Theo trang mạng Asia Times hôm nay, 19/05/2020, Quốc vụ viện (chính phủ) Trung Quốc vừa công bố một số điểm chính trong tài liệu chuẩn bị cho cuộc họp của Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, sẽ diễn ra ở Bắc Kinh vào thứ Năm 21/05. Tài liệu tập trung vào chiến lược đưa Trung Quốc đến một "Thời đại mới" và phát triển các vùng phía tây nước này.
Chủ tịch Trung Quôc Tập Cận Bình tham dự - qua video hội nghị - một cuộc họp quốc tế. Ảnh chụp từ màn hình ngày 18/05/2020. AFP -
Các vùng phía tây Trung Quốc, như Tân Cương, còn tương đối kém phát triển, ngoài công nghiệp khai thác khí đốt và khoáng sản. Đây cũng là nơi mà sắc tộc thiểu số Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ bị chính quyền Bắc Kinh đàn áp dữ dội để ngăn chặn xu hướng ly khai. Trung Quốc cũng đang mở rộng ảnh hưởng sang các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ giáp ranh vùng Tân Cương.
Theo Asia Times, tài liệu chuẩn bị cho Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc gồm 33 điểm. Sáng kiến Một vành đai, Một con đường (BRI) không còn là một trong những ưu tiên hàng đầu nữa, mà ưu tiên được dành cho việc xóa nghèo đói, duy trì trật tự xã hội và mở rộng phát triển các cảng nước sâu ở Trung Quốc và nước ngoài. Có vẻ như chủ thuyết chính của các lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã chuyển từ "Giấc mơ Trung Hoa" của chủ tịch Tập Cận Bình sang chủ thuyết về một "Thời đại mới", bao gồm một khái niệm mới về an ninh quốc gia, dựa nhiều vào công nghệ cao.
Ngoài việc tập trung phát triển các vùng phía tây, tài liệu của Quốc vụ viện Trung Quốc còn hứa sẽ xây dựng hàng loạt khu công nghiệp mới, chăm sóc người già tốt hơn và bảo đảm tốt hơn vấn đề nhà ở cho người dân.
Theo nhận xét của Asia Times, tài liệu này phản ánh một sự chuyển hướng của Trung Quốc trong bối cảnh nước này vẫn đang đối phó với dịch Covid-19 và đang có nhiều căng thẳng quốc tế. Chiến lược này hướng nhiều hơn vào trong nước và đề cao khái niệm "Thời đại mới" trong bối cảnh thế giới đang cố tìm ra một mô hình phát triển mới.
Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, cơ quan cố vấn chính trị của Trung Quốc, đã khai mạc cuộc họp từ hôm 18/05 và đến thứ Năm 21/05, Ủy ban Toàn quốc của cơ chế này sẽ họp lại để chính thức thông qua các khuyến nghị.
Thanh Phương
Đại dịch Covid-19 là cơ hội cho nỗ lực của Trung Quốc nhằm kéo các nước Đông Nam Á lại gần hơn về phía mình. Vì vậy, trong việc xử lý xung đột ở Biển Đông, hành động cho để nhận và một cử chỉ hào phóng nào đó có thể là cách thức hữu hiệu để Bắc Kinh giành được lòng tin và sự tôn trọng từ các nước láng giềng nhỏ hơn.
Tập trận trên Biển Đông giữa hải quân Mỹ và Nhật Bản - Ảnh minh họa (c7f.navy)
Đối với các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang phải vật lộn với dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona gây ra (Covid-19), việc Trung Quốc hứa hẹn cung cấp 100 triệu khẩu trang và 10 triệu bộ quần áo bảo hộ, cùng với các trang thiết bị y tế hết sức cần thiết khác, là một điều may mắn bất ngờ. Việc cung cấp những trang thiết bị này, qua kênh viện trợ và kênh thương mại, đã được Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường cam kết tại Hội nghị trực tuyến đặc biệt mới đây giữa ASEAN và 3 đối tác khu vực – Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Một động thái khác đáng hoan nghênh là việc Trung Quốc cam kết xây dựng cơ sở phục hồi sau Covid-19 với số vốn ban đầu trị giá 5 tỷ USD theo đề xuất của Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) do nước này dẫn dắt.
Tuy nhiên, cũng có những động thái không được hoan nghênh như việc các tàu cá Trung Quốc, được các tàu của lực lượng Cảnh sát biển nước này hộ tống, đã đi vào vùng biển xung quanh quần đảo Natuna của Indonesia hồi tháng 2 vừa qua, và việc một tàu khảo sát của Trung Quốc, được nhiều tàu khác hộ tống, mới đây đã đi vào vùng biển tranh chấp ở Biển Đông, gần Việt Nam, Brunei và Malaysia. Ngoài ra, đầu tháng 4, một tàu cá của Việt Nam đã bị đâm chìm ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp sau khi va chạm với một tàu Hải cảnh Trung Quốc, với việc hai bên cùng cáo buộc đối phương đâm vào tàu của mình.
Việt Nam, Brunei và Malaysia cùng với nước thân hữu trong khối ASEAN là Philippines đã có những tuyên bố chủ quyền cạnh tranh với Trung Quốc đối với các cấu trúc địa hình khác nhau ở vùng biển đông đúc và giàu tài nguyên này. Trung Quốc và Indonesia không có các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ chồng lấn, nhưng Bắc Kinh khẳng định vùng biển xung quanh quần đảo Natuna là khu vực đánh cá truyền thống của Trung Quốc và ngư dân của họ có quyền đánh cá ở đó, cho dù khu vực này nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Indonesia.
Việc Trung Quốc khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông vào thời điểm các nước trong khu vực đang phải vật lộn với đại dịch và dễ bị tổn thương chắc chắn sẽ khiến ASEAN lo ngại, cho dù họ đang hào hứng tiếp nhận sự giúp đỡ y tế từ người láng giềng khổng lồ này.
Trong khi các nước khác vẫn đang trong vòng vây đại dịch, tình hình dịch bệnh tại Trung Quốc đã thuyên giảm và nền kinh tế nước này đã bắt đầu bước vào tiến trình tái khởi động. Đây là thời điểm thuận lợi để Trung Quốc nắm lấy cơ hội mà đại dịch mang lại nhằm cải thiện quan hệ với khu vực Đông Nam Á vốn đang trong trạng thái căng thẳng do những tranh chấp lãnh thổ những năm gần đây, như họ đã làm trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997-1998. Tuy nhiên, những hành động gây sức ép cùng những tuyên bố chủ quyền trên biển vào thời điểm này đã làm cho những nỗ lực của Bắc Kinh trở nên vô ích.
Giành được thiện cảm trong khủng hoảng
Trong những năm trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á đã bị hủy hoại bởi những tranh chấp lãnh thổ giữa họ ở Biển Đông. Điều này bắt đầu vào năm 1995, khi Philippines phát hiện ra rằng Hải quân Trung Quốc đã và đang xây dựng các cấu trúc cố định trên Đá Vành Khăn (Mischief Reef), một đảo san hô vòng cách hòn đảo Palawan của Philippines 217 km. Đảo san hô này đều được Trung Quốc, Philippines, Việt Nam và Đài Loan tuyên bố chủ quyền.
Trung Quốc nói rằng họ xây dựng các cấu trúc này làm nơi cư trú cho các ngư dân, nhưng trên thực tế đó là hành động chiếm đóng đảo san hô này. ASEAN nhận được nhiều lời cảnh báo tới mức các ngoại trưởng trong khối đã phải họp tại Singapore để đưa ra tuyên bố chung bày tỏ lo ngại sâu sắc trước diễn biến tình hình và kêu gọi sớm đưa ra giải pháp.
Tuy nhiên, đến cuối những năm 1990, mọi việc giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ASEAN đã thay đổi. Yếu tố làm thay đổi cuộc chơi là cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á. Việc đồng tiền các nước trong khu vực, trong đó có Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Singapore, thay nhau mất giá đã dẫn đến suy thoái kinh tế trên toàn khu vực.
Trong lúc các cường quốc phương Tây như Mỹ còn chậm chạp trong việc dang tay giúp đỡ, Bắc Kinh đã làm được một số việc và giành được thiện cảm của các quốc gia chịu tác động của khủng hoảng. Thứ nhất, Bắc Kinh đã không phá giá đồng nhân dân tệ cho dù điều này có thể giúp bảo vệ tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu từ Trung Quốc so với hàng xuất khẩu từ các nước chịu tác động của khủng hoảng, bởi vậy tránh gây thêm sức ép cho những nền kinh tế này. Thứ hai, Trung Quốc đã viện trợ 4 tỷ USD cho các nước trong khu vực thông qua Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) – tổ chức này đã cung cấp các khoản vay để ổn định các nền kinh tế gặp khó khăn – và thông qua các kênh song phương.
Đồng thời, theo các nhà phân tích, trong cuộc khủng hoảng tài chính này, Trung Quốc cũng có cách tiếp cận linh hoạt, bớt hung hăng đối với những tranh chấp ở Biển Đông. Trong khi trước đó Bắc Kinh từ chối tiến hành các cuộc đàm phán bất chấp lời kêu gọi từ các nước ASEAN, thì vào năm 1999 Trung Quốc đã bắt đầu đối thoại với ASEAN về vấn đề Biển Đông. Kết quả của những cuộc đàm phán này là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 không mang tính ràng buộc. Tuyên bố này đặt ra các tiêu chuẩn về hành vi ứng xử để duy trì hòa bình ở những vùng biển tranh chấp. Đây cũng là khúc dạo đầu cho Bộ quy tắc ứng xử (COC) mang tính ràng buộc pháp lý để giải quyết các tranh chấp.
Trong bầu không khí nồng ấm hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính, Trung Quốc và ASEAN cũng đã bắt đầu tiến hành các cuộc đàm phán vào năm 2000 về một thỏa thuận thương mại tự do, nhất trí về thỏa thuận khung vào năm 2002. Năm 2003, hai bên cũng đã bước vào mối quan hệ đối tác chiến lược. Sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á là một thập kỷ quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN trở nên gần gũi hơn bao giờ hết trong khi những tranh chấp lãnh thổ được xếp lại và hai bên thăm dò khả năng cùng phát triển các khu vực tranh chấp. Điều này diễn ra vào thời điểm Mỹ đang bận rộn với cuộc chiến chống khủng bố ở Iraq, Afghanistan và ít can dự hơn vào khu vực Đông Nam Á.
Những tranh chấp quay trở lại
Tuy nhiên, những tranh chấp ở Biển Đông đã quay trở lại. Năm 2009, Malaysia và Việt Nam cùng đệ trình lên Liên hợp quốc kiến nghị về việc mở rộng thềm lục địa của họ theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Trung Quốc đã bác bỏ kiến nghị này với lập luận rằng họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các hòn đảo Biển Đông và các vùng biển gần kề khi đưa ra tấm bản đồ "đường 9 đoạn" đáng hổ thẹn bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông.
Căng thẳng gia tăng đã dẫn tới những xung đột như cuộc đối đầu năm 2012 giữa tàu giám sát của Trung Quốc và Hải quân Philippines ở bãi cạn Scarborough và cuộc đối đầu năm 2014 giữa các tàu của Việt Nam và Trung Quốc ở vùng biển ngoài khơi bờ biển Việt Nam sau khi Trung Quốc triển khai một giàn khoan dầu ở khu vực này.
Về kinh tế, Trung Quốc đã cạnh tranh với một số nước thành viên ASEAN về đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, Thỏa thuận thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc dường như đem lại cho Trung Quốc nhiều lợi ích hơn so với một số nước thành viên ASEAN, khiến những nước này không hài lòng.
Việc Trung Quốc xây dựng các hòn đảo nhân tạo trên các bãi đá và đảo san hô cũng như đặt các cơ sở quân sự trên những hòn đảo này đã làm gia tăng căng thẳng. Mặc dù các bên tuyên bố chủ quyền khác như Việt Nam và Philippines cũng tiến hành cải tạo và quân sự hóa các đảo mà họ chiếm giữ, nhưng quy mô và mức độ cải tạo và quân sự hóa của Trung Quốc lớn hơn rất nhiều, gây lo ngại không chỉ cho các nước thành viên ASEAN mà còn cho các cường quốc khác như Mỹ và Nhật Bản.
Tuy nhiên, sau khi Tòa Trọng tài đưa ra phán quyết năm 2016 bác bỏ những tuyên bố chủ quyền lịch sử của Trung Quốc ở Biển Đông, và khi tình trạng đối địch giữa Trung Quốc và Mỹ gia tăng dưới thời Tổng thống Donald Trump, Bắc Kinh đã tìm cách đàm phán về COC với ASEAN, điều mà họ đã trì hoãn trong nhiều năm. Hai bên đã đạt được một số tiến bộ với việc nhất trí về bản dự thảo vào năm 2019.
Việc Trung Quốc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong khu vực những năm gần đây thông qua sáng kiến "Vành đai và Con đường" cũng đã góp phần cải thiện quan hệ kinh tế giữa hai bên. Giờ đây, với sự bùng phát của dịch Covid-19, Trung Quốc một lần nữa có cơ hội để cải thiện quan hệ và gia tăng ảnh hưởng đối với khu vực Đông Nam Á, như họ đã làm trong năm 1997.
Trung Quốc đã cam kết cung cấp trang thiết bị y tế và cử các chuyên gia y tế đến một số nước ASEAN. Tuy nhiên, Bắc Kinh có thể làm nhiều hơn thế. Mặc dù cũng phải vật lộn với dịch bệnh trong nước vẫn chưa đạt đỉnh nhưng Mỹ, đối thủ của Trung Quốc trong khu vực, vẫn đang trợ giúp cho khu vực Đông Nam Á cả về chuyên gia lẫn tài chính. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ, có văn phòng ở 6/10 nước ASEAN, đang hỗ trợ và tư vấn các nước về cách thức đối phó với đại dịch.
Mỹ cũng đã cam kết viện trợ 18,3 triệu USD cho các nước ASEAN để giúp các nước này chuẩn bị các phòng thí nghiệm có thể tiến hành xét nghiệm trên quy mô lớn, tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin về nguy cơ dịch bệnh, thực hiện các kế hoạch đối phó với tình huống khẩn cấp liên quan đến sức khỏe cộng đồng tại các điểm kiểm soát biên giới, đào tạo và trang bị lực lượng phản ứng nhanh trong điều tra và truy vết tiếp xúc, cùng nhiều hoạt động khác.
Phó giáo sư Lý Minh Giang thuộc Trường nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam, Đại học công nghệ Nanyang, Singapore cho rằng Trung Quốc có thể trợ giúp về kỹ thuật và công nghệ cũng như tài chính. Nước này cũng có thể giúp xây dựng các cơ sở y tế như các bệnh viện dã chiến đã được triển khai nhanh chóng ở thành phố Vũ Hán, tâm dịch của Trung Quốc trong thời gian vừa qua.
Mặc dù đại dịch cũng đem lại cơ hội để Trung Quốc khẳng định tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình, nhưng hành động này sẽ là phản tác dụng sau những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm kéo khu vực này đến gần quỹ đạo của mình hơn. Ngày càng có nhiều người ở Châu Á lo ngại việc Trung Quốc có thể tận dụng thời điểm dịch bệnh đang tác động đến các lực lượng tiền tuyến của Mỹ trong khu vực để đẩy nhanh những tham vọng của mình ở Đông Nam Á. Tàu sân bay Theodore Roosevelt của Mỹ, được triển khai ở Thái Bình Dương, đã bị dịch bệnh tấn công, với hàng trăm ca nhiễm trong đoàn thủy thủ 5.000 người.
Ông Lye Liang Fook, chuyên gia Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore cho rằng nếu Trung Quốc muốn gây ảnh hưởng đối với Đông Nam Á thay vì chỉ chi phối khu vực này thông qua sức mạnh tuyệt đối của mình, thì họ cần phải nhạy cảm hơn với những lo ngại và lợi ích của các nước trong khu vực.
Trong việc xử lý xung đột ở Biển Đông, hành động cho để nhận và một cử chỉ hào phóng nào đó có thể là cách thức hữu hiệu để Bắc Kinh giành được lòng tin và sự tôn trọng từ các nước láng giềng nhỏ hơn. Do đó, thay vì tranh giành với ngư dân của khu vực trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, hay đuổi các ngư dân nước ngoài ở các vùng biển tranh chấp và thanh minh cho những hành động như vậy bằng lập luận rằng đây là những vùng biển đánh cá truyền thống của ngư dân Trung Quốc (chúng cũng là những vùng đánh cá truyền thống của các ngư dân ở các nước xung quanh những vùng biển này), Bắc Kinh có thể bắt đầu bằng việc thăm dò khả năng ký kết các thỏa thuận đánh cá với các nước ASEAN.
Kể từ thời điểm có được một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc – chứ không phải một bộ quy tắc ứng xử không mang tính ràng buộc được Bắc Kinh ủng hộ – có tính bao trùm nhằm duy trì các vùng biển mở đến khi đạt được mục tiêu duy trì ổn định và hòa bình ở Biển Đông sẽ là một chặng đường dài.
Minh Anh giới thiệu
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 19/05/2020
Goh Sui Noi, biên tập viên Đông Á, phóng viên cao cấp tại The Straits Times. Bài viết được đăng trên báo The Straits Times.
Lời tòa soạn : Thư ngỏ sau đây của một trí thức Thương Hải, ông Trương Tuyết Trung (Zhang Xuezhong) gửi các "đại biểu quốc hội" Trung Quốc cho thấy một chế độ không khác gì Việt Nam. Đồng ý hay không với việc đề nghị một cơ quan bù nhìn là một viêc đúng đắn tùy suy nghĩ của mỗi người. Cảm ơn ông Phạm Đình Bá đã dịch và gửi cho Thông Luận.
NVH
******************
Bắt đầu một quá trình xây dựng hiến pháp của công dân và phấn đấu để đạt được một sự chuyển đổi chính trị trong hòa bình
Gởi tới các đại biểu tham dự Phiên họp thứ ba của Đại hội Nhân dân Quốc gia của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lần thứ 13
Tác giả Zhang Xuezhong
Kính gửi các đại biểu,
Tên tôi là Zhang Xuezhong, và tôi là một công dân Trung Quốc sống ở Thượng Hải. Xin chào các bạn tham dự phiên họp thứ ba của Đại hội Nhân dân Quốc gia lần thứ 13 bắt đầu vào ngày 22 tháng 5 năm 2020. Mặc dù tôi không biết cá nhân bạn, nhưng tôi biết rằng nhiều bạn đã đạt được sự xuất sắc trong công việc của bạn, vì vậy tôi rất ngưỡng mộ bạn.
Tuy nhiên, sự ngưỡng mộ đối với hoạt động chuyên môn cá nhân của bạn không có nghĩa là tôi công nhận tính hợp pháp của bạn với tư cách là đại diện của người dân Trung Quốc. Vì hai lý do chính sau : tôi không đồng ý coi bạn là đại diện hợp pháp của người dân Trung Quốc, tôi cũng không nghĩ rằng Đại hội Nhân dân Quốc gia là một cơ quan đại diện hợp pháp.
Đầu tiên, bạn không phải là đại biểu (đại diện chính đáng) do người dân Trung Quốc tự do bầu chọn. Hệ thống đại diện chính trị hiện đại dựa trên nguyên tắc chủ quyền phổ biến. Mặc dù các đại diện trong cơ quan đại diện quốc gia cần có sự độc lập nhất định với cử tri khi thực hiện quyền hạn của mình, nghĩa là khi tiến hành các cuộc thảo luận và quyết định ; quyền hạn đại diện của họ phải bắt nguồn từ tư cách đại biểu và ủy thác từ công dân. Do đó, nó phải được tạo ra thông qua các cuộc bầu cử định kỳ, tự do và cạnh tranh. Nhưng tư cách đại diện của bạn không thông qua các cuộc bầu cử công bằng. Trong thực tế, không có cuộc bầu cử như vậy tồn tại ở nước ta.
Ngoài ra, các cơ quan đại diện thực sự phải trải qua các thủ tục tranh luận cần thiết khi đưa ra chính sách công. Tranh luận không chỉ giúp công chúng hiểu được những ưu và nhược điểm của luật pháp và chính sách, và do đó cải thiện chính sách công, mà còn bảo vệ quyền của người dân để được biết về quy trình và nội dung ra quyết định. Nhưng không bao giờ, trong tất cả những năm này, người dân thấy bạn tiến hành các cuộc tranh luận về các vấn đề chính sách. Hiệu suất của bạn trong các cuộc họp giống như một phòng có người máy chỉ biết cách giơ tay, thay vì đại diện chính đáng cho quyền lợi của dân, nghiêm túc và có lương tâm.
Thứ hai, hiến pháp hiện tại cung cấp nền tảng cho việc tạo ra và thực thi các quyền lực của Đại hội Nhân dân Quốc gia, nhưng nó hoàn toàn không phải là một hiến pháp. Một hiến pháp hiện đại là một tài liệu pháp lý thực hiện chủ quyền phổ biến. Một mặt, chủ quyền phổ biến có nghĩa là tất cả công dân nắm giữ quyền lực chính trị cao nhất trong một quốc gia. Mặt khác, một số lượng lớn các công dân phân tán mọi nơi trên đất nước cho thấy họ không thể đích thân và trực tiếp thực hiện việc quản trị quốc gia. Do đó, họ phải tạo ra một chính phủ đại diện và bầu các nhân viên trong chính phủ để thực hiện công việc quản trị hàng ngày. Chính sự tách rời chủ quyền từ dân và quyền quản trị của chính phủ đã tạo nên sự cần thiết phải có hiến pháp. Tất cả công dân tham gia vào việc xây dựng một hiến pháp bằng văn bản để tạo ra, giới hạn, điều chỉnh và hạn chế các cơ quan chính phủ và quyền hạn của chính phủ, sau đó công dân bầu, giám sát và kiểm soát các nhân viên chính phủ theo các thủ tục được quy định trong hiến pháp.
Hiến pháp phải là sản phẩm của ý chí chính trị của tất cả mọi người ; đó là sự ổn định và chuyển đổi thành dạng văn bản của ý chí chính trị quốc gia. Khi tất cả các công dân với tư cách là chủ quyền không thể có mặt trực tiếp, hiến pháp sẽ thay thế công dân trong phạm vi chính trị của cộng đồng để quản trị và bảo vệ - sử dụng thẩm quyền pháp lý tối cao của cộng đồng để giám sát và cảnh báo tất cả các tổ chức công cộng và nhân viên nhà nước - bằng cách nhắc nhở nhân viên nhà nước họ không được quên trách nhiệm của họ ngay cả trong một khoảnh khắc và rằng họ không được lạm dụng quyền lực được trao cho họ.
Vì hiến pháp cần phản ánh ý chí chính trị của mọi công dân, nên việc xây dựng và sửa đổi nó phải bao gồm một giai đoạn tham gia của mọi người, đây là yếu tố quyết định và có thẩm quyền của quá trình. Sự tham gia như vậy có thể là trực tiếp, ví dụ, một cuộc trưng cầu dân ý quốc gia của toàn dân được sử dụng để xác định xem một dự thảo hiến pháp hoặc sửa đổi hiến pháp sẽ có hiệu lực. Sự tham gia cũng có thể là gián tiếp, ví dụ, với mục đích soạn thảo hoặc sửa đổi hiến pháp, toàn bộ công dân có thể bỏ phiếu để bầu một hội đồng đặc biệt để soạn thảo hiến pháp và cho phép hội đồng trực tiếp thông qua hoặc sửa đổi hiến pháp. Điểm mấu chốt ở đây là các tổ chức chính phủ (bao gồm cả các cơ quan lập pháp) do hiến pháp tạo ra có thể trở thành cơ quan có thẩm quyền để soạn thảo, thông qua hoặc sửa đổi hiến pháp. Nói cách khác, quyền lực để tạo ra hiến pháp (quyền lực cấu thành) và quyền lực được tạo ra bởi hiến pháp (quyền lực được cấu thành) phải được tách ra, nếu không, hiến pháp không thể đóng vai trò hạn chế, điều chỉnh và hạn chế quyền lực của chính phủ (quyền hành pháp).
Tuy nhiên, việc xây dựng bản "hiến pháp" hiện tại ở Trung Quốc không bao gồm các thủ tục cho sự tham gia của công dân. Đại hội Nhân dân Quốc gia, ban đầu soạn thảo hiến pháp, không được mọi người dân tự do bầu chọn, và do đó, đây không phải là cơ quan đại diện hợp pháp có thể thực hiện ý chí chính trị của công dân. Hơn nữa, Đại hội Nhân dân Quốc gia không phải là một cơ quan lập hiến đặc biệt mà là một cơ quan cấu thành có quyền lực được tạo ra và thực hiện theo các quy định của "hiến pháp". Do đó, một vòng luẩn quẩn vô lý đã xuất hiện : một mặt, Đại hội Nhân dân Quốc gia là một cơ quan lập pháp hàng ngày, thông thường (một trong những nhánh của chính phủ) mà sự sáng tạo và hoạt động phải được quy định bởi hiến pháp ; mặt khác, Đại hội Nhân dân Quốc gia là cơ cấu tạo ra hiến pháp và có thể tự mình xây dựng và sửa đổi hiến pháp. Theo cách này, Đại hội Nhân dân Quốc gia vừa được tạo ra bởi hiến pháp vừa là người tạo ra hiến pháp, giống như một người vừa là cha vừa là con của một người khác ! Hơn nữa, trong trường hợp đầu tiên, hiến pháp được sử dụng bởi tất cả các công dân để kiềm chế tất cả các cơ quan chính phủ (bao gồm cả các cơ quan lập pháp), nhưng nếu các cơ quan lập pháp thông thường có thể tự mình xây dựng và sửa đổi hiến pháp thì hiệu ứng ràng buộc đó sẽ bị mất hoàn toàn.
Ngoài ra, hiến pháp hiện tại, một mặt quy định rằng tất cả quyền lực thuộc về người dân, và mặt khác, nó quy định sự lãnh đạo thường trực của một đảng chính trị duy nhất. Điều này cũng nghịch lý : nếu tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân không có nghĩa vụ phải chấp nhận sự lãnh đạo của một đảng chính trị nào đó, và nếu người dân phải chấp nhận sự lãnh đạo của một đảng chính trị nào đó, thì không thể nói rằng tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Điều này đơn giản là vô lý.
Với một ngoại lệ, hiến pháp liên bang Hoa Kỳ là hiến pháp thành văn hiện đại đầu tiên trong lịch sử loài người. Với việc thực hiện thành công hiến pháp này, ngày càng nhiều người bắt đầu nhận ra vai trò của hiến pháp trong việc hạn chế quyền lực của chính phủ và đảm bảo quyền của công dân. Nhiều chính phủ bắt đầu sao chép hiến pháp Hoa Kỳ và xây dựng các hiến pháp riêng dựa trên các nguyên tắc chính trị tương tự, từ đó thiết lập một hệ thống hiến pháp ở các quốc gia.
Trong quá trình này, hiến pháp dần dần trở thành một thuật ngữ tích cực, ngay cả những chế độ hoàn toàn không đồng ý với các nguyên tắc chính trị hiện đại (những nguyên tắc chính trị này không thể tách rời khỏi khái niệm hiến pháp hiện đại), bắt đầu đưa ra các tài liệu gọi là "hiến pháp". Các chế độ đầu tiên để làm điều này là một số chế độ quân chủ chuyên chế (chẳng hạn như nước Phổ vào thế kỷ 19) : quốc vương, với tư cách là chủ quyền tối cao, ban cho công dân một "hiến pháp", thể hiện ý chí của quốc vương. Sau đó, một số quốc gia có một đảng độc quyền gom góp tất cả quyền lực chính trị cũng làm như vậy (chẳng hạn như Liên Xô cũ và Triều Tiên hiện tại) : đảng cầm quyền áp đặt cho nhân dân một "hiến pháp" phản ánh ý chí của đảng, và quy định trong "hiến pháp", tình trạng cầm quyền vĩnh viễn của chính đảng cầm quyền. Trong lĩnh vực luật hiến pháp, những thứ như vậy được gọi là "hiến pháp" giả, vì họ sử dụng thuật ngữ "hiến pháp trực tuyến" để cung cấp sự bảo vệ cho các chế độ độc đoán không phù hợp với hiến pháp hiện đại.
Thật không may, "hiến pháp" hiện tại của Trung Quốc, là một hiến pháp giả. Hiến pháp phải là sự thể hiện ý chí chính trị của tất cả mọi người - những người không trực tiếp quản trị chính phủ - thay vì ý chí chính trị của một quốc vương hay một đảng chính trị nào đó. Một trong những chức năng cơ bản của hiến pháp là đảm bảo sản xuất và thay thế quyền lực nhà nước liên tục ; đó là cung cấp các nguyên tắc rõ ràng và ổn định và khuôn khổ thể chế cho cạnh tranh chính trị và hình thành chính sách hàng ngày, từ đó cho phép cạnh tranh chính trị trong hòa bình và mang lại sự văn minh trong đời sống chính trị cộng đồng.
Hiến pháp là một phương tiện hợp pháp hóa các hoạt động chính trị. Vai trò của hiến pháp không phải là loại bỏ các hoạt động chính trị, mà là điều chỉnh các hoạt động chính trị, và cho phép tất cả các hoạt động khác biệt và tranh chấp chính trị được giải quyết, trong các nguyên tắc và khuôn khổ được tất cả các bên đồng ý, và từ đó, có thể thực hiện quy tắc dựa trên lý luận, tạo ra các giải pháp qua thảo luận. Trong khuôn khổ hiến pháp, người dân không còn sử dụng vũ lực như một phương tiện để giành chính quyền. Bên thua sẽ không những không bị loại mà còn có cơ hội chiến thắng trong tương lai. Các nguyên tắc và khuôn khổ do hiến pháp đưa ra để giải quyết tranh chấp chính trị cho phép những người với niềm tin và lợi ích khác nhau trải nghiệm một ý thức chung và giá trị cộng đồng, do đó giúp duy trì sự thống nhất của cộng đồng chính trị và liên tục củng cố sự thống nhất và hòa hợp trong toàn bộ xã hội.
Để làm được điều này, các ràng buộc hiến pháp đối với quyền lực cai trị phải đầy đủ và toàn diện, nghĩa là toàn bộ quá trình sáng tạo, vận hành và thay thế quyền lực phải được điều chỉnh và qui định rõ ràng. Nếu một quốc vương hay một đảng chính trị có thể áp đặt "hiến pháp" của họ lên toàn quốc gia và sử dụng "hiến pháp" để độc quyền vĩnh viễn quyền lực chính trị, điều đó có nghĩa là họ đã kiểm soát quyền lực chính trị trước khi hiến pháp được soạn thảo, và họ cũng phải kiểm soát một lực lượng vũ trang có tổ chức. Tuy nhiên, theo cách này, sự cai trị của họ được xây dựng không phải dựa trên hiến pháp, mà chỉ dựa trên việc sử dụng vũ lực. Một hiến pháp khác như vậy đơn giản là không thể áp đặt sự kiềm chếquyền lực ; ngược lại, hiến pháp chỉ có thể được sử dụng bởi những người có quyền lực như một đối tượng để khai thác, bỏ bê, coi thường và thay đổi một cách tùy tiện. Một hiến pháp như vậy, dĩ nhiên, chỉ có một hiến pháp giả.
Các đại biểu, giống như bạn không phải là đại diện thực sự của nhân dân, bản hiến pháp hiện tại không là một hiến pháp thực sự. Nó không phải là một luật cơ bản được người dân Trung Quốc sử dụng để tạo ra và điều chỉnh quyền lực của chính phủ, mà chỉ là một hướng dẫn vận hành được sử dụng bởi đảng cầm quyền để hình thành và vận hành quyền lực của chính họ.
Một quốc gia không thể hiện đại hóa hệ thống chính trị và quản trị xã hội thông qua hiến pháp giả. Một quốc gia hiện đại về chính trị là một quốc gia mà quyền công dân được bảo đảm một cách đáng tin cậy. Nhưng ở nước ta, người dân không chỉ bị tước quyền tham gia chính trị, họ không thể tự do bầu các nhân viên chính quyền các cấp, và họ còn thiếu sự bảo vệ hiệu quả quyền sở hữu và quyền cá nhân.
Ví dụ, một khu dân cư tư nhân hoàn toàn hợp pháp ban đầu đã biến thành các tòa nhà bất hợp pháp chỉ sau một đêm mà bị buộc phải phá hủy, đơn giản là vì chính phủ đã ban hành một tài liệu quy hoạch mới. Cơ quan công quyền có thể sử dụng lý do để trấn áp các hoạt động tội phạm để tự ý chiếm đoạt tài sản hợp pháp của các doanh nghiệp. Ở một số nơi, chính phủ thậm chí còn loại bỏ mạnh mẽ và dã man những ngôi mộ của người dân tổ tiên hoặc tháo dỡ những cây thánh giá từ mái nhà thờ được xây dựng hợp pháp.
Một ví dụ khác là do hệ thống thỉnh nguyện được pháp luật quy định, kiến nghị nên là quyền của công dân, nhưng tình hình thực tế là chính quyền địa phương thường cử "người dân" (tức là, xã hội đen) để hạn chế quyền tự do cá nhân của dân oan. Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều người được triệu tập, giam giữ và kết án vì phát biểu trên Internet. Và trong nhiều trường hợp được gọi là vụ án nhạy cảm, các bị cáo không chỉ bị kết án về tội nói, mà các quyền của các bị cáo thường được quy định như là quyền thuê luật sư bào chữa và được xét xử công khai cũng bị vi phạm.
Khi quyền của công dân không thể được thực thi thông qua hiến pháp chân chính và quyền lực của chính phủ không thể bị ràng buộc thông qua hiến pháp chân chính, chính phủ không coi trọng cho sinh kế của người dân. Mặc dù chính phủ đã đặt ra gánh nặng thuế rất cao đối với người dân, nhưng doanh thu tài chính trước tiên phải đáp ứng nhu cầu của các quan chức ở tất cả các cấp, những người mạnh dạn sử dụng tất cả các loại kênh và phương pháp để rót tiền vào túi riêng của họ.
Ở các nước bình thường, những người gặp khó khăn về tài chính được ưu tiên chi tiêu phúc lợi xã hội trong ngân sách chính phủ, trong khi ở nước ta, ưu tiên chi tiêu phúc lợi xã hội dành cho những người nắm quyền. Ở nhiều nơi [ở Trung Quốc], mức lương của công chức, bắt đầu bằng, nhiều lần so với nhân viên công ty tư, và họ cũng thường được hưởng nhiều lợi ích hào phóng hơn so với nhân viên công ty. Lương hưu công chức nhận được sau khi nghỉ hưu cũng nhiều lần so với nhân viên công ty. Sau đó, có sự tham nhũng và lãng phí gây sốc ở tất cả các cấp chính quyền, mà không cần phải nói. Toàn bộ bộ máy quan liêu và công chức không còn giống như công chức phục vụ nhân dân, mà giống như những con quái vật nuốt chửng tài sản xã hội với lòng tham không đáy.
Sự bùng phát của dịch coronavirus mới đã ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân ở nhiều quốc gia và mang lại những khó khăn lớn. Hầu hết mọi người đã không chuẩn bị tâm lý và tài chính trước đại dịch nầy. Trong những trường hợp như vậy, đó là một thực tế phổ biến ở nhiều quốc gia đối với các chính phủ được bầu ở tất cả các cấp để phân phối một số tiền từ tài chính của mình cho người dân trong cuộc khủng hoảng.
Tuy nhiên, ở nước ta, một chính phủ trốn tránh phán quyết của người dân không sẵn lòng làm điều đó. Tại sao chuyện này đang xảy ra ? Bởi vì quá khó khăn cho tất cả các cấp chính quyền trong việc trao tiền mà họ thâm thủng cho dân. Nói một cách tương đối, việc bỏ qua nhu cầu của người dân sẽ dễ dàng hơn, bởi vì các quan chức chính quyền các cấp không được người dân bầu chọn và không cần tìm kiếm thẩm quyền từ dân. Trường hợp các quyền dân sự không được thực thi nhưng sinh kế của người dân được chính phủ coi trọng là một tình huống chưa từng thấy trước đây trong lịch sử thế giới.
Do một hệ thống chính trị hiện đại chưa được thiết lập thông qua hiến pháp chân chính, nên quản trị xã hội của Trung Quốc vẫn còn trong tình trạng rất lạc hậu. Sự tham nhũng lan rộng của các quan chức chính phủ, sự thiếu công bằng lan rộng, sự suy thoái của môi trường tự nhiên, sự xuất hiện lặp đi lặp lại của thực phẩm, thuốc men và vắc-xin không an toàn, giá tăng quá nhanh so với thu nhập của người dân, thâm hụt và mất niềm tin vào lĩnh vực an sinh xã hội.
Ngoài ra, các doanh nghiệp ngày càng khó hoạt động và người dân thành thị và nông thôn ngày càng khó khăn hơn khi tìm việc làm, kể cả sinh viên tốt nghiệp đại học, tất cả những điều trên đã làm suy yếu nghiêm trọng cảm giác hạnh phúc và cảm giác an toàn của công dân, và khiến mọi người cảm thấy bối rối và lo lắng về tương lai.
Theo tôi, nguyên nhân sâu xa của những cuộc khủng hoảng này là hệ thống chính trị trong đó quyền lực bị độc quyền bởi một số ít người. Trong hệ thống này, quyền lực của các quan chức nhà nước thậm chí không có những hạn chế tối thiểu nhất, khiến họ lạm dụng quyền lực của mình vì lợi ích cá nhân và đồng thời bỏ bê nhiệm vụ của mình đối với các lợi ích quan trọng của công chúng, và thậm chí là cán bộ thủ lợi bất chấp an toàn tính mạng của công chúng. Do đó, sự tham nhũng lan rộng của các quan chức và sự sụp đổ hoàn toàn của quản trị xã hội là không thể tránh khỏi.
Sự bùng phát và lan truyền của dịch bệnh minh họa vấn đề rất tốt. Khi đối phó với khủng hoảng sức khỏe cộng đồng, chính phủ cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời cho công chúng có thể giúp công chúng đưa ra lựa chọn an toàn và hợp lý về cách cư xử và sắp xếp cuộc sống của họ, đó là chìa khóa để tránh khủng hoảng leo thang. Tuy nhiên, logic thông báo cho công chúng như một phản ứng hợp lý đối với các cuộc khủng hoảng trái ngược hoàn toàn với logic kiểm soát xã hội trong hệ thống chính quyền hiện tại.
Đánh giá từ các báo cáo công khai hiện có, chính quyền địa phương Vũ Hán không chỉ che giấu dịch bệnh từ lâu, mà còn đàn áp nghiêm trọng những công dân tiết lộ thông tin về dịch bệnh. Kể từ ngày 3 tháng 1 năm 2020, các cơ quan đối ngoại của Trung Quốc thường xuyên thông báo cho chính phủ Hoa Kỳ về dịch bệnh, nhưng các bộ phận kiểm soát dịch bệnh đã không đồng thời thông báo cho người dân nước ta : thái độ vô trách nhiệm đối với sự an toàn của cuộc sống của chính người dân của họ là rất hiếm trên thế giới !
Mặt khác, trong một thời gian dài sau khi các trường hợp bị bệnh dịch sớm nhất xuất hiện, có rất ít phương tiện truyền thông chuyên nghiệp độc lập để điều tra và báo cáo về sự bùng phát, các chuyên gia y tế cũng không cung cấp lời khuyên chuyên môn độc lập cho công chúng, cũng như các tổ chức phúc lợi xã hội không thể hoạt động theo vai trò thích hợp của các tổ chức nầy. Không thể nói rằng Trung Quốc không có nhà báo giỏi, bác sĩ giỏi hoặc công dân yêu thích làm việc thiện nguyện cho phúc lợi xã hội ; nó chỉ cho thấy việc chính quyền kiểm soát chặt chẽ xã hội và dân chúng lâu dài đã phá hủy gần như hoàn toàn khả năng tổ chức và tự lực của xã hội. Trong 22 ngày trước khi thành phố đóng cửa, chính quyền Vũ Hán vẫn đang điều tra và trừng phạt những công dân đã chia sẻ thông tin về dịch bệnh (bao gồm cả bác sĩ Li Wenliang, người đã qua đời một cách buồn bã), chứng tỏ sự đàn áp của chính quyền nghiêm khắc và một xã hội tuyệt vọng như thế nào.
Sau khi dịch bệnh bùng phát ở Vũ Hán, chính quyền địa phương phản ứng không hiệu quả, không đủ năng lực và bất cẩn cũng thu hút sự chú ý trên toàn thế giới. Sau khi Vũ Hán đóng cửa thành phố, một số lượng lớn bệnh nhân nghi ngờ bị bệnh không thể được thử nghiệm và cách ly hiệu quả kịp thời, và một số lượng lớn những người thực sự bị nhiễm bệnh không thể được điều trị kịp thời. Khi các nhân viên y tế ở tuyến đầu gặp rủi ro lớn để chống lại dịch bệnh, chính quyền các cấp thường khoe khoang về thành tích của họ, thực sự chính quyền không thể cung cấp cho họ mức hỗ trợ hậu cần cơ bản nhất. Trong thời gian xảy ra dịch bệnh, chính quyền các vùng khác nhau đã ngăn chặn và tịch thu các dụng cụ y tế của các vùng khác ; một số lượng lớn các vi phạm nhân quyền đã xảy ra ở nhiều nơi khác nhau ; cũng như vô số thảm họa nhân đạo trên toàn khu vực dịch bệnh, điều này hoàn toàn làm rõ rằng 70 năm qua, cho dù về mặt xây dựng quốc gia hay quản trị xã hội, đã hoàn toàn thất bại.
Hiện nay, Trung Quốc cần khẩn trương thay thế hệ thống chính quyền cực kỳ lạc hậu và bất công bằng một hình thức chính quyền hiện đại dựa trên các nguyên tắc chính trị phổ biến, tự trị xã hội, cạnh tranh giữa các đảng chính trị, phân chia quyền lực (kiểm tra và cân bằng), độc lập tư pháp và tự do báo chí, trong số những cải cách khác, để thực hiện các quyền dân sự, bảo vệ sinh kế của người dân và nhận ra sự chuyển đổi hòa bình của chính trị quốc gia và hiện đại hóa quản trị xã hội. Điều này có nghĩa là cần phải thay thế hiến pháp giả hiện tại bằng một hiến pháp chân chính phản ánh ý chí chính trị của mọi công dân.
Các đại biểu, mặc dù tôi không công nhận tính hợp pháp của bạn với tư cách là đại diện của người dân, đồng thời tôi tin rằng bạn đã thành lập một tổ chức thực tế của cơ quan nhà nước, do đó, bạn hoàn toàn có thể khởi xướng quá trình lập hiến, và do đó đóng góp lớn và mang tính lịch sử vào quá trình chuyển đổi và hiện đại hóa chính trị của Trung Quốc. Ở đây, với tư cách là một công dân Trung Quốc, tôi xin chân thành đưa ra những gợi ý sau cho bạn :
1. Mặc dù Quốc hội Nhân dân Quốc gia không hợp pháp như một cơ quan lập pháp thông thường, nhưng nó có thể biến thành một cơ quan đặc biệt khởi xướng quá trình chuyển đổi chính trị của đất nước, với công việc chính là xây dựng các quy tắc bầu cử và chỉ định một ủy ban bầu cử trung lập và công bằng và chỉ định ủy ban tổ chức các cuộc bầu cử tự do, phổ quát và trực tiếp để thành lập một cơ quan đại diện quốc gia mới. Cơ quan đại diện này sẽ là tổ chức có thẩm quyền cao nhất trong giai đoạn chuyển tiếp (sau đây gọi là cơ quan có thẩm quyền chuyển tiếp cao nhất).
2. Cơ quan có thẩm quyền chuyển tiếp cao nhất có quyền thành lập cơ quan hành chính cao nhất trong thời kỳ chuyển tiếp và bổ nhiệm các nhân viên của tổ chức, và cũng có quyền thực hiện các cải cách cần thiết cho các tổ chức tư pháp ở tất cả các cấp.
3. Cơ quan có thẩm quyền chuyển tiếp cao nhất có quyền ban hành các nghị định cần thiết để hoàn thành cuộc bầu cử của các cơ quan đại diện địa phương ở tất cả các cấp và tạo ra các thể chế hành chính địa phương ở tất cả các cấp.
4. Ngay khi cơ quan có thẩm quyền chuyển tiếp cao nhất ra đời, cần thành lập một ủy ban soạn thảo hiến pháp đại diện rộng nhất càng sớm càng tốt và chỉ định ủy ban soạn thảo bản thảo hiến pháp phù hợp với các nguyên tắc chính trị hiện đại. Sau khi bản dự thảo hiến pháp được soạn thảo, nó phải được đệ trình lên cơ quan có thẩm quyền chuyển tiếp cao nhất để bỏ phiếu. Nếu bỏ phiếu không vượt qua, bản dự thảo sẽ được gửi lại cho ủy ban soạn thảo hiến pháp để sửa đổi. Nếu bỏ phiếu cho dự thảo được thông qua, thì nó nên được trao cho công dân để trưng cầu dân ý ; và nếu nó được thông qua, thì hiến pháp nên được thực hiện.
5. Để tạo điều kiện [cần thiết] cho bầu cử cơ quan có thẩm quyền chuyển tiếp cao nhất, Đại hội Nhân dân Quốc gia với tư cách là một cơ quan đặc biệt cần thông qua một nghị quyết để trả tự do ngay lập tức cho tất cả các tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm.
6. Để tạo điều kiện [cần thiết] cho bầu cử cơ quan chuyển tiếp cao nhất, Quốc hội Nhân dân, với tư cách là một cơ quan đặc biệt, nên thông qua một nghị quyết để dỡ bỏ lệnh cấm ngay lập tức đối với các đảng chính trị và hạn chế xuất bản tin tức, và cho phép mọi người tự do liên kết và tự do thiết lập và vận hành phương tiện truyền thông.
7. Để tạo điều kiện [cần thiết] cho bầu cử cơ quan chuyển tiếp cao nhất, Đại hội Nhân dân Quốc gia, với tư cách là một cơ quan đặc biệt, nên thông qua một nghị quyết quy định rằng một đảng chính trị không còn có thể hưởng vị trí của một tổ chức công cộng nhà nước, và không thành viên nào của một đảng chính trị có thể được hưởng sự đối xử và tư cách của một công chức.
8. Khi cơ quan chuyển tiếp cao nhất gặp nhau lần đầu tiên, Đại hội Nhân dân Quốc gia, với tư cách là một cơ quan đặc biệt, phải thông báo ngay lập tức về việc giải thể. Khi các cơ quan đại diện quốc gia được tạo ra bởi hiến pháp mới lần đầu tiên gặp nhau, cơ quan chuyển tiếp cao nhất phải ngay lập tức tuyên bố giải thể.
Các đại biểu, khi bạn bắt đầu cuộc họp vào ngày 22 tháng này, bạn có thể trải qua các chuyển động như trước đây và trở thành một chỗ dựa chỉ biết cách giơ tay. Nhưng bạn cũng có thể chọn đối mặt thẳng thắn với những sai lầm và khủng hoảng lâu đời của đất nước chúng ta, gánh vác một trách nhiệm lịch sử lớn và tạo ra một tình huống chính trị mới cho đất nước của bạn, để đất nước của bạn có một tương lai tươi đẹp hơn. Nếu bạn chọn làm điều này, bạn sẽ không, giống như các đại biểu vô trách nhiệm trước đây của Đại hội Nhân dân Quốc gia, sớm hay muộn, rơi vào quên lãng trong dòng sông dài của lịch sử, mà thay vào đó bạn sẽ được ghi lại vĩnh viễn trong sách lịch sử như những người tiên phong vĩ đại của Trung Quốc : Tên của bạn sẽ được khắc vĩnh viễn trong ký ức của các thế hệ tương lai, và các thế hệ tương lai sẽ mãi mãi cảm thấy biết ơn và tôn trọng thành quả của bạn.
Zhang Xuezhong
Nguyên tác : Citizens, and Strive to Achieve a Peaceful Political Transition - To Delegates Attending the Third Session of the 13th National People’s Congress, China Change, 18/05/2020
Andréa Worden dịch từ tiếngTrung sang tiếng Anh,
Phàm Đình Bá dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt
(19/05/2020)
Nguồn : htpps://chinachange.org/2020/05/18/initiate-a-process-of-constitution-making-by-citizens-and-strive-to-achieve-a-peaceful-political-transition-to-delegates-attending-the-third-session-of-the-13th-national-peoples-co/
Andréa Worden, J.D., M.A., là một người ủng hộ nhân quyền, dịch giả và nhà văn có nghiên cứu tập trung chủ yếu vào Trung Quốc và các tương tác của nó với các cơ chế nhân quyền của Liên Hợp Quốc. Cô sẽ là giảng viên thỉnh giảng tại Trường Nghệ thuật & Khoa học thuộc Đại học Johns Hopkins trong học kỳ mùa thu 2020.
Zhang Xuezhong (张雪忠), sinh năm 1976, là giáo sư luật tại Đại học Khoa học Chính trị và Luật Trung Quốc. Vào tháng 5 năm 2013, ông là học giả đầu tiên tiết lộ "bảy điều cấm nói", một mệnh lệnh của Đảng Cộng sản lưu hành trong các đại học và học viện Trung Quốc cấm thảo luận về các giá trị phổ quát : tự do ngôn luận, xã hội dân sự, quyền công dân, những sai lầm lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chủ nghĩa tư bản đặc trưng bởi móc nối giữa doanh nghiệp và cán bộ nhà nước, và tư pháp độc lập. Zhang đã bị sa thải bởi trường đại học vào cuối năm 2013. Vào ngày 10 tháng 5 năm 2020, Zhang Xuezhong đã xuất bản bức thư ngỏ sau đây (phiên bản tiếng Trung) cùng với bản dự thảo hiến pháp chân chính (không được dịch), trái ngược với hiến pháp giả tạo hiện tại của Trung Quốc. Ngày hôm sau Zhang bị công an Thượng Hải triệu tập nhưng được thả vào tối hôm đó.
Nhiều người Việt Nam lo Trung Quốc 'thôn tính' đất ven biển (BBC, 16/05/2020)
Bộ Quốc phòng Việt Nam nói các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố sẽ rà soát đánh giá tổng thể các dự án đầu tư của nước ngoài, nhất là dự án liên quan đến người Trung Quốc tại khu vực biên giới, biển, đảo có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh.
Một khu vực gần sân bay Nước Mặn của Đà Nẵng
Đây là tiết lộ trong trả lời của Bộ Quốc phòng với cử tri Hải Phòng, liên quan lo ngại người Trung Quốc mua đất ở Đà Nẵng và một số nơi khác.
Phản hồi lại quan ngại của cử tri Hải Phòng về tình trạng thu mua đất đai gần các khu vực trọng yếu về quốc phòng, an ninh, Bộ Quốc phòng Việt Nam cho biết hầu hết các lô đất do các cá nhân, doanh nghiệp Trung Quốc sở hữu ở Đà Nẵng đều ở vị trí các đường lớn, ven biển, đắc địa cho hoạt động kinh doanh và có ý nghĩa quan trọng trong khu vực phòng thủ.
Du khách Trung Quốc ở Nha Trang, 2017
Báo Thanh Niên mô tả đây là "lần đầu tiên" Bộ Quốc phòng trả lời cử tri với các thông tin rất cụ thể.
Thống kê khá chi tiết nói về những vụ việc theo đó người Trung Quốc đầu tư cho người Việt "núp bóng" mua đất theo lô và việc doanh nghiệp người Trung Quốc đang sở hữu, "núp bóng" sở hữu và thuê của UBND Thành phố Đà Nẵng.
Du khách Trung Quốc ở Nha Trang
Thống kê của Bộ Quốc phòng Việt Nam nói trong giai đoạn 2011-2015 ít nhất 8 người Việt (6 là người Việt gốc Hoa) đứng tên mua 84 lô đất với diện tích khoảng 20.000 m2, giá trị giao dịch khoảng trên 100 tỉ đồng và có 7 doanh nghiệp có yếu tố Trung Quốc sở hữu một số lô đất ven biển và thuê đất 50 năm.
'Thôn tính'
Để sở hữu các lô đất, người Trung Quốc được cho là đã nghiên cứu, lợi dụng kẽ hở của Luật Đầu tư năm 2014 việc góp vốn bằng đất để liên doanh thành lập doanh nghiệp và công tác quản lý nhà nước ở các lĩnh vực đầu tư, đất đai.
Vị trí khu vực đất được những 'người nước ngoài giấu mặt' mua nằm gần đường Võ Nguyên Giáp và sân bay Nước Mặn
Bộ Quốc phòng mô tả chiêu thức thâu tóm đất được thực hiện theo hai hình thức, qua doanh nghiệp và cá nhân.
Thứ nhất, người Trung Quốc thành lập doanh nghiệp liên doanh với Việt Nam (bên góp vốn chủ yếu bằng đất) và dần dần nắm đất thông qua việc tăng vốn sở hữu khi giành quyền điều hành doanh nghiệp.
Thứ hai, người Trung Quốc đầu tư tiền cho cá nhân người Việt Nam (đa phần là người Việt gốc Hoa) để mua đất.
Phần trả lời cử tri trên trang Quốc hội cũng dẫn chiếu điều mà Bộ Quốc phòng nói là có cơ sở về những quan ngại mà "cử tri và dư luận xã hội" nêu về việc chính quyền Thành phố Đà Nẵng từng cấp chứng nhận quyền sử dụng "21 lô đất ven biển đứng tên người Trung Quốc".
Chưa rõ vì sao sau 6 tháng mới nêu lại vụ việc mà Thủ tướng Phúc hồi tháng 10 năm 2019 từng yêu cầu UBND thành phố Đà Nẵng xử lý.
Theo Bộ Quốc phòng Việt Nam, 83% doanh nghiệp "có yếu tố" Trung Quốc đang hoạt động tại khu vực biên giới biển (5.393,7 ha), và 17% còn lại tại khu vực biên giới đất liền 943,7 ha, tổng cộng hơn 6.300 ha đất biên giới.
Đáng chú ý tổng số vốn đầu tư cho khu vực biên giới biển là 29,235 tỉ USD so với 1,637 tỉ USD tại khu vực biên giới đất liền với địa bàn tập trung nhiều doanh nghiệp Trung Quốc nhất là Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Bình Định, Bình Thuận ...
Quảng Ninh ngày 16/5 : Người dân Việt Nam đi lại bình thường
Phần trả lời câu hỏi cử tri nói Bộ Quốc phòng Việt Nam đề xuất "điều chỉnh những bất cập của luật Đầu tư, luật Đất đai và cơ chế quản lý, cấp phép các hoạt động đầu tư nhằm hạn chế sơ hở không để cá nhân, doanh nghiệp Trung Quốc lợi dụng hoạt động và chú ý các hoạt động lợi dụng vỏ bọc đầu tư, liên kết, núp bóng để hoạt động chống phá".
Trả lời chất vấn của một đại biểu quốc hội hồi tháng 6/2019 về thực trạng người Việt đứng tên mua đất đai cho người Trung Quốc, những vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia và liệu Bộ Công an có thể giải quyết dứt điểm chuyện này không, Bộ trưởng Tô Lâm khi đó nói Bộ này coi đó là một mặt phát triển quan hệ, tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài, cho nhà đầu tư trong môi trường kinh doanh tốt.
"Chúng tôi không coi đơn thuần chỉ là những vấn đề về quan hệ thương mại, ở mức độ thế nào, tập trung thế nào hoặc đối với những dự án nào, khu dân cư nào, theo phát triển, theo mật độ người nước ngoài ở mức độ như thế nào để bảo đảm được vấn đề an ninh quốc gia chúng tôi sẽ có tính toán, đề xuất, biện pháp để báo cáo với cơ quan chức năng phối hợp với các ngành, kể cả thương mại và xây dựng để quản lý những vấn đề này", Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm trả lời hôm 4/6/2019 tại Quốc hội.
Nguồn : BBC tiếng Việt, 16/05/2020
*********************
Biển Đông : Tàu khảo sát Trung Quốc rời khỏi vùng biển Malaysia (RFI, 16/05/2020)
Sau một tháng đối đầu với một tàu khoan dầu của Malaysia trên Biển Đông, tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc đã rời khỏi vùng biển Malaysia, theo các dữ liệu được công bố hôm qua.
Tàu cận chiến duyên hải USS Gabrielle Giffords (LCS 10) hoạt động gần tầu khoan dò dầu khí West Capella, treo cờ Panama, tại Biển Đông, ngày 12/05/2020. © U.S. Navy photo by Mass Communication Specialist 2nd Class Brenton Poyser
Theo hãng tin Reuters, các dữ liệu từ trang mạng Marine Traffic cho thấy là hôm qua, tàu Hải Dương Địa Chất 8 đã rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, đi theo hướng bắc về phía Trung Quốc, với sự hộ tống của ít nhất hai tàu khác của Trung Quốc.
Kể từ giữa tháng 4 tàu Hải Dương Địa Chất 8 đã đến khảo sát trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, gần khu vực mà một tàu khoan thăm dò dầu của tập đoàn dầu khí quốc gia Malaysia Petronas đang hoạt động. Cuộc đối đầu giữa hai bên đã diễn ra suốt một tháng tại vùng biển đang đang tranh chấp. Chiếc tàu khoan dầu mang tên West Capella đã rời khỏi khu vực này từ thứ Ba vừa qua.
Bắc Kinh đã bác bỏ thông tin cho rằng đã có đối đầu giữa tàu khảo sát Trung Quốc với tàu khoan dầu của Malaysia, khẳng định là Hải Dương Địa Chất 8 chỉ tiến hành các hoạt động "bình thường". Nhưng vụ này đã khiến Hoa Kỳ đã lên tiếng yêu cầu Bắc Kinh ngưng ngay "những hành vi dọa nạt" ở Biển Đông. Một thời gian ngắn sau khi tàu Hải Dương Địa Chất 8 đến gần khu vực tàu khoan dầu của Malaysia đang hoạt động, các chiến hạm của hải quân Mỹ và Úc đã tập trận ngay gần khu vực đó.
Vào năm ngoái, tàu Hải Dương Địa Chất 8 cũng đã có hành động tương tự đối với Việt Nam, tức là cũng vào tiến hành khảo sát trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gây nên căng thẳng cao độ giữa hai nước.
Thanh Phương
*******************
Trung Quốc lạm dụng tư thế ở thượng nguồn các con sông Châu Á (RFI, 16/05/2020)
Tuần báo Anh The Economist ngày 16/05/2020 đã có bài viết phê phán việc Trung Quốc lạm dụng tư thế quốc gia nằm ở thượng nguồn hai con sông lớn tại Châu Á để bắt chẹt các láng giềng.
Một cánh đồng khô cằn vì hạn hán tại tỉnh Sóc Trăng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Việt Nam). Ảnh tư liệu chụp ngày 30/03/2016. Reuters
Trong bài bình luận "Nếu không bớt xây đập trên thượng nguồn, thì ít ra Trung Quốc nên chia sẻ thông tin", The Economist đã nêu lên trường hợp sông Brahmaputra chảy qua Ấn Độ, và sông Mêkông chảy xuống 5 nước Đông Nam Á (Miến Điện, Lào, Thái Lan, Cam Bốt và Việt Nam) để chỉ trích việc Bắc Kinh cố tình giữ kín các thông tin về hoạt động của các con đập giữ nước mà họ xây trên thượng nguồn, khiến cho nông dân và ngư dân ở các nước hạ nguồn không thể có được kế hoạch tốt để canh tác hay đánh bắt.
Ghi nhận trước tiên của The Economist là các dòng sông xuất phát từ cao nguyên Tây Tạng là nguồn lý tưởng cho biết bao kế hoạch thủy điện. Do việc Tây Tạng trở nên một vùng lãnh thổ của Trung Quốc, các kỹ sư nước này đã khai thác triệt để nguồn này, không chỉ xây dựng những con đập khổng lồ trên các sông Hoàng Hà, Dương Tử, chảy qua Trung Quốc, mà trên cả các con sông lớn khác như sông Brahmaputra và Mêkông đi qua nhiều nước khác trên đường ra biển.
Bắc Kinh có quyền, nhưng không nên lạm dụng
Theo The Economist, đúng là Trung Quốc có quyền làm như thế. Các quốc gia có được quyền kiểm soát các thượng nguồn các con sông lớn thường sử dụng nguồn nước này cho thủy điện hay thủy lợi. Những nước láng giềng ở hạ nguồn phải chịu thiệt.
Tuy nhiên, nếu quốc gia thượng nguồn khai thác quá mức hay ngăn chặn dòng nước, các vùng bên dưới phải chịu nạn mùa màng khô cằn, ngư nghiệp phá sản, đất trồng trọt nhiễm mặn. Trong những trường hợp tốt nhất, thì các quốc gia liên can có thể tìm cách ký thỏa thuận về việc sử dụng dòng sông, trường hợp tệ nhất là các bên tranh chấp với nhau, gây nên căng thẳng. Đó là tình hình hiện nay giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, như trong trường hợp sông Mêkông.
Trung Quốc đã xây 11 con đập trên dòng chính và đang dự kiến xây thêm 8 đập khác, còn các nước ở hạ nguồn đã xây hai đập và đang muốn xây thêm 7 đập khác.
Năm ngoái vào lúc hạn hán, sông Mêkông chảy chậm đến nỗi Cam Bốt phải cho một trung tâm thủy điện lớn ngưng hoạt động. Ngay cả khi mưa bình thường, dòng chảy con sông yếu đi đến mức nước mặn tràn vào vùng Châu thổ sông Mêkông, tác hại đến cả Việt Nam lẫn Cam Bốt, phá hoại nguồn cá nuôi sống hàng triệu dân nghèo xứ Chùa Tháp.
Trung Quốc luôn phản đối mọi thỏa thuận, cam kết chính thức về việc giảm xây đập hay bảo đảm cho các láng giềng một lượng nước tối thiểu. Trung Quốc cũng không gia nhập Ủy Hội Sông Mê Kông, một cơ cấu giúp các nước giải quyết tranh chấp.
Vấn đề không chỉ là Trung Quốc cảm thấy khó chịu trước những gì được xem là can thiêp của bên ngoài vào "công việc nội bộ", mà còn là việc lãnh đạo Trung Quốc bị những đề án kỹ thuật lớn mê hoặc, không quan tâm đến tình cảnh của người dân bị di dời hoặc bị thiệt hại, kể cả khi đó là công dân của họ.
Xây đập ngăn nước, nhưng thiếu chia sẻ thông tin cho láng giềng
Trung Quốc rất thích và giỏi về xây các con đập lớn, họ đã giúp Pakistan xây đập trên sông Indus, đang cố cổ vũ Miến Điện xây một đập lớn trên sông Irrawaddy mà phụ lưu chỉ chảy qua Trung Quốc trên vài cây số.
Thế nhưng cho dù Trung Quốc không thể tự kềm chế trong việc xây đập, thì ít ra họ cũng nên cố gắng thêm để trấn an các láng giềng, chia sẻ thông tin thường xuyên về lưu lượng sẽ là một khởi đầu tốt.
Năm 2017, trong lúc tranh chấp với Ấn Độ, Trung Quốc đã không cung cấp thông tin về lưu lượng sông Brahmaputra, được sử dụng để cảnh báo cho nông dân ở hạ nguồn về lũ lụt. Và hai bên đã phải tổ chức một cuộc gặp thượng đỉnh, để có lại những thông tin.
Đối với The Economist, viêc chia sẻ thông tin sẽ được các quốc gia hạ nguồn tán thưởng vì biết được lúc nào thì các đập thủy điện Trung Quốc muốn giữ hay xả nước để nông dân và ngư dân của họ có thời gian chuẩn bị. Trung Quốc cũng không bị thiệt gì, nếu giúp giảm nhẹ hạn hán khi có thể. Và như thế họ sẽ được biết bao lời biết ơn.
Trọng Nghĩa
Việt Nam phản đối Trung Quốc đưa máy bay do thám đến đá Chữ Thập, phản đối Lào xúc tiến xây thêm đập trên Sông Mê kong (RFA, 14/05/2020)
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê thị Thu Hằng vào ngày 14 tháng 5 lên tiếng phản đối Trung Quốc về việc các máy bay của Hoa lục xuất hiện tại Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam đòi chủ quyền.
Không ảnh Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa - AMTI. Hình minh họa.
Phản đối vừa nêu được đưa ra tại cuộc họp báo thường kỳ ở Hà Nội khi báo giới nêu câu hỏi về việc hãng ảnh vệ tinh ImageSat International (ISI) của Israel vào ngày 13 tháng 5 cho công bố những ảnh chụp ngày 9 tháng 5 cho thấy máy bay cảnh báo sớm KJ-500, KQ-200 và máy bay trực thăng Z-8 của Trung Quốc xuất hiện tại Đá Chữ Thập.
Theo ISI những máy bay vừa nêu được đưa ra khỏi kho chứa và đậu ở bên ngoài. Điều này cho thấy Đá Chữ Thập là nơi Trung Quốc dùng làm căn cứ cho hoạt động do thám máy bay trong khu vực.
Cũng tại cuộc họp báo thường kỳ vào chiều ngày 14 tháng 5, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng phản đối Lào về kế hoạch xây dựng thêm đập thủy điện thứ 6 trên dòng chính Sông Mê kong. Đó là đập Sanakham.
Tin vừa đưa ra trong tuần này cho biết chính phủ Lào đã lên kế hoạch xây dựng đập thủy điện Sanakham trên dòng chính Mê kong và dự kiến khởi công vào cuối năm nay.
Reuters dẫn nguồn từ Ủy Hội Sông Mê Kong cho biết kinh phí xây dựng nhà máy thủy điện Sanakham khoảng hơn 2 tỷ đô la. Công ty xây dựng đập thủy điện này có tên Datang Sanakham là một công ty con của Công ty Sản xuất điện Quốc tế Datang, Trung Quốc.
Công suất dự kiến của nhà máy thủy điện Sanakham được nói khoảng 684 MW và theo kế hoạch có thể bắt đầu vận hành từ năm 2028. Nhà máy này nằm giữa tỉnh Xayaburi và Vientaine của Lào, cách biên giới Thái Lan chừng 2 kilomet về phía thượng lưu ở tỉnh Loei.
*******************
Báo mạng Trung Quốc đòi cả chủ quyền Kyrgyzstan và Kazakhstan (RFI, 14/05/2020)
Trang web của đài WION (Ấn Độ) cho biết, sau khi yêu sách chủ quyền phần lớn Biển Đông) và đỉnh núi cao nhất thế giới Everest, nay hai tờ báo mạng Trung Quốc còn cho rằng các quốc gia Trung Á như Kyrgyzstan và Kazakhstan từng thuộc về Trung Quốc, và Kazakhstan "mong muốn" quay về với đất mẹ Trung Hoa.
Bản đồ các quốc gia Hồi giáo Trung Á và Trung Quốc
Trang tuotiao.com có trụ sở tại Bắc Kinh gần đây đăng bài "Tại sao Kyrgyzstan không quay về với Trung Quốc sau khi giành được độc lập ?". Tờ báo nói rằng dưới thời Thành Cát Tư Hãn, Kyrgyzstan với diện tích 510.000 kilomet vuông hoàn toàn thuộc lãnh thổ Trung Quốc, nhưng sau đó lại lọt vào tay đế quốc Nga.
Trang web này có 750 triệu độc giả, và là nền tảng di động phổ biến nhất Trung Quốc.
Trong khi đó trang sohu.com, thuộc một công ty internet có trụ sở tại Bắc Kinh cũng đăng một bài báo mang tựa đề "Kazakhstan nằm trên một vùng đất thuộc về Trung Quốc về mặt lịch sử". Bài này đã làm đại sứ Trung Quốc tại Kazakhstan là Trương Tiêu (Zhang Xiao) lập tức bị triệu tập ngày 14/04/2020.
Các quốc gia Trung Á nhận được rất nhiều đầu tư từ Trung Quốc, nhưng điều này cũng làm các nước này "dễ tổn thương về tài chính" trước Bắc Kinh. Kyrgyzstan đã vay 1,7 tỉ đô la từ ngân hàng Eximbank của Trung Quốc, được cho là chiếm 43% tổng nợ công quốc gia. Còn đối với Kazakhstan, Trung Quốc đóng một vai trò quá lớn trong lãnh vực năng lượng.
Sự kiện này diễn ra trong bối cảnh vào cuối tuần trước, đài truyền hình Trung Quốc CGTN đăng trên Twitter một tấm ảnh núi Everest, viết rằng "đỉnh núi cao nhất thế giới nằm tại khu tự trị Tây Tạng của Trung Quốc". Bị dư luận Nepal phản đối, tweet này sau đó bị xóa, viết lại rằng "đỉnh núi cao nhất thế giới nằm tại biên giới Trung Quốc-Nepal".
"Quyền lịch sử" từng được Bắc Kinh nhấn mạnh nhằm chiếm hữu Biển Đông, nhưng đã bị Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye năm 2016 cho là "vô căn cứ".
Trang WION nhắc lại, tháng trước, Trung Quốc loan báo thành lập hai "quận" mới là "Tây Sa" đặt tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa – cưỡng chiếm của Việt Nam năm 1974 ; và "Nam Sa" tại Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa – nơi Bắc Kinh ra sức bồi đắp nhiều đảo nhân tạo trong thời gian gần đây. Cả hai trực thuộc cái gọi là "thành phố Tam Sa", để "quản lý" các đảo tranh chấp trên Biển Đông. Hành động này không chỉ gây phẫn nộ cho các nước láng giềng, mà còn khiến Hoa Kỳ và Úc phản ứng mạnh mẽ.
Trước đó, Bắc Kinh còn tự ý đặt tên cho 25 đảo, rạn san hô và 55 thực thể địa lý dưới nước tại Biển Đông, nhằm "tái khẳng định" chủ quyền, khiến các nước láng giềng tức giận. Đặc biệt Việt Nam cực lực phản đối vì trong số đó có những đảo, thực thể nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hà Nội tuyên bố hành vi này vi phạm chủ quyền của Việt Nam và không có giá trị, Philippines trao kháng thư cho đại sứ quán Trung Quốc tại Manila, còn ngoại trưởng Úc Marise Payne lên án hành động bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.
Thụy My
****************
Indonesia tố tàu cá Trung Quốc ngược đãi ngư dân lên Liên Hiệp Quốc (RFA, 13/05/2020)
Indonesia hôm 12/5 đã đưa vấn đề Trung Quốc ngược đãi người lao động Indonesia trong ngành đánh bắt cá tại cuộc họp của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc.
Ngư dân Indonesia tại Banda, Aceh hôm 27/2/2020. AFP - Ảnh minh họa
Mạng báo Asian Review loan tin vừa nói hôm 13/5 và cho biết, tại cuộc họp trực tuyến với Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc có chủ đề "Tác động của đại dịch Covid-19 với nhân quyền", phái đoàn Indonesia tại Liên Hợp Quốc đã đưa ra vụ việc các ngư dân Indonesia bị ngược đãi trên tàu cá Trung Quốc dẫn đến tử vong.
Indonesia đã kêu gọi Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc cảnh giác với các hành vi lạm dụng trong ngành thủy sản, sau khi xác của ba ngư dân Indonesia bị chủ tàu cá Trung Quốc ném xuống biển trong thời gian những tháng gần đây.
"Indonesia nhấn mạnh yêu cầu cấp bách của hội đồng để bảo vệ quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, cụ thể là quyền của người làm việc trong ngành thủy sản", ông Hasan Kleib, đại sứ Indonesia tại Liên Hiệp Quốc ở Geneva, cho biết.
Trước đó, Ngoại trưởng Indonesia trong cuộc họp báo ngày 10/5 cho biết, có ít nhất 4 ngư dân của Indonesia trong số 46 ngư dân bị ngược đãi trên 4 tàu cá Trung Quốc đã thiệt mạng. Trong đó, thi thể của 3 ngư dân bị ném xuống biển.
Các ngư dân cho biết, họ phải làm việc trong điều kiện sinh hoạt tồi tệ, 18 giờ một ngày, không được trả công hoặc nhận tiền công không như hợp đồng đã ký kết. Indonesia đã thành lập một nhóm điều tra nội bộ và phối hợp với cảnh sát để bảo vệ quyền lợi các ngư dân Indonesia. Đồng thời, yêu cầu Trung Quốc phối hợp điều tra vụ việc.
Tại buổi họp báo ngày 11/5, Phát Ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Triệu Lập Kiên cho biết, Trung Quốc sẽ nghiêm túc xem xét vụ việc theo báo cáo của phía Indonesia. Tuy nhiên, Trung Quốc cho rằng, các cáo buộc do truyền thông đưa ra không dựa trên sự thật và phía Trung Quốc sẽ xử lý vấn đề dựa trên sự thật và luật pháp.
"Chôn cất thi thể các ngư dân trên biển, để bảo vệ sức khoẻ cho các thuyền viên khác là phù hợp với thông lệ hàng hải quốc tế và quy định của Tổ chức Lao động quốc tế", Phát Ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên nhấn mạnh tại buổi họp báo.
*******************
Vấn đề nhân quyền trong mùa đại dịch ở Châu Á-Thái Bình Dương ! (RFA, 14/05/2020)
Buổi họp báo trực tuyến được điều hành bởi bà Loretta Hieber Girardet, Chánh Văn phòng Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (UNDRR) tại Bangkok, Thái Lan. Bà này cho biết, chuỗi hội thảo của UNDRR đã được bắt đầu 7 tuần trước và nhấn mạnh tính quan trọng của nhân quyền và tác động của Covid-19 :
Tấm biển cảnh báo dịch bệnh Covid-19 ở Hà Nội hôm 29/4/2020 - Ảnh minh họa - AFP
"Nhân quyền là một chủ đề quan trọng được nhắc đến trong suốt các buổi hội thảo này. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, chúng tôi biết rằng nhân quyền là một vấn đề quan trọng trong mọi thảm họa và đại dịch Covid-19 cũng không ngoại lệ. Tác động sâu rộng của cuộc khủng hoảng Covid-19 đã làm trầm trọng thêm các vấn đề nhân quyền ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương".
Buổi hội thảo trực tuyến này xoay quanh 4 vấn đề quan trọng về nhân quyền vốn đã được quốc tế quan tâm từ rất lâu trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và đã được đưa lên hàng đầu trong các cuộc tham vấn trong mùa dịch Covid-19. Bà Loretta liệt kê 4 vấn đề gồm các biện pháp khẩn cấp và tác động đại dịch đến quyền tự do ngôn luận ; thách thức trước sự phân biệt chủng tộc gia tăng ; nhân quyền cho người di cư ; những người bị tước đoạt quyền tự do.
Bà Loretta cho rằng nhiều quốc gia đã lợi dụng đại dịch này để hạn chế quyền của người dân và tống giam những người lên tiếng nói :
"Một số quốc gia có thể đang sử dụng đại dịch như một cái cớ để nhắm vào các nhà phê bình và để hạn chế các quyền dân sự và chính trị, bao gồm cả quyền tự do ngôn luận".
Bà Loretta Hieber Girardet, Chánh Văn phòng Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương UNDRR, điều hành buổi hội thảo trực tuyến. Chụp màn hình từ Zoom
Ông Ricky Gunawan, một luật sư về nhân quyền từ Indonesia và là cựu Giám đốc Viện Trợ giúp Pháp lý Cộng đồng (LBHM), nhận định rằng đại dịch Covid-19 đã phơi bày sự mất bình đẳng trong hệ thống pháp lý hình sự. Ông Ricky cho rằng cơ cấu nhà tù của các quốc gia trong khu vực cần được xem xét và cải cách lại, vì ngoài việc tước quyền tự do công dân, các trại giam hiện là điểm nóng cho sự lây nhiễm của coronavirus :
"Trong bối cảnh ‘bình thường mới’, chúng ta nên tập trung vào cải cách hệ thống nhà tù. Coronavirus đã cho chúng ta một bài học để giảm bớt tình trạng quá đông tù nhân và thúc đẩy các biện pháp thay thế cho việc tống giam. Làm thế nào chúng ta có thể áp dụng giãn cách trong các trại giam quá đông ? Các tội nhẹ và không bạo lực không nên bị bỏ tù. Ngoài ra, vào những thời điểm như hiện nay, chính phủ nên trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện đối với tù nhân cao tuổi, phụ nữ mang thai và các tù nhân chính trị".
Theo ông Ricky Gunawan, các chính quyền cần tăng cường hệ thống y tế gồm nâng cao điều kiện vệ sinh trong nhà tù, vì hiện nay có nhiều báo cáo về tình trạng không đủ nước sạch trong các trại giam, gây ra nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh cao cho các tù nhân và quản tù.
Về vấn đề mạng xã hội, bà Loretta Girardet cho rằng đây là phương tiện rất phổ biến để truyền tải thông tin trong mùa đại dịch và có hai mặt—vừa là công cụ lan truyền thông tin thất thiệt và cũng để đính chính, truyền tải những thông tin chính thống, hữu dụng.
Trước vấn đề này, bà Ambika Satkunanathan, một nghiên cứu sinh của tổ chức có tên Open Society và là cựu Ủy viên Ủy ban Nhân quyền Sri Lanka cho rằng rất khó để có thể ra quy định hợp lý đối với mạng truyền thông xã hội, vì có nhiều quốc gia trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương có nhiều phản ứng và ra quy định kiểm soát thái quá đối với mạng truyền thông xã hội. Dù vậy, bà Ambika cho rằng mạng xã hội vẫn là công cụ phổ biến cho các mặt tích cực của xã hội :
"Sử dụng công cụ truyền thông xã hội vẫn là vấn đề đáng quan tâm, nhưng nó cũng có thể là một nguyên nhân tốt. Chúng tôi đã thấy nhiều tiếng nói chính trị được vang lên, thúc đẩy nhanh chóng các cuộc vận động ; nó làm tăng khả năng hiển thị đại chúng và giúp mọi người tạo kết nối với nhau. Đó là những mặt tích cực".
Tuy nhiên, bà Ambika cho rằng các nhà mạng truyền thông xã hội hiện nay đã có xu hướng liên kết với các chính quyền và điều đó sẽ không giúp ích trong tình hình đại dịch Covid-19 vẫn đang xảy ra. Bà kêu gọi các công ty, tập đoàn mạng xã hội nên xem xét các trách nhiệm của mình trong việc quản lý thông tin do người dùng đăng tải. Ngoài ra, họ cần lắng nghe các khuyến nghị của Liên Hiệp Quốc về các vấn đề dân sự và nhân quyền.
Bà Mami Mizutori, Trưởng Văn phòng LHQ về Giảm thiểu Rủi ro Thiên tai, nhận định để giảm thiểu rủi ro và nâng cao quyền con người trong mùa đại dịch không chỉ là trách nhiệm của chính quyền mà còn của các công dân và các tổ chức nhân quyền quốc tế. Bà cho rằng cần có nhiều phản ánh lớn hơn trong truyền thông, xã hội dân sự, LHQ và cả các tập đoàn, công ty tư nhân dành cho vấn đề nhân quyền. Ngoài ra, chính phủ các nước trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương cần xem xét thế nào để trở thành một chính phủ tốt, nhân đạo và lấy người dân làm trung tâm cho các chính sách đề ra.
Bà Pia Oberoi, Cố vấn Cấp cao về Di cư và Nhân quyền thuộc Văn phòng Khu vực Đông Nam Á của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (OHCHR) nhấn mạnh các hoạt động công tác nhằm ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro thiên tai, đại dịch của Liên Hiệp Quốc cũng là một trong những biện pháp để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Liên Hiệp Quốc đang làm việc cùng các quốc gia trong khu vực với các khuyến nghị cho chính sách quốc gia trong mùa đại dịch :
"Chính sách phải đảm bảo rằng các biện pháp khắc phục thảm họa được bao gồm, lấy người dân làm trung tâm và phù hợp với khuôn khổ của chúng tôi với việc thúc đẩy và bảo vệ mọi quyền con người. Một chủ đề chính trong khuôn khổ chính sách là trách nhiệm. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảm thiểu rủi ro thiên tai được tích hợp vào chính sách công, để các quyền cơ bản của con người được bảo vệ khi công việc quản lý rủi ro vẫn còn tiếp diễn".
Ngoài ra, bà Pia Oberoi nhận định rằng các tổ chức hoạt động nhân quyền cần xem những người có nguy cơ đều có quyền bình đẳng và không phải là những người được hưởng lợi từ các hành động nhân đạo. Bà cho rằng các quốc gia cần lên kế hoạch phục hồi tốt hơn sau khi đại dịch đi qua với một cuộc sống ‘bình thường mới’ bình đẳng hơn.
Nguồn : RFA, 14/05/2020
Các nền dân chủ dư sức đối đầu Trung Quốc như với Liên Xô cũ
Thụy My, RFI, 14/05/2020
Theo nhà báo, nhà sử học Thierry Wolton, cũng giống như Liên Xô cũ trong thời kỳ giảm căng thẳng, Trung Quốc thủ lợi từ những trao đổi thương mại với phương Tây và phô bày tham vọng thống trị thế giới. Thời trước, phương Tây đáp trả bằng việc chận đứng sự bành trướng của Liên Xô ; và nay vẫn có đủ phương tiện để chống lại người khổng lồ Châu Á nếu muốn.
Chân dung Tập Cận Bình tại quảng trường Thiên An Môn trong cuộc diễu hành kỷ niệm 70 năm quốc khánh Trung Quốc, ngày 01/10/2019. © Reuters/Thomas Peter/File Photo
Đối với Trung Quốc, đại dịch virus corona đã trở thành một thứ vũ khí chính trị, được sử dụng theo nhiều cách. Chẳng hạn "ngoại giao khẩu trang", các biện pháp phòng chống được nêu cao như hình mẫu cho toàn thế giới, gởi các nhân viên y tế đến các nước, đặc biệt là Châu Phi, tuyên truyền dồn dập, huy động mạng lưới ngoại giao lên án phương Tây là xuất xứ của thảm nạn…
Tổng thống Mỹ Donald Trump quyết định ngưng đóng góp tài chính cho Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Bộ Ngoại Giao Pháp triệu tập đại sứ Trung Quốc ở Paris để phản đối các bài viết vu khống, xúc phạm trên trang web của đại sứ quán. Tổng thống Emmanuel Macron công khai bày tỏ sự nghi ngờ về các tuyên bố của Bắc Kinh vào thời kỳ đầu cuộc khủng hoảng…Tất cả cho thấy các nền dân chủ không hề bị hoa mắt trước những trò múa may của Bắc Kinh.
Ngất ngây với vị thế mới
Thái độ này của Trung Quốc có thể gây ngạc nhiên, vì trọng lượng kinh tế và vị trí trên trường quốc tế hiện nay đủ để Bắc Kinh có thể tự hài lòng về tham vọng đại cường thành hiện thực, sau 20 năm tăng trưởng ngoạn mục. Nhưng ngược lại, chính quyền Bắc Kinh dường như đang trong trạng thái ngây ngất, và lợi dụng lúc các nước tư bản đang bận rộn chống dịch để ra tay.
Chính sách này khiến người ta nhớ lại thái độ của Moskva trong thời kỳ tan băng thập niên 70, Liên Xô cảm thấy chưa bao giờ mạnh như thế. Vào thời đó, trao đổi thương mại Đông-Tây tăng nhanh. Người ta nói về "vũ khí hòa bình", sự hào hiệp, hội tụ các hệ thống dưới một nền kinh tế thị trường mang lại lợi ích cho tất cả các bên.
Nhờ chính sách này, ảnh hưởng Liên Xô tăng tiến chưa từng thấy : tại Châu Á (Việt Nam, Cam Bốt, Lào, Afghanistan), Châu Phi (Somalia, Bénin, Ethiopia, Angola, Mozambique, Zimbabwe), Trung Đông (Nam Yemen), Châu Mỹ la-tinh (Nicaragua).
Trong nước, chủ yếu bộ máy kỹ nghệ của giới quân sự được hưởng lợi qua việc buôn bán với phương Tây. Nền kinh tế xô-viết được cấu tạo theo một cách mà các công nghệ tư bản, được mua về hoặc đánh cắp, được ưu tiên dành cho Hồng quân.
Nhưng "Vũ khí hòa bình" nhằm chuẩn bị chiến tranh. Khi ý thức được tình hình này với việc Liên Xô đưa quân sang Afghanistan năm 1979, các nền dân chủ đã cứng rắn hơn trong các quy chế thương mại. Sự tỉnh thức này sau đó đã gây thiệt hại nặng nề cho Moskva, khi ông Gorbatchev đang hy vọng được các nước tư bản viện trợ tài chính để cứu vãn chế độ. Sự hoài nghi của Âu-Mỹ trước perestroika là một trong những nguyên nhân khiến Liên Xô sụp đổ cuối năm 1991.
Nhảy lên hàng đại cường nhờ đầu tư và công nghệ của tư bản
Tác giả Thierry Wolton cho rằng nhắc nhở này là cần thiết. Đã hẳn vị trí Trung Quốc ngày nay trong nền kinh tế toàn cầu hóa giúp Bắc Kinh tránh được những đòn trả đũa trong thương mại, vốn đã làm Liên Xô yếu đi trước đây. Nhưng ngược lại, rõ ràng Trung Quốc leo lên được vị trí này là nhờ mở cửa cho chủ nghĩa tư bản, như Liên Xô mạnh lên một phần nhờ trao đổi với phương Tây.
Hàng trăm tỉ đô la mà phương Tây đầu tư vào Trung Quốc trong hơn 20 năm qua, việc chuyển giao hàng loạt công nghệ thông qua các liên doanh, đã giúp chế độ cộng sản hiện đại hóa quân đội, hoàn thiện bộ máy công an, tăng cường sự kiểm soát của đảng đối với dân chúng. Tương tự như Liên Xô cũ, kỹ nghệ quốc phòng được ưu tiên trong nền kinh tế Trung Quốc.
Khi đã bước lên hàng cường quốc, Trung Quốc bèn tiến hành chính sách đối ngoại hiếu chiến : bành trướng trên Biển Đông, vận động đưa người nắm quyền các tổ chức quốc tế, quyền lực mềm, con đường tơ lụa mới…Bắc Kinh muốn áp đặt các quan điểm của mình cho toàn thế giới, và đại dịch xuất phát từ Vũ Hán đã mang lại cho họ thêm một cơ hội.
Tiểu nhân đắc chí
Các nước dân chủ đang quay cuồng chống dịch, Bắc Kinh nhân đó lấn xa hơn. Trong thời kỳ tan băng, Liên Xô nghĩ rằng có thể lợi dụng tình hình mà không có rủi ro nào vì điện Kremlin tin là đến một lúc nào đó chủ nghĩa tư bản sẽ kết thúc. Tự tin vào sức mạnh, không lường đến phản ứng phương Tây, Moskva lao vào lò lửa Afghanistan, khiến cho giọt nước tràn ly.
Phải chăng Trung Quốc đang phạm phải cùng một sai lầm, khi khai thác quá mức đại dịch ? Trong chế độ cộng sản, nhân tố ý thức hệ là cốt yếu, là lý do tồn tại. Tập Cận Bình có thể có cùng lý lẽ với các đồng nhiệm Kremlin ngày xưa. Dưới sự lãnh đạo của ông ta, tin rằng chủ nghĩa tư bản đang suy tàn, Trung Quốc dấn mạnh những con cờ để trả thù lịch sử. Hoàn Cầu Thời Báo ngạo mạn cho rằng thời cơ đã đến cho "toàn cầu hóa theo kiểu Trung Quốc", trong lúc phương Tây suy sụp.
Hai sự kiện gần đây là minh chứng. Tại Hồng Kông, Bắc Kinh lợi dụng thế giới đang tập trung vào dịch virus corona, để bắt giữ các nhà lãnh đạo phong trào dân chủ. Tại Anh, tranh thủ lúc thủ tướng Boris Johnson phải nhập viện, Trung Quốc âm mưu thâu tóm một nhà sản xuất chip điện tử có giá trị công nghệ cao của Anh.
Theo tác giả Thierry Wolton, Trung Quốc phải là mối quan tâm lớn nhất của thế giới. Chỉ có sự cứng rắn của các nước dân chủ phương Tây mới chặn đứng được tham vọng của Tập Cận Bình, như đã chặn Brejnev trước đây.
Sau cuộc khủng hoảng dịch tễ này, Trung Quốc cũng bị yếu đi, Bắc Kinh cũng lệ thuộc nhiều vào việc xuất khẩu qua các thị trường tư bản, như các nước này cần sản phẩm Trung Quốc. Chưa hẳn đã "mèo nào cắn mỉu nào" như Bắc Kinh vẫn nghĩ.
Thụy My
Nguồn : RFI, 14/05/2020
*******************
Trung Quốc "đánh mất" Châu Âu
Hoàng Trung, Thoibao.de, 14/05/2020
Năm 2020 được dự kiến là năm ngoại giao Châu Âu – Trung Quốc với một loạt Hội nghị Thượng đỉnh cấp cao được lên kế hoạch trong chuyến thăm Đức vào mùa thu này của Chủ tịch Tập Cận Bình nhưng đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi tất cả khi Châu Âu đã có dịp được tận mắt chứng kiến bộ mặt trần trụi của Trung Quốc.
Ngoại trưởng Thụy Điển Ann Linde đề xuất tiến hành điều tra về hoạt động của WHO và nguồn gốc của virus Corona mới
Cách xử lý dịch của Trung Quốc đã làm mất lòng tin của Châu Âu. Nhiều quốc gia phương Tây đặt câu hỏi về số ca mắc cũng như số ca tử vong chính thức vì Covid-19 ở Trung Quốc, đồng thời cáo buộc nước này thiếu minh bạch và không cảnh báo sớm về dịch bệnh.
Ngoại trưởng Anh Dominic Raab đã tuyên bố Vương quốc Anh sẽ không còn "làm ăn bình thường" với Trung Quốc nữa sau đại dịch Covid-19. Quan điểm này đã được hưởng ứng sau khi các chính trị gia cấp cao trong Đảng Bảo thủ viết một thư ngỏ gửi tới Thủ tướng Boris Johnson kêu gọi "suy nghĩ lại" về quan hệ Anh – Trung Quốc.
Tháng 4/2020, Thụy Điển đóng cửa tất cả Học viện Khổng Tử – các trung tâm văn hóa và ngôn ngữ của Trung Quốc tại nước này và là quốc gia đầu tiên tại Châu Âu có động thái như vậy. Trong khi đó, một số thành phố Thụy Điển cũng đã chấm dứt các thỏa thuận "thành phố kết nghĩa" với các thành phố của Trung Quốc, trong đó bao gồm cả mối quan hệ giữa thành phố lớn thứ hai nước này là Gothenburg với Thượng Hải.
Bộ trưởng Tài chính Pháp Bruno Le Maire (B-ruy-nô Lơ Me-rờ) cho biết đầu tháng 4/2020 rằng sẽ có một sự phân chia giữa thời điểm "trước khi" và "sau khi" đại dịch Covid-19 diễn ra trong nền kinh tế toàn cầu. Ông khẳng định : "Chúng ta phải giảm sự phụ thuộc vào một số đối tác lớn, đặc biệt là Trung Quốc về việc cung cấp một số sản phẩm nhất định" và "tăng cường khả năng độc lập tối đa của chúng ta trong chuỗi giá trị chiến lược".
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron cũng nhận định trong một cuộc phỏng vấn với Financial Times rằng "rõ ràng có những điều đã xảy ra mà chúng tôi không biết" về Trung Quốc.
Giám đốc Chương trình Châu Âu tại Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế Erik Brattberg nhận định với Newsweek rằng : "Cuộc khủng hoảng Covid-19 sẽ ngày càng thúc đầy thái độ hoài nghi với Trung Quốc. Mối quan hệ ngày càng gia tăng căng thẳng giữa EU và Trung Quốc sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp".
Thêm vào đó, bắt đầu từ giữa tháng Ba, Trung Quốc đẩy mạnh chiến dịch "ngoại giao khẩu trang" tại Châu Âu với các lô hàng lớn bao gồm khẩu trang, thiết bị y tế, được tô điểm với lá cờ Trung Quốc. Nhưng chiến dịch thất bại nặng nề do chất lượng sản phẩm của Trung Quốc quá kém đến mức một số quốc gia Châu Âu phải thu hồi trang thiết bị sản xuất tại Trung Quốc.
Hàng ngàn bộ xét nghiệm và khẩu trang y tế của Trung Quốc không đạt tiêu chuẩn hay bị lỗi, theo giới chức ở Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và Hà Lan.
Hà Lan đã phải thu hồi 600.000 khẩu trang y tế trong số 1,3 triệu chiếc từ Trung Quốc chuyển đến hôm 21/3, và đã được phân phát cho nhân viên y tế tuyến đầu chống virus corona. Lý do thu hồi là cho dù được gắn chứng chỉ chất lượng KN95 tương ứng với tiêu chuẩn FFP2 của Châu Âu, giới y tế Hà Lan đã phát hiện ra nhiều chiếc khẩu trang không che kín được phần mặt cần che, hoặc là bộ lọc không hoạt động đúng cách. "Phần còn lại của chuyến hàng ngay lập tức bị ngưng và chưa được phân phối", một thông cáo của chính phủ Hà Lan nói. "Hiện chính phủ đã quyết định không dùng bất cứ đồ gì trên phần còn lại của chuyến hàng này".
Chính quyền Tây Ban Nha cũng gặp phải các vấn đề tương tự với các bộ thử đặt từ một công ty Trung Quốc. Tây Ban Nha đã mua hàng trăm ngàn bộ thử để chống dịch, nhưng sau đó cho hay 60.000 bộ xét nghiệm đã không xác định được kết quả là bệnh nhân từng có virus hay là không.
Thổ Nhĩ Kỳ cũng tuyên bố họ đã phát hiện một số bộ thử đặt của các hãng Trung Quốc không đủ độ chính xác, mặc dù khoảng 350.000 bộ thử hoạt động tốt.
Khẩu trang Pháp đặt mua tại Trung Quốc được phi cơ vận tải của Pháp đến chở tại nới nước vào hạ tuần tháng Ba 2020
Các cáo buộc về chất lượng kém cỏi của bộ xét nghiệm và khẩu trang Trung Quốc dĩ nhiên đã khiến Bắc Kinh bực tức.
Một cách chính thức thì chính quyền Trung Quốc cam kết sẽ điều tra và khắc phục những thiếu sót trong sản phẩm của họ, nhưng bên cạnh đó cũng có những phản ứng lạ lùng là đổ lỗi cho bên mua.
Hoàn Cầu Thời Báo của chính quyền Trung Quốc, ngày 28/3, đã thản nhiên cho rằng các sự cố liên quan đến một số bộ xét nghiệm virus corona của Trung Quốc bắt nguồn từ "sự hiểu biết không đầy đủ của một số quốc gia về các phương pháp thử nghiệm khác nhau".
Tờ báo L’Opinion (Lô-pi-ni-ông) của Pháp bình luận hiển nhiên là uy tín của Bắc Kinh đang bị thử thách trong lĩnh vực này và họ không nên để xảy ra quá nhiều vấn đề về chất lượng sản phẩm, bằng không mọi nỗ lực để khôi phục hình ảnh bị hoen ố của họ có thể trở thành vô ích.
Một số quan chức Châu Âu đã tỏ ý bất bình trước thái độ khoa trương của chính quyền Trung Quốc liên quan đến hoạt động hợp tác. Những quan chức này đã có lý khi nhắc lại rằng vào cuối tháng 1, khi Bắc Kinh yêu cầu sự giúp đỡ từ Ủy Ban Châu Âu, Bruxelles đã gửi 56 tấn vật tư y tế qua Trung Quốc mà không quảng bá việc này để giữ thể diện cho đối tác.
Chính sách "ngoại giao khẩu trang" cũng như viện trợ y tế mà Trung Quốc quảng bá rộng rãi được thực hiện một cách có chủ ý tùy thuộc theo từng quốc gia.
Các chuyên gia nhận thấy "mối tương quan giữa các công ty Trung Quốc có những lợi ích thương mại trong nước với những khoản quyên góp từ các công ty này" tại nhưng nước như : Hy Lạp, Hungary, Italy, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Trung Quốc đã ưu tiên vận chuyển khẩu trang và máy thở cho các nước như Italy và Hungary, những nước hưởng ứng Dự án "Vành đai và Con đường" của Trung Quốc, đồng thời tránh hỗ trợ các quốc gia đã né tránh dự án này của Trung Quốc.
Một nghiên cứu dựa trên phân tích vai trò của Trung Quốc đối với việc xử lý khủng hoảng Covid-19 tại 19 nước Châu Âu nhận định : "Trong khi chiến lược ngoại giao công khai ngày càng chủ động của Trung Quốc diễn ra rộng khắp thì dường như có một mức độ nhất quán tương đối trong việc truyền đi thông điệp, có sự đa dạng trong các phương thức từ mức độ thấp (chẳng hạn với Latvia hoặc Romania) cho tới "tấn công quyến rũ" (với Ba Lan, Bồ Đào Nha, Italy hoặc Tây Ban Nha) và khiêu khích hoặc gây hấn (như với Thụy Điển, Đức và Pháp)".
Đội ngũ các nhà ngoại giao Trung Quốc đã tận dụng đại dịch để thể hiện phong cách ngoại giao chiến lang nhằm ghi điểm với chính quyền cộng sản bất chấp việc vi phạm nguyên tắc ngoại giao cũng như làm hoen ố hình ảnh Trung Quốc trên trường quốc tế.
Các thuộc hạ của chế độ bắt đầu loan tin thất thiệt, nhằm mô tả các nền dân chủ Châu Âu như là đã suy yếu, bất lực, so với chế độ toàn trị của Trung Quốc.
Tại Pháp, đại sứ quán Trung Quốc cho đăng trên trang web của mình những thông tin như nhà dưỡng lão Pháp bỏ mặc cho người già chết.
Tại Ý thì họ cho loan truyền tin đồn là nguồn gốc Covid-19 thực ra xuất xứ từ Châu Âu, hay phát tán một clip video được ngụy tạo, cố ý chỉnh sửa để cho thấy người dân Roma chơi quốc ca của Trung Quốc để tỏ lòng biết ơn.
Tại Đức, các nhà ngoại giao Trung Quốc cố thúc giục chính quyền Berlin công khai ca ngợi Trung Quốc nhưng đã không thành công.
Phản ứng trước những sự kiện nêu trên, bộ phận ngoại giao Châu Âu đã tập hợp trong một báo cáo những thông tin thất thiệt mà Trung Quốc và một kẻ tình nghi thông thường khác là Nga loan truyền. Trung Quốc đã phản ứng ngay, gây sức ép với các tác giả để họ hạ giọng, tuy nhiên điều này đã làm cho sự vụ xấu đi hơn. Các nghị sĩ Châu Âu đã tức giận thêm và đòi lãnh đạo Châu Âu phải cam đoan là không tự kiểm duyệt trước sức ép của Trung Quốc.
Với động cơ lợi dụng tối đa đại dịch thông qua một chiến dịch tuyên truyền rầm rộ và trắng trợn, Trung Quốc đã vô tình để cho Châu Âu thấy rõ bộ mặt trục lợi "bất cần đạo lý" của mình.
Chính phủ các quốc gia Châu Âu đã cẩn trọng hơn với Trung Quốc trong 2 năm qua khi sáng kiến "Vành đai, Con đường" của Chủ tịch Tập Cận Bình xuất hiện khắp lục địa, tham gia vào các công ty robot, cảng biển, doanh nghiệp lớn từ Địa Trung Hải cho tới Biển Baltic.
Một số quốc gia Châu Âu còn quan ngại về chương trình "Made in China 2025" với kỳ vọng của Bắc Kinh trở thành đầu tàu thế giới về công nghệ then chốt. Nhiều nước cho rằng đây là mối đe dọa với công nghiệp Châu Âu.
Khi giá cổ phiếu chao đảo vì khủng hoảng dịch Covid-19, các quốc gia như Đức đã thắt chặt quy định do lo ngại rằng Trung Quốc có thể nhân cơ hội kiểm soát cổ phiếu ở những công ty yếu thế do dịch.
Ủy viên Châu Âu phụ trách lĩnh vực cạnh tranh Margrethe Vestager chia sẻ trong cuộc trả lời phỏng vấn tờ Financial Times rằng các chính phủ cần mạnh tay và mua cổ phiếu của các công ty yếu thế để ngăn chặn Trung Quốc tận dụng.
Không trực tiếp đề cập đến Trung Quốc nhưng các bộ trưởng thương mại EU vào ngày 16/4 đều thống nhất về tầm quan trọng của việc đa dạng hóa để "giảm phụ thuộc vào quốc gia khác về nguồn cung". Bước đầu tiên là Đức dự kiến dùng ngân sách quốc gia để khởi động sản xuất hàng triệu khẩu trang tính đến cuối mùa hè. Trung Quốc hiện xuất khẩu 25% khẩu trang trên toàn thế giới.
Ông Joerg Wuttke cho biết thảo luận về chuỗi cung ứng hình thành kể từ khi Bắc Kinh đóng cửa các cảng biển vào đầu năm nay, gây lo ngại dược liệu tại Trung Quốc không thể đến Châu Âu. Cũng từ đây, các nghị sĩ nhận thấy rằng cần phải đảm bảo các sản phẩm chiến lược.
Tại Anh quốc, đất nước mới chính thức rời EU, cũng có những lo ngại tương tự với Trung Quốc. Nghị sĩ đảng Bảo thủ Tom Tugendhat, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Anh ngày 15/4 chỉ trích Trung Quốc đang lợi dụng tình hình đại dịch Covid-19 để thâu tóm quyền kiểm soát các công ty tại Châu Âu, trong đó có Công ty Imagination Technologies chuyên về công nghệ của Anh. Ngày 14/4, các nghị sĩ Anh triệu tập lãnh đạo Imagination để chất vấn về lo ngại công ty này đang tính chuyển giao quyền sở hữu phần mềm an ninh nhạy cảm cho công ty do Trung Quốc sở hữu.
Nhà bình luận Đức Andreas Kluth nhận định uy tín của Trung Quốc càng lúc càng lụn bại tại Châu Âu cho dù về mặt kinh tế, cường quốc Châu Á vẫn rất hấp dẫn.
Tác giả cho rằng Trung Quốc chỉ có thể tự trách mình trước các phản ứng nghi kỵ nói trên. Các viên chức Trung Quốc đã tạo nên một nỗi tức giận chung đối với Bắc Kinh trên một lục địa gồm những nước hầu như luôn bất đồng với nhau trên mọi việc. Vào đầu năm, khi chưa có dịch, chương trình hoạt động của Liên Hiệp Châu Âu đầy ắp những thượng đỉnh Châu Âu – Trung Quốc nhằm chào mừng quan hệ song phương. Thế nhưng, may mắn cho Châu Âu là đại dịch đã giúp Châu Âu nhận ra bộ mặt thật của nhà cầm quyền cộng sản ở Bắc Kinh và bắt đầu tự giải thoát ra khỏi những mối quan hệ tồi tệ.
Hoàng Trung
Nguồn : Thoibao.de, 14/05/2020
Trung Quốc thực sự có "quyền lực mềm" ?
Như thường lệ, Le Monde giới thiệu với độc giả tình hình dịch bệnh ở nhiều quốc gia : "nghịch lý giải tỏa" tại Đức, "hiệu quả đáng gờm của các đạo quân chống virus corona tại Áo". Nhìn sang Châu Á, Le Monde dự báo nguy cơ "nô lệ hóa lao động" tại Ấn Độ do nhiều bang quyết định kéo dài thời gian làm việc của người lao động lên thành 72g/tuần. Còn về Châu Phi, Le Monde đề cập tới "tình trạng hỗn loạn" do giá dầu thô giảm.
Nghi vấn virus corona lây lan ra thế giới từ Đại hội thể thao quân đội thế giới. Vũ Hán vẫn đang để ngỏ. (Ảnh minh họa) –
Liên quan đến Trung Quốc, Le Monde phân tích "Những điều bí ẩn ở Đại hội thể thao quân đội thế giới Vũ Hán" hồi tháng 10/2019, với sự tham gia của 10.000 vận động viên quân đội từ nhiều nước, trong đó có Mỹ, Pháp, Ý, Thụy Điển… Le Monde dẫn lại một số vận động viên các nước, theo đó nhiều người có các biểu hiện mệt mỏi, sốt khác thường khi ở Vũ Hán hay sau khi về nước. Điều lạ là họ được lệnh không cung cấp thông tin cho báo chí. Nghi vấn virus corona lây lan ra thế giới từ Đại hội thể thao quân đội thế giới. Vũ Hán vẫn đang để ngỏ.
Le Monde cũng có một bài viết đáng chú ý khác : "Quyền lực mềm của Trung Quốc thất bại". Tờ báo nhận định các nỗ lực của Bắc Kinh để phát triển "ngoại giao khẩu trang" không đủ để cải thiện hình ảnh của Trung Quốc trong mắt quốc tế. Trong khi Bắc Kinh tự cao tự đại là cứu thế giới với việc xuất 28 tỉ khẩu trang đến 130 nước, hình ảnh của Trung Quốc không những không được cải thiện mà còn xấu đi.
Một bài viết mới đây của Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc có tiêu đề "Làm thế nào để đáp trả lại tốt hơn những đòn tấn công chống Trung Quốc" đã nhắc đến thái độ "thù địch" mà Bắc Kinh đã gây ra ở Châu Âu. Thậm chí một báo cáo của Trung tâm nghiên cứu an ninh nhà nước Trung Quốc còn đánh giá thái độ bài Trung Quốc chưa bao giờ dâng cao đến như vậy trên thế giới, kể từ vụ thảm sát Thiên An Môn hồi năm 1989. Reuters tiết lộ báo cáo gửi đến Tập Cận Bình không loại trừ khả năng nổ ra một cuộc xung đột vũ trang giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới Mỹ - Trung.
Ngay cả tại Châu Phi, vốn rất được ngành ngoại giao Trung Quốc chú ý, Trung Quốc cũng không tránh khỏi bị chỉ trích, nhất là tại Nigeria, vì người dân nước họ bị kỳ thị ở Trung Hoa đại lục. Theo Le Monde, một dấu hiệu khác đáng lo ngại đối với Bắc Kinh là nhiều chuyên gia người Bắc Triều Tiên và Châu Âu chuyên nghiên cứu về Trung Quốc và đã dành một phần tuổi trẻ để học tiếng Trung vì bị đất nước và nền văn hóa Trung Hoa mê hoặc, nay lại là những nhà phê bình Bắc Kinh mạnh nhất trên các mạng xã hội, cho dù hiếm khi bối cảnh thế giới thuận lợi cho Trung Quốc như trước khi xảy ra bệnh dịch : Tổng thống Hoa Kỳ không quan tâm đến vai trò quốc tế, Ấn Độ cũng thu mình, Châu Âu đang phải vật lộn với chính mình, còn Nga không còn đủ lực thực hiện các tham vọng.
Thành công mạnh mẽ về kinh tế, Trung Quốc có một mô hình phát triển có thể đề xuất ra thế giới. Bắc Kinh cũng có một "hộp công cụ" - chương trình đầu tư "Con đường tơ lụa mới" với phương tiện tài chính dồi dào. Tuy nhiên, như đại sứ Úc tại Bắc Kinh giai đoạn 2007-2011, Geoff Raby, tóm lược thì "Trung Quốc không có quyền lực mềm", chính xác hơn là Bắc Kinh không thể khiến họ có được thiện cảm hơn. Mọi người có thể ngưỡng mộ sức mạnh kinh tế và công nghệ của Trung Quốc, nhưng lại không muốn theo lối sống ở Trung Quốc và nhất là không ai muốn sống ở quốc gia này.
Theo điều tra năm 2019 của Viện Pew Research, trong số 30 quốc gia, Mỹ có cái nhìn tốt hơn về Trung Quốc so với 21 quốc gia khác. Tại Châu Á và Châu Thái Bình Dương, Trung Quốc bị xem là một mối đe dọa hơn là một đồng minh. Việc Donald Trump không được lòng người dân các nước cũng không giúp gì thêm cho Tập Cận Bình. Chỉ có người dân Nga mới đánh giá ông Tập cao hơn ông Trump. Đối với Geoff Raby, hàng tỉ đô la Bắc Kinh chi ra để cải thiện hình ảnh của Trung Quốc ở nước ngoài là một trong những sự lãng phí của công lớn nhất ở đất nước này. Các nước không thể không sợ một đất nước mà các nhà ngoại giao bị coi là những "chiến binh sói".
Điều sâu xa hơn, như chuyên gia về Trung Quốc, Nadège Rolland, thuộc Văn phòng quốc gia về nghiên cứu Châu Á, đã phát biểu trước Quốc hội Mỹ, là việc Bắc Kinh quảng bá Trung Quốc là một nền văn hóa, lịch sử và dân tộc duy nhất trên thế giới cho thấy quan điểm của họ là không có nước nào phù hợp hơn Trung Quốc để làm hình mẫu phát triển kinh tế và chính trị cho thế giới, và chỉ có Đảng cộng sản Trung Quốc mới có thể chỉ ra con đường thế giới cần đi.
Bà Anne Cheng, giáo sư Viện khoa học có uy tín của Pháp Collège de France, tác giả bài phân tích "Đại dịch và toàn cầu hóa kiểu Trung Quốc" đã nhấn mạnh là trong vòng 4 thập kỷ qua, Bắc Kinh đã thay đổi quan điểm, từ "Trung Quốc trong thế giới", đến "Trung Quốc và thế giới", và nay thì "Trung Quốc là thế giới". Bắc Kinh coi là dưới bầu trời này chỉ có duy nhất Trung Quốc. Le Monde kết luận : Khi mơ về một "thế giới Trung Hoa", Tập Cận Bình không thể điều chỉnh chế độ thích nghi với phần còn lại của thế giới.
Covid-19 – Pháp khủng hoảng kinh tế nặng nhất Châu Âu : Không phải điều tình cờ
Khác với Le Monde, báo Le Figaro hôm nay tập trung vào gánh nặng khủng hoảng mà nước Pháp phải chịu đựng.
Le Figaro chạy tựa trang nhất "Khủng hoảng kinh tế : Nước Pháp bị tác động nhiều hơn các nước khác". Do tác động của dịch bệnh, tăng trưởng quý 1/2020 của Pháp giảm 5,8%, mức giảm nhiều nhất Liên Âu, nhiều hơn so với Đức (5,2%), Ý (4,7%) và Tây Ban Nha (2%). Liên Âu dự báo kinh tế Pháp năm nay sẽ sụt giảm khoảng 8%. Theo Le Figaro, điều này chủ yếu là do các biện pháp phong tỏa chống dịch nghiêm ngặt mà chính phủ ban hành, các quy định vệ sinh y tế khi giải tỏa lại không rõ ràng khiến việc tái khởi động của các doanh nghiệp bị chậm, trợ cấp thất nghiệp bán phần lại quá hào phóng. Giới chủ doanh nghiệp Pháp hiện giờ đang lo ngại sự chậm chạp của các công ty Pháp sẽ tạo lợi thế cho các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.
Con sóng thần Covid-19 đã quét sạch mọi thứ trên đường nó qua, đại dịch Covid-19 cũng như cú sét khủng khiếp đánh xuống cả hành tinh, để lại những hậu quả nặng nề kéo dài cho mỗi nước. Theo những ước tính ban đầu, Pháp sẽ lâm vào suy thoái kinh tế mạnh hơn, với tỉ lệ thất nghiệp cao hơn và ngân sách Nhà nước sẽ thâm thủng hơn nhiều so với các quốc gia khác. Trong bài xã luận "Đâu phải tình cờ …", Le Figaro đi tìm lý do sâu xa giải thích những vấn đề của nước Pháp. Những viễn cảnh ảm đạm không phải tình cờ mà có, chủ yếu là do đất nước đã bị gặm nhấm bởi những điều đặc biệt : trước khi xảy ra khủng hoảng Covid-19, các cuộc xung đột xã hội đã kéo dài suốt nhiều tháng, điển hình là phong trào đấu tranh Áo Vàng trong hơn 1 năm, hai đợt đình công lớn của ngành giao thông công cộng. Nước Pháp bước vào khủng hoảng trong cảnh thiếu thốn, nhưng theo Le Figaro, nước Pháp là nạn nhân của chính mình : thiếu khẩu trang, xét nghiệm, giường bệnh, máy trợ thở.
Phong tỏa đất nước, chính phủ đã áp dụng chính sách trợ cấp thất nghiệp bán phần mà Le Figaro coi là "không giống ai". Nhà nước hiện giờ đang góp phần chi trả lương cho 12 triệu lao động thuộc lĩnh vực tư nhân. Người lao động và các doanh nghiệp dĩ nhiên là thấy nhẹ nhõm hơn, nhưng hoạt động kinh tế đang bị chậm lại. Từ hai ngày nay, chính quyền mới nới lỏng các biện pháp phong tỏa, trong khi các đối thủ của Pháp đã tái khởi động ở tốc độ tối đa. Nước Pháp bước vào khủng hoảng Covid-19 trong cảnh "cạn tiền, cháy túi", và sau giai đoạn phong tỏa, nước Pháp hoàn toàn kiệt sức, với tỷ lệ nợ cao gấp rưỡi so với láng giềng Đức.
Một số người cho rằng Pháp sẽ phải trả giá cho chủ nghĩa tự do thái quá. Tuy nhiên, virus corona cũng chứng minh điều hoàn toàn ngược lại : Quốc gia "chi tiêu phóng tay" nhất và "Nhà nước hóa" mạnh nhất trong số các nền dân chủ lớn trên thế giới cũng là nước dễ bị tổn thương nhất.
Châu Á giãn cách kinh tế với Trung Quốc
Trong lĩnh vực kinh tế, báo Les Echos nói về "Hồi hương sản xuất : Giấc mơ mới của Pháp". Cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu đã mở ra những tranh luận về việc hồi hương các dây chuyền sản xuất công nghiệp về Pháp. Có rất nhiều đường hướng, nhưng Les Echos lưu ý là các khó khăn, hạn chế cũng không ít. Nhìn ra Châu Âu, Les Echos cho biết Bruxelles đang tính đến phương án hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp chiến lược của Liên Hiệp : thành lập các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp đối phó với khủng hoảng và nguy cơ bị nước ngoài "thôn tính".
Liên quan đến Trung Quốc, Les Echos nhận định "Các doanh nhân nước ngoài khó quay trở lại Trung Quốc". Để hạn chế các ca nhiễm bệnh mà Bắc Kinh coi là "nhập khẩu" từ ngước ngoài, ngày 28/03 Trung Quốc ra lệnh cấm người ngoại quốc đến nước này, kể cả người có giấy phép cư trú, doanh nhân, chủ doanh nghiệp có cơ sở tại Trung Quốc … Nhưng hiện giờ, để tái kích hoạt nền kinh tế, Bắc Kinh bắt đầu nới lỏng biện pháp nói trên, thảo luận với các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Đức… hay bí mật thương lượng với từng doanh nghiệp đối tác lớn như Volkswagen của Đức, PSA của Pháp để các lãnh đạo và nhân viên của các tập đoàn sớm được quay trở lại Trung Quốc làm việc.
Les Echos cũng chú ý đến "Ý định của các nước Châu Á về giãn cách kinh tế với Trung Quốc". Tranh thủ cuộc khủng hoảng dịch bệnh, chính quyền nhiều nước Châu Á hy vọng thuyết phục được các doanh nghiệp ngưng phụ thuộc vào hàng "Made in China". Những nước này đã nhận thấy Trung Quốc dễ bị tổn thương và thiếu minh bạch như thế nào !
Trong số đó, Nhật Bản là nước đầu tiên đề xuất gói hỗ trợ 248 tỉ yen (2,2 tỉ euro) cho các doanh nghiệp muốn đưa các dây chuyền sản xuất từ Trung Quốc về nước. New Delhi khuyến khích các nhóm công tác kinh tế tăng cường liên hệ với các tập đoàn Mỹ đặt tại Trung Quốc để đề xuất họ chuyển sang Ấn Độ với những điều kiện ưu đãi hơn. Chính quyền Seoul cũng thành lập một nhóm công tác đặc biệt với Phòng Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc để tạo thuận lợi cho các công ty chuyển hoạt động sản xuất về nước.
Trong khi một số tập đoàn lớn của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan còn do dự trong việc hồi hương sản xuất vì nhiều lý do kinh tế, một số doanh nghiệp đã hướng tới việc mở rộng sản xuất ở các nước Châu Á khác, nhất là Việt Nam, Indonesia và Thái Lan.
Thùy Dương
Từ "Ngày xưa có con virus" đến "One Sea" : Bắc Kinh nhận quả đắng ! (RFI, Đăng ngày 12/05/2020)
Sau khi đại sứ Trung Quốc tại Paris Lô Sa Dã (Lu Shaye) bị Bộ Ngoại giao Pháp triệu tập (mà theo báo chí đây là lần thứ hai) vì đăng bài vu khống Pháp để người già chết đói, chết bệnh trong các viện dưỡng lão, cứ ngỡ rằng đây hẳn là một bài học đích đáng cho những con diều hâu Trung Quốc. Tuy nhiên cơ quan ngoại giao này vẫn "ngựa quen đường cũ".
Ngày xửa ngày xưa có con virus" (Once Upon a Virus) của đại sứ quán Trung Quốc tại Pháp trên YouTube. © Ảnh chụp màn hình video
"Ngày xửa ngày xưa có con virus…"
Chỉ vài ngày sau, trên tài khoản Twitter của đại sứ quán Trung Quốc tại Pháp xuất hiện một video mang tựa đề "Once Upon a Virus" (Ngày xửa ngày xưa có con virus), lần này thì nhằm khiêu khích Mỹ.
Đoạn video hoạt hình ngắn này có hai nhân vật chính được trình bày theo dạng trò chơi Lego. Bên trái là một chiến binh Trung Quốc thời xưa có mang khẩu trang, bên phải là tượng Nữ thần Tự Do.
Nội dung có thể gói gọn trong một câu : Trung Quốc đã cảnh báo cho thế giới về sự trầm trọng của tình hình, và đã thành công trong việc ngăn chận đại dịch. Trong khi đó Hoa Kỳ không muốn lắng nghe, và giờ đây phải lúng túng đối phó.
Sau đây là một số đối đáp :
Trung Quốc : Chúng tôi đã phát hiện một con virus mới
Hoa Kỳ : Thì sao ?
(…)
Một đại sứ quán châm biếm sỗ sàng một quốc gia khác là sự kiện hiếm thấy trong ngành ngoại giao, nhưng nay dường như Bắc Kinh muốn biến thành chuyện bình thường. Công ty Lego vội vàng thanh minh là không dính dáng gì đến video này.
Cùng ngày, tổng thống Mỹ Donald Trump khẳng định trước báo chí là nay ông quan tâm đến vai trò của Trung Quốc trong việc để xảy ra đại dịch virus corona, hơn cả vấn đề thương mại. Ông chủ Nhà Trắng cảnh cáo : "Tôi có thể làm rất nhiều điều". Hoa Kỳ nghi ngờ con virus độc hại đã thoát ra khỏi một phòng thí nghiệm ở Vũ Hán, tố cáo Trung Quốc đã giấu diếm tầm mức nguy hiểm của dịch bệnh, thông tin quá trễ cho cộng đồng quốc tế, làm hại cả thế giới.
Donald Trump muốn Bắc Kinh phải trả giá, trước mắt có thể tính đến việc tăng thuế đánh vào hàng Trung Quốc. Áp lực quốc tế đòi điều tra nguyên nhân dịch virus corona ngày càng gia tăng.
Vì sao Bắc Kinh lại tỏ ra thô lỗ đến thế trong ngoại giao ? Các chuyên gia lý giải : cách phòng thủ tốt nhất là tấn công. Nhằm phủi trách nhiệm để xảy ra đại dịch, Trung Quốc muốn "tiên hạ thủ vi cường".
"One Sea", bài hát tuyên truyền "buồn cười", "có thể gây ẩu đả"
Tuy nhiên với các "tác phẩm nghệ thuật" không mang tính khiêu khích mà nhằm khuyến dụ, Bắc Kinh cũng thất bại nặng nề do thói quen tuyên truyền thô bạo. Một trong những ví dụ gần đây nhất là video âm nhạc mang tên "One Sea" dành cho người Philippines, ca ngợi "láng giềng hữu nghị trên biển", với đầy các hình ảnh viện trợ y tế của Trung Quốc.
Lời của bài hát "One Sea" do đại sứ Trung Quốc tại Philippines, Hoàng Tích Liên (Huang Xilian) viết, được trình bày bởi nhà ngoại giao Xia Wenxin và nghệ sĩ Vu Bân (Yu Bin) của Trung Quốc, ca sĩ gốc Hoa Jhonvid Bangayan và ca sĩ Imelda Papin của Philippines.
Sau khi đưa lên YouTube, bài hát này nhận được 2.000 like (thích) nhưng có đến 146.000 dislike (không thích). Hầu hết trong số 20.000 lời bình tố cáo "tuyên truyền của Trung Quốc", một kiến nghị với 8.000 chữ ký trên change.org đòi rút bài này xuống. Đến hôm nay 12/05/2020 "One Sea" vẫn còn trên YouTube, nhưng con số dislike lên đến 214.000, trong khi chỉ có 3.800 like.
"Vừa buồn cười vừa thâm hiểm", tờ South China Morning Post trích nhận định của người dân Philippines. Được cho là nhằm siết chặt quan hệ hai nước, bài hát lại bị coi như nỗ lực của Bắc Kinh hầu đánh lạc hướng hành vi bành trướng trên Biển Đông.
Những kiện hàng được trao gồm khẩu trang, bộ kit xét nghiệm…với những hàng chữ tiếng Hoa được zoom cận cảnh, các y bác sĩ Trung Quốc đến hỗ trợ, những lá cờ đỏ phất cao, lời cảm ơn của các viên chức Philippines trong đó có cả tổng thống Rodrigo Duterte và ngoại trưởng Teodoro Locsin... Những hình ảnh Trung Quốc viện trợ cho Philippines chống dịch virus corona xuất hiện đầy dẫy, liên tục khiến người xem bị bội thực.
Video bắt đầu bằng cảnh một ngư dân trên một chiếc thuyền nhỏ lướt trên vịnh Manila. The Diplomat cho rằng cùng với tựa đề bài hát, không thể không liên tưởng đến việc các nhà ngoại giao Trung Quốc tìm cách làm quên đi sự kiện Bắc Kinh lấn lướt trên biển, qua việc nhấn mạnh đến sự "đoàn kết" của hai chính phủ nhằm đối phó với con virus xuất phát từ Vũ Hán.
Bài hát bằng hai thứ tiếng Hoa và Philippines có câu : "Vì tình yêu của bạn dâng trào như làn sóng, tay trong tay, chúng ta tiến đến một tương lai tươi sáng, bạn và tôi trên cùng một vùng biển". Và "Ánh dương mang lại 'pagasa' (hy vọng) cho mỗi nước". Báo South China Morning Post không quên lưu ý, Pagasa còn là tên của một hòn đảo đang do Philippines chiếm đóng nhưng Trung Quốc yêu sách chủ quyền.
Trong bài "Những nốt nhạc lạc điệu", tờ Philippine Daily Inquier phẫn nộ viết : "Bài hát này có thể gây ẩu đả ở bất kỳ nơi nào khi nó được hát lên ! Các quan chức Trung Quốc này nghĩ gì ? Rằng người Philippines có thể bỗng chốc bị mất trí nhớ khi nghe khúc ca nàng tiên cá quyến rũ của họ chăng ?"
Tờ báo nhắc lại, chỉ hai ngày trước khi nhạc phẩm trên được tung ra, ngoại trưởng Locsin tiết lộ Philippines đã đưa ra hai kháng thư trước Trung Quốc.
Tuyên truyền thô thiển không làm quên bành trướng trên Biển Đông
Kháng thư thứ nhất phản đối việc một tàu hải cảnh Trung Quốc chiếu radar vào một tàu hải quân Philippines đang tuần tra tại vùng biển gần giếng dầu Malampaya của Manila. Sự cố được cựu thẩm phán tòa án tối cao Antonio Carpio đánh giá là "đe dọa trắng trợn".
Trong kháng thư thứ hai, Philippines đả kích việc Trung Quốc tự tiện đặt tên cho 80 thực thể trên Biển Đông, và lập ra hai quận trực thuộc "thành phố Tam Sa" của tỉnh Hải Nam. Theo ngoại trưởng Teodoro Locsin, cả hai sự kiện trên đây là "vi phạm luật pháp quốc tế và chủ quyền của Philippines".
Philippine Daily Inquier nhận định, Bắc Kinh vẫn không ngừng khiêu khích trong lúc thế giới đang chú tâm đối phó với đại dịch Covid-19 xuất phát từ Vũ Hán. Sau khi "One Sea" xuất hiện, Trung Quốc lại tiếp tục bị bêu trên báo chí địa phương với các vụ bắt giữ 44 người Hoa tổ chức đánh bạc trực tuyến, ngang nhiên buôn lậu dược phẩm… trong lúc hàng triệu người Philippines đang chấp hành lệnh phong tỏa.
Những lời ca ngợi tình hữu nghị và liên đới đi ngược lại với những hành động bành trướng trên Biển Đông, bất chấp phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye năm 2016 khẳng định đưỡng lưỡi bò tự vẽ của Bắc Kinh là bất hợp pháp. Và trong lúc đại sứ Trung Quốc viết lên những lời ca đẹp đẽ, thì các tàu chiến của nước ông ta quấy nhiễu ngư dân cũng như hải quân Philippines, Bắc Kinh không ngừng quân sự hóa các đảo nhân tạo.
Tờ báo kết luận, có lẽ bây giờ đã đến lúc Manila bắt đầu một giai điệu khác, thay vì bài ca muôn thuở "Best Friends Forever" (bạn tốt mãi mãi) mà phát ngôn viên chính phủ Harry Roche thường dành cho Trung Quốc. Nếu không, chính quyền Duterte có thể đi vào lịch sử vì đã bán nước lấy một bài hát !
Một điều thú vị là khi tẩy chay bài ca tuyên truyền "One Sea" của Trung Quốc, cư dân mạng Philippines đồng thời lăng-xê một nhạc phẩm khác mang tên "Save Our Seas" (Hãy cứu lấy biển của chúng ta) do hai rapper Tu P của Việt Nam, Marx Sickmind của Philippines và ca sĩ Mei Lee của Malaysia trình bày bằng tiếng Anh trên YouTube.
"Save Our Seas" ra đời từ cuối năm 2019, nói về cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông trước Trung Quốc, nay được chia sẻ nhiều trên mạng xã hội. Các lời bình dưới video "One Sea" kêu gọi tốt nhất nên nghe "Save Our Seas". Bài hát này đến hôm nay nhận được trên 10.000 like, và chỉ có vỏn vẹn 36 dislike, khác hẳn với số phận bài ca tuyên truyền rất công phu của Trung Quốc !
Thụy My
****************
Covid-19: Ca nhiễm tăng trở lại, Trung Quốc phong tỏa cả một thành phố 700.000 dân (RFI, 11/05/2020)
Việc dỡ bỏ phong tỏa đang gây lo ngại về một làn sóng dịch bệnh thứ hai tại Trung Quốc. Vào hôm 11/05/2020, giới chức y tế nước này ghi nhận thêm 17 ca nhiễm mới, với 10 trường hợp lây lan trong cộng đồng. Đây là ngày thứ hai liên tiếp số ca nhiễm mới vượt mức 10 ca, sau 14 trường hợp ghi nhận vào hôm qua.
Hàng rào chắn một khu dân cư tại thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, trước khi được dỡ bỏ ngày 14/04/2020. Reuters - ALY SONG
Tình hình có dấu hiệu đặc biệt nghiêm trọng ở tỉnh Cát Lâm, miền đông bắc Trung Quốc, buộc chính quyền địa phương phải ra lệnh phong tỏa toàn bộ thành phố Thư Lan (Shulan). Gần 700.000 dân bị cấm ra khỏi nhà.
Thông tín viên RFI Stéphane Lagarde phụ trách khu vực ghi nhận :
"Sau Vũ Hán, đến lượt Thư Lan. Kể từ hôm qua Chủ Nhật, toàn bộ hệ thống chuyên chở công cộng của thành phố thuộc tỉnh Cát Lâm đã bị đình chỉ hoạt động, không còn ai được phép ra vào thành phố, mọi loại xe cộ đều bị chặn lại ở lối vào thành phố, xe lửa phải đậu ở ga cho đến ngày 31/05.
Quyết định phong tỏa nghiêm ngặt được ban hành sau khi chính quyền phát hiện một trường hợp giống như một ổ dịch mới. Các ủy ban khu phố được lệnh phong tỏa toàn bộ các khu dân cư và làng xã trong địa phương của mình. 700.000 cư dân Thư Lan phải ở trong nhà. Tương tự như những gì diễn ra tại các thành phố lớn ở Hồ Bắc và Chiết Giang hồi đầu mùa dịch ở Trung Quốc, mỗi hộ chỉ có một người được quyền đi ra ngoài để mua hàng cần thiết.
Theo Hoàn Cầu Thời Báo, đầu mối gây lây nhiễm mới tại nơi này dường như là một phụ nữ 45 tuổi, nhân viên giặt ủi làm việc ở sở Công An thành phố. Bà đã lây bệnh cho người chồng, 3 chị em trong nhà và nhiều người thân khác. Giới y tế lo ngại trước sự kiện bệnh nhân này không hề đi đâu xa và cũng không hề tiếp xúc với người nhiễm virus.Để đề phòng lây lan, các trung tâm thể thao và tụ điểm giải trí như rạp chiếu bóng, quán karaoke đều bị đóng cửa, học sinh các lớp 9 và 12 vừa trở lại trường cũng phải nghỉ tiếp.
Không chỉ ở Thư Lan, mà tại Vũ Hán, nơi xuất phát của dịch Covid-19, nỗi lo ngại cũng tăng cao vì thành phố ghi nhận thêm 5 ca nhiễm mới vào hôm 11/05, sau khi có một người được xác nhận nhiễm bệnh ngày hôm qua. Tình hình đặc biệt gây lo ngại vì từ hơn một tháng nay, địa phương này không ghi nhận một trường hợp lây nhiễm mới nào".
Trọng Nghĩa
*********************
Covid-19 - Trung Quốc : Ca nhiễm đầu tiên ở Vũ Hán từ hơn một tháng (RFI, 10/05/2020)
Giới chức y tế Trung Quốc hôm nay, 10/05/2020 cho biết nước này vừa bị thêm 14 ca nhiễm mới vào hôm qua, một con số cao nhất từ ngày 28/04 đến nay. Đặc biệt trong số này có một trường hợp tại Vũ Hán, lần đầu tiên kể từ hơn một tháng nay.
Canh gác một khu phố ở Vũ Hán sau dỡ bỏ phong tỏa, ngày 10/04/2020. Reuters - ALY SONG
Trong buổi họp báo hàng ngày, Ủy ban Y tế Quốc gia Trung Quốc nói rõ là trường hợp ghi nhận ở Vũ Hán là một ca nhiễm không có triệu chứng. Vũ Hán, thủ phủ tỉnh Hồ Bắc, miền Trung Trung Quốc, là nơi xuất phát của đại dịch Covid-19 đang gây hại trên thế giới.
Theo giới chức y tế Trung Quốc, trong số các ca nhiễm mới còn lại, có hai trường hợp ngoại nhập, và 11 ca khác ở tỉnh Cát Lâm, miền đông bắc Trung Quốc. Lãnh đạo tỉnh này đã phải nâng cấp báo động lên mức cao ở thành phố Thư Lan, 700 000 dân.
Tuy nhiên, không có ca tử vong mới nào được ghi nhận. Tính tới hôm qua, 09/05, như vậy Trung Quốc đã bị tổng cộng 82.901 ca nhiễm, với 4.633 trường hợp tử vong, những con số bị nghi ngờ là không xác thực, vì thấp hơn rất nhiều so với thảm kịch cũng do virus này tại Mỹ và nhiều nước Châu Âu.
Bắc Kinh chấp nhận phải cải tổ hệ thống kiểm soát dịch
Trong bối cảnh đó, vào hôm 09/05, một viên chức y tế cao cấp Trung Quốc cho biết là Bắc Kinh sẽ cải tố hệ thống phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh để khắc phục các chỗ yếu mà dịch Covid-19 đã phơi bày.
Trung Quốc đã bị chỉ trích, cả trong nước lẫn ngoài nước, là đã phản ứng quá chậm khi dịch bệnh bùng lên ở Vũ Hán, rồi lan ra cả thế giới. Theo nguồn tin trên, Ủy ban Y tế Quốc gia Trung Quốc có ý định xây dựng một hệ thống chỉ huy "tập trung và hiệu quả", cải tổ và hiện đại hóa hệ thống phòng chống, kiểm soát bệnh dịch, sử dụng tốt hơn hệ thống dữ liệu, trí thông minh nhân tạo để phân tích tốt về dịch bệnh, lần theo dấu vết virus, phân bổ nguồn lực chống bệnh.
Trọng Nghĩa
Luận điệu của Trung Quốc về cuộc chiến chống Covid-19 đã thay đổi rõ rệt theo sự chuyển biến của tiến trình chống dịch trong nước : từ thận trọng và phòng vệ sang bất mãn với những nhận định về nguồn gốc của virus.
Luận điệu của Trung Quốc về cuộc chiến chống Covid-19 đã thay đổi rõ rệt theo sự chuyển biến của tiến trình chống dịch trong nước
Tóm tắt
* Luận điệu của Bắc Kinh về cuộc chiến Covid-19 trong những tháng vừa qua đã có sự thay đổi theo hướng tập trung hơn vào công chúng bên ngoài thay vì trong nước Trung Quốc.
* Khi Trung Quốc đang ở trong giai đoạn cam go của cuộc chiến chống Covid-19, luận điệu tuyên truyền của nước này tập trung phản ánh sự hỗ trợ từ bên ngoài, bao gồm các nước thành viên ASEAN, đối với những gì Trung Quốc đang thực hiện ở trong nước.
* Ban đầu, giới chức Trung Quốc dường như chấp nhận rằng virus SARS-CoV-2 có nguồn gốc từ Vũ Hán. Tuy nhiên, sau khi nỗ lực kiềm chế sự lây lan của virus trong nước, cùng với việc Mỹ quy mối đe doạ virus cho Trung Quốc, nước này đã bắt đầu đặt những câu hỏi và thậm chí là tham gia cuộc khẩu chiến với Mỹ xung quanh vấn đề này.
* Các nước thành viên ASEAN lại xuất hiện trong danh sách các quốc gia nhận được viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 của Trung Quốc. Điều này được xem là hành động báo đáp của Trung Quốc đối với những nước này sau khi nhận được sự giúp đỡ của họ trước đó.
* Quan trọng hơn, Trung Quốc mong muốn được đánh giá là một đối tác đáng tin cậy, luôn sẵn sàng hỗ trợ và đang phối hợp với các nước khác trong cuộc đối đầu với một mối đe doạ toàn cầu. Thông qua việc này, Trung Quốc cố gắng vớt vát lại những thiệt hại về hình ảnh mà nước này phải hứng chịu do những phản ứng chậm chạp ban đầu.
Giới thiệu
Phản ứng ban đầu chậm chạp của Trung Quốc trước đợt bùng phát virus SARS-CoV-2 ở Vũ Hán đã nhanh chóng nhường chỗ cho các biện pháp hà khắc và khẩn trương, đặc biệt là sau khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình công khai đưa ra chỉ thị vào ngày 20/1/2020 kêu gọi "nỗ lực bằng mọi giá" nhằm kiểm soát sự lây lan của virus. Gần hai tháng sau, vào tháng 3/2020, chuyến thăm được mong đợi từ lâu của Chủ tịch Tập Cận Bình đến Vũ Hán đã diễn ra, một dấu hiệu cho thấy các biện pháp được đưa ra trước đó đã mang lại hiệu quả.
Luận điệu của Trung Quốc về cuộc chiến chống Covid-19 đã được điều chỉnh phù hợp với những chuyển biến trong việc kiềm chế dịch bệnh. Trong giai đoạn đầu, những phát ngôn chính thức của nước này tập trung vào việc kiềm chế sự lây lan của virus bên trong Trung Quốc và nguồn khởi phát được khẳng định là một địa điểm cụ thể, đó là chợ đầu mối hải sản Hoa Nam ở Vũ Hán. Trong giai đoạn sau, khi Trung Quốc kiểm soát được tình hình, các ca bệnh bên ngoài nước này bắt đầu tăng lên, Bắc Kinh đã tỏ ra nghi ngờ về nguồn gốc của virus SARS-CoV-2.
Theo Bắc Kinh, tất cả các nước Đông Nam Á đã sát cánh cùng họ trong cuộc chiến chống lại virus ở Trung Quốc. Khi Trung Quốc bắt đầu mở rộng gói viện trợ của mình đến các nước khác nhằm chống lại sự lay lan toàn cầu của virus, Đông Nam Á lại một lần nữa được mô tả là một phần quan trọng trong nỗ lực đó. Bài viết này sẽ nghiên cứu sự thay đổi luận điệu tuyên truyền của Trung Quốc trong cuộc chiến chống virus SARS-CoV-2 trong mối tương quan với góc nhìn từ bên ngoài cũng như vai trò của Đông Nam Á trong tiến trình đó.
Sự thay đổi tuyên truyền của Trung Quốc theo góc nhìn từ bên ngoài
a) Luận điệu trong giai đoạn đầu (tháng 1/2020 - giữa tháng 2/2020)
Trung Quốc ban đầu phải tập trung vào kiềm chế sự lây lan của virus SARS-CoV-2 trong lãnh thổ nước này. Ngày 20/1/2020, Chủ tịch Tập Cận Bình kêu gọi Đảng cộng sản Trung Quốc (Đảng cộng sản Trung Quốc) và chính phủ nước này "nỗ lực bằng mọi giá" để kiềm chế dịch bệnh. Sau lời kêu gọi của Tập Cận Bình, các biện pháp đối phó với dịch bệnh đã được tăng cường. Thành phố Vũ Hán bị phong toả toàn bộ vào ngày 23/1. Hai ngày sau đó, tức là ngày 25/1, cũng là ngày mùng Một Tết âm lịch, Tập Cận Bình đã triệu tập Ban thường vụ Bộ Chính trị để họp bàn về tình hình trên. Cũng tại hội nghị đó, Tập Cận Bình đã tuyên bố thành lập ban chỉ đạo trung ương phòng chống Covid-19 do Thủ tướng Lý Khắc Cường chủ trì theo chỉ đạo của Tổng bí thư. Cũng sau ngày 20/1, Ủy ban Y tế quốc gia Trung Quốc bắt đầu cung cấp thông tin cập nhật hàng ngày về số các ca được xác nhận nhiễm và nghi nhiễm trên khắp cả nước.
Vào thời điểm đó, luận điệu của Trung Quốc có phần thận trọng và mang tính phòng vệ ở mức độ nào đó, nhất là liên quan đến những chỉ trích nhằm vào các nhà chức trách đã chậm trễ trong phản ứng với dịch bệnh. Ngày 20/1, tờ Thời báo Hoàn Cầu - cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng cộng sản Trung Quốc - đã đưa tin rằng có "một vài người" nghi ngờ chính phủ không cung cấp thông tin liên quan "một cách kịp thời". Tiếp đó, Thời báo Hoàn Cầu giải thích rằng ở thời điểm đó, tình hình dịch bệnh ở Trung Quốc vẫn chưa rõ ràng và nước này vẫn chưa bước vào giai đoạn tổng động viên, do vậy chính phủ đã đưa ra thông tin với mục đích đảm bảo "sự ổn định và chính xác" thay vì "đưa ra những dự đoán có thể gây hoảng loạn". Lời giải thích này ngầm thú nhận rằng chính phủ đã không muốn công bố thông tin sớm hơn.
Tuy nhiên, ở cấp độ chính thức, giới chức Trung Quốc phủ nhận việc bưng bít thông tin và hạn chế phạm vi nội dung báo cáo về tình hình dịch bệnh. Ngày 22/1, tại một cuộc họp báo của Văn phòng Thông tin Quốc vụ viện, một phóng viên nước ngoài hỏi về lý do đằng sau sự gia tăng của số ca không được ghi nhận và liệu chính phủ có bưng bít thông tin hay không. Né tránh câu trả lời trực tiếp, Từ Thọ Cường - Chánh văn phòng Văn phòng Quản lý tình huống khẩn cấp thuộc Ủy ban Y tế quốc gia cho biết Chính phủ Trung Quốc coi trọng việc cung cấp thông tin. Ở một diễn biến khác, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng cho biết nước này đã thông báo với Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng như các quốc gia và tổ chức liên quan về dịch bệnh "một cách kịp thời" và duy trì "kênh liên lạc chặt chẽ" với các chủ thể trên.
Trung Quốc đã nhấn mạnh những đánh giá tích cực của các nước về phản ứng nhanh chóng và mạnh mẽ của nước này đối với dịch bệnh. Điều này phản ánh sự ủng hộ rộng khắp từ bên ngoài đối với những biện pháp chống dịch của nước này. Một cách gián tiếp, Trung Quốc đã thể hiện sự bất an ở mức độ nhất định khi phải cần đến sự ủng hộ của bên ngoài đối với cuộc chiến chống đại dịch ở trong nước.
Một khía cạnh khác trong phản ứng ban đầu của Trung Quốc là nước này thừa nhận rằng virus SARS-CoV-2 có nguồn gốc từ Vũ Hán. Chợ đầu mối hải sản Hoa Nam ở Vũ Hán, vốn là nơi buôn bán và giết mổ động vật hoang dã, đã bị đóng cửa và được vệ sinh. Ngày 20/1, Chung Nam Sơn, người từng đi đầu trong cuộc chiến chống SARS năm 2003 của Trung Quốc và đang tham gia tích cực trong cuộc chống dịch Covid-19 hiện tại, phát biểu trên kênh truyền hình trung ương Trung Quốc rằng quá trình truy vết cho thấy rất nhiều ca bệnh có thể bắt nguồn từ hai địa điểm cụ thể ở Vũ Hán liên quan đến hoạt động mua bán động vật hoang dã. Ông khẳng định chắc chắn rằng virus ban đầu lây từ động vật hoang dã sang con người, nhưng sau đó đã tiến hóa để có khả năng lây từ người sang người.
Trung Quốc cũng nhanh chóng phủ nhận suy đoán cho rằng virus SARS-CoV-2 đã bị rò rỉ từ cơ sở công nghệ sinh học thuộc Viện nghiên cứu virus Vũ Hán. Một quan chức cấp cao thuộc cơ sở công nghệ sinh học trên được cho là đã ra sức bác bỏ thuyết âm mưu này. Trong một diễn biến khác, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng nhấn mạnh một tuyên bố của các chuyên gia y tế hàng đầu ở nước ngoài trên tạp chí y học uy tín Lancet, trong đó lên án mạnh mẽ những thuyết âm mưu và khẳng định kết luận được nhiều chuyên gia y tế thừa nhận, đó là virus SARS-CoV-2 có nguồn gốc từ động vật hoang dã. Những phân tích trên chỉ ra rằng Trung Quốc đã thừa nhận virus SARS-CoV-2 có nguồn gốc từ Vũ Hán.
b) Những luận điệu trong giai đoạn sau (từ giữa tháng 2/2020 trở đi)
Bắt đầu từ nửa cuối tháng 2/2020, khi số ca nhiễm mới được xác nhận sụt giảm mạnh ở Trung Quốc nhưng lại tăng nhanh ở các nước khác như Hàn Quốc, Ý và Iran, luận điệu tuyên truyền của Trung Quốc đã thay đổi. Lập trường của nước này đã được thúc đẩy và trong một số trường hợp cụ thể đã trở nên gay gắt hơn sau chuyến thăm được chờ đợi của Chủ tịch Tập Cận Bình đến Vũ Hán ngày 10/3.
Một góc nhìn mới đã được đưa ra, trong đó Trung Quốc đã triển khai các biện pháp cứng rắn nhưng hiệu quả trong lãnh thổ nước này để làm chậm sự lây lan của virus SARS-CoV-2 ở ngoài nước. Trung Quốc tiếp tục khẳng định việc liên lạc chặt chẽ và chia sẻ thông tin với WHO cũng như các nước và khu vực khác đã hỗ trợ họ phản ứng tốt hơn với đại dịch. Hiện nay, Trung Quốc cho rằng những nỗ lực của nước này đã đem lại khoảng thời gian quý giá cho thế giới.
Trung Quốc cũng khẳng định rằng nước này là một đối tác đáng tin cậy và sẵn sàng hỗ trợ các nước khác trong cuộc chiến chống Covid-19. Đây chính là một thay đổi trong tầm nhìn của Trung Quốc về một tương lai chung, trong đó, bên cạnh việc hợp tác trong những sáng kiến mang lại lợi ích cho các bên, các nước cần đoàn kết với nhau để đối mặt với những mối đe dọa chung. Cho đến nay, Trung Quốc đã mở rộng các hình thức viện trợ khác nhau, bao gồm cả đội ngũ chuyên gia y tế, các bộ xét nghiệm và trang thiết bị y tế đến nhiều nước bị ảnh hưởng ở Châu Âu, Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ. Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất và nhân lực, Trung Quốc cũng đã chia sẻ kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu về virus SARS-CoV-2 thông qua các hội nghị trực tuyến.
Trung Quốc hiện nay đã bắt đầu nghi ngờ và thậm chí dứt khoát phủ nhận quan điểm cho rằng virus SARS-CoV-2 có nguồn gốc từ Trung Quốc. Sự phủ nhận này bắt đầu từ việc Chung Nam Sơn phát biểu trong một cuộc họp báo rằng mặc dù virus SARS-CoV-2 xuất hiện lần đầu tiên ở Trung Quốc, nhưng điều đó không có nghĩa là nó có nguồn gốc từ Trung Quốc. Chung Nam Sơn cho biết hiện nay chưa rõ virus có nguồn gốc từ đâu và chưa thể chắc chắn rằng loại virus này có vật chủ là con tê tê (vốn được bán ở chợ đầu mối hải sản Hoa Nam). Các nguồn khác ngay lập tức rộ lên thành một chiến dịch rầm rộ hơn nhằm thúc đẩy góc nhìn này, cho thấy sự ủng hộ của các lãnh đạo cấp cao đối với nỗ lực nói trên :
- Ngày 29/2, một bài viết trên tờ Thời báo Hoàn Cầu thừa nhận rằng dịch bệnh Covid-19 khởi phát ở Trung Quốc, nhưng khẳng định cho đến thời điểm đó chưa có kết luận của cộng đồng khoa học về xuất xứ của virus.
- Ngày 4/3, Triệu Lập Kiên, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc tái khẳng định trong một cuộc họp báo thường kỳ rằng "chưa có kết luận nào được đưa ra về nguồn gốc của virus, công tác truy tìm nguồn gốc vẫn đang được tiến hành".
- Ngày 8/3, Lâm Tùng Thiên, Đại sứ Trung Quốc tại Nam Phi đăng trên trang Twitter : "Dù dịch bệnh bùng phát đầu tiên ở Trung Quốc, nhưng điều đó không có nghĩa là virus có nguồn gốc từ Trung Quốc, chứ chưa nói đến là 'do Trung Quốc tạo ra'".
- Ngày 12/3, Triệu Lập Kiên tỏ ra gay gắt hơn trên Twitter khi ám chỉ rằng "bệnh nhân số 0" xuất phát từ Mỹ. Ông thậm chí đã phỏng đoán rằng "quân đội Mỹ có lẽ đã mang dịch bệnh đến Vũ Hán". Triệu Lập Kiên kêu gọi Mỹ tỏ ra "minh bạch", "công bố dữ liệu của mình" và khẳng định rằng "nước Mỹ nợ chúng ta một lời giải thích".
Đợt phản công của Trung Quốc có lẽ được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố, bao gồm sự thành công của chính Bắc Kinh trong việc kiềm chế virus SARS-CoV-2, phản ứng của nước này trước những nỗ lực của Mỹ trong việc tái khẳng định rằng virus có nguồn gốc từ Trung Quốc, cũng như những gì mà nước này xem là nỗ lực của Mỹ nhằm chuyển hướng dư luận khỏi phản ứng nửa vời của Mỹ trong cuộc chiến chống virus. Trung Quốc tỏ ra đặc biệt gay gắt khi Tổng thống Mỹ Donald Trump, Ngoại trưởng Mike Pompeo hay các nghị sĩ Mỹ gọi SARS-CoV-2 là "virus Trung Quốc" hay "virus Vũ Hán", và khăng khăng rằng họ phải sử dụng thuật ngữ trung lập của WHO. Trung Quốc cáo buộc Mỹ đã phát động cuộc chiến đổ lỗi nhằm vào họ.
Vai trò của ASEAN và các nước thành viên
Trong luận điệu biến đổi của mình, Bắc Kinh theo định hướng mang tính toàn cầu nói chung và quan tâm nhiều tới phát ngôn và hành động của Mỹ nói riêng. Điều này hoàn toàn không đáng ngạc nhiên, vì Mỹ vẫn là chủ thể chiến lược quan trọng nhất trong con mắt của Trung Quốc. Trong bối cảnh đó, ASEAN và các nước thành viên không thực sự nổi bật, nhưng cũng có những khía cạnh nhất định cần được nhấn mạnh.
Trong suốt quá trình chống Covid-19 của Trung Quốc, nhất là trong giai đoạn đầu, tầm quan trọng của ASEAN và các nước thành viên trong luận điệu của Trung Quốc được thể hiện trên hai khía cạnh chính. Thứ nhất, Bắc Kinh nhấn mạnh rằng những nước này đã hoàn toàn ủng hộ nỗ lực chống dịch của Trung Quốc. Truyền thông chính thức của Trung Quốc trích dẫn phát biểu của các nhà lãnh đạo Việt Nam, Campuchia, Lào, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Brunei, Philippines, Thái Lan và Singapore bày tỏ sự ủng hộ và đoàn kết với Trung Quốc. Một bài báo của Tân Hoa xã dẫn lời Thủ tướng Lý Hiển Long kêu gọi các nước hợp tác với nhau và kiềm chế tâm lý bài Trung Quốc. Cụ thể, bài báo trích dẫn phát biểu của Thủ tướng Singapore : "Virus có thể đã bắt đầu từ Vũ Hán nhưng nó không loại trừ quốc tịch hay chủng tộc. Nó không kiểm tra hộ chiếu của bạn trước khi nó xâm nhập vào cơ thể của bạn và bất kỳ ai cũng có thế bị nhiễm bệnh".
Trong số các nước thành viên ASEAN, Campuchia là đất nước được nhắc đến nhiều nhất, đặc biệt là sau khi Thủ tướng Hun Sen trở thành nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên thăm Trung Quốc vào ngày 5/2/2020, sau khi virus SARS-CoV-2 bắt đầu lây lan. Chủ tịch Tập Cận Bình miêu tả chuyến thăm trên là bằng chứng về tinh thần đoàn kết và phản ánh mối quan hệ tốt đẹp ngay cả trong hoạn nạn giữa hai nước. Campuchia tiếp tục trì hoãn việc áp dụng các biện pháp hạn chế đi lại và hàng không đối với Trung Quốc, thậm chí cả việc di tản công dân của mình từ Trung Quốc. Hun Sen thậm chí đã chuẩn bị đi thăm các sinh viên Campuchia ở Vũ Hán nhân chuyến thăm Bắc Kinh.
Thứ hai, Trung Quốc nhấn mạnh cam kết hợp tác với ASEAN cũng như sự ủng hộ của ASEAN đối với Trung Quốc trong cuộc chiến chống Covid-19. Ngoại trưởng Vương Nghị đã hội kiến những người đồng cấp ASEAN tại một hội nghị ngoại trưởng đặc biệt ASEAN-Trung Quốc về Covid-19 tại Viêng Chăn vào ngày 20/2. Các kênh thông tin chính thức của Trung Quốc cho biết hội nghị bắt đầu bằng một đoạn phim về "sự đoàn kết của nhân dân Trung Quốc trong cuộc chiến chống dịch bệnh" và "sự bày tỏ cảm thông và ủng hộ của lãnh đạo 10 nước ASEAN". Các nguồn tin này cũng cho biết thêm rằng sau hội nghị, Vương Nghị và những người đồng cấp ASEAN đã nắm tay nhau theo phong cách truyền thống của ASEAN để "cổ vũ cho Vũ Hán và Trung Quốc".
Bắc Kinh tiếp tục tán thành sự phối hợp và hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa Trung Quốc và ASEAN trong cuộc chiến chống Covid-19. Tại hội nghị ngoại trưởng đặc biệt ASEAN-Trung Quốc, Ngoại trưởng Vương Nghị đã đề nghị Trung Quốc và ASEAN tăng cường sự hợp tác giữa các cơ quan y tế, cách ly, vận tải và kiểm soát biên giới của hai bên. Ông cũng đề xuất thành lập các trung tâm dự trữ ASEAN-Trung Quốc để tập hợp nguồn lực cho công tác kiểm soát dịch. Ông dường như ủng hộ lời đề nghị của những người đồng cấp ASEAN về việc tổ chức một hội nghị đặc biệt giữa các nhà lãnh đạo Trung Quốc-ASEAN vào thời điểm thích hợp để nâng cấp quan hệ hợp tác. Điều này có lẽ là nhằm phủ đầu trước những chỉ trích rằng hội nghị ngoại trưởng đặc biệt ASEAN-Trung Quốc đã không được tổ chức ở cấp độ cao như trong năm 2003 khi các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã gặp nhau gần như ngay lập tức để thảo luận về phản ứng chung với dịch SARS.
Trong hoạt động viện trợ của Trung Quốc, các nước thành viên ASEAN được mô tả là những nước được hưởng lợi chủ yếu từ sự hỗ trợ của Trung Quốc mặc dù phần lớn viện trợ dường như đã được chuyển đến Châu Âu khi khu vực này trở thành tâm dịch mới. Tuy vậy, Philippines và Campuchia vẫn nằm trong số những nước đầu tiên nhận được tài trợ của Trung Quốc. Đầu tháng 2/2020, khi vẫn đang nỗ lực kiềm chế sự lây lan của dịch bệnh, Trung Quốc đã tài trợ 200.000 khẩu trang và tuyên bố sẵn sàng chia sẻ thông tin y tế cũng như kết quả nghiên cứu về virus SARS-CoV-2 với Philippines. Tháng 3/2020, Trung Quốc cung cấp cho Campuchia một lượng không xác định chất xét nghiệm, quần áo bảo hộ, khẩu trang y tế và các vật tư liên quan khác.
Việc Trung Quốc viện trợ cho Philippines và Campuchia đầu tiên một phần là vì đây là hai đồng minh gần gũi về mặt chiến lược với nước này. Một lý do quan trọng khác đây là hai nước thành viên ASEAN đầu tiên hỗ trợ Trung Quốc. Ngày 26/1, Philippines đã tài trợ 3,16 triệu khẩu trang cho Trung Quốc (con số này không hề nhỏ), trong khi Campuchia gửi hỗ trợ 5.000 khẩu trang vào ngày 5/2, chủ yếu là từ những gia đình có con em được hưởng lợi từ hoạt động chữa bệnh miễn phí tại Trung Quốc. Ngoài những nỗ lực này, Thủ tướng Campuchia Hun Sen đã thể hiện sự ủng hộ của cá nhân ông đối với cuộc chiến chống Covid-19 của Trung Quốc qua chuyến thăm Bắc Kinh hồi tháng 2/2020. Campuchia và Trung Quốc thậm chí đã tiến hành cuộc tập trận chung lần thứ tư có tên gọi "Rồng Vàng 2020" ở tỉnh Kampot vào tháng 3/2020.
Trung Quốc đã không ngừng mở rộng sự hỗ trợ của mình đến các nước thành viên ASEAN khác mà trước đó cũng đã viện trợ cho họ :
- Tháng 3/2020, Malaysia tiếp nhận gói trang thiết bị y tế đầu tiên, gồm 5.000 khẩu trang thường và 10.000 khẩu trang y tế, được chuyển đến bệnh viện Sungai Buloh, một bệnh việc chuyên điều trị bệnh nhân Covid-19. Nước này còn tiếp nhận thêm 10.000 khẩu trang từ Hiệp hội Phát triển kinh tế Trung Quốc-Châu Á.
- Tháng 2/2020, các chuyên gia y tế Thái Lan được cho là đã liên hệ với Chung Nam Sơn để được hỗ trợ về điều trị lâm sàng cho bệnh nhân Covid-19, đồng thời các bộ xét nghiệm cũng đã được gửi đến nước này. Trung Quốc cũng đã viện trợ quần áo bảo hộ và mặt nạ chống giọt bắn cho Thái Lan.
- Indonesia đã nhận 800.000 bộ xét nghiệm, hàng chục nghìn đôi găng tay y tế và 17 tấn trang thiết bị phòng chống dịch khác.
- Myanmar, Lào và Brunei cũng đã nhận nhiều hình thức hỗ trợ từ Trung Quốc (1).
Tuy nhiên, đã có lúc Trung Quốc không hài lòng về việc một số nước thành viên ASEAN đã áp dụng biện pháp hạn chế đi lại đối với du khách từ Trung Quốc. Điều này được thể hiện rõ ràng trong các phát biểu của Vương Nghị tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao đặc biệt ASEAN-Trung Quốc khi ông kêu gọi các nước thành viên ASEAN sớm "nối lại các hoạt động giao lưu nhân dân và hợp tác, phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi nước".
Sức ép của Trung Quốc đối với các nước thành viên ASEAN nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với những chỉ trích nhằm vào Mỹ, vốn bị Trung Quốc cáo buộc là nước đầu tiên sơ tán nhân viên lãnh sự ở Vũ Hán và cũng là nước đầu tiên áp dụng lệnh cấm đi lại đối với du khách Trung Quốc. Sau đó, khi Covid-19 lây lan tới các khu vực khác của thế giới và Trung Quốc phải đối mặt với mối đe dọa mới từ các ca bệnh "nhập khẩu", nước này đã hạ giọng về vấn đề này. Trung Quốc đã thừa nhận rằng các biện pháp hạn chế mà các nước khác áp dụng là nhằm bảo vệ sức khỏe, an ninh của công dân mỗi nước và bảo vệ an ninh sức khỏe cộng đồng trong khu vực và trên toàn cầu. Về phần mình, nước này trên thực tế cũng đã dừng nhập cảnh tất cả người nước ngoài và giảm đáng kể số chuyến bay quốc tế đến Trung Quốc.
Kết luận
Luận điệu của Trung Quốc về cuộc chiến chống Covid-19 thay đổi theo sự chuyển biến của tiến trình chống dịch trong nước. Nhìn chung, luận điệu của họ đã thay đổi rõ rệt từ thận trọng và phòng ngừa sang sắc thái khác, trong đó nước này tỏ ra bất mãn với nhận định cho rằng virus SARS-CoV-2 có nguồn gốc từ Trung Quốc. Trong sự thay đổi này, Trung Quốc tập trung vào Mỹ. ASEAN và các nước thành viên không được nhắc đến trên khía cạnh này.
Vai trò của ASEAN và các nước thành viên được thể hiện rõ nhất trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm mô tả các nước này là những đối tác của Bắc Kinh trong cuộc chiến chống Covid-19 ; sự thúc đẩy này rõ ràng nhất là trong giai đoạn đầu tiên. Sau đó, khi Trung Quốc đạt được bước ngoặt trong cuộc chiến chống dịch bệnh và bắt đầu mở rộng hoạt động viện trợ tới nước ngoài, các nước thành viên ASEAN đã trở thành tâm điểm như là một phần trong đóng góp của Trung Quốc vào các nỗ lực toàn cầu trong cuộc chiến chống Covid-19.
Trung Quốc sẽ cung cấp nhiều sự hỗ trợ hơn nữa cho các nước thành viên ASEAN trong tương lai gần, nhất quán với luận điệu tuyên truyền của Bắc Kinh, trong đó coi trọng mối quan hệ không chỉ với các nước thành viên mà còn với toàn thể khối ASEAN. Thông điệp này nhiều khả năng sẽ được thực thi trong năm 2020, khi Trung Quốc kỷ niệm các cột mốc quan trọng trong quan hệ với Myanmar, Indonesia, Việt Nam, Thái Lan, Philippines và Singapore. Bước đi đầu tiên đã được thực hiện thông qua chuyến công du nước ngoài đầu tiên trong năm 2020 của Chủ tịch Tập Cận Bình đến Myanmar. Mặc dù sự tương tác giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN đã bị gián đoạn tạm thời do Covid-19, nhưng Bắc Kinh đã đặt nền tảng cho việc thúc đẩy quan hệ thông qua các gói hỗ trợ đối với các nước này trong cuộc chiến chống Covid-19.
Lye Liang Fook
Nguyên tác : The Fight Against Covid-19 : China's Shifting Narrative and Southeast Asia, ISEAS, 07/04/2020
Minh Anh giới thiệu
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 11/05/2020
Lye Liang Fook là Điều phối viên của Chương trình Nghiên cứu Chính trị và Chiến lược Khu vực, Chương trình Nghiên cứu Việt Nam tại ISEAS - Viện Yusof Ishak. Bài viết được đăng trên ISEAS.
Ghi chú :
(1) Tất cả các nước thành viên ASEAN đều hỗ trợ Trung Quốc dưới hình thức nào đó, bao gồm cả Việt Nam và Singapore. Tuy nhiên, Việt Nam và Singapore vẫn chưa nhận được bất kỳ sự hỗ trợ vật chất nào từ Trung Quốc bởi vì những nước này vẫn có thể tự mình tiến hành cuộc chiến chống dịch bệnh
Kịch bản tồi tệ nhất là đối đầu vũ trang ?
Anh Tú, VNTB, 12/05/2020
"Kịch bản tồi tệ nhất của cuộc đối đầu vũ trang" được nêu bật trong báo cáo của Bộ an ninh Trung Quốc gửi đến ông Chủ tịch Tập Cận Bình.
Tranh cãi thời Chiến tranh Lạnh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ có nguy cơ đóng băng quan hệ giữa hai nền kinh tế lớn trên thế giới, gây ra nguy cơ xung đột quân sự.
Trong ba tháng qua, các tranh chấp giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã đóng băng bầu không khí ngoại giao hai bên trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và căng thẳng gia tăng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Thậm chí còn có lo ngại trong chính quyền của Tập Cận Bình rằng liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo sẽ thách thức quyền cai trị của Đảng cộng sản Trung Quốc. Một nghiên cứu nội bộ của Bộ An ninh Nhà nước, được trích dẫn bởi Reuters, cảnh báo Trung Quốc phải chuẩn bị cho "kịch bản tồi tệ nhất về cuộc đối đầu vũ trang".
"Báo cáo, được trình bày vào đầu tháng trước cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc, bao gồm cả Chủ tịch Tập Cận Bình, kết luận rằng xu hướng chống Trung Quốc toàn cầu đang ở mức cao nhất kể từ khi xóa Quảng trường Thiên An Môn năm 1989", Reuters đưa tin hôm thứ Hai (4/5).
"Do đó, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với làn sóng chống Trung Quốc do Hoa Kỳ dẫn đầu sau đại dịch virus corona và cần chuẩn bị cho kịch bản tồi tệ nhất cho cuộc đối đầu vũ trang giữa hai nước", báo cáo cho biết.
Cho đến nay, hơn 3,6 triệu người đã bị nhiễm loại corona mới này trên toàn cầu với số người chết là 252.000. Tại Hoa Kỳ, hơn 1,2 triệu người đã bị nhiễm gần 70.000 ca tử vong.
Số liệu chính thức của Trung Quốc rất nhỏ khi so sánh với số liệu của Mỹ. Tính đến ngày 4 tháng 5, số ca mắc bệnh là 82.881 người với 4.633 người chết trong dân số 1,39 tỷ người. Ngoài tâm chấn ban đầu của Covid-19 tại thành phố Vũ Hán và tỉnh Hồ Bắc, chỉ khoảng 15.000 trường hợp nhiễm bệnh.
Trong bối cảnh đó, Tổng thống Mỹ Donald Trump và Ngoại trưởng Mike Pompeo đã đưa ra các cáo buộc tại Trung Quốc.
Tuần trước, Trump tuyên bố ông đã nhìn thấy bằng chứng khiến ông "rất tin tưởng" rằng Covid-19 đến từ một phòng thí nghiệm ở Vũ Hán, một cáo buộc mà Trung Quốc đã kiên quyết bác bỏ.
Trước đó, ông Pompeo đã cáo buộc Trung Quốc gây ra "một số lượng tổn thất lớn" và "tử vong" vì đã che đậy sự lây lan ban đầu của virus corona.
"Tôi vẫn lo lắng rằng có những điều chúng ta không biết, "ông nói tháng trước, được trích dẫn bởi Asia Times.
"Đây là một thách thức đang diễn ra trong đó Đảng cộng sản Trung Quốc và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã không thực hiện được những việc thuộc trách nhiệm của họ khi có đại dịch", ông Pompeo nói thêm.
Một lần nữa, Trung Quốc phủ nhận tuyên bố đó.
Nhưng về mặt chính trị, đây là một cơn ác mộng trong quan hệ người dân đối với Đảng cộng sản Trung Quốc, mặc dù họ đã đưa ra cái gọi là "ngoại giao khẩu trang". Các cáo buộc về sự bất tài đã được dùng chống lại chính phủ Trung Quốc do sự chậm trễ trong phản ứng ban đầu đối với cuộc khủng hoảng. Cũng có báo cáo rằng virus đã được các quan chức ở Vũ Hán "che đậy" vào tháng 12.
"Với cái chết của Lý Văn Lượng, một bác sĩ bị chính quyền nhà nước khiển trách vì đã cảnh báo người khác về virus corona mới", Yuen Ang, từ Đại học Michigan, viết trong bài bình luận của mình cho Project Syndicate.
Vào thứ Hai (4/5), trọng tâm đã quay trở lại Hoa Kỳ khi Phó Cố vấn An ninh Quốc gia Matthew Pottinger nói rõ, những nỗ lực của Trung Quốc để đàn áp những chỉ trích nội bộ sẽ gây tác dụng ngược.
Trong bài phát biểu bằng tiếng Quan thoại, ông đã nói chuyện trực tiếp với người dân Trung Quốc bằng cách gợi lên những ký ức về phong trào khởi nghĩa dân túy vào ngày 4 tháng 5 năm 1919 do sinh viên lãnh đạo sau Thế chiến 1.
"Khi những hành động nhỏ của lòng can đảm bị chính phủ loại bỏ, những hành động dũng cảm lớn hơn sẽ xuất hiện. Trung Quốc sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ chủ nghĩa dân túy hơn là chủ nghĩa dân tộc" ông nói, theo bài viết của Asia Times.
"Với một số người, họ cần sự chấp thuận của nhiều người để cai trị. Khi một số người đặc quyền quá mức và trở nên ích kỷ, chủ nghĩa dân túy sẽ kéo họ trở lại hoặc ném họ xuống biển", ông nói thêm, những bình luận dường như được nhắm vào Đảng cộng sản Trung Quốc.
Bonnie Glaser, giám đốc Dự án quyền lực Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, gọi đó là "bài phát biểu lạ thường nhất mà chúng tôi từng thấy" từ chính quyền Trump.
"Nếu là thành viên của Đảng cộng sản Trung Quốc, sẽ coi (tái hiện phong trào ngày 4 tháng 5) như một sự khích lệ để mọi người thách thức các bộ phận trong hệ thống chính trị của mình. Điều đó không phải lúc nào cũng có nghĩa là lật đổ các nhà lãnh đạo, nhưng nó chắc chắn khuyến khích sự phát triển của quần chúng", ông nói với The Guardian.
Bạn đã có thể cảm thấy gió chiến tranh lạnh quét qua các hành lang quyền lực ở Trung Quốc và Hoa Kỳ vào mùa hè này chưa ?
Anh Tú
Nguồn : VNTB, 12/05/2020
*******************
Trung Quốc cùng lúc gây gổ với Ấn Độ và Nhật Bản
Hải Yến, Thoibao.de, 12/05/2020
Không chỉ hung hăng trên Biển Đông, Trung Quốc tiếp tục gây sự với hai quốc gia láng giềng khác là Ấn Độ và Nhật Bản.
Quân đội Ấn Độ hôm 10/5 cho biết một số binh sĩ Ấn Độ và Trung Quốc đã ẩu đả và ném đá vào nhau tại khu vực biên giới hẻo lánh giữa 2 nước gần Tây Tạng.
Theo AFP, quân đội Ấn Độ tiết lộ một số binh sĩ nước này đã có các vụ ẩu đả trong hai ngày 09-10/5 với các binh sĩ Trung Quốc ở khu vực hẻo lánh trên biên giới hai nước, tại vị trí chiến lược gần Tây Tạng.
Người phát ngôn Bộ Tư lệnh phía Đông của Ấn Độ, ông Mandeep Hooda nói : "Hành động hung hăng của cả hai bên khiến cho các binh sĩ bị thương nhẹ. Đó là tranh cãi từ việc ném đá dẫn tới ẩu đả".
Sự kiện diễn ra hôm 09/5 tại khu vực Naku La, gần cửa khẩu Nathu La, cao 4.572 mét ở bang Sikkim phía đông bắc Ấn Độ, khu vực tiếp giáp với cả Bhutan, Nepal và Trung Quốc.
Hơn 100 binh sĩ của Trung Quốc và Ấn Độ đã tham gia vụ đụng độ dọc biên giới hai nước và một số binh sĩ ở cả hai bên bị thương. Một sĩ quan quân đội Ấn Độ cho hay bảy lính Trung Quốc và bốn lính Ấn Độ bị thương.
Sự việc sau đó đã được giải quyết bằng "đối thoại và tương tác" ở cấp địa phương, theo ông Hooda.
Ông Hooda nói thêm : "Cuộc đụng độ ngắn và bộc phát giữa các binh sĩ biên phòng diễn ra do ranh giới chưa được xác định".
Một vụ đụng độ khác giữa binh sĩ hai bên diễn ra sáng 10/5 tại Ladakh
New Indian Express đưa tin : "Người Trung Quốc đã động chạm với người Ấn Độ và các binh sĩ Ấn Độ đã can thiệp, dẫn tới ẩu đả".
Vụ việc diễn ra bên phía Ấn Độ gần thị trấn Nallah. Vụ việc đã được giải quyết nhưng binh lính cả hai bên vẫn đang hiện diện ở khu vực này.
Các nguồn tin khác cho biết binh sĩ Trung Quốc đã hung hăng hơn kể từ cuối tháng 4, và từng đỗ xe bên phía đường kiểm soát thực tế (LAC) của Ấn Độ hôm 27/4. Binh sĩ Ấn Độ đã trao đổi với lính biên phòng Trung Quốc và sự việc đã được giải quyết.
Một sĩ quan quân đội Ấn Độ cho biết hàng năm các hoạt động quân sự dọc theo đường LAC đều sẽ ngừng lại do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, và các tần suất va chạm giữa hai bên cũng giảm xuống trong vòng từ 6 đến 7 tháng.
Người này cũng nói rằng số lần phía Trung Quốc vượt qua đường LAC sang phần do Ấn Độ kiểm soát đã tăng lên trong thời gian gần đây, và có nhiều địa điểm diễn ra va chạm giữa hai bên.
Trung Quốc và Ấn Độ có những tranh cãi về đường biên giới chung kéo dài 3.400 km
Biên giới tranh chấp giữa Ấn Độ và Trung Quốc
Căng thẳng biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ đã kéo dài và đôi khi vẫn có các cuộc đụng độ nhỏ giữa binh sĩ hai nước. Hai quốc gia láng giềng đều sở hữu vũ khí hạt nhân và từng có cuộc chiến tranh ngắn vào năm 1962 để tranh giành lãnh thổ ở khu vực dãy Himalaya tại bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ.
Sự kiện hôm 09/5 là lần đầu tiên binh sĩ hai nước đụng độ kể từ năm 2017, khi lính biên phòng hai bên cãi lộn ở khu vực tây bắc Ladakh.
Cùng năm đó, có một cuộc chạm trán khác diễn ra khi Ấn Độ gửi quân tới vùng Doklam của Bhutan để ngăn chặn Trung Quốc xây dựng một con đường ở đó.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với khoảng 90.000 km vuông ở khu vực – vốn đang nằm dưới sự kiểm soát của New Delhi.
Tuy cả hai nước đều gửi quân tới tuần tra và các nhóm này thường xảy ra các đụng độ ở hình thức xô đẩy, va chạm thân thể, nhưng chưa có viên đạn nào được khai hỏa ở đường biên trong suốt bốn thập niên qua.
Trong đại dịch Covid-19, mối quan hệ của hai nước cũng có không ít sóng gió. Ngày 18/4, Ấn Độ đã thực hiện một thay đổi lớn trong chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của nước này, bằng việc áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt hơn để hạn chế các nước có chung đường biên giới thừa cơ thâu tóm các doanh nghiệp Ấn Độ trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang gây ra những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Đây được coi là động thái nhằm ngăn chặn các công ty Trung Quốc tận dụng cơ hội trong dịch Covid-19.
Tiếp đó, Hội đồng Nghiên cứu Y khoa Ấn Độ, cơ quan hàng đầu đối phó với dịch Covid-19, hôm 27/4 cho biết đã lên kế hoạch trả lại bộ dụng cụ xét nghiệm được mua từ hai công ty Trung Quốc vì độ chính xác kém, theo Reuters.
Đại sứ quán Trung Quốc lập tức chỉ trích Ấn Độ về việc ngừng sử dụng bộ dụng cụ xét nghiệm Covid-19 được sản xuất bởi hai công ty là Guangzhou Wondfo Biotech và công ty Zhuhai Livzon Diagnostics của Trung Quốc vì vấn đề chất lượng, cho rằng điều này là không công bằng và vô trách nhiệm.
Trong một diễn biến khác, truyền thông Nhật Bản hôm 09/5/2020 cho biết : Lực lượng Tuần Duyên Nhật Bản đã triển khai tàu tuần tra để cảnh cáo một nhóm tàu Hải cảnh Trung Quốc bị phát hiện đang truy đuổi một tàu đánh cá Nhật Bản ở vùng Biển Hoa Đông.
Theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post, Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản (JCG) cho biết là bốn chiếc tàu Hải cảnh Trung Quốc đã xâm nhập vào vùng biển gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư vào khoảng 16 giờ ngày 08/5.
Trích tin từ hãng thông tấn Nhật Jiji Press, tờ báo Hồng Kông cho biết là khoảng 50 phút sau đó, hai chiếc tàu Trung Quốc bắt đầu đuổi theo một tàu cá Nhật Bản tại khu vực cách Uotsuri, đảo lớn nhất thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, khoảng 12 km về phía tây nam.
Sau khi JCG điều động tàu tuần tra đến hiện trường, cảnh báo qua bộ đàm, các tàu Trung Quốc mới rời khỏi khu vực.
Theo hãng tin Nhật Bản Kyodo, bốn chiếc tàu Trung Quốc đã ở trong khu vực này khoảng hai giờ đồng hồ.
Vào thời điểm xảy ra vụ truy đuổi, có ba thuyền viên trên tàu cá Nhật Bản và không ai bị thương, JCG xác nhận.
Một quan chức của JCG cho biết : "Chúng tôi không thể nghĩ rằng một vụ việc nguy hiểm đã xảy ra".
Trước đó, vào sáng 08/5, trên mạng xã hội Weibo, Cảnh sát biển Trung Quốc thông báo một đội tàu hải cảnh tuần tra quanh quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư.
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư vốn là điểm nóng trong tranh chấp lãnh thổ Nhật Bản – Trung Quốc kéo dài nhiều thập niên qua
Hôm 17/4, các tàu hải cảnh Trung Quốc cũng đã xuất hiện quanh quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư.
Chính quyền Trung Quốc còn tìm cách khẳng định chủ quyền tại Senkaku/Điếu Ngư bằng cách áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá mùa hè hàng năm ở biển Hoa Đông, bao gồm cả vùng biển quanh quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư. Năm nay, lệnh cấm đánh bắt đơn phương của Trung Quốc bắt đầu từ ngày 1/5 đến 16/8.
Quần đảo trên biển Hoa Đông mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư, do Nhật Bản kiểm soát trên thực tế với tên gọi Senkaku. Các hòn đảo không có người ở nhưng giàu tài nguyên cùng rạn san hô ở Biển Hoa Đông trở thành điểm nóng trong tranh chấp lãnh thổ Trung Quốc – Nhật Bản kéo dài nhiều thập niên qua, bất chấp mối quan hệ giữa hai bên dần được cải thiện trong những năm gần đây.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã có hai chuyến thăm Trung Quốc kể từ năm 2018. Các quan chức hai bên đang chuẩn bị cho chuyến thăm cấp nhà nước của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới Nhật Bản đã được lên kế hoạch vào tháng trước nhưng phải hoãn lại vì đại dịch Covid-19.
Sự việc hôm 08/5 đánh dấu lần đầu tiên kể từ năm 2008, tàu hải cảnh của Trung Quốc đã tiến vào vùng lãnh hải xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư để truy bắt tàu cá Nhật Bản.
Động thái này được cho là diễn ra ngay sau khi Trung Quốc đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Hoa Đông, Biển Đông, Bột Hải và Hoàng Hải.
Năm 2012, sau khi Chính phủ Nhật Bản mua lại quần đảo này từ tư nhân, tần suất các vụ xâm nhập của tàu công vụ Trung Quốc tăng liên tục.
Chỉ tính riêng trong năm 2019, Nhật đã ghi nhận tổng cộng 1.097 vụ xâm nhập vùng nước xung quanh Senkaku của tàu Trung Quốc, trong đó có 126 lần các tàu này tiến vào vùng nước 12 hải lý xung quanh Senkaku. Theo báo Asahi của Nhật Bản, đây là tần suất cao thứ hai chỉ sau năm 2013.
Chưa dừng lại đó, Bắc Kinh cũng điều thêm các tàu hải cảnh cỡ lớn, thế hệ mới và một số tàu được hoán cải từ tàu chiến cũ đến Senkaku. Điểm đáng chú ý là lượng giãn nước của những tàu này luôn lớn hơn tàu Nhật Bản gấp đôi, có khi gấp ba.
Liên tục xâm nhập, Trung Quốc chỉ sử dụng tàu hải cảnh. Hải quân Trung Quốc hầu như không can dự các hoạt động ở Senkaku, cá biệt chỉ có năm 2016 một tàu chiến Trung Quốc đã đi vào vùng tiếp giáp lãnh hải.
Giới quan sát nhận xét mục đích của Trung Quốc chủ yếu để quấy rối, tạo sự bình thường mới và tuyên bố Nhật Bản không có năng lực quản lý nếu không cử tàu ra ngăn cản.
Theo nhà nghiên cứu Adam P. Liff thuộc Đại học Indiana (Mỹ), Bắc Kinh đã cố gắng tránh tạo cớ để Lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản can thiệp bởi họ hiểu đằng sau đó có thể là hải quân Mỹ.
Sự thận trọng này được nâng lên vào năm 2014, sau tuyên bố của Tổng thống Mỹ khi đó là Barack Obama rằng Washington sẽ đứng về phía Tokyo và bảo vệ Senkaku là một nghĩa vụ trong Hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật.
Về phía Nhật Bản, theo Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) có trụ sở tại Mỹ, Nhật Bản đã hoàn tất việc bố phòng cho Senkaku với các căn cứ của tuần duyên và Lực lượng phòng vệ biển trải dài từ đảo Yonaguni tới Amamioshima.
Các hòn đảo nằm trong chuỗi này vừa là căn cứ hậu cần cho các tàu tuần duyên chuyên tuần tra Senkaku vừa là "tai mắt" phát hiện các hoạt động của máy bay, tàu chiến và tàu công vụ Trung Quốc trong khu vực.
Trong bài viết trên Trung tâm An ninh hàng hải quốc tế hồi tháng 4 rồi, chuyên gia Michael Perry cho biết Trung Quốc không dám sử dụng tàu hải cảnh quấy rối và bắt giữ ngư dân Nhật như đã làm trên Biển Đông bởi Tokyo sở hữu sức mạnh tuần duyên tương đương với Trung Quốc.
Trước sự xuất hiện của lực lượng dân quân biển Trung Quốc, Nhật Bản đã quyết định thành lập lực lượng cảnh sát tuần tra đảo trực chiến Senkaku. Nhiệm vụ của lực lượng này là phá vỡ kịch bản các tàu cá ngụy trang của Trung Quốc có thể bất ngờ tiếp cận và đổ bộ các toán vũ trang lên Senkaku hòng tạo sự đã rồi.
Với ngân sách năm đầu tiên khoảng 66 triệu USD, lực lượng này sẽ được trang bị các máy bay trực thăng cỡ lớn cho phép triển khai quân nhanh chóng tới những địa điểm nghi ngờ có đổ bộ bất hợp pháp.
Là một đất nước rộng lớn có chung biên giới với nhiều quốc gia. Nhưng cho đến những ngày đây, Trung Quốc dường như gây hấn ở khắp nơi từ Biển Đông, Biển Hoa Đông nay lại là biên giới với Ấn Độ trong khi đó biên giới với Nga cũng chưa yên ổn vì ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Đây cũng có thể là dấu hiệu của một đại cường đang quằn quại trước thời điểm sụp đổ, bởi đủ thứ áp lực dồn lên từ các vụ điều tra nguồn gốc của virus, các vụ kiện đòi chịu trách nhiệm về sự bùng phát của đại dịch trên toàn cầu, làn sóng bài Trung lan ra khắp năm châu, cho đến sự lục đục trong nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc, sự đánh mất tính chính danh của Đảng trong đại dịch và ngọn lửa chống đối trong dân chúng đang được thổi bùng sau ba thập kỷ, kể từ sự kiện nhà cầm quyền Bắc Kinh gây ra vụ thảm sát dã man người dân nước này tại quảng trường Thiên An Môn.
Hải Yến
Nguồn : Thoibao.de, 12/05/2020
**********************
Kazi Mahmood, VNTB, 12/05/2020
Tàu khu trục tên lửa dẫn đường USS Barry, (DDG 52) đang tiến hành các hoạt động ở Biển Đông gần đây -AFP
Để thể hiện sức mạnh siêu cường hàng hải, Mỹ đã điều tàu tấn công đổ bộ USS America cùng tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill đến Biển Đông, thách thức Trung Quốc.
Theo dữ liệu từ Marine Traffic, một trang web theo dõi tàu, "Hải Dương 8" đã vào vùng biển gần Malaysia vào ngày 18 tháng Tư. Cảm giác tạo ra một "cuộc xâm lược" từ Trung Quốc vì Hải Dương 8 dẫn dắt một hạm đội theo.
Nhóm tàu Trung Quốc đã tiếp cận West Capella và ý định ngăn cản Malaysia thăm dò và khai thác dầu khí.
Các nhà quan sát nhìn nhận, Mỹ sẽ không đơn độc trong việc hỗ trợ người Malaysia. Tàu chiến Mỹ ở đó để hỗ trợ các quốc gia yêu sách khác trong khu vực. Việt Nam, Philippines, Indonesia, và có lẽ cả Brunei, gần đây đã gặp phải vấn đề với tàu tuần tra hoặc tàu chiến Trung Quốc, và các nhóm tàu đánh cá Trung Quốc được coi là lực lượng dân quân biển Trung Quốc.
Nhưng đối với nhiều người, họ không hoan nghênh sự hiện diện của Mỹ vì nó đã làm tăng căng thẳng trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Trong khi một số thành viên của ASEAN muốn người Mỹ hiện diện tại Biển Đông. Hải Dương 8 đi cùng với tàu hải cảnh và tàu đánh cá mà các nhà phân tích cho rằng đây là một phần của lực lượng dân quân biển của Trung Quốc.
Không có nghi ngờ rằng Trung Quốc rất tích cực trong vùng biển mà họ coi là lãnh thổ của mình, bỏ qua luật pháp quốc tế trong khi trốn tránh sự toàn vẹn lãnh thổ của các bên yêu sách khác.
Kể từ khi có phán quyết của tòa trọng tài về Trung Quốc năm 2016, Bắc Kinh đã không ngần ngại trong các hành động của mình ở Biển Đông, tấn công các tàu cá Việt Nam, gây sốc cho người Indonesia, làm dấy lên mối lo ngại của Manila và đánh dấu tàu thăm dò dầu khí Malaysia.
Chính quyền Trung Quốc tuyên bố vào ngày 28 tháng 4 rằng họ đã trục xuất tàu khu trục Barry (DDG-52) ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Các quan chức quân đội Trung Quốc gọi sự hiện diện của Mỹ trong khu vực này là một hành động khiêu khích vi phạm chủ quyền và lợi ích an ninh của Trung Quốc.
Bắc Kinh cũng cáo buộc Mỹ cố tình tạo ra căng thẳng trong Biển Đông và gây ra những rủi ro an ninh khu vực có thể gây ra những sự cố bất ngờ.
Sự chia rẽ của ASEAN đã có tác động tiêu cực đến cuộc xung đột với Trung Quốc
Từ năm 2012 đến 2016, đã có những vết nứt trong ASEAN và Campuchia liên quan đến chặn dự thảo nghị quyết cuối cùng về cuộc xung đột ở Biển Đông.
Trong bối cảnh ASEAN, sự đồng thuận có nghĩa là nếu một trong 10 quốc gia thành viên phản đối đề xuất hoặc ý tưởng, bất kỳ kết quả nào đưa ra cũng sẽ thất bại.
Trong mười năm, ASEAN đã không đạt được sự đồng thuận về cách tiếp cận Trung Quốc trên biển.
Trung Quốc đã tự áp đặt và dần dần chinh phục nhiều không gian trong vùng biển hơn, chủ yếu là do sự khác biệt giữa các thành viên ASEAN.
Để giải quyết xung đột với Trung Quốc, ASEAN phải quyết định có nên từ bỏ sự đồng thuận trong cuộc khủng hoảng rất hỗn loạn và lớn này hay phải nhượng bộ Trung Quốc.
ASEAN nên bắt đầu chú ý đến các công cụ giải quyết xung đột vĩnh viễn được cả Bắc Kinh và Washington chấp nhận.
ASEAN nên ngừng là một thực thể dư thừa. Nếu Trung Quốc hoặc Mỹ trở nên hung hăng hơn, họ sẽ không thể tìm ra giải pháp cho cuộc xung đột có thể nổ ra.
Kazi Mahmood
Nguyên tác : Asean floundering in sea dispute, New Straits Times, 10/05/2020
Diễm My dịch
Nguồn : VNTB, 12/05/2020