lằn ranh.

Trung Quốc, theo một số thước đo, đã là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trong vòng 10 đến 15 năm nữa, nó có thể sẽ chiếm vị trí này theo mọi thước đo. Đặng đã đưa ra lời khuyên của mình 'chờ thời' đến khi nền kinh tế của đất nước chiếm khoảng 1% GDP toàn cầu. Ngày nay, nó đang đại diện cho hơn 15%. Trung Quốc thực sự đã chờ đợi đến thời của mình, và giờ đây, một Trung Quốc mạnh mẽ hơn nhiều một cách tự nhiên sẽ tìm kiếm một vai trò khu vực và toàn cầu lớn hơn.

Hãy xem trường hợp của một quốc gia khác đang trỗi dậy mạnh mẽ, điều này trở lại vào thế kỷ XIX, mặc dù không gần như trên quy mô của Trung Quốc ngày nay. Mỹ vào năm 1823 đã là nước mà bây giờ gọi là một quốc gia đang phát triển - thậm chí không nằm trong số 5 nền kinh tế hàng đầu thế giới - ấy vậy mà với Học thuyết Monroe, nó đã tuyên bố yêu sách toàn bộ bán cầu Tây cấm không được bén mảng đối với các cường quốc ở Châu Âu. Trường hợp của Mỹ là một sự tương tự không hoàn hảo, nhưng nó như một lời nhắc nhở rằng khi các nước có được sức mạnh kinh tế, chúng sẽ tìm kiếm sự kiểm soát và ảnh hưởng lớn hơn đối với môi trường của mình. Nếu Washington xác định mọi nỗ lực như vậy của Trung Quốc là nguy hiểm, thì nó sẽ khiến Mỹ chống lại các động lực tự nhiên của đời sống quốc tế và rơi vào cái mà học giả Graham Allison đã gọi là 'cái bẫy Thucydides' [6] - nguy cơ của một cuộc chiến giữa một cường quốc đang trỗi dậy và một nước bá chủ lo lắng.

Đối với Mỹ, đối phó với một đối thủ cạnh tranh như vậy là một thách thức mới và độc nhất vô nhị. Kể từ năm 1945, các quốc gia lớn vươn lên giàu có và nổi bật đều là những đồng minh thân cận nhất của Washington, nếu không phải là những nước gần như là được bảo hộ : Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc. Một đặc tính thường gây rối trong cuộc sống quốc tế - các cường quốc mới đang trỗi dậy - do đó đều cực kỳ lành tính đối với Mỹ. Tuy vậy, Trung Quốc không chỉ lớn hơn nhiều so với các cường quốc đang trỗi dậy trước đó ; nó cũng luôn nằm ngoài cấu trúc liên minh và phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Kết quả là, nó chắc chắn sẽ tìm kiếm một phạm vi ảnh hưởng độc lập lớn hơn. Thách thức đối với Mỹ, và phương Tây nói chung, sẽ là xác định phạm vi có thể chấp nhận được đối với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc và thích ứng với nó - để có được sự tín nhiệm khi các hành động của Bắc Kinh vượt qua lằn ranh.

Cho đến nay, hồ sơ theo dõi của phương Tây về việc thích nghi với sự trỗi dậy của Trung Quốc rất kém. Thí dụ, cả Mỹ và Châu Âu đều miễn cưỡng nhượng lại bất kỳ mảnh đất nào cho Trung Quốc trong các thể chế cốt lõi quản trị kinh tế toàn cầu, Ngân hàng thế giới WB (World Bank) và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF (International Monetary Fund), vẫn là các câu lạc bộ Âu-Mỹ. Trong nhiều năm, Trung Quốc đã tìm kiếm một vai trò lớn hơn trong Ngân hàng phát triển Châu Á ADB (Asian Development Bank), nhưng Mỹ đã chống lại. Kết quả là vào năm 2015, Bắc Kinh đã thành lập tổ chức tài chính đa phương của riêng mình, Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á AIIB (Asian Infrastructure Investment Bank) (mà Washington chống lại song không có kết quả).

Pompeo đã khẳng định - trong một tuyên bố kiểu bề trên mà chắc chắn sẽ chọc giận bất cứ công dân Trung Quốc nào - rằng Mỹ và các đồng minh phải giữ Trung Quốc ở 'đúng chỗ của nó'. Tội lỗi của Trung Quốc, theo Pompeo, là họ chi nhiều cho quân đội hơn mức cần thiết cho quốc phòng của mình. Nhưng điều tương tự vậy, tất nhiên, cũng có thể nói về Mỹ - và của Pháp, Nga, Vương quốc Anh và hầu hết các nước lớn khác. Trong thực tế, một định nghĩa hữu ích về một cường quốc là một nước có liên quan tới nhiều hơn là chỉ liên quan tới an ninh riêng của mình.

Trật tự cũ - trong đó các nước Châu Âu nhỏ đóng vai trò những đối thủ nặng ký toàn cầu trong khi những con hà mã to vật như Trung Quốc và Ấn Độ lại bị loại khỏi những thứ hạng hàng đầu của các tổ chức toàn cầu - không thể duy trì được nữa. Trung Quốc sẽ phải được dành một vị trí bên bàn và phải được tích hợp một cách thành thật vào các cấu trúc ra quyết định, hoặc họ sẽ tự do và đơn phương tạo ra các cấu trúc và các hệ thống mới của riêng mình. Sự thăng tiến của Trung Quốc tới quyền lực toàn cầu là yếu tố mới quan trọng nhất trong hệ thống quốc tế trong nhiều thế kỷ. Nó phải được công nhận như vậy

Không tự do, chẳng quốc tế lẫn chả có trật tự

Đối với nhiều người, sự trỗi dậy của Bắc Kinh đã báo hiệu về hồi chuông báo tử của trật tự quốc tế tự do - tập hợp các chính sách và các định chế, được rèn dập phần lớn bởi Mỹ sau Thế chiến thứ II, tạo nên tổng thể một hệ thống dựa trên luật lệ, trong đó chiến tranh giữa các nước đã mất dần tầm quan trọng trong khi thương mại tự do và nhân quyền đã phát triển mạnh mẽ. Đặc điểm chính trị trong nước của Trung Quốc - một quốc gia độc đảng không cho phép sự phản đối hay bất đồng chính kiến ​​- và một số hành động quốc tế của nó khiến nó trở thành một người chơi không dễ dàng gì trong hệ thống này.

Tuy nhiên, đáng ghi nhớ là trật tự quốc tế tự do chưa bao giờ là tự do, quốc tế, hay có trật tự như bây giờ vẫn được mô tả một cách luyến tiếc cả. Ngay từ đầu, nó đã vấp phải sự khăng khăng phản đối từ Liên Xô, tiếp theo sau là một loạt các đổ vỡ trong hợp tác giữa các đồng minh (qua cuộc khủng hoảng Suez năm 1956, qua Việt Nam một thập kỷ sau) và sự đào ngũ phần nào đó của Mỹ dưới thời Nixon, người vào năm 1971 đã chấm dứt thực tiễn bảo lãnh của Washington đối với trật tự tiền tệ quốc tế bằng việc sử dụng dự trữ vàng của Mỹ. Một hình ảnh thực tế hơn là một trật tự quốc tế tự do non trẻ, đã hư hỏng từ đầu bởi những ngoại lệ, sự bất hòa và tính mong manh. Nước Mỹ, về phần mình, lại thường hành động ra ngoài các quy tắc của trật tự này, khi thực hiện các can thiệp quân sự thường xuyên có hoặc không có sự chấp thuận của Liên Hiệp Quốc ; trong những năm từ 1947 đến 1989, khi Mỹ được cho là đang xây dựng trật tự quốc tế tự do, nó đã cố gắng thay đổi chế độ 72 lần trên khắp thế giới. Nó bảo lưu quyền hành giống như vậy trong lĩnh vực kinh tế, tham gia vào chủ nghĩa bảo hộ ngay cả khi nó chống lại các biện pháp khiêm tốn hơn được áp dụng bởi các quốc gia khác.

Sự thật về trật tự quốc tế tự do, như với tất cả các khái niệm như vậy, là chưa từng bao giờ thực sự có một thời kỳ hoàng kim, nhưng cũng không có thứ trật tự bị phân rã quá như nhiều người tuyên bố. Các thuộc tính cốt lõi của trật tự này - hòa bình và ổn định - vẫn còn tồn tại, với sự suy giảm rõ rệt do chiến tranh và thôn tính kể từ năm 1945. (Hành vi của Nga ở Ukraine là một ngoại lệ quan trọng). Về mặt kinh tế, đó là một thế giới thương mại tự do. Thuế quan trung bình giữa các nước đã công nghiệp hóa là dưới 3%, giảm từ 15% trước Vòng đàm phán thương mại quốc tế Kennedy trong thập niên 1960. Thập kỷ vừa qua đã chứng kiến ​​sự thụt lùi về một số độ đo mức toàn cầu hóa nhưng từ mức cơ bản cực kỳ cao. Toàn cầu hóa từ năm 1990 có thể được mô tả là đã tiến lên ba bước và chỉ lùi một bước.

Trung Quốc hầu như không đủ điều kiện là một mối nguy hiểm chết người đối với trật tự không hoàn hảo này. Hãy so sánh hành động của nó với Nga - một quốc gia mà trong nhiều đấu trường chỉ đơn giản là kẻ phá hoại, cố gắng phá vỡ thế giới dân chủ phương Tây và các mục tiêu quốc tế của nó, thường được hưởng lợi trực tiếp từ sự bất ổn do nó tăng giá dầu (nguồn tài sản lớn nhất của Kremlin). Trung Quốc không có vai trò như vậy. Khi nó bẻ cong các quy tắc và, thí dụ như, tham gia vào chiến tranh mạng, thì nó đánh cắp các bí mật quân sự và kinh tế thay vì cố gắng phá hoại tính hợp pháp của các cuộc bầu cử dân chủ ở Mỹ hoặc Châu Âu. Bắc Kinh lo ngại sự bất đồng quan điểm và sự phản đối và đặc biệt đau thần kinh với các vấn đề của Hongkong và Đài Loan, sử dụng ảnh hưởng kinh tế của mình để kiểm duyệt các công ty phương Tây trừ khi họ theo đúng đường lối của đảng. Nhưng đây là những nỗ lực để bảo tồn những gì Bắc Kinh coi là chủ quyền của mình - không có gì giống như Moscow, những nỗ lực có hệ thống nhằm gây trở ngại và phá vỡ nền dân chủ phương Tây ở Canada, Mỹ và Châu Âu. Nói tóm lại, Trung Quốc đã hành động theo các cách can thiệp, trọng thương và đơn phương - nhưng thường ít hơn rất nhiều so với các cường quốc khác.

Sự trỗi dậy của một nhà nước độc đảng mà nó tiếp tục bác bỏ các khái niệm cốt lõi về quyền con người thì thể hiện một thách thức. Ở một số khu vực nhất định, các chính sách đàn áp của Bắc Kinh đã đe dọa các thành tố của trật tự quốc tế tự do, như thể các nỗ lực của nó nhằm làm suy yếu các tiêu chuẩn nhân quyền toàn cầu cũng như hành vi của nó ở Biển Đông và các phần 'nước ngoài gần' khác của nó. Những trường hợp đó cần được kiểm tra một cách trung thực. Đối với vấn đề đầu, chẳng mấy điều có thể nói được để giảm nhẹ trách nhiệm. Trung Quốc thì rất muốn né tránh/thoát khỏi [vấn đề về] các hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của mình, và chương trình nghị sự đó cần được phơi bày và chống lại. (Quyết định của chính quyền Trump rút khỏi Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã đạt được điều hoàn toàn ngược lại bằng cách nhượng lại lĩnh vực này cho Bắc Kinh).

Nhưng trật tự quốc tế tự do đã có thể thích ứng với nhiều chế độ khác nhau - từ Nigeria tới Saudi Arabia cho đến Việt Nam - và vẫn cung cấp một khung khổ dựa trên các quy tắc mà chúng khuyến khích hòa bình, ổn định và ứng xử văn minh giữa các quốc gia. Quy mô và các chính sách của Trung Quốc đặt ra một thách thức mới đối với việc mở rộng quyền con người chủ yếu đã diễn ra từ năm 1990. Nhưng chuyện một lĩnh vực thoái trào tiềm năng thì không nên được xem là mối đe dọa chết người đối với công cuộc lớn hơn nhiều của một hệ thống quốc tế thương mại tự do, dựa trên quy tắc và rộng mở.

Chính sách ngăn chặn và các phí tổn

Giả định cuối cùng ủng hộ sự đồng thuận mới là chuyện một hình thức đối đầu dai dẳng nào đó với Trung Quốc sẽ răn đe được chủ nghĩa phiêu lưu của nó ra nước ngoài và tạo tiền đề cho một sự chuyển đổi trong nội bộ. Rất ít người hào hứng chấp nhận thuật ngữ 'ngăn chặn' của thời chiến tranh lạnh, nhưng nhiều người chấp nhận một phiên bản logic nào đó của nó. Lý thuyết là một đường lối cứng rắn chống lại Trung Quốc sẽ buộc nước này phải cư xử đàng hoàng và thậm chí cải cách. Không nói ra nhưng rõ ràng trung tâm của chiến lược diều hâu ấy là ý niệm rằng ngăn chặn Trung Quốc sẽ sớm làm sụp đổ chế độ của nó, giống như đã xảy ra với Liên Xô.

Nhưng Trung Quốc không phải là Liên Xô, một đế chế bất tự nhiên được xây dựng dựa trên sự bành trướng thô bạo và thống trị quân sự. Với Trung Quốc, Mỹ sẽ đối đầu với một nền văn minh, và một quốc gia, với ý thức mạnh mẽ về sự đoàn kết và niềm tự hào dân tộc đã vươn lên để giành lấy vị trí trong số các cường quốc của thế giới. Trung Quốc đang trở thành một quốc gia ngang hàng về kinh tế, thực sự là một nhà lãnh đạo công nghệ trong một số lĩnh vực. Dân số của nó làm cho dân số Mỹ thành nhỏ bé và thị trường lớn nhất thế giới cho hầu hết mọi hàng hóa thì hiện đang nằm ở Trung Quốc. Nó sở hữu một số máy tính nhanh nhất hành tinh và nắm giữ lượng dự trữ ngoại hối lớn nhất trên trái đất. Ngay cả khi nó trải qua một số loại thay đổi chế độ, các đặc điểm rộng lớn hơn về sự trỗi dậy và sức mạnh của nó sẽ vẫn cứ tồn tại.

Lầu Năm Góc đã ôm lấy ý niệm Trung Quốc là 'đối thủ cạnh tranh chiến lược' hàng đầu của Mỹ. Từ một quan điểm quan liêu, chỉ định này có ý nghĩa hoàn hảo. Trong 20 năm qua, quân đội Mỹ đã chiến đấu chống lại các cuộc nổi dậy và du kích ở các quốc gia yếu ớt, và hết lần này đến lần khác phải giải thích tại sao bộ máy đắt tiền của nó đã thất bại trước những kẻ thù thiếu tiền bạc, được trang bị kém này. Ngược lại, để làm kẻ thù của Trung Quốc là quay trở lại những tháng ngày hoàng kim của chiến tranh lạnh, khi Lầu năm góc có thể tăng ngân sách thật lớn bằng cách gợi lên bóng ma của một cuộc chiến tranh chống lại một quân đội giàu có, hiện đại với công nghệ tiên tiến của riêng mình. Suốt thời gian ấy, logic của răn đe hạt nhân và sự thận trọng của các cường quốc đã đảm bảo rằng một cuộc chiến tổng lực giữa hai bên sẽ không bao giờ xảy ra. Tuy nhiên, bất kể lợi thế thế nào về ngân sách của Lầu Năm Góc, chi phí cho một cuộc chiến tranh lạnh như vậy với Trung Quốc sẽ là vô cùng lớn, làm biến dạng nền kinh tế Mỹ và làm phình thêm tổ hợp công nghiệp-quân sự [7] mà tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower từng cảnh báo chống lại.

Hãy thêm vào đó là mức độ phụ thuộc lẫn nhau lớn giữa Mỹ và Trung Quốc. Xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc tăng 527% kể từ năm 2001 và vào năm 2018, Trung Quốc là nhà cung cấp hàng hóa lớn nhất cho Mỹ. Cũng còn có sự phụ thuộc lẫn nhau của con người - hàng trăm ngàn sinh viên Trung Quốc học tập tại Mỹ, cùng với gần năm triệu công dân và người định cư Mỹ gốc Hoa. Mỹ đã được hưởng lợi rất nhiều từ việc là nơi tập trung những bộ óc thông minh nhất để thực hiện nghiên cứu tiên tiến nhất rồi sau đó áp dụng nó vào mục đích thương mại. Nếu Mỹ cấm các cửa người tài năng như vậy vì tài năng đó đi với hộ chiếu không hợp lệ, nó sẽ nhanh chóng mất vị trí đặc quyền trong thế giới công nghệ và đổi mới.

Cách tiếp cận hiện nay với Trung Quốc của chính quyền Trump, chạy dọc theo hai đường riêng biệt và mâu thuẫn, cùng một lúc tránh sự phụ thuộc lẫn nhau lẫn đi theo nó. Về thương mại, mục tiêu của Washington nói rộng ra là hội nhập : để Trung Quốc mua thêm từ Mỹ, đầu tư nhiều hơn vào Mỹ và cho phép người Mỹ bán và đầu tư nhiều hơn vào Trung Quốc. Nếu thành công, nỗ lực này sẽ tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn giữa hai nước. Đó là một nỗ lực đáng khen ngợi, mặc dù té ra là thuế quan thường gây phí tổn cho bên áp đặt thuế nhiều hơn bên người bị áp thuế. Theo một số ước tính, thuế quan lốp xe của chính quyền Obama làm tốn khoảng 1 triệu USD cho mỗi việc làm mà Mỹ tiết kiệm được. Cách tiếp cận tổng thể, tuy vậy, là khôn ngoan, ngay cả khi được thực hiện nhằm theo đuổi chương trình nghị sự 'nước Mỹ trên hết', vì sự phụ thuộc lẫn nhau mang lại cho Mỹ đòn bẩy lớn hơn đối với Trung Quốc.

Trong các vấn đề về công nghệ, mặt khác, cách tiếp cận của chính quyền Trump là nhất quyết phân rã. Chiến lược ở đây là cắt đứt quan hệ với Trung Quốc và buộc phần còn lại của thế giới phải làm điều tương tự - tạo ra một thế giới bị chia cắt giữa hai phe. Chiến dịch toàn cầu của chính quyền Trump chống lại Huawei đã tuân theo logic này ; kết quả nghèo nàn của chiến dịch đó cho thấy các lỗ hổng logic. Phần còn lại của thế giới không đi theo sự dẫn dắt của Mỹ (mà nó thiếu công nghệ thay thế để cạnh tranh với các chào mời 5G của Huawei). Chính quyền Trump đã yêu cầu 61 quốc gia cấm công ty ấy. Cho đến nay, chỉ có ba nước tham gia, cả ba nước trong số đó đều là đồng minh của Mỹ.

Tỷ lệ thành công ảm đạm này là một dấu hiệu chỉ báo sớm cho thấy chiến lược 'tách rời nhau' rộng hơn sẽ ra như thế nào. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của nhiều quốc gia ngoài Mỹ, bao gồm nhiều người chơi chủ chốt ở Tây bán cầu, chẳng hạn như Brazil. Khi được hỏi họ sẽ phản ứng thế nào với việc tách rời [giữa Mỹ và Trung Quốc], các nhà lãnh đạo cấp cao trên toàn thế giới hầu như đều đưa ra một phiên bản nào đó của câu trả lời mà một người đứng đầu chính phủ đã đưa ra cho tôi : 'Xin đừng yêu cầu chúng tôi phải chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Bạn sẽ không thích câu trả lời bạn nhận được đâu'. Điều này không có nghĩa là họ nhất thiết phải đứng về phía Trung Quốc - nhưng họ có thể thích ở lại không vào phe nào, hoặc chơi ván bài hai cường quốc đó chống lại nhau. Còn hơn thế, một Trung Quốc bị cô lập mà nó sẽ xây dựng chuỗi cung ứng và công nghệ nội địa của riêng mình thì sẽ không bị áp lực bởi Mỹ nữa.

Sự vắng mặt kỳ lạ trong hầu hết các cuộc thảo luận về chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc là câu hỏi về phản ứng của Trung Quốc. Bắc Kinh cũng vậy, có những người tạo lập đường lối cứng rắn, những người đã cảnh báo trong suốt nhiều năm rằng Mỹ tìm cách giữ cho Trung Quốc yếu và rằng bất kỳ dấu hiệu tham vọng nào của Trung Quốc cũng sẽ gặp phải một chiến lược ngăn chặn. Còn hơn thế nhiều nữa, thái độ của Mỹ đối với Trung Quốc đang cho phép những tiếng nói đó đòi phải được minh oan, từ đó cho họ đòn bẩy để thúc đẩy chính loại hành vi quyết đoán và gây bất ổn mà chính sách của Mỹ nhắm tới ngăn ngừa.

Mỹ đang trong cuộc đua tranh với Trung Quốc - đó là một thực tế và sẽ vẫn như vậy trong phần lớn thế kỷ này. Vấn đề là liệu Mỹ có nên cạnh tranh trong khuôn khổ quốc tế ổn định hay không, tiếp tục cố gắng hội nhập Trung Quốc [với thế giới hay không] thay vì cố gắng cô lập nó bằng mọi giá. Một trật tự quốc tế bị phá vỡ, phân mảnh, được đánh dấu bởi những hạn chế được đặt ra bởi chính phủ và các loại thuế đối với thương mại, công nghệ và du lịch, sẽ dẫn đến sự thịnh vượng giảm sút, sự bất ổn dai dẳng và triển vọng thực sự của xung đột quân sự đối với tất cả các bên liên quan.

Sự sụp đổ của toàn cầu hóa, tất nhiên, là mục tiêu của nhiều trong số những quan niệm hàng đầu của chính quyền Trump. Bản thân tổng thống đã công khai chỉ trích 'chủ nghĩa toàn cầu' và coi thương mại tự do là cách để các nước khác cướp bóc ngành công nghiệp Mỹ. Ông coi các liên minh của Mỹ là lỗi thời, còn những định chế và chuẩn mực quốc tế là những ràng buộc hạn chế không đáng có đối với chủ quyền quốc gia. Những người dân túy cánh hữu đã ôm chặt lấy những quan điểm này trong nhiều năm. Và nhiều người trong số họ - đặc biệt là ở Mỹ - hiểu chính xác rằng cách dễ nhất để phá vỡ toàn bộ kiến trúc quốc tế tự do sẽ là gây ra một cuộc chiến tranh lạnh với Trung Quốc. Khó hiểu hơn nữa nằm ở chỗ những người đã dành hàng thập kỷ để xây dựng cái kiến trúc đó đang sẵn sàng hỗ trợ một chương trình nghị sự chắc chắn sẽ phá hủy nó.

Chiến lược không quá bí mật của Mỹ

Một chính sách khôn ngoan hơn của Mỹ, hướng đến việc biến Trung Quốc thành một 'cổ đông có trách nhiệm', vẫn có thể đạt được. Washington nên khuyến khích Bắc Kinh phát huy ảnh hưởng lớn hơn trong khu vực của mình và xa hơn, miễn là họ sử dụng ảnh hưởng này để củng cố hệ thống quốc tế. Sự tham gia của Trung Quốc vào những nỗ lực giải quyết [các vấn đề của loài người] sự nóng lên toàn cầu, phổ biến hạt nhân, rửa tiền và khủng bố nên được khuyến khích - và đánh giá cao. Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường của Bắc Kinh có thể là một lợi ích cho thế giới đang phát triển nếu được theo đuổi một cách cởi mở và minh bạch, ngay cả khi hợp tác với các nước phương Tây ở bất cứ nơi nào có thể. Về phần mình, Bắc Kinh sẽ cần chấp nhận sự chỉ trích của Mỹ về các vấn đề nhân quyền, tự do ngôn luận và tự do nói một cách tổng quát hơn.

Những điểm bắt cháy nguy hiểm nhất có thể là Hongkong và Đài Loan, nơi hiện trạng rất mong manh và cán cân quyền lực thì ủng hộ Bắc Kinh. Lầu năm góc đã ban hành 18 bài tập mô phỏng chiến tranh chống lại Trung Quốc trên Đài Loan và lần nào thì Trung Quốc cũng đã thắng. Washington nên làm rõ rằng bất kỳ chiến thắng nào như vậy cũng sẽ là chiến thắng kiểu Pyrros [8], dẫn đến sự sụp đổ kinh tế ở Hongkong hoặc Đài Loan, sự di cư hàng loạt từ các đảo đó và sự lên án của quốc tế. Nếu Bắc Kinh hành động một cách mau lẹ [nguyên văn : dốc/dựng đứng] ở Hongkong hoặc Đài Loan, chính sách hợp tác của Mỹ sẽ trở nên không thể biện hộ được trong nhiều năm.

Sự đồng thuận mới về Trung Quốc bắt nguồn từ nỗi sợ hãi rằng một lúc nào đó nước này có thể chiếm lấy toàn cầu. Nhưng có lý do để có niềm tin vào sức mạnh và mục đích của Mỹ. Cả Liên Xô lẫn Nhật Bản đều không thể chiếm lĩnh thế giới, bất chấp những lo ngại tương tự về sự trỗi dậy của họ. Trung Quốc đang trỗi dậy nhưng phải đối mặt với một loạt thách thức nội bộ, từ sự suy vi nhân khẩu học đến hàng núi nợ nần. Nó đã thay đổi trước đó và sẽ buộc phải thay đổi một lần nữa nếu các lực tích hợp và răn đe tiếp tục đè lên nó. Giới tinh hoa Bắc Kinh biết rằng đất nước của họ đã thịnh vượng trong một thế giới cởi mở và ổn định. Họ không muốn phá hủy thế giới đó. Và mặc dù có một thập kỷ trì trệ chính trị trên đại lục, mối liên hệ giữa sự trỗi dậy của tầng lớp trung lưu và đòi hỏi mở cửa chính trị lớn hơn nữa là có thật, như đối với hai xã hội Trung Quốc vẫn được Bắc Kinh theo dõi sát sao - Hồng Kông và Đài Loan.

Một số nhà quan sát Mỹ nói về quan điểm lâu dài của Trung Quốc, về kế hoạch bí mật, kiên nhẫn của nó thống trị thế giới, liên tục được thực hiện kể từ năm 1949, nếu không phải là từ trước đó. Học giả và cựu quan chức Bộ quốc phòng Mỹ, Michael Pillsbury, đã gọi nó là 'cuộc đua marathon trăm năm' của Trung Quốc trong một cuốn sách thường được chính quyền Trump ca ngợi. Nhưng một bức tranh chính xác hơn là về một đất nước đã chần chừ một cách phù hợp từ một liên minh chặt chẽ với Liên Xô đến sự chia rẽ Trung-Xô, từ Đại nhảy vọt tới Cách mạng văn hóa đến một câu chuyện thành công tư bản, và từ sự thù địch sâu sắc đối với phương Tây tới quan hệ chặt chẽ với Mỹ rồi quay trở lại việc tán tỉnh với thái độ thù địch. Nếu đây là một cuộc đua marathon, nó đã thực hiện một số bước ngoặt kỳ lạ, nhiều trong số đó có thể đã chấm dứt nó hoàn toàn.

Trong khi đó, kể từ năm 1949, Mỹ đã kiên nhẫn đưa ra các cấu trúc và chính sách để tạo ra một thế giới ổn định, cởi mở và hội nhập hơn ; đã giúp các nước bước vào thế giới đó ; và đã răn đe những kẻ tìm cách phá hủy nó - tất cả đều thành công đáng kinh ngạc. Washington đã là cái đối ngược với sự do dự/dao động hay tập trung quá mức xét về ngắn hạn. Vào năm 2019, quân đội Mỹ vẫn ở bên bờ sông Rhine, họ vẫn đang bảo vệ Seoul và họ vẫn ở Okinawa.

Trung Quốc đưa ra một thách thức mới và lớn. Nhưng nếu Washington có thể giữ bình tĩnh và kiên nhẫn tiếp tục theo đuổi chính sách cam kết cộng với răn đe, buộc Trung Quốc phải điều chỉnh, trong khi [Mỹ] cũng tự điều chỉnh để tạo không gian cho nó, một học giả nào đó trong nhiều thập kỷ từ bây giờ có thể viết về kế hoạch không có gì là bí mật của Mỹ nhằm mở rộng khu vực hòa bình, thịnh vượng, cởi mở và quản trị tốt trên toàn cầu - một chiến lược marathon đã có kết quả.

Fareed Zakaria

Nguyên tác : The New China Scare - Why America Shouldn't Panic About Its Latest Challenger, Foreign Affairs, 6/12/2019

Một thân hữu của Viet-studies dịch và chú giải

Nguồn : viet-studies, 11/12/2019


[1] Fareed Zakaria : Nhà báo Mỹ gốc Ấn Độ, năm nay mới 55 tuổi song đã rất thành công trong sự nghiệp báo chí. Tốt nghiệp Đại học Yale và lấy bằng PhD tại Đại học Harvard, F. Zakaria giữ nhiều mục cho các kênh tivi như CNN hay các tạp chí danh tiếng như Foreign Affairs, Washington Post, Newsweek... Khá nổi tiếng, mặc dù còn khá trẻ, với những suy nghĩ tự do, độc đáo và độc lập.

[2] Yuen Yuen Ang : Nhà khoa học chính trị người gốc Singapore, Phó Giáo sư về khoa học chính trị tại Đại học Michigan, trước khi về làm Phó Giáo sư cho Đại học Michigan (2011) cô đã là trợ lý giáo sư tại Đại học Columbia. Tốt nghiệp loại xuất sắc nhất (Summa Cum Laude) Đại học Colorado, lấy bằng thạc sĩ (2003) và PhD (2009) về khoa học chính trị. Là một chuyên gia am hiểu về Trung Quốc, diễn giảng nhiều và viết nhiều cho các tạp chí/báo (như Bloomberg, Foreign Affairs, Project Syndicate, Wall Street Journal...) về Trung Quốc. Các tác phẩm (sách, bài báo...) của cô được nhiều giải thưởng và được nhiều hãng tin, báo, tạp chí trích dẫn.

[3] Nicholas Lardy : Nhà kinh tế học, thành viên cao cấp danh hiệu Anthony M. Solomon tại PIIE (Peterson Institute for International Economics, Viện Peterson về kinh tế quốc tế, Washington D.C.), chuyên gia giỏi về kinh tế Trung Quốc, tác giả của vài chục đầu sách về Trung Quốc. N. Lardy đồng thời là thành viên và là biên tập viên trong ban biên tập của Asia Policy và China Review, Hội đồng quan hệ quốc tế CFR (Council on Foreign Relations, một think-tank hàng đầu thế giới về quan hệ quốc tế, có ảnh hưởng nhất ở Mỹ). N. Lardy tốt nghiệp Đại học Wisconsin (1968) và lấy bằng PhD tại Đại học Michigan (1975), đều về kinh tế học.

[4] Hệ thống kiểu Orwell : Mang tên nhà văn, nhà báo và nhà phê bình người Anh từng mô tả một kiểu điều kiện xã hội 'biểu thị một thái độ và chính sách tàn bạo kiểm soát hà khắc bằng công tác tuyên truyền, giám sát, thông tin sai, chối bỏ sự thật và thao túng quá khứ'.

[5] Tiếng Việt thường được dịch là 'Giấu mình chờ thời'. Nguyên bản tiếng Trung Quốc của câu ngạn ngữ đó là 韜光養晦 (thao quang dưỡng hối), nghĩa đen là 'giấu ánh sáng nuôi dưỡng bóng tối', do Đặng Tiểu Bình sử dụng để ẩn dụ về chính sách đối ngoại của Trung Quốc khi đó.

[6] Cái bẫy Thucydides (Thucydides trap) : Thucydides (nhà sử học thực chứng đầu tiên trên thế giới) đã viết từ hơn 2.400 năm trước trong cuốn 'Lịch sử chiến tranh Peloponnesus' về nguyên nhân của cuộc chiến tranh : 'sự lớn mạnh của cường quốc Athens và nỗi lo sợ mà nó gây ra ở Sparta'. Nói một cách khác, khi một cường quốc trỗi dậy, một cường quốc đã sẵn có sẽ lo ngại và chuẩn bị chiến tranh, với cái này biến thành một vòng luẩn quẩn thì rút cục sẽ dẫn đến chiến tranh. Khái niệm 'cái bẫy Thucydides' đã được G.T. Allison (Giáo sư nổi tiếng về khoa học chính trị tại Trường hành chính Kennedy, Đại học Harvard) đặt ra và sử dụng để ám chỉ rằng sự lo ngại của Mỹ trước sức mạnh đang tăng lên của Trung quốc có thể chuyển hóa thành chiến tranh (nóng hay lạnh). Trong bài báo có tựa đề 'The Thucydides Trap', Foreign Policy 9/5/2017, G. Allison đã tổng kết rằng 'trong 500 năm qua đã có 16 trường hợp trong đó một cường quốc đang nổi lên đe doạ sẽ thay thế một cường quốc cầm quyền. Mười hai trong số này đã kết thúc trong chiến tranh'. Bốn trường hợp còn lại, theo G. Allison là 'Tây Ban Nha vượt qua Bồ Đào Nha vào cuối thế kỷ 15, Mỹ vượt qua Anh vào đầu thế kỷ 20, và sự trỗi dậy của Đức ở Châu Âu từ năm 1990 - sự đi lên của Liên bang xô viết là một bài học độc nhất vô nhị ngày hôm nay. Mặc những khoảnh khắc mà một cuộc đụng độ dữ dội dường như đã chắc chắn diễn ra, một sự dâng trào trí tưởng tượng chiến lược đã giúp cả hai bên phát triển các cách cạnh tranh mà không xảy ra một cuộc xung đột thảm khốc. Cuối cùng, Liên bang xô viết đổ ụp và Chiến tranh lạnh kết thúc với một tiếng rên chứ không phải bằng một tiếng nổ'.

[7] Tổ hợp công nghiệp-quân sự (MIC, Military-Industrial Complex) : Liên minh nhằm những mục đích chung giữa những nhân vật hoạch định chính sách, các tướng lĩnh quân đội với các công ty sản xuất/cung ứng đồ quân sự cũng như những tầng lớp trong xã hội quan tâm tới ngân sách quốc phòng, bao gồm cả những người vận động hành lang. Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower, đưa ra khái niệm này lần đầu vào năm 1961 trong diễn văn từ biệt đọc trước quốc hội, cảnh báo về nguy cơ có thể gây hại cho xã hội của liên minh công nghiệp-quân phiệt móc ngoặc và thao túng đó. Xin lưu ý không nên nhầm lẫn với khái niệm Tổ hợp công nghiệp quốc phòng (DIC, Defence-Industrial Complex, trong tiếng Nga là Военно-Промышленный Комплекс, nếu được dịch sát từng chữ cũng sẽ là 'Tổ hợp công nghiệp-quân sự' nên hay gây nhầm lẫn) vẫn được các nhà nghiên cứu lịch sử thiên về kinh tế của các nước phương Tây sử dụng để chỉ Phức hợp công nghiệp-quân sự trong quá trình nghiên cứu về công nghiệp quân sự Liên xô trước đây - bao gồm công nghiệp quốc phòng, các đơn vị nghiên cứu và sản xuất của nó, lực lượng lao động và hệ thống quản lý, các nhà máy và các nhà lãnh đạo, không bao hàm các lãnh đạo Đảng, nhà nước, quân đội chuyên nghiệp cũng như một số thành phần khác.

[8] Chiến thắng kiểu Pyrros (Pyrrhic victory) : Là chiến thắng mang tính hủy diệt đối phương song bên chiến thắng cũng tổn thất nặng nề, có thể dẫn tới diệt vong. Pyrros là vua và là chỉ huy quân sự kiệt xuất xứ Ipiros (Hy Lạp cổ đại), từng chiến thắng, đánh tan tác quân La Mã trong các trận đánh tại Heraclea (280 trước công nguyên) và Asculum (279 trước công nguyên) song mất rất nhiều binh lực và tướng tài, bản thân nhà vua cũng bị thương. Sau chiến thắng Asculum, quần thần dâng lời tôn vinh chiến công, nhà vua nói rằng 'Thêm một trận thắng như vậy thì sự nghiệp của trẫm cũng đi đời'. Thực tế thì, mặc dù quân La Mã bị tổn thất nặng hơn quân Ipiros rất nhiều trong các trận Heraclea và Asculum song La Mã có tiềm lực hơn hẳn Ipiros (các thiệt hại không bù đắp được) nên tới năm 275 trước công nguyên thì La Mã đánh bại Ipiros.

******************

(2) Thay vì triệt hạ, Mỹ nên thích nghi với sự vươn lên của Trung Quốc ?

VOA, 11/12/2019

Thay vì xem Trung Quốc là một đi th nguy him mà M cn phi ct đt quan h và tìm cách trit h v kinh tế, chính tr và quân s, Washington nên chp nhn thc tế là s vươn lên ca Trung Quc là không cách nào có th cn li được và M và thế gii đu được hưởng li t s vươn lên đó, mt bài viết trên tp chí chuyên ngành v đi ngoi ‘Foreign Affairs' nhn đnh.

scare3

Trung Quốc đang thi hành chính sách ngoại giao quyết đoán dưới thi Tp Cn Bình

Tác giả Fareed Zakaria trong bài phân tích nhan đ ‘Ni s mi v Trung Quc : Ti sao M không nên hong s v đi th mi nht này ?' đã trình bày c th nhng lý do mà VOA Vit ng xin lược dch đ gii thiu đến quý đc gi.

Sự đng thun mi

Trong cuộc tranh luận hin nay ca M v Trung Quc, có s đng thun mi t phía lưỡng đng, cánh quân s và các cơ quan truyn thông ch cht cho rng Trung Quc hin là mi đe da đi vi M c v kinh tế và chiến lược, rng chính sách ca Hoa Kỳ đi vi Trung Quốc đã thất bi, và Washington cn mt chiến lược mi m và cng rn hơn đ kim chế Bc Kinh. S đng thun này đã đy lp trường ca công chúng M v phía gn như là thù đch : theo thăm dò dư lun, có 60% người M hin có quan đim tiêu cc v Cng hòa Nhân dân Trung Hoa - mức cao k lc k t khi Trung tâm Nghiên cu Pew bt đu cuc thăm dò này vào năm 2005.

Cần phi nói rõ : Trung Quc là mt chế đ đàn áp vi nhng chính sách hoàn toàn phi t do, t cm đoán t do ngôn lun cho đến cm tù các nhóm tôn giáo thiểu s. Trong năm năm qua, h đã tăng cường kim soát chính tr và kinh tế trong nước. Còn nước ngoài, h là k ganh đua và trong mt s lĩnh vc là đi th ca M. Nhưng câu hi chiến lược thiết yếu cho người M ngày nay là, liu nhng s tht này có khiến Trung Quc tr thành mt mi đe da ln và mc đ đe da như thế, nó cn được x lý như thế nào ?

Hậu qu ca vic phóng đi mi đe da ca Liên Xô là rt ln : trong nước M là s chà đp nhân quyn trng trn trong thi kỳ McCarthy (v ngh sỹ đề ra d lut chng Cng mang tên ông) ; cuc chy đua vũ trang ht nhân nguy him ; mt cuc chiến tranh dài, vô ích và tht bi Vit Nam ; và vô s các cuc thip quân s khác nhng nước được gi là Thế gii th Ba. Hu qu ca vic không hiu đúng thách thức ca Trung Quc ngày hôm nay s còn ln hơn na. M có nguy cơ phung phí nhng li ích mà khó khăn lm mi có được t bn thp k can d vi Trung Quc, khuyến khích Bc Kinh thc hin chính sách đi đu, và đưa hai nn kinh tế ln nht thế gii vào cuộc xung đt tàn nhn vi quy mô và mc đ không rõ ràng. Điu này s dn đến nhiu thp k bt n và bt an. Mt cuc chiến tranh lnh vi Trung Quc có th s kéo dài và tn kém hơn nhiu so vi cuc chiến vi Liên Xô, vi kết cc không chc chn.

Mỹ nên dành thời gian đ xem xét k các gi đnh đng sau s đng thun mi v Trung Quc. Theo nghĩa rng, s đng thun đó là : th nht, s can d đã tht bi vì nó không ‘chuyn hóa s phát trin bên trong và hành vi bên ngoài ca Trung Quc' ; th hai, chính sách đối ngoi ca Bc Kinh hin là mi đe da đáng k nht đi vi li ích ca M và, m rng ra, đi vi trt t quc tế da trên lut l mà M đã gy dng sau năm 1945 ; th ba, chính sách đi đu tích cc vi Trung Quc s giúp đy lùi mi đe da tt n là tiếp tc cách tiếp cn trước đó.

Sự đng thun lưỡng đng này ra đi đ đáp li nhng thay đi đáng k và đáng lo ngi Trung Quc. K t khi Ch tch Tp Cn Bình lên làm lãnh đo ti cao Trung Quc, quá trình t do hóa kinh tế ca Trung Quc đã chậm li và ci cách chính tr - dù hn chế - đã b đo ngược. Bc Kinh bây gi kết hp đàn áp chính tr vi tuyên truyn dân tc ch nghĩa vn ging như thi đi Mao Trch Đông. nước ngoài, Trung Quc có tham vng và quyết đoán. Nhng thay đi này là có thật và đáng lo ngi.

Can dự và phòng nga

Xác định phn ng hiu qu đòi hi phi bt đu t hiu biết rõ ràng v chiến lược Trung Quc ca M cho đến thi đim này. Điu không thy trong đng thun mi là trong gn năm thp k k t khi Tng thng Hoa Kỳ Richard Nixon mở ca cho Bc Kinh, chính sách ca M đi vi Trung Quc chưa bao gi hoàn toàn là can d mà là s kết hp ca can d và răn đe. Vào cui nhng năm 1970, các nhà hoch đnh chính sách Hoa Kỳ đã kết lun rng vic gn kết Trung Quc vào hệ thống kinh tế và chính tr toàn cu s tt hơn là đ h ngi ngoài, tc ti và tìm cách cn tr. Nhưng Washington cũng đng thi h tr nht quán cho các cường quc Châu Á khác, bao gm, tt nhiên là tiếp tc bán vũ khí cho Đài Loan. Cách tiếp cn đó, đôi khi được mô t là mt ‘chiến lược phòng nga', đm bo rng khi Trung Quc tri dy, sc mnh ca nó s được kim soát và các nước láng ging ca Trung Quc cm thy an toàn.

Vào những năm 1990, khi k thù Liên Xô không còn na, Ngũ Giác Đài đã ct gim chi tiêu, đóng cửa căn c và gim quân s trên toàn thế gii, ngoi tr Châu Á. Chiến lược Châu Á-Thái Bình Dương năm 1995 ca Lu Năm Góc, còn được gi là Sáng kiến Nye, đã cnh báo v vic xây dng quân đi và tham vng chính sách đi ngoi ca Trung Quc và tuyên b rng M s không gim s hin din quân s trong khu vc. Thay vào đó, ít nht 100.000 lính M s li Châu Á trong tương lai gn. Bán vũ khí cho Đài Loan s tiếp tc vì hòa bình Eo bin Đài Loan đ răn đe Bc Kinh đng s dng vũ lc đi với hòn đo t tr này.

Cách tiếp cn phòng nga này được duy trì bi tng thng ca c hai đng. Chính quyn George W. Bush đã đo ngược chính sách phi đng phái ca M trong hàng thp k đ công nhn n Đ là cường quc ht nhân mà ch yếu là đ thêm một chốt chn khác v Trung Quc. Dưới thi Tng thng Barack Obama, Hoa Kỳ đã tăng cường răn đe, m rng s hin din Châu Á vi các tha thun quân s mi vi Úc và Nht Bn và nuôi dưỡng mi quan h gn gũi hơn vi Vit Nam. Đó cũng là mc đích ca Hip định Đi tác xuyên Thái Bình Dương, được ra đi nhm đ to cho các nước Châu Á mt nn tng kinh tế cho phép h kháng c s thng tr ca Trung Quc. Bn thân ông Obama đã đương đu vi ông Tp v vn đ không gian mng và áp thuế nhp khu lp xe Trung Quốc đ tr đũa các chính sách thương mi không công bng ca nước này.

Quốc gia có trách nhim ?

Trung Quốc ngày nay là mt quc gia có trách nhim v đa chính tr và quân s. H đã không gây chiến k t năm 1979. H cũng không s dng vũ lc gây chết chóc ở nước ngoài k t năm 1988. Bc Kinh cũng không tài tr hoc h tr cho các lc lượng ni dy vũ trang bt c đâu trên thế gii k t đu nhng năm 1980. S không can thip quân s đó là k lc duy nht trong s các đi cường. Tt c các y viên thường trực khác ca Hi đng Bo an Liên Hp Quc đã s dng vũ lc nhiu ln nhiu nơi trong vài thp k qua vi M là nước dn đu.

Bắc Kinh đã đi t n lc làm suy yếu trt t quc tế đến b ra s tin ln đ cng c trt t đó. Bc Kinh hin là nước đóng góp lớn th hai cho Liên Hip Quc và chương trình gìn gi hòa bình ca cơ quan này. H đã trin khai 2.500 nhân viên gìn gi hòa bình, nhiu hơn tt c các thành viên thường trc khác ca Hi đng Bo an gp li. T năm 2000 cho đến 2018, Bc Kinh ng hộ 182 trong số 190 ngh quyết ca Hi đng Bo an áp đt các bin pháp trng pht đi vi các quc gia được coi là đã vi phm lut pháp hoc chun mc quc tế.

Nếu ai đó đã d đoán vào năm 1972 rng Trung Quc s tr thành người bo v nguyên trng quc tế, ít ai có thể tin rng nó s xy ra.

Chơi xu v kinh tế ?

Sự đng thun mi v hành vi kinh tế ca Trung Quc cho rng nước này đã buc các công ty đa quc gia chuyn giao công ngh ca h, đã tr cp cho ‘công ty nhà nước hàng đu' và đã dng lên các rào cản chính thc và không chính thc đ chn đường các công ty nước ngoài đang tìm cách thâm nhp th trường Trung Quc. Nói tóm li, Bc Kinh đã s dng nn kinh tế quc tế m đ cng c h thng kinh tế đt dưới s qun lý Nhà nước ca h.

Đúng là những chính sách không công bằng này cn được phn còn li ca thế gii chú ý và đáp tr. Chính quyn Trump xng đáng được khen ngi vì đã gii quyết vn đ này, đc bit là trong bi cnh ông Tp cng c s kim soát ca Nhà nước sau nhiu thp k t do hóa. Và mt ln na, M cn phi phn ng như thế nào mi là đúng ?

Hầu hết các kinh tế gia đu đng ý rng Trung Quc thành công v kinh tế như vy nh vào ba nhân t cơ bn : chuyn đi t nn kinh tế cng sn sang cách tiếp cn mang tính th trường hơn, t l tiết kiệm cao giúp h có th đu tư vn ào t và năng sut gia tăng. Trong ba thp k qua, quc gia này cũng đã m tiếp nhn đu tư nước ngoài mt cách đáng k. Trung Quc là mt trong ch hai quc gia đang phát trin có mt trong 25 th trường hàng đu tiếp nhận đu tư trc tiếp nước ngoài t năm 1998. Trong nhóm BRICS các quc gia mi ni ln, Trung Quc luôn được xếp hng là nn kinh tế m và cnh tranh nht.

Điều đáng chú ý là hu hết nhng cáo buc nhm vào Trung Quc ngày nay như ép buc chuyn giao công nghệ, thương mi không công bng, hn chế tiếp cn đi vi các công ty nước ngoài, ưu ái v lut l cho các công ty tong nước, cũng tng là nhng ch trích nhm vào Nht Bn trong nhng năm 1980 và 1990.

Vào thời đim đó, cun sách có nh hưởng ln ca Clyde Prestowitz với ta đ : Đi ngôi : ‘Làm thế nào nước M đu hàng tương lai cho Nht Bn và làm thế nào đ giành li v thế' gii thích rng nước M chưa bao gi tưởng tượng phi x lý mt quc gia mà ‘công nghip và thương mi được t chc như mt phn của nỗ lc đt được các mc tiêu quc gia c th'. Khi tăng trưởng ca Nht Bn gim dn, nhng ni s hãi quá đà này cũng dn biến mt.

Trung Quốc ngày nay đt ra mt s thách thc mi, đc bit là quyết tâm ca ông Tp đ nhà nước đóng vai trò hàng đu trong việc giúp nước này chiếm ưu thế kinh tế trong các lĩnh vc quan trng. Nhưng li thế ln nht ca Trung Quc trong h thng thương mi toàn cu không đến t vic h sn sàng vi phm các quy tc mà t quy mô quá ln ca nó. Các quc gia và công ty mun tiếp cn th trường Trung Quc phi sn sàng nhượng b đ được tiếp cn. Điu này cũng không có gì bt thường. Các quc gia khác có sc mnh tương t thường có cách làm tương t hoc thm chí còn t hơn na mà cũng chng h hn gì. Mt báo cáo năm 2015 ca Credit Suisse tổng kết mt lot các rào cn phi thuế quan mà các nước ln áp đt trong khong thi gian t năm 1990 đến 2013 vi M gn như đng mt mình không nước nào bng. Tiếp theo là n Đ, sau đó là Nga. Trung Quc đng v trí th năm vi s lượng rào cản phi thuế quan ch bng mt phn ba ca M. Mi th đã không thay đi nhiu k t đó.

Hầu hết nhng thay đi gn đây trong chính sách kinh tế ca Bc Kinh đu tiêu cc, nhưng không phi toàn b đu là như vy. Ngay c khi ông Tp thiết lp tr li s kim soát nhà nước cht ch hơn, th trường t do đã ln mnh trong lĩnh vc hàng hóa và dch v tiêu dùng. Chính ph h tr nhiu hơn cho các doanh nghip nhà nước hơn so vi vài năm trước đây, nhưng Bc Kinh đã t b chính sách vn tng đóng vai trò trung tâm trong chiến lược thương mi ca h : phá giá đng tin t đ thúc đy tăng trưởng. Kinh tế gia Nicholas Lardy đã tính toán rng vic chm dt cách làm này ‘chu trách nhim đến phân na trong đà suy gim tăng trưởng ca Trung Quc k t cuc khng hoảng tài chính toàn cu'.

Theo ông Peter Navarro, cố vn thương mi hàng đu ca Tng thng Donald Trump, vn đ s mt trong tranh chp thương mi vi Trung Quc là ‘hành vi trm cp tài sn trí tu'. Vic Trung Quc có hành vi đánh cp tài sn trí tu tràn lan là một thc tế được tha nhn rng rãi. Mt kho sát gn đây Hi đng doanh nghip M-Trung thc hin cho thy bo v s hu trí tu đng th sáu trong danh sách các mi quan tâm cp bách ca các doanh nghip M hot đng Trung Quc, gim t v trí thứ hai năm 2014. Đó chính là năm mà Trung Quc đã thiết lp các tòa án chuyên môn đu tiên đ th lý các v án s hu trí tu. Trong năm 2015, các nguyên đơn nước ngoài đã đưa 63 v ra Tòa án S hu trí tu Bc Kinh và tòa đã phán phán quyết phn thng cho các công ty nước ngoài trong tt c 63 v.

Tất nhiên, nhng ci cách như thế này thường ch được thc hin khi đi mt vi áp lc ca phương Tây và, ngay c khi đó, chúng phc v li ích cnh tranh ca chính Trung Quc -hãng xin bng sáng chế ln nht thế gii năm ngoái là hãng vin thông khng l ca Trung Quc Huawei.

Cho Trung Quốc vai trò xng đáng ?

Còn về các din biến chính tr, mi vic là không th nghi ng. Trung Quc đã không m ca chính tr đến mc nhiu người mong đi ; trên thc tế h tiến tới đàn áp và kim soát cht ch hơn. S đi x tàn t ca Bc Kinh đi vi người Duy Ngô Nhĩ Tân Cương đã gây ra mt cuc khng hong nhân đo. Nhà nước cũng đã bt đu s dng các công ngh mi, như phn mm nhn dng khuôn mt và trí tu nhân to, đ tạo ra mt h thng kim soát xã hi toàn din. Tuy nhiên, s là cường điu khi cho rng chúng là bng chng cho s tht bi ca chính sách M. Trên thc tế, rt ít quan chc M tng lp lun rng vic can d s dn đến nn dân ch t do Trung Quc. H chỉ hy vng rng nó s xy ra, nhưng trng tâm ca h luôn là điu chnh hành vi bên ngoài ca Trung Quc, điu mà h đã thành công.

Dưới thi ông Tp, chính sách đi ngoi ca Trung Quc đã tr nên tham vng và quyết đoán hơn, t vic theo đui vai trò lãnh đo ti các cơ quan Liên Hp Quc đến Sáng kiến Vành đai và Con đường và bi đp đo nhân to Bin Đông. Nhng đng thái này đánh dấu s đon tuyt vi chính sách trước đó ca Bc Kinh trên vũ đài quc tế theo phương châm do cu lãnh đo Đng Tiu Bình đ li là ‘Giu mình ch thi'. Đc bit, quân đi Trung Quc được xây dng vi quy mô và được thiết lp theo cách cho thy h đang thực hin mt cách có h thng kế hoch dài hn. Nhưng đi vi M mc đ nh hưởng ca Trung Quc như thế nào là chp nhn vi trng lượng kinh tế ca h trên thế gii ? Nếu trước tiên Washington không đt ra câu hi này, h không th đưa ra nhng tuyên bố nghiêm túc rằng Trung Quc s dng quyn lc nào là vượt qua gii hn. Trung Quc, theo mt s tiêu chí, đã là nn kinh tế ln nht thế gii. Trong vòng mười đến 15 năm ti, nước này có th s chiếm được v trí này tính theo tt c các tiêu chí. Ông Đng đưa ra li khuyên ‘giu mình ch thi' khi nn kinh tế Trung Quc chiếm khong 1% GDP toàn cu. Ngày nay, nó chiếm hơn 15%. Trung Quc thc s đã ch đi thi cơ ca mình, và gi đây, mt Trung Quc mnh m hơn t nhiên s tìm kiếm vai trò ln hơn khu vực và toàn cầu.

Hoa Kỳ vào năm 1823 là được xem là quc gia đang phát trin theo tiêu chun bây gi, thm chí còn không nm trong s năm nn kinh tế hàng đu thế gii, và vi Hc thuyết Monroe, nước này đã tuyên b toàn b bán cu Tây là ‘không th đng đến' đối vi các cường quc Châu Âu. Trường hp ca M là li nhc nh rng khi các nước có được sc mnh kinh tế, h tìm kiếm s kim soát và nh hưởng ln hơn đi vi không gian ca h. Nếu Washington xem n lc tương t ca Trung Quc là nguy him, thì nước Mỹ s đi ngược li s vn đng t nhiên ca đi sng quc tế và rơi vào ‘cái by Thucydides', tc nguy cơ chiến tranh gia mt cường quc mi ni và cường quc hin trng.

Trung Quốc khó lòng là mi đe da mang tính sng còn đi vi trt t quc tế t do. Đối vi M, đi phó vi mt đi th như vy là mt thách thc mi. K t năm 1945, các quc gia mi vươn lên tr thành phn vinh và có đa v ni bt đu là nhng đng minh thân cn nht ca Washington như : Đc, Nht Bn và Hàn Quc. Tuy nhiên, Trung Quc không chỉ ln hơn nhiu so vi các nước đó mà nó còn nm ngoài cu trúc liên minh và phm vi nh hưởng ca M. Thách thc đi vi Hoa Kỳ và phương Tây nói chung là xác đnh phm vi có th chp nhn được đi vi nh hưởng ngày càng tăng ca Trung Quc và thích nghi với nó.

Cho đến nay, phương Tây đã hành đng rt kém đ thích nghi vi s tri dy ca Trung Quc. C Hoa Kỳ và Châu Âu đu không mun đ mt phn v tay Trung Quc trong các đnh chế kinh tế toàn cu ct lõi như Ngân hàng Thế gii và Qu Tin tệ Quốc tế. Trong nhiu năm, Trung Quc đã tìm kiếm vai trò ln hơn trong Ngân hàng Phát trin Châu Á, nhưng M đã chng li. Kết qu là vào năm 2015, Bc Kinh đã thành lp đnh chế tài chính đa phương ca riêng mình, Ngân hàng Đu tư Cơ s h tng Châu Á vốn gặp phi s phn đi ca Washington nhưng vô vng. Ngoi trưởng M Pompeo đã phát biu mt cách k c rng M và các đng minh phi kim gi Trung Quc ‘nơi thích hp ca h'. Ti li ca Trung Quc, theo ông Pompeo, là h chi cho quân đi nhiu hơn cần thiết đ phòng th. Nhưng M, Pháp, Nga, Anh và hu hết các nước ln khác đu làm như vy.

Trật t thế gii cũ mà các nước Châu Âu có trng lượng ln trên trường quc tế trong khi nhng quc gia khng l như Trung Quc và n Đ b loi khi hàng đu ca các tổ chc toàn cu là không th bn vng. Trung Quc s phi được dành cho v trí xng đáng và thc s được cơ cu vào các cu trúc ra quyết đnh, nếu không h s t hành đng và đơn phương to ra các đnh chế và trt t mi ca riêng mình. S vươn lên ca Trung Quc nm ly quyn lc toàn cu là nhân t mi quan trng nht trong h thng quc tế trong nhiu thế k.

Không đe dọa trt t thế gii như Nga ?

Đối vi nhiu người, s tri dy ca Bc Kinh đã gióng lên hi chuông báo t đi vi trt t quc tế t do được M thiết lp sau Đ nh Thế chiến, vn bao gm h thng da trên lut pháp giúp gim bt nguy cơ chiến tranh và to điu kin cho giao thương và nhân quyn phát trin. Tính cht chính tr ca Trung Quc, mt nhà nước đc đng vn không dung th chống đi hay bt đng chính kiến và mt s hành đng ca h trên quc tế khiến h tr thành mt thành viên không thoi mái trong trt t này. Tuy nhiên, cn nh rng trt t quc tế không bao gi t do, hoc có trt t tht s. Bn thân nước M cũng thường hành động bên ngoài các quy tc ca trt t này chng hn như h thường xuyên can thip quân s có hoc không có s chp thun ca Liên Hip Quc ; trong khong thi gian t năm 1947 đến 1989, khi M được cho là đang xây dng trt t quc tế t do, h đã tìm cách thay đổi chế đ 72 ln trên toàn thế gii. M cũng thc thi ch nghĩa bo h trong khi s v các bin pháp thương mi ôn hòa hơn ca các nước khác.

So với Nga, vn tìm cách phá v thế gii dân ch phương Tây và thường được hưởng li trc tiếp t sự bất n vì nó làm tăng giá du (ngun thu nhp ln nht ca Kremlin), Trung Quc không có vai trò như vy. Khi h tht s b cong các quy tc và tham gia vào chiến tranh mng, h đánh cp các bí mt quân s và kinh tế thay vì tìm cách phá hoi các cuc bu cử dân ch Hoa Kỳ hoc Châu Âu. Bc Kinh lo ngi bt đng và chng đi và đc bit nhy cm v Hong Kong và Đài Loan và s dng sc mnh kinh tế ca mình đ kim duyt các công ty phương Tây tr khi h đi theo đường li ca đng. Nhưng Bc Kinh làm như vậy là đ bo v điu mà h xem là ch quyn ch không ging như nhng n lc có h thng ca Moscow nhm phá hoi nn dân ch phương Tây.

Sự tri dy ca mt quc gia đc đng vn bác b các khái nim ct lõi v nhân quyn là mt thách thc. Các chính sách đàn áp của Bc Kinh đe da các yếu t ca trt t quc tế t do, như n lc h thp các chun mc nhân quyn toàn cu và hành x ca h Bin Đông. Nhng vn đ cn được xem xét mt cách trung thc. Trung Quc rt mun né tránh b đnh danh các vi phm nhân quyền và ngh trình đó cn được vch trn và chng li. Tuy nhiên, quyết đnh ca chính quyn Trump rút khi Hi đng Nhân quyn Liên Hip Quc li có tác dng ngược bng cách nhượng sân chơi li cho Bc Kinh.

Giả đnh cui cùng trong s đng thun mới là kiên trì đối đu vi Trung Quc s ngăn hành đng phiêu lưu ca h nước ngoài và to tin đ cho s thay đi bên trong. Tc là lp trường cng rn đi vi Trung Quc s buc nước này phi biết điu và thm chí phi ci cách. Trung tâm ca chiến lược diều hâu này là quan nim rng kim chế Trung Quc s dn đến s sp đ chế đ, ging như đã xy ra vi Liên Xô.

Nhưng Trung Quc không phi là Liên Xô, mt đế chế phi t nhiên được xây dng trên s bành trướng tàn bo và thng tr quân s. Trung Quc, Mỹ đi đu vi mt nn văn minh, và mt quc gia, vi ý thc đoàn kết và nim t hào dân tc mnh m. Trung Quc đang tr thành mt đng đng kinh tế ca M và thc s là nước đi đu v công ngh trong mt s lĩnh vc. Dân s ca h gp nhiu ln ca M là thị trường ln nht thế gii cho hu hết mi hàng hóa trên thế gii. Nó có tr lượng ngoi hi ln nht trên hành tinh.

Phụ thuc ln nhau

Lầu Năm Góc đã đưa ra khái nim Trung Quc là ‘đi th chiến lược' hàng đu. Nếu xem Trung Quc là k thù tc là nước M quay tr li thi đnh đim ca Chiến tranh Lnh, khi mà Lu Năm Góc có th tăng ngân sách rt nhiu bng cách thi phng bóng ma ca mt đi th vi quân đi rng rnh tin bc, tân tiến vi công ngh mũi nhn. Trong khi đó, kh năng răn đe ht nhân và sự thn trng ca các cường quc đm bo rng mt cuc chiến toàn din gia hai bên s không bao gi xy ra. Chi phí cho mt cuc chiến tranh lnh như vy vi Trung Quc s là vô cùng ln, làm biến dng nn kinh tế M.

Ngoài ra Mỹ và Trung Quc còn có sự ph thuc ln nhau. Xut khu ca M sang Trung Quc tăng 527% k t năm 2001 và trong năm 2018, Trung Quc là nhà cung cp hàng hóa ln nht cho M. Hàng trăm ngàn sinh viên Trung Quc đang hc tp ti Hoa Kỳ, cùng vi gn năm triu công dân M gc Hoa. Mỹ đã hưởng li rt nhiu t vic là nơi tp trung nhng b óc thông minh nht đ thc hin nghiên cu mũi nhn nht và sau đó áp dng nó vào mc đích thương mi. Nếu M cm ca nhng tài năng như vy ch vì h đến t Trung Quc, M s nhanh chóng mt vị thế đc quyn trong thế gii công ngh và sáng to.

Trong các vấn đ v công ngh, chiến lược ca chính quyn Trump là ct đt vi Trung Quc và buc phn còn li ca thế gii phi làm theo, chng hn trong lnh cm tp đoàn vin thông Huawei. Tuy nhiên, phần còn li ca thế gii không nghe theo vì M thiếu công ngh thay thế đ cnh tranh vi các sn phm 5G ca Huawei. Chính quyn Trump đã yêu cu 61quc gia cm ca Huawei nhưng cho đến nay ch có ba nước tham gia và đu là đng minh thân cn ca M. Trung Quốc là đi tác thương mi ln nht ca nhiu quc gia ngoài M, bao gm các nước ln Tây bán cu, chng hn như Brazil. Khi được hi h s phn ng thế nào v vic ct đt gia M và Trung, các nhà lãnh đo trên thế gii hu như đu đưa ra câu tr lời ging nhau là : ‘Đng yêu cu chúng tôi chn gia Hoa Kỳ và Trung Quc. Quý v s không thích câu tr li đâu'. Hơn na, nếu Trung Quc b cô lp thì h s xây dng chui cung ng và công ngh ni đa ca riêng mình và khi đó áp lc ca M s không làm gì được.

Trung Quốc cũng có thành phn cng rn như M. Nhng người này đã cnh báo trong nhiu năm rng M đang tìm cách kim chế Trung Quc. Lp trường ca Hoa Kỳ đi vi Trung Quc đang khiến cho thành phn diu hâu này chng t tm nh hưởng ca htừ đó cho h đòn by đ thúc đy hành vi quyết đoán và gây bt n – chính là điu mà M mun tránh.

Vấn đ là liu M có nên cnh tranh trong khuôn kh quc tế n đnh hay không và tiếp tc hi nhp Trung Quc thay vì c gng cô lp bng mi giá. Mt trt tự quc tế b phá v, b r đôi vi nhng hn chế nhm vào nahu và thuế vào thương mi, công ngh và du lch, s dn đến s gim sút thnh vượng, bt n dai dng và nguy cơ xung đt quân s trên toàn cu.

Khó lòng soán ngôi Mỹ ?

Nhận đnh ca nhà báo Fareed Zakaria cũng ging như ý kiến ca ông Richard Heydarian, phó giáo sư chính tr hc thuc Đi hc De La Salle, Philippines, ti mt bui tho lun bàn tròn mi đây Vin Hudson, Washington D.C., vi ch đ ‘Đy lùi Trung Quc ở khu vực n Đ Dương-Thái Bình Dương'.

Vị giáo sư này nói rng vic gìn gi hòa bình và n đnh Châu Á-Thái Bình Dương ‘không phi là vn đ đương đu hay loi b Trung Quc mà là đm bo chúng ta có th x lý s tri dy ca Trung Quc bng mt cách có thể chp nhn được và có li ích cho c hai bên'.

Ông dẫn li nhn đnh ca c Th tướng Singapore Lý Quang Diu, người mà ông cho rng ‘rt am hiu v Trung Quc, rng ‘s tri dy ca Trung Quc đt biến đến mc nó s thay đi bn thân trt t thế gii chỉ vì quy mô, tm nh hưởng và tham vng ca Trung Quc'.

"Chúng ta cảm thy điu này rt rõ khu vc Đông Nam Á", ông nói. "Đây không ch là mt cường quc mi ni khác mà chúng ta phi tìm cách cân bng mà là cường quc thay đi lut l ca cuc chơi".

Tuy nhiên, ông cho rằng M và thế gii không nên quá lo ngi v s tri dy ca Trung Quc vì theo ông lp lun, dù có tri dy đi na, Trung Quc cũng khó lòng soán ngôi M.

"Rất nhiu người có suy nghĩ sai lm rng Trung Quc sp vượt qua M vì quy mô GDP của h quá ln", ông nói. "Nhưng sc mnh ca mt nước không ch đơn thun là quy mô ca nn kinh tế mà còn là tài nguyên, là ngun nhân lc, là mc sng và là kh năng có được công ngh ca nước đó".

Ông đưa ra dn chng là trong mt lĩnh vc mũi nhn là công nghệ sinh hc ‘M hin đi trước Trung Quc khá xa'.

"Nhiều người hong s vì Trung Quc đang cho ra lò đến mt triu khoa hc gia mi năm. Nhưng vn đ là cht lượng ca các khoa hc gia này, h có t l trích dn và bài báo đăng trên các tp chí ISI đến đâu", ông phân tích.

Một lý do na mà Trung Quc khó lòng giành ly v trí lãnh đo thế gii ca M là ‘người dân khp khu vc Châu Á-Thái Bình Dương vn mun M là nước lãnh đo nhiu hơn Trung Quc mc dù đã có nhng nghi ng v chính quyn Trump.

Ông cho biết v mt chính thc lãnh đo các nước Đông Nam Á hoan nghênh các khon đu tư ca Trung Quc trong khôn kh Ý tưởng Vành đai-Con đường nhưng ‘trong hu trường có rt nhiu nghi ngi t phía các chuyên gia và các quan chc chính ph'.

Ông cũng chỉ ra rng trong lĩnh vc xây dng cơ s h tng mà ông cho là tuyến đu ca cuc cnh tranh đa chính tr, nh hưởng ca Trung Quc Đông Nam Á không ln như nhiu người tưởng mà tht ra Nht Bn mi là người dn đu.

"Nếu nhìn vào Đông Nam Á thì Nht có nhiều d án xây dng cơ s h tng hơn Trung Quc", ông nói và cho biết nhng nước có tranh chp ch quyn vi Trung Quc trên Bin Đông như Vit Nam và Philippines, Nht Bn là nước dn đu trong đu tư vào cơ s h tng, b xa các nước khác.

Ông cho biết Vit Nam, Nht hin có 74 d án cơ s h tng so vi ch 24 d án ca Trung Quc.

Nguồn : VOA, 11/12/2019

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Phạm Phú Khải, Fareed Zakaria
Read 681 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)