Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

Phần Ba - 1

Vì đâu nên nỗi ?

 

tqan00

 

****************

Bốn ngàn năm văn hiến

 

tqan1

Trước khi vào Nam nhà tôi ở ngay dốc Cổ Ngư. Tiếp theo dốc Cổ Ngư là đường Cổ Ngư nối liền đê Yên Phụ và vườn Bách Thảo. Cổ Ngư là một con đường đặc biệt nhất Hà Nội, nó nằm giữa hai hồ : hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Khoảng gần giữa đường Cổ Ngư còn có một con đường khác nối đường Cổ Ngư với một hòn đảo nhỏ trên Hồ Tây, và trên hòn đảo này có chùa Trấn Quốc xây lại từ thời nhà Lý nhưng đã có từ thời Tiền Lý vào thế kỷ 6. Chính quyền cộng sản không có tinh thần tôn trọng các địa danh nên sau này họ đổi tên đường Cổ Ngư thành đường Thanh Niên cho có vẻ cách mạng và hiện đại. Có người bạn ở Hà Nội nói với tôi đây là sáng kiến của chính ông Hồ Chí Minh.

Dù chỉ sống ở đó có hơn một năm thôi nhưng đường Cổ Ngư đã rất quen thuộc đối với tôi, tôi hay chạy tung tăng trên con đường đó và quen từng xe bánh tôm. Nhiều bà bán bánh tôm biết tên tôi và thỉnh thoảng gọi tôi lại cho một miếng bánh tôm, một phần tư của một cái bánh tròn và dẹp, đường kính chừng 8 cm. Cử chỉ giản dị nhưng âu yếm.

Chùa Trấn Quốc yên tĩnh và thâm nghiêm đến độ tôi quen thuộc đường Cổ Ngư đến thế mà cũng sợ không dám vào, chỉ có hai lần vào chùa Trấn Quốc cùng với người lớn. Chùa không lớn lắm nhưng sạch sẽ và đẹp, hồi đó tôi chưa ý thức được giá trị lịch sử của sự kiện chùa đã có từ mười mấy thế kỷ.

tqan2

Chùa Trấn Quốc nằm ở cuối đường Cổ Ngư, trên bán đảo phía Đông Hồ

Bên kia vườn Bách Thảo, đi bộ một quãng đường không xa là tới Chùa Một Cột. Chùa nhỏ xíu, ở chính giữa một hồ sen cũng nhỏ xíu. Như tên gọi của nó, chùa nằm trên một cột lớn, chung quanh cột tua tủa những xà cong vươn lên như những cánh tay đỡ chùa. Chùa Một Cột cũng có từ thời nhà Lý, vào khoảng thế kỷ thứ 11 hay thế kỷ thứ 12, một chi tiết mà tôi chưa bao giờ cố gắng để nhớ.

Trường tiểu học của tôi nằm ở chùa Kim Liên, cũng nằm trên đê Yên Phụ, chiếm hết một mỏm đất khá rộng phình ra trên Hồ Tây, kế ngay bên làng hoa Yên Phụ. Làng Yên Phụ là làng đẹp nhất mà tôi đã thấy. Cả làng sống bằng nghề trồng hoa và nuôi cá vàng. Hàng năm vào dịp Tết có hội ngay sân chùa, dân làng thi đua triển lãm hoa và cá. Thú nhất là những cuộc chọi gà trong hội này. Những con gà chọi oai vệ màu xám tro, màu đen nhánh, màu đỏ lửa với những cái cổ vừa dài vừa to, trần trụi và đỏ rực một cách ngạo nghễ. Tôi mê gà chọi từ hồi đó. Có dạo lớp tôi học ở ngay trong chính tòa của chùa, kế bên bàn thờ với một tượng Phật ngồi rất lớn. Về sau lớp tôi chuyển sang một trong những lớp nằm trong hai dẫy nhà trước chùa đối diện nhau bên này và bên kia sân chùa, nhường chỗ cho lớp mẫu giáo. Lý do có lẽ là các thầy sợ chúng tôi, lớp nhì, đã khá lớn nên hay phá phách, các em bé mẫu giáo ngoan ngoãn hơn. Chùa Kim Liên khá lớn, nhưng không còn sư sãi nên được dùng làm trường tiểu học. Lúc đó chùa là đình, nghĩa là nơi hội họp của dân làng, hơn là chùa. Chùa Kim Liên là chùa thân quen với tôi nhất nhưng cũng là chùa mà tôi chưa gặp trong một tài liệu nào. Hình như chùa không lâu đời bằng cùa Trấn Quốc nhưng cũng là một ngôi chùa rất cổ nếu căn cứ vào mái và các kèo cột.

Kiến thức về kiến trúc của tôi không phải là thấp mà là số không, nhưng đại khái tôi thấy chùa nào cũng giống nhau, cũng mái cong, ngói nâu, cột gỗ, sân gạch, nền cao hơn sân vài bậc gạch. Hai người bạn tôi đều là kiến trúc sư và đều có nghiên cứu nhiều về kỹ thuật kiến trúc của các chùa Việt Nam có hai nhận định khác hẳn nhau. Một anh thì nói đó là một kỹ thuật rất tinh vi và một trình độ nghệ thuật rất cao. Một anh, trái lại, chê các chùa Việt Nam là không đa dạng, không mấy thay đổi từ đời này qua đời khác và tố giác sự thiếu sáng kiến của người Việt ; anh này cũng nói là kiến trúc các chùa mang nhiều sai phạm về kỹ thuật. Tuy nhiên có hai điểm mà cả hai người đều nhìn nhận : một là các chùa Việt Nam là một trong những di sản phong phú và đáng tự hào của nước ta, hai là các di tích lịch sử của Việt Nam quá ít về số lượng và thua kém hẳn các di tích lịch sử tại các nước châu Á khác. So với châu êu, cả hai đều nhìn nhận chúng ta thua kém rất xa.

Dĩ nhiên chúng ta còn nhiều di tích lịch sử quí báu khác. Thành Cổ Loa, đền Hùng, đền vua Đinh, chùa Phổ Minh, chùa Hương Tích, chùa Non Nước, tháp Chàm (tôi không hiểu tại sao một số người không coi tháp Chàm là một di tích lịch sử của người Việt), cổ thành Quảng Trị, chùa Linh Mụ, cổ thành Huế, Tháp Mười, v.v... để chỉ kể một vài di tích trong nhiều di tích. Nhưng phải nói là so với dòng lịch sử trên hai ngàn năm thì như thế vẫn là quá ít, và nói chung không độc đáo. Bốn ngàn năm văn hiến của chúng ta không để lại bao nhiêu chứng liệu vật chất.

Năm 1987, tôi có dịp nói chuyện với linh mục Lương Kim Định. Tôi biết đến ông lần đầu tiên năm 1968 khi một người bạn đưa cho đọc một số tác phẩm của ông về triết lý Việt Nho và An Vi. Tôi không đọc hết một cuốn sách nào của ông cả, bởi vì đọc tới gần nửa cuốn thì có cảm tưởng đã nắm được ý cho nên phần sau chỉ đọc lướt và đọc chéo. Nhân một dịp tôi sang Mỹ, Kim Định, vì có đọc một số bài báo của tôi, tỏ ý muốn gặp tôi để thảo luận. Lúc đó ông đã nổi tiếng là một triết gia lớn của Việt Nam, nhất là tại hải ngoại. Ông rất đẹp lão, gương mặt sáng láng, thái độ ung dung, ngôn từ sáng sủa, mạch lạc và còn rất tráng kiện ở tuổi 70. Chúng tôi thảo luận khá lâu về Nho Giáo mà Kim Định khẳng định là của người Việt chứ không phải của người Trung Hoa và không được triển khai đúng đắn chứ thực ra là một triết lý rất hoàn hảo cần được dùng làm nền tảng xây dựng đất nước sau này. Chúng tôi đi đến một thỏa thuận là không đồng ý với nhau.

Cuối câu chuyện, sang đến phần triết lý An Vi của ông mà Lương Kim Định coi là một thông điệp của trống đồng, tôi nói với Kim Định là cách tiếp cận văn hóa Việt Nam của ông rất phiêu lưu bởi vì các di tích lịch sử và văn hóa của chúng ta quá ít ỏi để có thể là một thông điệp sáng sủa và chắc chắn. Chúng ta phải suy diễn rất nhiều mà suy diễn thì lúc nào cũng chủ quan và dễ sai lầm. Kim Định giảng giải cho tôi về những ý nghĩa của trống đồng mà ông cho là rõ rệt và đầy đủ. Thấy tôi có vẻ không tin tưởng lắm, Kim Định hỏi lại : "Thế thì cậu đề nghị cách tiếp cận nào ?". Tôi đáp là phải tiếp cận bằng con người Việt Nam, bởi vì nền văn minh Việt Nam là một nền văn minh không có di tích vật chất. Tất cả ở trong con người, quá khứ tồn đọng trong con người và tương lai cũng chỉ là con người. Nền văn minh Việt Nam chắc chắn là có và đáng kể dù các di tích của ta không vĩ đại và phong phú bằng các nước láng giềng Trung Hoa, Thái Lan, Miến Điện, Cam-bốt và Lào. Vì thế cách tiếp cận đúng để tìm hiểu Việt Nam là tâm lý học và xã hội học chứ không phải là khảo cổ học. Sự kiện chúng ta có những con người có thể mau chóng hấp thụ những kiến thức phức tạp và khó khăn nhất, có thể thích nghi ít nhất một cách tương đối với những thay đổi bối cảnh đột ngột nhất, có thể sống qua những thảm kịch ghê gớm nhất là bằng chứng của một nền văn minh đặc sắc. Tuy nhiên khối người tinh nhuệ đó đã chỉ đi từ tai họa này đến thảm kịch khác, như vậy rõ ràng là họ phải có một tật nguyền tập thể nào đó. Con người Việt Nam là cả một bí mật chưa được khám phá, nhưng điều chắc chắn là nó mang một tiềm năng rất lớn chưa phát huy được vì một số bế tắc tâm lý. Khai thông được bế tắc này chúng ta sẽ giải tỏa một nguồn năng lượng vô cùng lớn và sẽ vươn lên rất mãnh liệt.

Lương Kim Định cũng phân vân trước cách tiếp cận của tôi như tôi nghi hoặc trước cách tiếp cận của ông. Không phải chỉ có một mà có nhiều cách tìm hiểu nước Việt. Và tất cả đều có mặt đúng và có mặt yếu. Cái khó của chúng ta là phải làm một việc mà từ trước chúng ta đã không cố gắng để làm, nghĩa là tìm hiểu chúng ta là ai.

Từ đó tôi không còn cơ hội để gặp lại Kim Định. Tôi thường hỏi thăm về ông và vài năm sau được biết ông đau nặng, cho nên khi được tin ông qua đời, tôi không ngạc nhiên. Hình ảnh còn lại trong tôi về Kim Định là một con người rất độc đáo. Ông được đào tạo theo giáo dục phương Tây, nhưng lại dùng những kiến thức đó làm dụng cụ để tìm về nguồn gốc dân tộc, khám phá cái hay của dân tộc, đi đến niềm tự hào - theo tôi quá chủ quan - về dân tộc và đề xướng một đường lối phát triển thuần túy Việt Nam - mà tôi cho là gượng ép. Là một linh mục công giáo nhưng ông lại gần gũi với triết lý Á Đông hơn là triết lý Thiên Chúa Giáo. Đức tin công giáo của ông hình như chỉ rất tương đối. Dù không đánh giá cao lắm những công trình nghiên cứu của Kim Định, nhất là về điểm mà đa số thán phục ông, nghĩa là Nho Giáo, tôi vẫn dành cho ông một sự cảm mến đối với một người đã tận tụy với văn hóa dân tộc.

Trong lần gặp gỡ duy nhất ấy, chúng tôi khác ý với nhau nhiều nhưng chúng tôi đồng ý là lịch sử của chúng ta quá sơ sài và thiếu sót, di sản văn học của chúng ta không có bao nhiêu.

 

****************

 

Một phép mầu, một may mắn và một bài học

 

tqan3

Chữ Nôm Một di sản văn hoá dân tộc

Nếu có một thành tích đặc biệt xuất sắc, có thể coi như một phép mầu của dân tộc ta thì đó là văn học. Xin nhấn mạnh cụm từ "của dân tộc ta".

Độc giả đã đọc qua những trang trước của cuốn sách này chắc không nghĩ là tôi tự hào dân tộc thái quá, nhiều vị vì thế có thể hỏi "ta có gì xuất sắc về văn học" ?

Quả nhiên ta có rất ít lý do để tự hào.

Về múa chúng ta quả thật là kém. Ta thua hẳn hai dân tộc láng giềng tầm vóc nhỏ hơn là Lào và Cam-bốt, và có thể nói là thua xa mọi nước khác. Trong bộ môn này chúng ta đội sổ trong số các dân tộc có lịch sử tương đối dài. Điêu khắc và hội họa cũng chỉ mới khởi sắc gần đây, vào đầu thế kỷ thứ 20, do người Pháp đem đến. Trước đây ta có rất ít tranh và không có bức tranh nào có giá trị. Ta cũng có nhiều chạm trổ trên kèo cột, giường tủ với mục đích trang trí nhưng có thể nói những chạm trổ này hoàn toàn không có một giá trị nghệ thuật nào. Các tượng tạc và đúc của ta cũng thế, chỉ là những biểu tượng gợi ý chứ không thể coi là những tác phẩm nghệ thuật, các tác giả là những người khéo tay chứ không phải là những nghệ sĩ. Rất khó phân biệt một công trình nghệ thuật của ta thuộc thế kỷ thứ 10 hay thuộc thế kỷ 19 bởi vì không có tiến bộ. Tất cả chỉ dừng lại ở sự khéo tay tự nhiên của con người. Học giả Trần Quang Hải, kế nghiệp cha là học giả Trần Văn Khê, đã dày công biên khảo, thu thập gia tài âm nhạc của chúng ta qua các thời đại. Phạm Duy, người nhạc sĩ thiên tài với lòng yêu nước thiết tha, đã cố gắng vượt bực để vừa ký âm hóa vừa phong phú hóa cổ nhạc Việt Nam. Tất cả những cố gắng đó đưa tới một bảng tổng kết đáng buồn : âm nhạc của ta cũng rất nghèo nàn. Nhu cầu nghệ thuật và sáng tạo hầu như hoàn toàn thiếu vắng ở dân tộc ta. Văn hóa nghệ thuật của ta chỉ là văn hóa nghệ thuật nghỉ ngơi, nhàn dư chứ không phải là văn hóa nghệ thuật nhức nhối và khai phá. Không gì đáng ngạc nhiên nếu chúng ta không có tác phẩm đáng giá.

Nói tới văn hóa Việt Nam thực ra chỉ là nói đến thơ văn. Và thơ văn của chúng ta chỉ xuất hiện từ thời nhà Lý, nghĩa là từ thế kỷ 11 trở đi. Trước đó chúng ta có rất ít dấu tích thơ văn Việt Nam. Có thể là, do hoàn cảnh lịch sử, những thơ văn của người Việt đã có trước thế kỷ 11 nhưng đã bị thất lạc. Nhưng cứ nhìn vào thành tích thơ văn của bốn thế kỷ Lý Trần, ta có thể khẳng định là thơ văn Việt Nam trước đó nếu có cũng không đáng kể, cả về phẩm lẫn lượng. Bốn trăm năm độc lập, dưới hai triều đại mà chúng ta cho là huy hoàng nhất trong lịch sử, chắc chắn thơ văn Việt Nam đã làm một bước nhảy vọt vĩ đại so với thời gian trước. Vậy nhìn vào thơ văn Lý Trần ta có thể hình dung được thơ văn trước đó.

Những công trình khảo cứu đã tổng kết được khoảng hơn sáu trăm bài thơ và văn đủ loại trong bốn thế kỷ. Cứ coi là một số đã bị thất lạc và cộng thêm một ngàn bài nữa để đưa con số này lên một ngàn sáu trăm thì, nói chung, chúng ta cũng chỉ sáng tác được mỗi năm bốn bài. Các bài lại thường thường rất ngắn, có khi chỉ vài câu thôi. Trung bình mỗi bài chưa tới một trăm chữ. Như vậy, ngay cả nếu ước lượng một cách rất rộng rãi thì trung bình trong bốn thế kỷ cực thịnh đó cả nước đã chỉ sáng tác được mỗi ngày một chữ !

Có một sự kiện cần lưu ý là sau khi tiêu diệt được nhà Hồ (năm 1407), hoàng đế Trung Quốc là Minh Thành Tổ đã ra lệnh cho quân Minh thu thập rồi tiêu hủy hay chở về Trung Quốc các tác phẩm bằng chữ Nho của Việt Nam. Lệnh này đã không được thi hành nghiêm túc (tại sao ? phải chăng là các quan nhà Minh thấy chẳng có gì đáng kể ?) nên Minh Thành Tổ phải ra một lệnh thứ hai quở trách quan tướng nhà Minh và đòi phải thi hành triệt để. Nhà Minh đã cướp mất của chúng ta những gì không ai biết rõ.

Trong Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim dựa vào các pho sử có trước nói rằng quân Minh đã lấy của chúng ta 24 bộ sách. Thực tế có thể là hơn. Nhưng dựa vào những gì còn lại ta có thể kết luận là cũng không có gì đáng tiếc lắm, ít nhất về phẩm. Chúng ta hay nói tới các tác phẩm của Chu Văn An, nhưng dựa vào những gì còn sót lại của Chu Văn An thì cũng có thể kết luận rằng các tác phẩm của ông cũng không có giá trị đặc biệt nào.

Thơ văn Việt Nam thực ra chỉ khởi sắc dưới thời Hậu Lê với các tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, và chỉ phát triển mạnh từ thế kỷ 18 trở đi để đạt tới cao điểm vào thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn, với các tác giả lớn như Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Huy Tự, Phan Huy Chú, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê...

Sự khởi sắc đột ngột này có một nguyên nhân quan trọng, đó là thắng lợi của chữ Nôm trên chữ Hán.

Điều cần lưu ý là trong mười lăm thế kỷ đầu của công nguyên, ngay cả trong bốn thế kỷ Lý - Trần, các chính quyền, các vua chúa Việt Nam và các sĩ phu Việt Nam chỉ lo quảng bá tiếng Trung Quốc chứ không lo phát triển ngôn ngữ Việt Nam. Không những không phát triển mà còn miệt thị (nôm na là cha mách qué). Điều khó tưởng tượng là các chính quyền và thành phần khoa bảng Việt Nam đã say mê thực hiện một chính sách Hán hóa đất nước mình. Nếu văn hóa nước ta còn, và do đó đất nước ta còn, là vì họ đã thất bại ! Công lao giữ nước như vậy không phải do các vua chúa, các anh hùng, các công hầu khanh tướng, cũng không do giới sĩ phu mà hoàn toàn do những người nông dân Việt Nam.

Điều mầu nhiệm là mặc dầu bị chà đạp và miệt thị, không những bởi ngoại nhân mà còn do chính thành phần được coi là ưu tú của mình, xã hội Việt Nam vẫn giữ được tiếng nói riêng của mình, để rồi dần dần tiếng Việt toàn thắng trên đất Việt. Người nông dân Việt Nam đã giữ được ngôn ngữ của mình và khuất phục được giới sĩ phu ! Sau đó người Việt đã dựa vào chữ Hán để chế ra chữ Nôm mà tạo ra chữ viết riêng của mình, âm thầm tu bổ nó, dần dần biến nó thành một ngôn ngữ có giá trị văn chương.

tqan4

Bản thảo chữ Nôm tác phẩm Cung oán ngâm khúc

Văn thơ chữ Nôm bắt đầu xuất hiện chính thức với bài "Văn Tế Cá Sấu" của Nguyễn Thuyên cuối đời nhà Trần, vùng lên mạnh mẽ vượt qua chữ Hán dưới thời Lê Trung Hưng (Trịnh-Nguyễn) để chiếm ngữ toàn bộ sân khấu văn chương dưới triều Nguyễn, chỉ để lại cho chữ Hán vai trò ngôn ngữ biên khảo. Sự thịnh hành của chữ Nôm đã giúp cho trí tuệ Việt Nam phát triển, đã nâng cao trình độ sĩ phu Việt Nam và làm xuất hiện những tác phẩm dài, thơ văn cũng như biên khảo, bằng chữ Nôm và bằng cả chữ Hán. Cần lưu ý là trong suốt thời độc tôn của chữ Hán chúng ta đã chỉ có những tác phẩm vụn vặt.

Từ đó cho tới thế kỷ 20, tổng kết văn thơ Việt Nam, ngoại trừ bài Bình Ngô Đại Cáo, tất cả những tác phẩm lớn của chúng ta đều bằng chữ Nôm. Không có chữ Nôm thì chúng ta đã không thể có những tác phẩm để tự hào : Chinh Phụ Ngâm, truyện Kiều, Hoa Tiên, Nhị Độ Mai và những bài thơ bài phú bất hủ của Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến. Văn học của ta đã chỉ có giá trị sáng tạo từ khi chuyển sang chữ Nôm.

May mắn làm sao mà văn Nôm, tức văn Việt Nam, nở rộ lên trong thế kỷ 19. Thử tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra vào cuối thế kỷ 19, khi người Pháp áp đặt ách đô hộ lên nước ta và đem tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức, nếu lúc đó ta vẫn chưa có một văn học Việt Nam riêng mà vẫn hoàn toàn dựa vào chữ Nho ? Chúng ta sẽ không thể có Nam Phong Tạp Chí, Tự Lực Văn Đoàn với những tiếp nối của chúng. Chúng ta sẽ ở vào cùng một tình trạng bi đát như Lào và Cam-bốt hiện nay.

Các dân tộc châu Âu mặc dầu bị đế quốc La Mã đô hộ và áp đặt tiếng La Tinh cũng đã xây dựng được ngôn ngữ riêng của họ để dần dần thay thế tiếng La Tinh. Họ là những dân tộc tinh anh. Chúng ta cũng như họ. Nhưng dân tộc ta đã thắng một cuộc đấu tranh cam go hơn nhiều bởi vì chính những thành phần ưu tú của đất nước ta đã đóng góp phổ biến chữ Hán và ngăn chặn sự phát triển của tiếng Việt.

Các dân tộc châu êu đã chỉ đạt tới nền văn hóa huy hoàng của họ sau khi họ tự giải thoát khỏi tiếng La Tinh để dựa trên ngôn ngữ của riêng mình. Cũng tương tự, người Việt đã chỉ đạt tới một nền văn học có giá trị từ khi dựa trên tiếng Việt. Đó là một bài học cần được ghi nhớ. Ngôn ngữ là dụng cụ của tư tưởng và tiến bộ, và mỗi con người chỉ phát huy được cao độ khả năng suy nghĩ và diễn tả của mình qua tiếng mẹ đẻ. Một giáo sư ngữ học người Pháp, người Mỹ dù bỏ cả cuộc đời để học hỏi và trau dồi tiếng Việt cũng không thể viết nổi những câu thơ của Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Trịnh Công Sơn. Ngược lại, một người Việt Nam dù học tiếng Pháp từ lúc mới chào đời và đậu thạc sĩ văn phạm như Phạm Duy Khiêm cũng không thể đạt tới trình độ của những nhà văn lớn của Pháp. Vẫn còn lại một cái gì đó, một phần trăm hay một phần ngàn thôi nhưng quyết định tất cả, và phân biệt một tác phẩm kiệt xuất với một tác phẩm khá.

Xây dựng, mài dũa, hoàn thiện không ngừng tiếng Việt là nhiệm vụ trên hết mọi nhiệm vụ. Đó là dụng cụ không có không được của chúng ta để vươn lên. Cho tới nay sự quí trọng tiếng Việt của chúng ta còn ở rất xa mức độ cần có. Hàng chục thế kỷ khinh miệt tiếng mẹ đẻ vẫn còn để lại trong chúng ta những tàn dư tồi tệ. Khi viết một tài liệu bằng tiếng Việt, chúng ta ["chúng ta" ở đây xin hiểu là đa số] cảm thấy không cần lo âu gì cả, viết sao cũng được ; trái lại, khi viết bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, ta tra tự điển xem có đúng chính tả không, đắn đo không biết nên dùng chữ này hay chữ khác, hỏi ý kiến bạn bè, v.v... Chúng ta rất vô lễ với tiếng Việt.

Không thiếu những nhà bình luận viết không có bố cục và không ra câu cú. Câu văn dài lòng thòng, chấm phẩy tùy tiện, mệnh đề chính và phụ hỗn độn, chữ dùng không chính xác và viết sai chính tả. Có cả những bài thơ mang những lỗi ngữ vựng rất thông thường.

Chúng ta đừng quên ngôn ngữ không phải chỉ là dụng cụ phát biểu ý kiến mà còn là cấu trúc của tư tưởng. Chúng ta suy nghĩ bằng ngôn ngữ trước khi diễn tả bằng ngôn ngữ.

Vợ chồng ông hàng xóm của tôi người Trung Hoa ; họ ở bên Pháp đã hơn hai mươi năm mà vẫn không nói được tiếng Pháp. Mỗi lần có người Pháp đến hỏi họ đều phải cầu cứu chúng tôi. Chỉ sau này khi các con đã lớn và học khá họ mới không cần vợ chồng tôi nữa. Ông bà ấy nói bằng tiếng Việt để chúng tôi thông ngôn sang tiếng Pháp. Nhưng họ không phải là những người Việt gốc Hoa, mà là những người Miên gốc Hoa. Họ sinh ra và lớn lên tại Phnom Penh. Năm 1976 họ chạy trốn Pol Pot sang Việt Nam và rời Việt Nam sang Pháp hai năm sau. Thời gian hai năm đó đủ để họ nói được tiếng Việt và nhớ mãi tới hai mươi năm sau mặc dầu không hề cố gắng học tiếng Việt. Trái lại, từ khi tới Pháp họ đã theo học nhiều lớp tiếng Pháp nhưng sau hai mươi năm sống trên đất Pháp vẫn không nói được. Đó là vì cấu trúc của tiếng Pháp quá khác với cấu trúc của tiếng Tàu, trong khi tiếng Việt và tiếng Tàu khá gần nhau.

Vẫn còn nhiều người nghĩ rằng trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, khi tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ quốc tế, chúng ta cần hoàn thiện tiếng Anh trước đã, tiếng Việt tàm tạm đủ dùng thôi cũng được. Như thế là quên rằng chúng ta suy nghĩ bằng tiếng mẹ đẻ, nếu chúng ta không nắm thật vững tiếng mẹ đẻ thì chúng ta sẽ suy nghĩ kém, trí óc sẽ không thể phát triển tới mức tối đa được. Chúng ta sẽ thiếu một cái gì đó, cái một phần trăm hay một phần ngàn quyết định tất cả và phân biệt cái hơn hẳn với cái bình thường. Và chúng ta sẽ vĩnh viễn thua kém.

 

*************************

 

Kinh nghiệm Cao Ly

 

 

tqan5

Chúng ta đều biết nước Cao Ly là nước nào. Tuy nhiên ngay việc gọi tên nó cũng làm nhiều người phân vân : Triều Tiên hay Hàn Quốc ? Quốc hiệu của nước này đã thay đổi nhiều lần trong lịch sử và ngay bây giờ cũng không đồng nhất. Từ sau thế chiến II trên bán đảo Cao Ly có hai nước được thành lập và xung đột với nhau, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên tại miền Bắc và Đại Hàn Dân Quốc tại miền Nam. Như vậy miền Bắc tự gọi là Triều Tiên trong khi miền Nam là Đại Hàn. Tuy vậy khi giao thiệp với các nước Tây Phương họ lại dịch giống nhau và đều dùng chữ Cao Ly [Korea, Corée]. Miền Bắc là Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Cao Ly [Democratic People's Republic of Korea, République Démocratique et Populaire de Corée], miền Nam là Cộng Hòa Cao Ly [Republic of Korea, République de Corée]. Vậy khi cần nói đến cả hai miền của đất nước này ta có thể tạm dùng chữ Cao Ly, một danh xưng mà ngôn ngữ Việt Nam ít dùng, vì thường sử dụng thẳng quốc hiệu chính thức của hai chế độ, nghĩa là Triều Tiên hay Đại Hàn.

Triều Tiên là quốc hiệu được Trung Quốc nhìn nhận từ năm 1391 ; Cao Ly là tên gọi của nước này trong năm thế kỷ trước đó ; trong khi Hàn là tên một con sông ở chính giữa nước, và cũng là tên của một dân tộc đã sinh sống tại miền Nam bán đảo Cao Ly và là nguồn gốc của đa số dân Cao Ly. Một ngày nào đó, nếu nước này được thống nhất có rất nhiều triển vọng họ sẽ sử dụng tên Cao Ly. Vả lại những danh xưng Triều Tiên, Đại Hàn ngay từ bây giờ đã không có công dụng quốc tế.

Cao Ly có một lịch sử bình thường hơn nước ta. Đất nước này đã thành hình do sự sát nhập và thống nhất nhiều vương quốc nhỏ trên bán đảo. Kể từ thế kỷ 13 lãnh thổ của họ không thay đổi nữa, gồm toàn bộ bán đảo, ngăn cách với Trung Quốc bởi con sông Áp Lục.

Nhiều người Việt Nam không am hiểu lịch sử Cao Ly, và do tự ái dân tộc, thường cho rằng trước đây không lâu nước ta còn tiến bộ và hùng mạnh hơn Cao Ly, sự thua kém của ta chỉ là gần đây mà thôi. Sự thực rất khác. Dân tộc Cao Ly từ lâu đã tiến bộ hơn ta nhiều về mọi mặt. Họ đã được độc lập trong suốt dòng lịch sử. Đôi khi vì suy yếu hơn nước Trung Hoa họ đã phải nhận vai trò chư hầu nhưng vẫn giữ được nền tự chủ, ít ra là tự trị, trái với Việt Nam bị sát nhập làm một phần của Trung Quốc trong hơn một ngàn năm. Di sản của một ngàn năm nô lệ này vẫn còn để lại trong hồn tính và tư tưởng của chúng ta những tật nguyền mà người Cao Ly, vì là một dân tộc độc lập, không có. Họ có tinh thần dân tộc cao hơn ta, có óc sáng tạo hơn ta và đã tiến triển rất sớm. Những tranh vẽ còn lại trong các ngôi mộ từ thế kỷ 4 chứng tỏ một trình độ nghệ thuật rất cao, không thua gì người Trung Hoa. Cũng tại các ngôi mộ này ta thấy các dấu tích về quần áo, kiến trúc, công nghiệp, giải trí và binh bị rất đáng ngạc nhiên về sự tinh vi. Nếu ngày nay nước Cao Ly, ít nhất phần phía Nam được gọi là Đại Hàn Dân Quốc, tiến bộ mau chóng cũng nhờ họ được thừa hưởng một di sản văn hóa rất phong phú và đặc sắc.

Điều đặc sắc nhất là họ đã có một ngôn ngữ Cao Ly riêng, đã để lại những bài thơ có giá trị triết lý, văn học ngay từ thế kỷ thứ 6. Ngôn ngữ này được sáng chế ra bằng cách sử dụng những bộ chữ của người Trung Hoa, gần giống như chúng ta đã dựa vào chữ Hán để chế ra chữ Nôm, nhưng sớm hơn. Ngay từ thế kỷ thứ 7, người Cao Ly đã biết kỹ thuật in sách. Cho tới nay, theo một số nhà nghiên cứu, bản in xưa nhất thế giới là bản in một cuốn sách của người Cao Ly. Ngay từ thế kỷ 7, người Cao Ly đã quan tâm học hỏi các môn toán, thiên văn, y học. Năm 717 họ đã lập ra các học vị tiến sĩ Toán, tiến sĩ Y khoa, tiến sĩ Thiên văn. Trước đó, năm 692 họ đã có những tiến sĩ Luật. Nếu nhìn lại lịch sử của ta thì phải thấy ta thua họ xa lắm và từ lâu rồi. Cho đến đầu thế kỷ 20 ta vẫn chỉ có những cử nhân tiến sĩ về văn chương mà thôi.

Kinh nghiệm Cao Ly mà tôi muốn nói tôi ở đây là kinh nghiệm về ngôn ngữ. Người Cao Ly rất hiếu học và cầu tiến. Từ thế kỷ thứ 10 họ say sưa học hỏi văn hóa Trung Hoa, treo giải thưởng cho những ai tìm được sách của Trung Hoa, rồi sao chép và phổ biến trong giới ưu tú. Lúc đó nước Trung Hoa lại may mắn gặp những thời kỳ thịnh trị qua suốt các triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh. Văn học, triết lý và chính trị của Trung Hoa đều rất thịnh trong các triều đại này. Trí thức Cao Ly say mê học hỏi rồi dần dần bỏ quên cả ngôn ngữ gốc của mình. Chữ Hán với thời gian chiếm vai trò của ngôn ngữ chính thức, át hẳn tiếng Cao Ly. Hậu quả của việc tôn sùng tiếng Trung Hoa là dần dần Cao Ly thua kém Trung Hoa và suy thoái đi, bởi vì chữ Hán chỉ phổ biến trong giới thượng lưu mà thôi. Quần chúng Cao Ly vẫn chỉ sử dụng tiếng Cao Ly bản xứ. Vì ngôn ngữ này không được phát triển, trình độ văn hóa của quần chúng không vươn lên được.

Sau hơn bốn thế kỷ bỏ rơi ngôn ngữ của chính mình để chạy theo một ngôn ngữ và một văn hóa nước ngoài, người Cao Ly đã nhận ra sự sút kém của mình. Đầu thế kỷ 15 họ quay trở lại phát triển tiếng Cao Ly và lần này họ làm một phát minh độc đáo : một tiếng Cao Ly mới xuất hiện với một mẫu tự riêng, gồm 26 chữ cái, mỗi chữ cái diễn tả một âm riêng giống như các ngôn ngữ phương Tây, nhưng các mẫu tự dĩ nhiên là khác với các mẫu tự la tinh ABC vì lúc đó Cao Ly chưa biết tới châu Âu.

Cuộc cách mạng văn hóa này đã gặp nhiều chống đối của giới sĩ phu sính chữ Hán, nhưng nhờ quyết tâm của chính quyền nó đã thành công và nước Cao Ly vươn lên mạnh mẽ. Cho tới nay, đây vẫn là ngôn ngữ chính thức của nước Cao Ly và đã được phong phú hóa rất nhiều để trở thành một ngôn ngữ đầy đủ khả năng để chuyên chở mọi kiến thức văn học, khoa học và kỹ thuật.

Vào đầu năm 1998, một bài báo của một thân hữu được đăng trên tờ Cánh Én tại Đức và Thông Luận đã phê phán một bài báo khác của tôi. Tác giả phê phán tôi cực đoan trong cách nhận định văn hóa và lịch sử dân tộc và đưa ra nhận định là hình như những người hoạt động chính trị Việt Nam đều có chung nhau một điểm là hay chọn lựa thái độ cực đoan. Đề cập tới hai khuôn mặt chính trị Việt Nam hồi đầu thế kỷ, tác giả nhận định Phan Bội Châu đã cực đoan trong thái độ thân Nhật, một chọn lựa mà nếu thành công vào lúc đó sẽ là một thảm kịch cho dân tộc Việt Nam ; Phan Chu Trinh đã quá khích trong cố gắng cổ võ dùng chữ quốc ngữ thay chữ Nho với hậu quả là người Việt Nam đã mất mát rất lớn vì bị đoạn tuyệt với văn hóa Trung Hoa, văn hóa gốc của mình. Tác giả viện dẫn trường hợp Cao Ly để nói rằng người Cao Ly, cũng như người Nhật, đã tiến mạnh nhờ tiếp tục sử dụng tiếng Hán. Tôi chia sẻ với bạn đó nhận định về Phan Bội Châu nhưng không thể đồng ý về trường hợp Phan Chu Trinh và chữ quốc ngữ, nhất là về thí dụ Cao Ly. Cao Ly đã sùng ái chữ Hán trong vòng bốn thế kỷ nhưng vẫn có ngôn ngữ riêng của họ và từ năm thế kỷ gần đây ngôn ngữ riêng là ngôn ngữ chính thức chứ không phải chữ Hán. Họ tiến nhờ ngôn ngữ riêng chứ không phải nhờ chữ Hán mà họ chỉ sử dụng như một ngoại ngữ.

Theo chỗ tôi biết, trong tiếng Cao Ly hiện nay chỉ có khoảng hai ngàn chữ có gốc chữ Hán mà thôi, nghĩa là rất ít so với sự hiện diện của chữ Hán trong tiếng Việt. Các chữ Hán vay mượn này cũng đã được Cao Ly hóa, nghĩa là viết bằng mẫu tự Cao Ly, chẳng khác gì ta viết chữ gốc Hán như "ân nhân" bằng mẫu tự la tinh.

Sử dụng ngôn ngữ của riêng mình là một bắt buộc đối với mọi dân tộc muốn trường tồn. Suy nghĩ và diễn tả là hai hành động cơ bản nhất của loài người. Chúng ta suy nghĩ và diễn tả bằng một ngôn ngữ, và chúng ta chỉ thoải mái và chỉ thành công tối đa trong ngôn ngữ của chính mình. Sử dụng một ngoại ngữ chúng ta sẽ bị giới hạn trong cả suy nghĩ lẫn diễn đạt, chúng ta sẽ thua kém. Đó mới chỉ là nói về giới trí thức. Đối với cộng đồng dân tộc việc sử dụng ngoại ngữ thay vì quốc ngữ còn nguy hiểm gấp bội. Quần chúng chỉ có thể dùng ngôn ngữ của mình chứ không thể thấu hiểu một ngoại ngữ. Bỏ rơi quốc ngữ là bỏ rơi đại bộ phận dân tộc và chấp nhận vĩnh viễn số phận nhược tiểu, trừ trường hợp dám thẳng thắn xóa bỏ văn hóa của mình để chấp nhận một văn hóa mới. Nhưng "cố gắng" xóa bỏ văn hóa của chính mình này sẽ đòi hỏi nhiều thế kỷ và tới nay chưa dân tộc nào làm được. Nước Việt Nam của chúng ta đã thử nghiệm trong mười thế kỷ Bắc thuộc và hơn bốn thế kỷ độc lập sau đó nhưng đã không "thành công".

Đất nước ta đang mở ra với thế giới vào giữa lúc mà tiếng Anh đang thời thượng. Chẳng bao lâu một cuộc thảo luận lớn sẽ diễn ra : nên đầu tư tích cực vào tiếng Anh để hội nhập mau chóng vào sinh hoạt thế giới hay nên dồn một cố gắng vĩ đại vào việc phát triển và cải tiến tiếng Việt ? Nhiều người lý luận rằng với tiếng Anh chúng ta sẽ hiểu được cả thế giới và ngược lại cũng được cả thế giới hiểu. Tiếng Việt có rất nhiều trở ngại : tiếng đơn âm, khó kết hợp và biến hóa để tạo ra những từ mới, diễn tả những ý niệm mới ; dấu phức tạp, khó dùng trong truyền thông và tin học ; hơn nữa lại không được thế giới biết đến, đằng nào cũng vẫn phải dùng tiếng Anh trong các giao dịch quốc tế.

Mặc dầu tất cả những trở ngại rất lớn và có thực đó, lập trường của tôi rất rõ rệt : phải dùng tiếng Việt và phải đầu tư vào tiếng Việt.

Lập trường của tôi không xuất phát từ một tinh thần quốc gia mà từ một nhận định thực tiễn : người Việt chỉ thành công qua tiếng Việt mà thôi. Chúng ta sẽ không có hy vọng nào để cả nước thông thạo tiếng Anh, mà có "thông thạo" đi nữa thì cũng không bao giờ thông thạo được bằng người Anh hay người Mỹ. Chúng ta sẽ học tiếng Anh, nhưng đó sẽ chỉ là ngôn ngữ giao dịch với bên ngoài. Tiếng Việt sẽ vẫn là ngôn ngữ để học hỏi, để suy nghĩ, để giáo dục, huấn luyện, đào tạo và trao đổi giữa chúng ta. Đó là chọn lựa duy nhất của chúng ta.

Chúng ta đã có kinh nghiệm chữ Hán và chữ Nôm. Chúng ta đã chỉ thực sự tiến bộ khi chữ Nôm trưởng thành. Dân tộc Cao Ly cũng đã có một kinh nghiệm tương tự về ngôn ngữ của họ sau khi đã sùng ái chữ Hán. Các dân tộc châu Âu cũng đã chỉ vươn lên nhờ biết sáng tạo và cải tiến tiếng mẹ đẻ của họ để thay thế cho tiếng La Tinh.

Chúng ta cũng có một kinh nghiệm ngược lại đầy ý nghĩa. Tỉnh Québec của Canada gồm đại đa số là người gốc Pháp, và họ có đủ điều kiện để phát triển tiếng Pháp, nhưng họ không phải là một phần của nước Pháp cho nên mặc dầu có phương tiện dồi dào và có ý chí mạnh mẽ giữ gìn tiếng Pháp, họ đã không sáng tác được gì đáng kể bằng tiếng Pháp.

Nước Việt Nam ta với điều kiện địa lý và nhân văn có triển vọng để trở thành một nước lớn và giàu mạnh, nhưng triển vọng đó sẽ chỉ được thực hiện với tiếng Việt. Vậy chúng ta chỉ có một chọn lựa : xây dựng, cải tiến và phong phú hóa tiếng Việt.

 

***************

 

Đoạn Trường Tân Thanh

 

 

tqan6

Khi Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều để về quê sau một thời gian say sưa ân ái, Nguyễn Du tả cảnh chia tay bằng hai câu thơ bất hủ :

Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.

Kẻ ra đi, người còn bịn rịn nắm áo giữ lại, đến lúc biệt ly mới ngỡ ngàng nhận ra là mùa thu đã đến từ lúc nào không hay, lá vàng đã phủ đầy lối đi. Thì ra đôi uyên ương đã quá say sưa đến quên cả thời gian.

Những vần thơ trác tuyệt như vậy đầy rẫy trong truyện Kiều. Thiên tài của Nguyễn Du là đã vừa viết truyện vừa sáng tác ra ngôn ngữ để viết. Và những sáng tạo ngôn ngữ của ông quả là tuyệt vời. Những cụm từ của ông đã trở thành những thành tố quan trọng của tiếng Việt. Sắc đẹp "nghiêng nước nghiêng thành", "rạch đôi sơn hà", "hàng thần lơ láo", "đội trời đạp đất", "tài tử giai nhân", "sở khanh", v.v... Kiến thức về văn học của tôi không có bao nhiêu, nhưng tôi cũng đã đọc khá nhiều tác giả lớn bằng tiếng Pháp và tiếng Anh và nhiều truyện Tàu. Tôi chưa hề thấy một nhà văn nào sáng tạo ra ngôn ngữ nhiều như Nguyễn Du.

Nhưng về một khía cạnh khác, truyện Kiều lại đem đến cho tôi một tâm sự chua chát. Đoạn Trường Tân Thanh là tên của một tiểu thuyết vô danh của một tác giả vô danh bên Trung Quốc, Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du đã giữ nguyên tên tác phẩm và, theo một số nhà nghiên cứu văn học, cũng giữ nguyên cả cốt truyện, kể cả những chi tiết ngớ ngẩn như hồn ma Đạm Tiên, Từ Hải chết đứng, Thúy Kiều chết đi sống lại và gặp vãi Giác Duyên... Ông cũng giữ nguyên cái triết lý "tài mệnh tương đố" bi quan và rẻ tiền. Nói chung, Nguyễn Du không có cảm hứng và tư tưởng của chính mình mà chỉ hòa nhịp theo cảm hứng của một tác giả tầm thường của Trung Quốc và đi theo mạch tư tưởng rất tầm thường của người này.

Nguyễn Du là khuôn mặt văn học lớn nhất và cao nhất của nước ta cho tới ngày nay, cho nên những thiếu sót của ông càng đáng tủi hổ cho chúng ta hơn là nơi những tác giả khác. Hình như không có câu thơ nào trong Cung Oán Ngâm Khúc mà lại không có một điển tích văn hóa hay lịch sử Trung Hoa và tuyệt nhiên không có một qui chiếu Việt Nam nào cả. Chinh Phụ Ngâm là tác phẩm hoàn toàn của người Việt Nam, bản chữ Nho của Đặng Trần Côn cũng như bản chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm, nhưng đó lại là một truyện Tàu, bối cảnh và các nhân vật của nó đều là Trung Hoa. Tâm hồn của người chiến sĩ lên đường được diễn tả qua hai câu thơ :

Săn lâu lan rằng theo Giới Tử

Tới Man Khê bàn sự Phục Ba.

Nhưng "sự Phục Ba" là sự gì ? Đó là việc tướng nhà Hán Mã Viện, có tước Phục Ba Tướng Quân, đem quân đánh bại Hai Bà Trưng, dẹp cuộc khởi nghĩa giành độc lập đầu tiên của Việt Nam, và đặt ách đô hộ một ngàn năm trên nước ta. Một sự kiện như vậy mà lại gây hứng khởi trong lòng hai danh sĩ xuất sắc bậc nhất của nước ta đủ chứng tỏ cảm hứng của sĩ phu Việt Nam vào thời đó đều chỉ hoàn toàn là vay mượn.

Trong thế kỷ 19 thơ văn Việt Nam đã làm một bước nhảy vọt vĩ đại cả về phẩm lẫn lượng. Bước nhảy vọt này đã được tiếp nối và tăng cường trong thế kỷ 20 với sự bành trướng của chữ quốc ngữ, thơ mới và tiểu thuyết theo kiểu phương Tây. Cũng trong thế kỷ 20 mà chúng ta bắt đầu làm quen với văn nghị luận và biên khảo. Nhưng chúng ta vẫn chưa có một tác phẩm nào lớn, có tầm vóc quốc tế. Cảm hứng vụn vặt, đam mê chốc lát - di sản của một nền văn hóa nhàn dư - đã chỉ đẻ ra những tác phẩm nhỏ, hoặc họa hiếm lắm là trung bình như trường hợp truyện Kiều. Chúng ta thiếu óc sáng tạo và thiếu sự dài hơi. Tại sao ?

Không phải chúng ta thiếu tài năng. Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, v.v... đều đáng được coi là những thiên tài của ngôn ngữ.

Không phải chúng ta thiếu đề tài và chất liệu. Mười lăm thế kỷ đấu tranh với thiên nhiên để khai mở đồng bằng sông Hồng, đấu tranh với ngoại bang, vua quan và sĩ phu để giữ gìn căn cước. Cả một cuộc nam tiến vĩ đại kéo dài bảy thế kỷ trong đó những tấm áo nâu đã dắt dìu nhau vào tới Cà Mau. Hơn một trăm năm Trịnh - Nguyễn phân tranh, ba mươi năm tranh hùng Nguyễn Ánh - Tây Sơn ; cuộc xâm lăng của người Pháp và gần một thế kỷ Pháp thuộc mang theo một cuộc đụng độ dữ dội chưa từng có giữa hai thế giới và hai nền văn hóa khác hẳn nhau. Thế rồi cuộc chiến đấu giành độc lập, cuộc can thiệp của Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh Nam - Bắc kéo dài hai mươi năm, những cuộc di tản lịch sử đem người Bắc vào Nam và đem người Việt trải rộng ra khắp thế giới, v.v... Biết bao đổi thay bi hùng tráng lệ, biết bao đau khổ, mừng vui, tình nghĩa, phản trắc. Tất cả những đảo lộn dồn dập đó, nhất là trong hơn bốn thế kỷ gần đây, đã có thể cung cấp đề tài cho những tác phẩm tầm cỡ lớn hơn Chiến Tranh và Hòa Bình, Anh Em Karamazov, Les Hommes de Bonne Volonté, Les Thibault, Gone with the Wind, Grapes of Wrath, A Farewell to Arms...

Chúng ta không sáng tác được vì chúng ta thiếu tầm nhìn và cách nhìn để thấy được cái vĩ đại ngay chung quanh chúng ta. Chúng ta thiếu tư tưởng.

Sự thiếu tư tưởng của chúng ta là quá rõ rệt. Chúng ta không có một đóng góp nào cho tư tưởng thế giới đã đành nhưng chúng ta cũng không nhận thức được về chính mình. Việc du nhập một cách cuồng tín chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, cũng như sự kéo dài dai dẳng của nó, và của lập trường chống cộng, tố giác một cách phũ phàng sự yếu kém về tư tưởng của chúng ta.

Hiện tượng Kim Dung trong thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 mới thực là kỳ quái ! Truyện kiếm hiệp của Kim Dung chỉ có giá trị tương đương với một bộ truyện giải trí nhi đồng, một bộ truyện bằng tranh hay một phim hoạt họa. Nó không dựa trên một sự thực nào, không có một giá trị văn học nào mà cũng không chuyên chở một tư tưởng nào, hay một nhãn quan nào về cuộc sống và thế giới. Nó chỉ khác với các bộ sách kiếm hiệp cổ điển ở chỗ nó tương đối hóa tất cả, pha trộn thiện ác, chính tà. Hình như nó cũng có tham vọng qua các nhân vật và phe phái phản ảnh phần nào thế tranh hùng trên thế giới. Nhưng nó trình bày một cách ngây ngô hời hợt. Và nhất là nó hoàn toàn không có giá trị văn học. Vậy mà cả miền Nam say mê, ngay cả các trí thức được coi là lớn cũng bỏ công nghiên cứu và bàn luận. Tôi cũng có đọc một số truyện nổi tiếng nhất của Kim Dung với mục đích phân tích tâm lý của trí thức miền Nam lúc đó. Thú thực là tôi rất thất vọng, thất vọng về truyện Kim Dung thì ít vì dầu sao nó cũng có giá trị giải trí, nhưng thất vọng lớn về sự thấp kém bi đát của trí thức miền Nam lúc đó.

Thiếu tư tưởng và cảm hứng thì dĩ nhiên ta không thể sáng tạo mà phải đi vay mượn của nước ngoài. Nhưng có những bộ môn nghệ thuật trong đó chúng ta bắt buộc phải sáng tạo, phải có cảm hứng của chính mình, dựa trên những chất liệu quanh mình, chẳng hạn như hội họa, điêu khắc và, ở một mức độ bớt gay gắt hơn, ca múa. Chúng ta yếu trong những bộ môn này là lẽ dĩ nhiên.

Điều đáng buồn là, ngoại trừ thơ văn, những sáng tạo ít ỏi của chúng ta cho đến đầu thế kỷ 20 này, dù là hội họa, kiến trúc, âm nhạc, múa, v.v... đều không do những phần tử sĩ phu mà do dân gian.

Điều cũng đáng buồn là hầu hết những người lỗi lạc nhất của chúng ta, những Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, v.v... đều nhờ đã từng đi sứ hay xuất ngoại và học hỏi được ở nước ngoài. Như thế phải nói ngay rằng nền giáo dục của chúng ta không đào tạo ra được nhân tài.

Cái gì đã giam hãm trí tuệ Việt Nam, không cho nó vượt thoát, sáng tạo và bay bổng ?

Giải thích đầu tiên là do lịch sử nước ta, mà chúng ta đã cùng nhau lược qua trong cuốn sách này. Chúng ta không phải là một dân tộc tự do. Trong hai ngàn năm sau công nguyên, nghĩa là gần như trọn chiều dài lịch sử đích thực của chúng ta, chúng ta đã bị ngoại thuộc hơn một ngàn năm, chúng ta đã phải chịu đựng những cuộc chiến thảm khốc trong phần lớn thời gian còn lại ; ưu tư phải dành cho sự sống còn thay vì cho suy nghĩ và sáng tạo. Các chế độ tự chủ của ta chẳng qua cũng chỉ là những bạo quyền bản xứ. Chúng ta không có tự do. Và một con người không có tự do thì cũng không thể có óc sáng tạo.

Giải thích thứ hai là do địa lý. Nước ta được dựng lên từ châu thổ sông Hồng. Các công trình thủy lợi, đắp đê ngăn nước, đào kênh dẫn nước là chuyện sinh tử của xã hội. Chúng ta cần những chế độ bạo ngược áp đặt những hy sinh tàn nhẫn để chống cự với thiên nhiên cho sự sống sót của tập thể. Đó là số phận nô lệ chung trong quá trình hình thành của mọi dân tộc sống quanh những con sông lớn, với lưu lượng thay đổi đột ngột. Sau hàng ngàn năm bị chà đạp và hành hạ như thế, chúng ta hấp thụ bản chất nô lệ cộng thêm với cuộc sống nông dân cơ cực phải vật lộn với đất để lấy từ đất ra miếng ăn cho từng ngày. Kết quả là chúng không biết nhìn xa và sáng tạo. Cái địa lý đã nuôi ta cũng đồng thời để lại cho chúng ta những tì vết.

Vậy thì để vươn lên chúng ta phải thắng được di sản lịch sử và địa lý đó. Các tiến bộ kỹ thuật đã giải tỏa chúng ta khỏi ách nô lệ của đê điều. Còn lại là di sản tâm lý do quá khứ để lại. Chúng ta cần một quyết tâm sống như những con người tự do và xây dựng đất nước trên tự do, bởi vì chỉ có những con người tự do mới có khả năng sáng tạo.

Lịch sử và địa lý không giải thích tất cả. Còn những yếu tố khác mà chúng ta có lẽ đã chấp nhận do hoàn cảnh lịch sử và địa lý, nhưng với thời gian chúng đã đóng một vai trò còn quan trọng hơn.

 

*********************

 

Thua kém và nguyên nhân

 

 

tqan7

Cuối thế kỷ 19 chúng ta bị người Pháp đánh bại và khuất phục một cách dễ dàng. Thất bại này đầy hổ nhục vì nước Pháp lúc đó cũng đang chao đảo mạnh. Năm 1872 là năm quân Pháp đánh hạ Thăng Long, nghĩa là chỉ hai năm sau khi Pháp đại bại trước quân Đức, hoàng đế Napoléon III, cháu của Napoléon I, thua trận, bị bắt sống và đế quốc thứ hai của Pháp sụp đổ. Những đạo quân viễn chinh của Pháp cũng không có bao nhiêu. Cả hai lần hạ thành Thăng Long họ đều chỉ cần vài trăm quân.

Cuối thế kỷ 20, khi nhiều quốc gia châu Á khác cũng ở một mức độ phát triển tương đương với chúng ta trong thế kỷ trước đã tiến lên mạnh mẽ, sự thua kém của chúng ta so với phương Tây vẫn tiếp tục trầm trọng thêm. Lợi tức bình quân trên mỗi đầu người của ta vào năm 2000 được ước lượng là 300 USD, nghĩa là chỉ xấp xỉ bằng 1/100 của Hoa Kỳ, Nhật và các nước Tây Âu mà thôi. Tóm lại trong hơn một thế kỷ đổi mới tuy chúng ta đã tiến triển khá nhiều, nhưng các nước tiên tiến còn tiến bộ nhanh hơn và khoảng cách giữa họ và chúng ta không hẹp lại mà còn rộng ra, trong khi nhiều nước cũng chậm tiến như chúng ta trước đây đã vươn lên mạnh mẽ.

Tại sao có sự thua kém đó ?

Cần phải gạt đi ngay những câu trả lời quanh co : chúng ta không may mắn, chúng ta bị chiến tranh nhiều quá, các lãnh tụ của chúng ta tồi tàn quá, v.v... Đó không phải là những câu trả lời thực sự. Thế tại sao chúng ta lại gặp toàn những xui xẻo, tại sao lại chiến tranh nhiều quá, tại sao lại chỉ có những người lãnh đạo tồi ? Định mệnh nào khiến chúng ta cứ, như Nguyễn Du nói, tìm toàn những ngả đoạn trường mà đi ?

Khi một quốc gia thua kém mặc dù những điều kiện địa lý không đến nỗi quá bất lợi thì chỉ có thể có hai giải thích, một là con người tồi, hai là văn hóa tồi mà thôi. Nhưng có thực là có hai giải thích không hay chỉ có một ? Tất cả các nhà bác học về nhân chủng, y khoa, tâm lý đều đã đồng ý với nhau về một kết luận : chỉ có một giống người trên thế giới này mà thôi và mọi dân tộc đều có những khả năng như nhau hay ít ra gần như nhau. Chỉ có những phần tử cực đoan và kỳ thị, thường thường vô học, mới phủ nhận kết luận này. Với thời gian càng ngày nó càng được xác nhận.

Có thể vẫn có những người hồ nghi về sự bình đẳng khả năng trí tuệ thực sự giữa những con người, coi đó là một xác quyết có tính cách triết học và nguyên tắc hơn là một sự kiện khoa học và khách quan, nhưng cho tới nay họ chưa đưa ra được một lập luận giá trị nào.

Nhưng ngay cả nếu chúng ta chấp nhận để tạm không bàn cãi về sự hồ nghi đó thì vấn đề vẫn không đặt ra đối với người Việt Nam. Người Việt Nam qua tiếp xúc với văn hóa, khoa học và kỹ thuật phương Tây đã chứng tỏ khả năng hấp thụ nhanh chóng bất cứ một kiến thức nào. Hơn hai triệu người Việt hải ngoại, sau một thời gian thích nghi rất ngắn ngủi, đã đạt được một mức sống và một trình độ gần tương đương với dân tộc các nước tiếp cư. Con người Việt Nam không tồi.

Nguyên nhân của sự thua kém bi đát hiện nay như vậy chỉ là vì văn hóa của chúng ta quá tồi mà thôi. Vậy chúng ta phải thay đổi văn hóa nếu muốn vươn lên.

Mà văn hóa là gì ? Đó lại là cả một câu hỏi phức tạp có thể tranh cãi vô cùng tận. Nhưng trong sự suy nghĩ để đi tìm tiến bộ chung, chúng ta có thể tạm chấp nhận một định nghĩa thu hẹp : văn hóa của một dân tộc là toàn bộ những nhận thức và những giá trị đã tạo ra cho dân tộc đó một cách suy nghĩ và hành động, một cách tiếp cận và ứng xử với môi trường chung quanh.

Đến đây cần nhấn mạnh, và nhấn thực mạnh, một điều. Đó là nếu quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy tất cả mọi giá trị, tốt cũng như xấu, đều hiện diện trong mọi nền văn minh, hay cũng như dở. Điều khác biệt là tầm quan trọng tương đối của các giá trị trong mỗi nền văn hóa. Các nền văn hóa khác nhau không phải vì chúng chứa đựng những giá trị khác nhau mà vì chúng dành cho các giá trị những trọng lượng khác nhau. Và sự khác biệt này có thể đưa đến những hậu quả cực kỳ lớn. Con sên cũng chuyển động, con ngựa cũng chuyển động, nhưng hai con vật này không chuyển động với cùng một vận tốc. Như vậy, trong cuộc thảo luận về văn hóa, chúng ta đừng nên mất thì giờ để biện luận Khổng Giáo cũng có cái này, Công Giáo cũng có cái kia, Phật Giáo cũng có cái nọ, v.v... Khi chúng ta nói cần thay đổi văn hóa (hay cần làm một cuộc cách mạnh văn hóa) là chúng ta muốn nói cần thay đổi trọng lượng tương đối của các giá trị dựa trên kinh nghiệm của những dân tộc tiến bộ chứ không phải là cần nhập cảng giá trị này, loại bỏ giá trị kia.

Không phải là một tình cờ mà Việt Nam và Trung Quốc có thân phận gần giống nhau. Cả hai nước đều chịu những thảm kịch lớn, đều vướng mắc với một chủ nghĩa đã bị đào thải, đều thua kém bi đát trong khi những người dân của cả hai nước lập nghiệp tại nước ngoài đều khá thành công. Cũng không phải là một sự tình cờ mà Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn luôn lẽo đẽo chạy theo Đảng Cộng Sản Trung Quốc như các vua chúa nhà Nguyễn lẽo đẽo chạy theo triều Thanh. Cùng một văn hóa đưa tới cùng một cách suy nghĩ và hành động, và cuối cùng đưa tới những chọn lựa giống nhau. Việt Nam cùng một văn hóa với Trung Quốc, nghĩa là cùng đề cao một số giá trị và cùng xem thường một số giá trị khác, bởi vì đã bị lệ thuộc Trung Quốc trong hơn một ngàn năm và đã cố gắng rập khuôn theo Trung Quốc trong gần một ngàn năm sau đó.

Ngày nay, trước hoàn cảnh bi đát của đất nước, nhiều người đã thao thức đặt vấn đề làm thế nào để đưa đất nước đi lên. Đại đa số những phát biểu này thuộc hai loại.

Loại thứ nhất phân tích những sai lầm hoặc tố giác những dã tâm trong quá khứ đã đưa đến tình trạng hiện nay.

Loại thứ hai quay lưng lại với quá khứ và hướng về tương lai, gồm những đề nghị về kế hoạch và kinh tế, đôi khi dựa trên những thống kê được sưu tập khá công phu.

Tôi cho cả hai cách tiếp cận này đều không đúng. Nếu vẫn giữ nguyên một văn hóa cũ thì dù không làm sai lầm này người ta cũng sẽ làm sai lầm khác. Còn các kế hoạch kinh tế tài chánh thì tôi hoàn toàn dị ứng. Không phải vì ta thực hiện kế hoạch kinh tế này thay vì kế hoạch kinh tế khác mà đất nước ta sẽ khá hơn. Những "chuyên gia" nghĩ như vậy không hiểu gì về kinh tế và tạo ra cho người khác những ảo tưởng sai lầm. Họ không đóng góp mà còn đánh lạc hướng những suy tư khỏi nguyên nhân chính của mọi đau khổ của chúng ta hiện nay.

Chúng ta đã như ngày nay bởi vì chúng ta đã có một văn hóa tồi tệ. Chúng ta chỉ vươn lên được nếu ý thức được rằng văn hóa của ta tồi, cần phải thay thế bằng một văn hóa khác. Ngay cả nếu chỉ giới hạn trong phát triển kinh tế mà thôi thì cũng cần ý thức rằng phát triển kinh tế chủ yếu vẫn chỉ là một vấn đề tâm lý và văn hóa.

 

***************

Khổng Giáo và Khổng Tử

 

 

tqan0

Đọc xong những dòng trước độc giả đã có thể đoán là tôi sắp đặt vấn đề Nho Giáo. Văn hóa truyền thống của ta là văn hóa Nho Giáo. Nói rằng văn hóa của ta cần được xét lại có nghĩa là chúng ta phải nhận định lại Nho Giáo.

Nhiều độc giả có Tây học, nhất là những độc giả trẻ, có thể sẽ phản ứng : tại sao lại cần đặt vấn đề Nho Giáo ? Văn hóa của chúng ta ngày nay đâu còn là văn hóa Nho Giáo nữa, người Việt Nam đã thôi học chữ nho và tư tưởng Nho Giáo từ gần một thế kỷ nay rồi. Tôi có biết Tứ Thư, Ngũ Kinh là gì đâu ? v.v... Xin các bạn bình tĩnh. Văn hóa của chúng ta vẫn là văn hóa Nho Giáo. Từ giã một nền văn hóa không dễ đâu ; nó đòi hỏi một cố gắng tàn bạo đối với chính mình, điều mà cho tới nay chúng ta vẫn từ chối không làm. Kiến thức của chúng ta có thể đã đổi mới rất nhiều nhưng văn hóa không phải chỉ là kiến thức. Và văn hóa của chúng ta chưa thay đổi bao nhiêu. Một nếp sống mà chúng ta đã theo trong mấy ngàn năm không dễ gì chúng ta có thể đoạn tuyệt trong vòng một thế kỷ, nhất là trong suốt thế kỷ đó chúng ta lại rất ít đặt vấn đề triết lý và tâm lý. Chúng ta vẫn giữ hồn tính cũ và nói chung chỉ tiếp thu những hiểu biết mới một cách thực dụng, để sử dụng chúng với tâm lý có sẵn, nghĩa là tâm lý Nho Giáo. Đó là nói về những người có học thức, còn đối với đại đa số quần chúng thì tâm lý Nho Giáo lại còn tồn tại mạnh hơn.

Văn hóa và tâm lý chủ yếu nằm trong nếp sống, và một nếp sống có cách lưu truyền riêng của nó, qua sinh hoạt gia đình, qua hành động, cử chỉ, thái độ và những cái nhìn của cha mẹ và người chung quanh, qua những gương anh hùng, liệt sĩ, vĩ nhân mà chúng ta tiếp thu tại học đường, qua những chuyện bà kể cho cháu, cô giáo kể cho học trò ở ngay đầu đời. Văn hóa là toàn bộ những ý niệm và giá trị mà chúng ta đã được giáo dục để coi là đúng và do đó quyết định cách suy nghĩ, hành động và ứng xử của chúng ta. Kiến thức chỉ là bề mặt của văn hóa, là những dụng cụ để thể hiện một văn hóa. Văn hóa không đến với chúng ta bằng lý trí để chúng ta có thể biện luận, chọn lọc và phản bác. Nó đến một cách kín đáo và vô tình ; nó nằm trong vô thức của chúng ta, nó xâm nhập tâm hồn chúng ta, trở thành bản năng của chúng ta. Nó khống chế và chỉ huy chúng ta mà chúng ta không ý thức được nên càng khó cưỡng lại. Nó là một phần của chính chúng ta nên chúng ta chỉ có thể xét lại nó nếu dám ra khỏi mình để chống lại chính mình. Do đó văn hóa và tâm lý có sức sống cực kỳ dai dẳng. Chúng ta vẫn tiếp tục được đào tạo theo Nho Giáo ngay cả nếu chúng ta không ý thức được như vậy. Nho Giáo vẫn còn hiện diện rất mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam và trong con người Việt Nam. Bởi vậy chúng ta phải tìm hiểu nó để biết chúng ta là ai.

Nho Giáo thường được gọi là Khổng Giáo. Mặc dầu cách gọi này không đúng nhưng với thời gian nó đã thành chính thức. Từ khi có trao đổi giữa phương Đông và phương Tây thì danh xưng Khổng Giáo đã thay thế hẳn danh xưng Nho Giáo, vì người phương Tây chỉ biết đến danh xưng Khổng Giáo [Confucianism] mà thôi.

Trước khi bàn về Khổng Giáo cần đặt ra ngoài vòng trách nhiệm một nhân vật : ông Khổng Khâu. Ông này thường được gọi một cách tôn kính là Khổng Phu Tử hay Khổng Tử. Người Á Đông, nhất là người Trung Quốc và người Việt Nam, gọi ông là "Đức Khổng", coi ông như một vị thánh, thánh tổ của một tôn giáo. Không thiếu những tác phẩm nói đến "Đạo Khổng".

Khổng Khâu sinh năm 551 trước Tây lịch và mất năm 479 trước Tây lịch, nghĩa là ngay chính giữa một thời đại dài 500 năm (722-221 trước Tây lịch) mà lịch sử gọi là thời Xuân Thu Chiến Quốc. Lúc đó Trung Quốc đã có gần bốn ngàn năm lịch sử rồi. Theo sử Trung Quốc thì vị vua đầu tiên là Phục Hi (4480-4365 trước Tây lịch) đã đặt ra tám quẻ bói toán để dò ý trời đất, quỉ thần. Niên đại có thể không được chính xác, nhưng sự kiện này chứng tỏ rằng ngay từ một thời đại rất xa xưa, khi hầu như cả nhân loại còn rất bán khai thì xã hội Trung Quốc đã tiến hóa đến mức những băn khoăn siêu hình đã xuất hiện. Từ quá trình lịch sử rất dài đó đã hình thành một sinh hoạt văn hóa và chính trị có nền nếp : Nho Giáo.

Thời đại của Khổng Tử là thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng là thời nhà Chu, một triều đại kéo dài hơn 900 năm, từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 3 trước Tây lịch. Nửa đầu nhà Chu rất ổn định, nhưng từ nửa sau thế lực của chính quyền trung ương suy yếu đi, đến độ phải dời đô về phương Đông để tránh giặc. Các nước chư hầu không còn thuần phục trung ương nữa, mặc sức tranh giành và thôn tính lẫn nhau. Khổng Tử sinh sống trong nửa sau này. Lúc đó Nho Giáo đã thành hình từ rất lâu rồi.

Nho Giáo là một hệ thống giáo dục và đào tạo những người phục vụ cho các vua chúa, vua nhà Chu cũng như các vua chư hầu. Chữ "Nho" trong tiếng Trung Quốc gồm một chữ "Nhân", có nghĩa là người, bên cạnh một chữ "Nhu", có nghĩa là cần thiết. Như vậy "nho" có nghĩa là người cần thiết để giúp các vua chúa trị nước. Cần hiểu rõ như vậy để đừng ngộ nhận coi Nho Giáo là một triết lý. Nho Giáo chỉ là sự giảng dạy những đức tính và kiến thức phải có để được chọn ra làm quan ; nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó là một chương trình đào tạo công chức.

Không phải ai theo học đạo Nho cũng đều được làm quan. Vào thời nhà Chu và trước đó, những người được chọn để ra làm quan được gọi là "sĩ" và được đặt dưới quyền quản lý của một quan tư đồ ; họ được huấn luyện sáu nghề : lễ (các nghi thức), nhạc, xạ (võ và bắn cung), ngự (điều khiển xe, ngựa), thư (ghi chép tài liệu) và số (bói toán). Nếu lấy hình ảnh thời nay thì sĩ là những học viên của một trường quốc gia hành chính, với một khác biệt căn bản là các học viên tốt nghiệp không phục vụ một quốc gia mà làm đầy tớ cho một người chủ.

Xã hội Trung Quốc từ ngày lập quốc đến rất lâu sau khi Khổng Tử ra đời và mất đi, cần nhấn mạnh là rất lâu sau khi Khổng Tử mất, được chia làm ba giai cấp vương hầu, quân tử và tiểu nhân. Sự phân chia này thuần túy dựa vào chỗ đứng trong xã hội chứ không mang một nội dung đạo đức nào. Vương hầu là những quí tộc giàu có, có đất đai và nông nô. Tiểu nhân, còn gọi là dân, là những nông nô bần cùng sống dưới sự thống trị của giai cấp quí tộc, dĩ nhiên giai cấp tiểu nhân chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội. Quân tử là giai cấp trung gian giúp giai cấp quí tộc thống trị giai cấp tiểu nhân.

Phần lớn nhân sinh quan của Khổng Khâu được ghi chép lại trong sách Luận Ngữ. Khổng Khâu làm công việc đào tạo ra các quân tử, ông vạch ra một người quân tử kiểu mẫu. Thường thường những lời giáo huấn của Khổng Khâu có hai vế : "Người quân tử thì..., còn kẻ tiểu nhân thì...". Khổng Tử không tiết kiệm lời đề cao người quân tử và cũng không tiếc lời mạt sát đám tiểu nhân. Ông đứng hẳn về phía các vua chúa. Trong lịch sử Trung Hoa và thế giới chưa có ai có thái độ khinh bỉ đối với quần chúng bằng ông.

Điều rất đáng ngạc nhiên là tuyệt đại đa số những người bàn luận về Khổng Giáo không hiểu ý nghĩa của những từ ngữ "quân tử" và "tiểu nhân" ở vào thời đại của Khổng Khâu (và rất lâu sau khi ông đã qua đời) nên họ thường hay coi sĩ và quân tử là những giá trị tinh thần, biểu tượng của một nhân cách, một đạo đức và họ hay đồng hóa sĩ và quân tử với sự cao thượng. Thực ra "nho" chỉ là những người học để ra làm quan, "sĩ" là những nho được tuyển chọn để được huấn luyện thành quan, "quân tử" là một giai cấp, giai cấp của kẻ sĩ, những kẻ làm tay sai cho các vua chúa để thống trị quần chúng. Còn "tiểu nhân" chỉ có nghĩa là quần chúng mà thôi. Có thể với thời gian ý nghĩa của những danh từ tiểu nhân, quân tử đã biến đổi, nhưng ở vào thời đại của Khổng Khâu và rất lâu sau khi ông đã qua đời, đó chỉ là những thành phần xã hội.

Giai cấp quân tử, hay sĩ, do đâu mà có ? Đó có thể là những người trong giai cấp tiểu nhân may mắn được các vua chúa tin dùng, nâng đỡ rồi nhờ chức vụ mà đạt tới sự hiểu biết hơn quần chúng. Đó cũng có thể là những quí tộc sa sút, hay những người thua trận được kẻ chiến thắng dùng làm tay chân.

Khổng Tử là một sĩ. Ông là con của một vị quan nhỏ nước Lỗ tên là Thúc Lương Ngột. Năm 19 tuổi ông được bổ nhiệm vào chức vụ một quan thu thuế, rồi sau đó được cử trông coi đàn súc vật dùng vào việc cúng tế. Vào thời đại đó, cúng tế trời đất quỉ thần là một việc quan trọng hàng đầu. Theo sử sách thì Khổng Tử say mê việc cúng tế ngay từ hồi còn thơ ấu cho nên thạo việc cúng tế rất sớm ; ngay khi ông còn trẻ đã có những gia đình gởi con theo ông học nghề cúng. Như vậy nghề chính của Khổng Tử là nghề thầy cúng. Hai nghề thu thuế và thầy cúng đã có ảnh hưởng quyết định lên cá tính của ông. Trong suốt cuộc đời, Khổng Khâu rất trọng sự chính xác và các nghi thức, ông tin vào những sự huyền bí mà không bao giờ thắc mắc. Vì xuất sắc trong cúng tế, Khổng Khâu được vua nước Lỗ gởi về kinh đô nhà Chu để học hỏi thêm về lễ nghi. Nhờ cuộc du học đó mà ông rất được kính trọng khi trở về nước Lỗ. Cần nhấn mạnh là vào thời đó cúng là việc quan trọng nhất. Các triều đình có hai loại quan, loại quan Chúc lo việc cúng tế và loại quan Sử lo việc thường ngày ; nhưng quan Chúc cao hơn quan Sử vì cúng tế được coi là cao nhất. Tuy vậy, vua nước Lỗ vẫn không tin dùng ông. Mãi tới năm 51 tuổi, một tuổi rất cao vào thời đó, Khổng Tử mới được bổ nhiệm vào chức Trung Đô Tể và sau đó thăng dần tới chức tướng quốc, chức vụ đứng đầu các quan. Theo sách sử thì ông trị nước rất nghiêm minh và đã đem lại ổn định và phồn thịnh cho nước Lỗ. Nhưng chỉ một năm sau khi nhận chức tướng quốc, ông từ chức vì một lý do rất nhỏ mọn : vua nước Lỗ đã không chia phần thịt cho ông trong buổi tế Giao. Từ đó ông bắt đầu một cuộc hành trình vất vả dài 11 năm qua nhiều nước để xin làm quan, nhưng ông không được vua nào dùng cả. Khi ông chán nản trở về nước Lỗ thì đã 68 tuổi, ông bỏ mộng làm quan và tập trung cố gắng để viết sách.

Trong việc biên soạn sách, Khổng Khâu hoàn toàn không sáng tác gì cả mà chỉ ghi chép những gì đã có sẵn. Ông nói : "Ta chỉ thuật lại mà không sáng tác, ta tin và thích những gì của đời xưa" [thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ]. Đó không phải là một câu nói khiêm tốn như ta có thể nghĩ mà là cả một tôn chỉ của Khổng Khâu. Ông coi những triết lý và hiểu biết của người xưa là đầy đủ và hoàn chỉnh, đời sau cứ thế mà theo không được sửa đổi, thêm bớt gì cả.

Khổng Khâu chép lại năm cuốn sách được gọi là "Ngũ Kinh" : Kinh Dịch (bói toán), Kinh Thư (văn từ của các vua quan), Kinh Thi (các bài thơ và các bài hát), Kinh Lễ (các nghi thức về cúng tế và hội họp trong triều đình) và Kinh Nhạc. Ngoài ra Khổng Khâu còn soạn ra bộ sách Xuân Thu, cũng được gọi là kinh, chủ yếu kể chuyện về các vua chúa nước Lỗ. Các cuốn kinh này đều đã bị thất lạc. Đến khi nhà Hán trọng nho học mới cho tìm lại nhưng không được bao nhiêu. Các đệ tử hậu bối của Khổng Tử thêm bớt vào rất nhiều, tạo thành năm cuốn sách gọi là Ngũ Kinh : Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Thi Kinh Xuân Thu. Riêng Kinh Nhạc chỉ còn lại một chương được cho vào Kinh Lễ.

Các nho sĩ đời sau còn viết ra bốn cuốn sách khác là Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử. Bốn cuốn sách này, được gọi chung là Tứ Thư. Đại Học (do người học trò của Khổng Tử là Tăng Tử viết) và Trung Dung (do người học trò của Tăng Tử là Khổng Cấp viết) thật ra chỉ là một số chương đã có trong Kinh Lễ. Luận Ngữ (do Tăng Tử và các môn đệ soạn) ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử ; Mạnh Tử là cuốn sách do Mạnh Tử, tên thật là Mạnh Kha, sinh ra hơn một trăm năm sau ngày Khổng Tử mất, và các môn đệ của ông, chép lại những lời nói của Mạnh Tử.

Tứ Thư Ngũ Kinh được coi như những cuốn sách căn bản của Nho Giáo, trong đó Luận Ngữ quan trọng hơn cả.

Khổng Giáo, hay đúng hơn là Nho Giáo, đã được nhiều đóng góp của nhiều nho sĩ qua nhiều thời đại. Trong những nho sĩ này, người nổi tiếng nhất là Mạnh Tử ; tên Mạnh Tử được ghép liền với Khổng Tử, Khổng Giáo vì thế còn được gọi là đạo Khổng Mạnh. Sau Mạnh Tử khoảng nửa thế kỷ còn một nho sĩ rất xuất sắc khác là Tuân Tử. Tuân Tử vừa có khả năng lý luận xuất chúng lại vừa có óc phê phán, ông bài bác tinh thần thủ cựu của những người đi trước, đả phá sự mê tín vào thần linh, đề cao vai trò của giáo dục. Tuân Tử rất phóng khoáng, đi rất sâu vào tâm lý con người và phân tích khá cặn kẽ về sự hiểu biết. Ông là một triết gia thực sự và lẽ ra đã phải mở đường cho Nho Giáo đổi mới và tiến lên. Tiếc rằng ông bị cả một khối nho sĩ đông đảo chê bai, các vua chúa dĩ nhiên cũng không chấp nhận sự phóng khoáng của ông nên Tuân Tử không được coi là thánh hiền và tư tưởng của ông không được đề cao.

Sau thời Đông Chu Liệt Quốc, những đóng góp quan trọng nhất cho Nho Giáo là của Đổng Trọng Thư và Dương Hùng dưới thời nhà Hán (202-220 trước Tây lịch) ; Vương Thông vào thời nhà Tùy (581-618), Hàn Dũ vào thời nhà Đường (618-906) ; Vương An Thạch, Chu Đôn Di, Trương Tái, Trình Hạo, Chu Di vào thời nhà Tống (960-1280) ; Vương Dương Minh đời nhà Minh (1368-1648). Những đóng góp đó đã khiến các học giả bối rối khi bàn về Nho Giáo và thường đặt câu hỏi "Nho Giáo nào ? Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho hay Minh Nho ?". Tuy nhiên, các thay đổi này chỉ là những thay đổi về cách diễn đạt và áp dụng mà không thay đổi bản chất và tinh thần của Nho Giáo. Nho Giáo vẫn là một hệ thống ý thức tôn trọng chế độ quân chủ cực quyền, bảo thủ và bất dung.

Đối với Nho Giáo, Khổng Tử không sáng tác gì cả. Đóng góp của ông không đáng kể so với Mạnh Tử và cũng kém hẳn các danh nho sau này. Ông đã chỉ chép lại các sách cũ và hơn nữa các sách của ông đều đã thất lạc. Như vậy khi phê phán tư tưởng Khổng Giáo, dù để bênh vực hay lên án, dù để khen hay chê, cần phải tách rời nó khỏi nhân vật Khổng Khâu. Về mặt tư tưởng, nên nhấn mạnh là về mặt tư tưởng, ông là một người vô can.

 

******************

Sự nghiệp và nhân cách của Khổng Tử

 

 

tqan9

Khổng Tử tuy không có đóng góp quan trọng nào về mặt tư tưởng nhưng lại có ảnh hưởng lớn trên sự phát triển của Nho Giáo, vì thế mà người ta đã gọi Nho Giáo là Khổng Giáo. Một cách gián tiếp Khổng Tử đã góp phần quyết định làm cho tư tưởng Nho Giáo bế tắc và không đổi mới được với thời gian. Đến lượt nó, Nho Giáo đã khiến các xã hội Á Đông thuộc văn hóa Trung Hoa dẫm chân tại chỗ trong hơn hai ngàn năm.

Tôi có viết một bài báo phê phán Khổng Giáo và đã nhận được một số phản ứng, tán thành có mà phản đối cũng có. Các vị phản đối thường trách tôi một điều là đem ý thức thời nay để phê phán người xưa, nghĩa là đặt lầm bối cảnh. Thực ra chính các vị này lầm lẫn lớn về thời gian, họ đem bối cảnh tâm lý và xã hội của thế kỷ 19 để bàn luận về Khổng Tử.

Dù vai trò thực sự của ông thế nào, Khổng Tử đã được coi là vị thánh, một vị thầy của muôn đời [vạn thế sư biểu] ; cung cách của ông và những lời ông nói được lấy làm mẫu mực lập thân cho nhiều dân tộc Á Đông, trong đó có Việt Nam, nên chúng ta cần hiểu ông.

Trước hết là đóng góp của ông đối với Nho Giáo. Đóng góp này rất lớn, Khổng Tử là người đầu tiên ghi chép lại một cách công phu và toàn bộ những kiến thức của Nho Giáo. Nhờ ông mà người đương thời có được một cái nhìn tổng quát về Nho Giáo và có thể học hỏi Nho Giáo một cách dễ dàng hơn hẳn lúc trước. Tuy vậy ông không đóng góp gì cho tư tưởng Nho Giáo, đồng hóa ông với Nho Giáo cũng sai lầm như coi một giáo sư toán có công biên soạn một số sách giáo khoa toán là một nhà toán học.

Tại sao Khổng Tử lại được tôn vinh như một vị thánh ? Không phải đợi đến khi Hán Cao Tổ (tức Lưu Bang) sang nước Lỗ lễ mộ Khổng Tử, hay Hán Vũ Đế đưa Nho Giáo lên làm quốc giáo Khổng Tử mới được tôn vinh. Trước đó đã có vô số sĩ tử sùng bái Khổng Tử. Phải hình dung bối cảnh thời đó mới hiểu được sự sùng bái Khổng Tử và đóng góp to lớn cho xã hội của ông.

Khổng Tử lưu lạc khắp nơi, không được vua chúa nào dùng phải quay về cố hương là nước Lỗ để mở trường dạy học. Nhờ uy tín, Khổng Tử đã mở được trường tư đầu tiên tại Trung Quốc và đó là biến cố vô cùng quan trọng. Trước đó việc đào tạo kẻ sĩ là của triều đình và chỉ có những người được chọn làm sĩ mới được huấn luyện để ra làm quan mà thôi, nhưng làm thế nào để có thể trở thành sĩ nếu không phải đã sẵn là con quan như chính Khổng Tử ? Đám tiểu nhân, hay quần chúng, không có phương tiện nào để tiến thân cả, trừ ra những cơ hội cực kỳ may mắn được các vua chúa đoái hoài tới. Chính nhờ Khổng Tử mà quần chúng có được một phương tiện để thăng tiến qua giáo dục. Đây là một cuộc cách mạng văn hóa lớn, thay đổi hẳn tương quan xã hội, tạo ra một quan hệ lưu thông giữa hai giai cấp quân tử và tiểu nhân. Ở vào thời đại của Khổng Tử, số phận đám tiểu nhân chỉ là sự đày đọa mà thôi. Khổng Tử đã tạo ra gần ba ngàn môn đồ, giúp họ ra khỏi sự đày đọa đó, họ mang ơn ông và thờ ông là lẽ tự nhiên. Đến lượt họ cũng mở trường dạy học và cũng truyền bá sự tôn thờ sư tổ của mình, vì thế mà Khổng Tử trở thành sư tổ của mọi nho sĩ. Cũng cần nhận định rằng chỉ sau khi Khổng Tử mở trường nho và sĩ mới đồng nhất. Trước ông nho là những người học, sĩ là những nho được chọn để được huấn luyện. Từ Khổng Tử trở đi ai muốn học cũng được và cũng có thể được bổ nhiệm ra làm quan. Khổng Tử đã sát nhập được hai thành phần nho và sĩ và, cần nhắc lại một lần nữa công lao to lớn này của Khổng Tử, ông cũng đã giảm bớt sự ngăn cách khe khắt giữa hai giai cấp quân tử và tiểu nhân. Sự nghiệp lớn nhất của Khổng Tử như vậy là về mặt xã hội. Ông đã góp phần quan trọng làm thay đổi sinh hoạt chính trị Trung Quốc.

Nhưng phải nói, đây là một đóng góp rất vô tình, Khổng Tử không hề muốn xóa bỏ sự ngăn cách giữa hai giai cấp quân tử và tiểu nhân. Trong những lời giáo huấn học trò, ông phân biệt rõ quân tử và tiểu nhân, như cái đúng và cái sai, như ánh sáng và bóng tối, sự cao thượng và sự hèn hạ, cái đẹp và cái xấu. Tiểu nhân dưới mắt Khổng Tử là hạng người không đáng được bất cứ một quan tâm nào, hay bất cứ một sự nể nang nào. Ông từng nói : "Hình phạt không được dùng cho quan lớn, lễ nghi không được dùng đối với đám thứ dân" [hình bất thướng đại phu, lễ bất há thứ dân]. Khổng Tử đã đóng góp khai phóng quần chúng khi tạo ra trường tư, nhưng đó là điều hoàn toàn ngoài ý muốn của ông.

Một cách tương tự ta cũng có thể so sánh công trạng vô tình của Khổng Tử với một số sự kiện tích cực mà đảng cộng sản vô tình tạo ra. Họ khắc nghiệt quá khiến hàng triệu người bỏ trốn ra nước ngoài, nhờ đó mà Việt Nam có một cộng đồng hải ngoại đáng kể từ sau ngày 30-4-1975. Đây là một sự kiện rất quan trọng và rất có lợi cho Việt Nam, nhưng không phải do đảng cộng sản chủ ý tạo ra, trái lại họ đã hết sức cấm cản mà không được.

Đảng cộng sản cực lực bài xích và cấm đoán thương mại, nhưng những khó khăn mà chính sách của họ tạo ra sau ngày 30/4/1975 đã buộc mọi người phải xoay sở để sống, kết quả là hầu hết mọi gia đình Việt Nam đều phải buôn bán một cái gì đó. Người Việt Nam vì thế đã bỏ được phần nào tâm lý làm công ăn lương và chuyển sang tâm lý buôn bán kinh doanh. Đây cũng là một chuyển biến tâm lý rất đáng mừng nhưng không do chủ ý.

Khổng Tử xuất thân là một quan lại thu thuế và một thầy cúng. Cả hai nghề này đều tập cho ông thói quen câu nệ thủ tục và hình thức. Nhất là nghề cúng tế mà không những chỉ hành nghề Khổng Tử còn say mê từ hồi thơ ấu. Suốt đời Khổng Tử không thay đổi, từ cách ăn, cách mặc, cách đi đứng, cách cư xử, lúc nào ông cũng câu nệ và qui ước. Sách Luận Ngữ mô tả khá rõ rệt về ông : đồ ăn phải nấu thật chín, món ăn phải đúng mùa, phân lượng rau và thịt không thay đổi, chỉ có rượu là ông uống không đo lường, dù không khi nào say, đi dự tiệc thì kính cẩn đứng lên khi đồ ăn được đem ra, nhưng khi nhận quà tặng của bằng hữu thì chỉ nghiêng mình chào nếu là quà để dùng cho cúng tế ; về y phục thì từ chối một số màu sắc, quần áo mùa đông và mùa hè có kiểu riêng, lễ phục thì cánh tay mặt phải dài hơn cánh tay trái, quần áo ngủ phải dài hơn quần áo ban ngày nửa thước ; nằm nghiêng, không nói lúc nằm, không ngồi trên một chiếc chiếu trải không ngay ngắn, ngồi trên xe thì ngồi thẳng không nhìn về đàng sau ; không nói nhanh và không dùng ngón tay để chỉ một vật gì. Trong triều đình cung cách của Khổng Tử thay đổi tùy người. Đối với các quan cấp dưới thì cứng cỏi, đối với các quan cấp cao thì uyển chuyển. Khi đưa khách vào yết kiến thì tỏ thái độ bối rối, rồi chắp tay và quay sang khách sau đó dang tay mà giới thiệu với vua. Sau buổi yết kiến khi khách ra về thì hô lên : "Khách không quay lại nữa". Khi đi sứ gặp vua nước khác thì tỏ vẻ ân cần, kinh sợ. Tóm lại, tất cả đều theo một nghi thức được qui định một cách rất chi tiết từ trước. Đó là chân dung của một con người cực kỳ qui ước, hoàn toàn không tùy cơ ứng biến và không sáng tạo.

Khổng Tử được coi là một người có đức lớn. Chữ "đức" vào thời đại đó phải được hiểu là làm đúng nghi lễ chứ không phải là có lòng tốt. Không thấy có sách nào ghi chép Khổng Tử giúp đỡ người nghèo khổ hay gặp khó khăn, hoạn nạn. Tuy vậy ông dạy học trò nên cư xử trung thực, giữ tín nghĩa với bằng hữu, phải phụng dưỡng cha mẹ, giúp người già sống yên ổn, yêu trẻ thơ. Tất cả những đức tính đó đều đáng quí cả nhưng cũng chỉ là những đức tính thông thường đã được nhìn nhận từ lâu. Khổng Tử đã sống và truyền bá một cuộc sống lương thiện theo tiêu chuẩn lúc đó, ông là một người đứng đắn, nhưng bảo rằng ông có đức lớn thì không đúng. Ông không có lòng thương bao la với cả nhân loại, hay ước vọng cứu đời, cứu người như Phật Thích Ca, Giê-su Ki-tô, Gandhi hay Mẹ Teresa. Hay như hàng ngàn hàng triệu người khác qua các thời đại lặn lội vào chốn sỏi đá, rừng sâu đem sự giúp đỡ và niềm an ủi tới cho những người xấu số. Hay như bao người trên khắp thế giới trong thời nay chịu giam cầm tù tội để tranh đấu cho quyền làm người. Khổng Tử là một nhà giáo đứng đắn và có tài, thế thôi. Vì ông đã có công giáo dục nhiều đệ tử, giúp họ ra khỏi số phận hẩm hiu nên họ biết ơn và tôn kính ông. Vì chủ nghĩa thủ cựu và tôn quân của ông có lợi cho các chế độ quân chủ mà các vua chúa về sau đã tôn ông lên làm thánh để làm mẫu mực cho mọi người, nhưng đó chỉ là vì một mục đích chính trị.

Khổng Tử có thực sự là một người có lòng nhân đạo không ? Chắc chắn là không. Ông mạt sát những người thứ dân khốn khổ một cách thô bạo. Kẻ tiểu nhân đối với ông chỉ là đối tượng để khinh bỉ và chà đạp mặc dầu họ không có tội gì ngoài tội đã không may sinh ra vào giai cấp cùng khổ. Nhiều người biện hộ cho Khổng Tử, nói rằng "quân tử" và "tiểu nhân" là những giá trị đạo đức. Nói như vậy là đem bối cảnh thế kỷ 19 để áp đặt vào thời đại Xuân Thu Chiến Quốc của Khổng Tử và hoàn toàn sai. Như đã nói, vào giai đoạn đó "quân tử" và "tiểu nhân" chỉ là hai thành phần xã hội phân chia theo tương quan quyền lực và kinh tế mà thôi. Chính bản thân Khổng Tử không coi quân tử và tiểu nhân là những tiêu chuẩn đạo đức. Ông từng nói trong Luận Ngữ : "Người quân tử mà có đạo thì yêu người, đứa tiểu nhân mà có đạo thì dễ sai" [quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc dị sử giả] hoặc "quân tử có dũng mà không có nghĩa thì làm loạn, tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa thì đi ăn trộm" [quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa vi đạo]. Sau này chính nhờ những "giáo huấn" của Khổng Tử mà quân tử được coi là đồng nghĩa với sự cao thượng và tiểu nhân được coi là đồng nghĩa với sự hèn hạ. Đó chẳng qua chỉ là sự xấc xược miệt thị những người yếu kém, cũng như sau này người cộng sản thóa mạ những người không đồng chính kiến với họ là phản động, phản quốc, v.v... Điều khác giữa cộng sản và Khổng Giáo là đảng cộng sản đã miệt thị những đối thủ tranh giành quyền lực với họ, trong khi Khổng Tử và các nho sĩ đã miệt thị những người cùng khổ không hề và cũng không dám chống lại họ. Đó chỉ là một sự tàn nhẫn thuần túy.

Còn một điểm khác chưa thấy học giả nào đặt ra khi bàn về lòng nhân của Khổng Tử. Ông là một chuyên viên cao cấp về cúng tế và rất say mê cúng tế, sử chép rằng hễ chỗ nào có tế lễ là đi xem rất chăm chú. Chắc chắn là chính ông cũng cử hành nhiều buổi tang lễ cho các vua chúa và các nhà quyền quí. Vào thời đó có tục chôn sống người trong các đám tang quí tộc để đưa đi hầu hạ người chết trong thế giới bên kia. Mãi đến đời Tần Thủy Hoàng (thống nhất và làm hoàng đế Trung Hoa năm 221 đến năm 210 trước Tây lịch) tục lệ dã man ấy mới bị cấm. Chắc chắn là Khổng Tử đã chứng kiến nhiều vụ chôn sống người và chính ông đã cử hành nhiều buổi lễ như vậy, nhưng Khổng Tử không những không xúc động mà còn cho rằng nghi lễ của người xưa để lại là hoàn toàn đúng không có gì cần sửa đổi. Về điểm này Tần Thủy Hoàng còn nhân đạo hơn ông.

Tài trí của Khổng Tử ra sao ? Ông có vẻ khá tự tin về học vấn của mình, ông từng nói : "Bảo ta là thánh thì ta không dám, nhưng ta làm việc thánh không biết chán, dạy người không biết mỏi" [nhược thánh dũ nhân tắc ngô khởi cảm, ức vi chi bất yếm, hối nhân bất quyện], hoặc "ta không phải sinh ra đã biết, nhờ thích việc ngày xưa, cố học mà được". Khổng Tử còn tin tưởng hơn về tài trị nước của mình, ông nói : "Vua nào mà dùng ta thì chỉ một năm đã khá, ba năm là thành công". Sự tự tin này đã không được thực tế xác nhận. Khổng Tử làm quan lớn tại nước Lỗ trong sáu năm, từ chức Trung Đô Tể lên đến Đại Tư Khấu rồi sau này Nhiếp Tướng Sự nhưng không thấy nước Lỗ giàu mạnh được bao nhiêu.

Ông làm Nhiếp Tướng Sự (tướng quốc) được một năm thì từ quan và đi lưu lạc. Lý do khiến ông từ quan là vì vua nước Lỗ không chia phần thịt cho ông trong lễ Giao. Lý do này thực là nhỏ mọn và làm cho các nho sĩ đời sau rất phiền lòng. Chỉ vì miếng thịt mà bỏ chức tướng quốc thì còn thể thống gì, còn gì là chí lớn "trị quốc, bình thiên hạ" nữa. Vì vậy họ cố tình biện luận rằng đó chỉ là cái cớ, lý do thực sự khiến Khổng Tử bỏ đi là vì Khổng Tử thấy vua không còn biết giữ lễ nghĩa nữa. Nhưng đó chỉ là những giả thuyết được đưa ra để biện hộ cho cái đức của Khổng Tử chứ không dựa vào căn cứ nào. Người ta chỉ kể được những chuyện vua nước Lỗ say mê xem đám vũ nữ nước Tề sang múa hát, bỏ việc ba ngày không nghị triều, nhưng Khổng Tử đã từng làm quan cho nước Lỗ sáu năm rồi, sao đến lúc đó mới bỏ đi ? Vả lại, theo Luận Ngữ thì chính Khổng Tử cũng rất say mê đàn hát. Sang nước Tề học đàn ba tháng, không biết đến miếng thịt [văn thiều tam nguyệt bất tri nhục vị]. Lập luận cho rằng Khổng Tử từ quan bỏ đi vì vua nước Lỗ say mê vũ nữ càng không đúng vì sau khi bỏ Lỗ sang Vệ, Khổng Tử lại bị tai tiếng về một vụ nữ sắc. Theo sách chép thì vua nước Vệ có người vợ là Nam Tử, rất đẹp và cũng rất dâm đãng. Khổng Tử muốn được làm quan nước Vệ nên phải vào yết kiến nàng này và còn đi theo xe du ngoạn, vì thế đã bị dư luận lúc đó chê cười. Khổng Tử cũng không trọng nguyên tắc như người ta vẫn đề cao ông, bởi vì trên bước đường bôn ba tìm chủ, có lúc ông định đi theo phò một phản thần là Phất Bật. Bị học trò là Tử Lộ chất vấn, ông biện bạch rằng người trong sạch thì dẫu có vào chỗ đen tối cũng vẫn trong sạch. Thật là ngụy biện.

Tại sao Khổng Tử lưu lạc khắp nơi trên mười năm trời xin làm quan mà không vua chúa nào dùng ? Đó là vì ông hoàn toàn lỗi thời. Lúc đó nhà Chu đã mạt vận lắm rồi, chẳng còn uy tín nào nữa. Các chư hầu dù muốn hay không cũng phải tự quyết và trong thực tế mọi vua chư hầu đều mơ ước làm minh chủ, nhưng Khổng Tử đi đâu cũng đề cao nhà Chu. Ông nói : "Việc lễ nhạc và chinh phạt phải do Thiên Tử [tức nhà Chu] khởi xướng, các vua chư hầu mà đặt lễ nhạc và chinh phạt là vô đạo" [Thiên hạ hữu đạo tắc lễ nhạc chinh phạt tự Thiên Tử xuất ; thiên hạ vô đạo tắc lễ nhạc chinh phạt tự chư hầu xuất]. Muốn đi phò người ta mà lại bài bác người ta như vậy thì ai dùng ? Khổng Tử cũng chủ trương tập trung mọi quyền lực vào tay vua, truất bỏ quyền tham gia chính trị của các đại thần [Thiên hạ hữu đạo, tắc chính bất tại đại thần]. Một nhãn quan chính trị như vậy không những đã rất hủ lậu và thiển cận mà còn làm các quan đại thần bất bình. Không có gì đáng ngạc nhiên khi họ khuyên các vua đừng nên dùng Khổng Tử. Vả lại nếu kiến thức và tài dạy học của ông được mọi người đương thời nhìn nhận thì ngược lại thành tích trị nước của ông chưa được bảo đảm. Với một lập trường tôn Chu tuyệt đối như vậy tại sao Khổng Tử không đến thẳng kinh đô nhà Chu không xa nước Lỗ bao nhiêu xin việc mà lại cứ dai dẳng xin phò các chư hầu không còn phục nhà Chu nữa ? Lý do là vì triều đình nhà Chu lúc đó rất nghèo. Nhưng Khổng Tử vừa bỏ rơi nhà Chu và chạy theo các chư hầu lại vừa đòi họ phục tùng nhà Chu ! Khổng Tử cũng vô lý như người giữa mùa hè chính mình cũng cởi trần nhưng lại hô hào mọi người nên mặc đồ thật ấm.

Khổng Tử có tâm hồn nghĩa hiệp không ? Câu hỏi này hình như chưa ai đặt ra, và đó cũng là một sự kiện đáng lưu ý. Ông thấy nước nào thịnh thì tìm đến xin làm quan, thấy nước nào khó khăn thì bỏ đi, ông không phải là người để đương đầu với thử thách và vượt qua trở ngại. Quan niệm lập thân của ông chỉ giản dị là cầu an và cầu vinh. Ông nói : "Nước lâm nguy thì không nên vào, nước bị loạn thì không nên ở, lúc thiên hạ có đạo lý thì ta xuất hiện, lúc không có thì ta nên ở ẩn" [nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư, thiên hạ hữu đạo tắc kiến, thiên hạ vô đạo tắc ẩn]. Khổng Tử xứng đáng được tôn làm ông tổ của tị nạn kinh tế. Cái triết lý ở ẩn, tránh khó khăn và gian nguy của ông, về bản chất là một thái độ thấp hèn, đã trở thành một thứ đạo lý cho nho sĩ về sau. Tại nước ta vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 có ông Nguyễn Khuyến đáng được coi là tiêu biểu cho cái đạo lý tồi tàn này. Nguyễn Khuyến là nho sĩ danh giá nhất thời đó, ông đậu đầu cả ba kỳ thi hương, thi hội và thi đình nên được gọi là Tam Nguyên. Lúc đó ta mất nước về tay người Pháp, Nguyễn Khuyến làm gì ? Ông rút về ở ẩn để ngâm vịnh, thỉnh thoảng cũng làm vài bài thơ châm biếm vua quan và xã hội thời Pháp thuộc. Với một thái độ trốn tránh trách nhiệm như vậy, Nguyễn Khuyến vẫn được ca tụng như một nhà nho đầy tiết tháo.

Chỗ đứng của Khổng Tử trong tư tưởng cần được nhận định như thế nào ?

Xã hội Trung Quốc cho đến đời Khổng Tử đã tiến hóa rất nhiều cả về mặt kỹ thuật lẫn tư tưởng. Đến đời Xuân Thu thì các vấn đề xã hội đã trở nên rất phức tạp, chế độ tập quyền sơ sài vẫn có từ trước đến đời nhà Chu không còn hợp thời nữa. Tổ chức chính trị Trung Quốc lúc đó đã đến lúc cần phải xét lại. Một khuynh hướng tản quyền tự nhiên dần dần xuất hiện, và bởi vì nhà Chu không cải tiến gì cả để phù hợp với tình thế mới nên dần dần mất quyền lực và ảnh hưởng. Chỉ có hai con đường, một là chấp nhận sự tản quyền đó và tìm ra một giải pháp mới để phối hợp các chư hầu ; hai là tổ chức lại bộ máy cai trị trung ương để nó có đủ sức mạnh đè bẹp các chư hầu và cai trị một đất nước đã trở thành rộng lớn, đông dân hơn và phức tạp hơn. Khổng Tử đã hoàn toàn không nhìn thấy điều đó, ông chủ trương phục hồi lại quyền hành nhà Chu với y nguyên lề thói cũ. Cho nên ông hoàn toàn lạc điệu và lỗi thời. Nhận thức chính trị của ông thực là kém cỏi.

Về mặt tư tưởng, các tiến bộ tích lũy từ hơn bốn ngàn năm đã lên tới cao điểm. Thời Xuân Thu Chiến Quốc là thời cực thịnh tư tưởng Trung Quốc. Ngay sau khi Khổng Tử qua đời, đoạn cuối của thời Xuân Thu Chiến Quốc đã xuất hiện cả một phong trào khai phá tư tưởng rộng khắp, với tầm vóc lớn hơn nhiều lần giai đoạn hoàng kim của tư tưởng Hy Lạp. Các nhà tư tưởng xuất hiện sau Khổng Tử như Tuân Tử, Mặc Tử, Hàn Phi, Công Tôn Long, v,v... đã vượt rất xa Khổng Tử.

Tư tưởng Trung Hoa cho đến thời Xuân Thu Chiến Quốc vẫn chỉ là Nho Giáo. Chính sự trưởng thành của Nho Giáo đã làm nở rộ tư tưởng của thời Đông Chu Liệt Quốc. Tư tưởng, nhất là tư tưởng chính trị Trung Quốc trải qua một thời kỳ xét lại lộng lẫy và đầy hứa hẹn. Tiếc rằng nó đã khựng lại sau đó vì trong hai chiều hướng chuyển biến chính trị, đẩy mạnh tản quyền hoặc tăng cường sức mạnh tập trung, khuynh hướng thứ hai đã thắng. Nho Giáo được phục hồi và Trung Quốc đã dẫm chân tại chỗ từ đó.

Khổng Tử kém xa, rất xa, các nhà tư tưởng sau ông, nhưng phải nhìn nhận rằng ông đã có đóng góp quan trọng cho giai đoạn cực thịnh của tư tưởng Trung Hoa vào cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc. Nhờ trường tư của ông, ông đã đào tạo ra hàng ngàn sĩ tử và đến lượt họ đã đào tạo ra vô số sĩ tử khác. Các nhà trí thức lỗi lạc sau này dù vượt xa Khổng Tử và bài bác Khổng Tử cũng đều là những hậu bối tinh thần của Khổng Tử. Một lần nữa ta nhìn thấy vai trò khai phóng của giùáo dục. Còn về sau, việc phục hồi Nho Giáo cũng như việc tôn thờ Khổng Tử làm thánh nhân mẫu mực muôn đời hoàn toàn không do trách nhiệm của Khổng Tử. Đó chỉ là do ý đồ của các chế độ quân quyền dùng Nho Giáo và Khổng Tử để củng cố nền tảng của họ. Ông chỉ là nạn nhân của một khai thác chính trị.

Khổng Tử là một nhà giáo có tài và một nhà biên soạn sách có tài. Ông nghèo về tình cảm, kém về tư tưởng và nhận thức xã hội. Toàn bộ quan điểm chính trị và triết học của ông đều lỗi thời ngay cả vào lúc đó. Nhưng ông nghĩ như thế và phát biểu như thế, đó là quyền của ông, ông không thể tiên đoán được những lạm dụng về sau.

 

******************

 

Di sản Xuân Thu Chiến Quốc

 

 

tqan10

Có thể nói lịch sử của nước ta thực sự bắt đầu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc.

Giai đoạn này tương ứng với thời các vua Hùng mở nước. Theo huyền sử thì nguồn gốc của chúng ta cũng bắt đầu từ vua Thần Nông bên Trung Quốc. Huyền sử chỉ có một mức độ chính xác rất tương đối nhưng ít nhất nó nói lên một sự kiện, đó là người Việt Nam và người Trung Hoa có cùng một cội nguồn. Chắc chắn là cũng đã có những người tiền sử sinh sống trên đất nước ta từ trước và đã hòa nhập với người di dân từ phương Bắc xuống vào giai đoạn này, họ đông đảo hơn nhưng thành tố phương Bắc là chế ngự. Ngày nay hầu hết các họ của chúng ta cũng là những họ Trung Quốc. Như vậy giai đoạn từ Xuân Thu Chiến Quốc trở về trước có thể coi là lịch sử chung của cả hai dân tộc trước khi hai quốc gia riêng biệt được hình thành. Nhưng chúng ta cũng chỉ mới được độc lập không được bao lâu thì lại bị sát nhập vào Trung Quốc trong hơn một ngàn năm. Hơn nữa, một quốc gia không phải chỉ là lãnh thổ và con người mà còn là một nền văn hóa, mà văn hóa của ta thì chủ yếu là văn hóa Khổng Mạnh đã được tổng hợp trong giai đoạn này.

Nếu thời Xuân Thu Chiến Quốc kết thúc một cách khác đi, nghĩa là nó không kết thúc với một chế độ quân chủ chuyên chính tập trung, và với Khổng Giáo được lấy làm quốc giáo độc tôn, thì số phận và lịch sử của nước ta đã khác hẳn.

Tư tưởng Trung Quốc hình thành một cách thực nghiệm với thời gian, đến thời Xuân Thu Chiến Quốc nó đạt tới một mức độ trưởng thành vừa đòi hỏi một cố gắng hệ thống hóa vừa cho phép những khai phá lớn khác. Nền văn minh Trung Quốc lúc đó như một cây đã đủ lớn và đến lúc trổ hoa. Cả một phong trào tư tưởng rộ lên như hoa nở mùa xuân. Các sách còn lưu giữ được, nhất là bộ truyện Đông Chu Liệt Quốc, mô tả một không khí tưng bừng khai phá tư tưởng. Có những nhà hào phú nuôi cả trăm, ngàn thực khách chỉ để biện luận tìm ra chân lý về vũ trụ, xã hội và con người. Cũng có hàng trăm, hàng ngàn biện sĩ đi khắp các nước chư hầu đề nghị với các vua chúa các lý thuyết trị nước.

Khí thế của phong trào tư tưởng này thật là mạnh mẽ và những thành tựu của nó lại càng lớn hơn. Có thể nói tất cả những triết lý và học thuyết của Trung Quốc đều xuất hiện trong giai đoạn này. Và cũng có thể nói là mọi khái niệm triết lý và chính trị đều đã được đề cập tới và đẩy khá xa. Ngày nay nói tới tư tưởng thời Xuân Thu Chiến Quốc người ta thường hay nhắc tới Lão Tử, Mặc Tử, Tuân Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi, Công Tôn Long, v.v... nhưng thực ra các triết gia và lý thuyết gia này không phải là đơn độc, họ chỉ là những phát ngôn viên còn được nhớ lại của các trường phái tư tưởng. Thời đó chưa có sự tranh giành tác quyền về tư tưởng.

Trường phái Lão Tử chẳng hạn đã đưa ra cả một triết thuyết về vũ trụ mà ngay cả trong thời đại khoa học ngày nay người ta cũng không thể đánh giá là ngây ngô. Có thể coi những khai phá của Mặc Tử trong thuyết kiêm ái như là những viên đá đầu tiên cho một chủ nghĩa dân chủ xã hội nhân bản. Mặc Tử, Tuân Tử và Hàn Phi khởi xướng ra chủ trương nhà nước pháp trị. Kiêm ái và pháp trị nếu được phối hợp và phát triển chắc chắn dẫn tới dân chủ. Công Tôn Long đi rất xa về lô-gích trừu tượng, phân tích rất sâu về nguyên ủy và hậu quả (trứng có lông), về sự vật và cách nhìn sự vật (ngựa trắng không phải là ngựa).

Nhưng cả một rừng hoa đó cuối cùng đã không kết trái, hay đã kết trái nhưng trái đã không chín được để sinh ra những hạt giống cho sự sống tiếp tục. Tại sao ?

Câu trả lời đầu tiên là, trái với văn minh phương Tây, thời Xuân Thu Chiến Quốc đã có những tiến bộ về tư tưởng mà không có tiến bộ về khoa học thuần túy. Họ đã có những Socrate nhưng không có được những Archimède. Triết lý không có sự chuyên chở của khoa học kỹ thuật thì không bay bổng lên được và không ăn rễ được vào xã hội.

Giải thích như vậy cũng tạm ổn, nhưng chính sự thiếu vắng khoa học thuần túy cũng cần được giải thích.

Trung Quốc được thành lập trên lưu vực của hai con sông lớn, sông Hoàng Hà và sông Dương Tử. Cả hai con sông này đều là những dòng sông dũng mãnh đem phù sa và sự sung túc lại cho cái nôi đầu tiên của Trung Quốc, nhưng đồng thời cũng là một đe dọa kinh niên cho sự tồn vong của con người. Tới mùa lũ dòng sông có thể tràn bờ biến ruộng đồng thành biển cả, cuốn đi của cải và sinh mạng. Trong điều kiện như thế, ưu tiên thường trực, nếu không muốn nói duy nhất, của tập thể là chống lại nước. Các vị vua đầu tiên của Trung Hoa đều là những người có công trị thủy. Vua Thuấn nhường ngôi cho vua Vũ vì ông Vũ có công đắp đê ngăn nước lụt.

Mọi xã hội hình thành bên cạnh những dòng sông lớn với lưu lượng thay đổi đột ngột đều cần những vị vua có uy quyền tuyệt đối để áp đặt những cố gắng tập thể ghê gớm. Không phải là một sự tình cờ mà tất cả các chế độ được xây dựng bên cạnh những con sông lớn đều là những xã hội cực kỳ chuyên chế, dù là ở Trung Hoa, Việt Nam, Cam-bốt, ‰ên Độ, Ethiopia, hay Ai Cập... Nền tảng của các xã hội cổ xưa này là một khế ước bạo quyền bất thành văn nhưng rất rõ rệt giữa người chủ tể và dân chúng. Người chủ tể phải áp đặt những đòi hỏi thật dã man, đôi khi hy sinh cả một phần dân chúng, để đắp và bảo vệ đê điều, nhưng ngược lại chính nhờ những hy sinh kinh khủng đó mà cộng đồng tồn tại được thay vì bị nước cuốn đi. Các nạn nhân có thể nguyền rủa bạo chúa, nhưng con cháu họ lại mang ơn bạo chúa vì đã bảo đảm cho họ mùa màng và cuộc sống. Dần dần sự tàn bạo được chấp nhận như một định luật. Khổng Tử thừa hưởng di sản tinh thần của hệ thống xã hội đặt trên khế ước bạo quyền đó. Điều đặc biệt nơi ông là thay vì nhìn khế ước bạo quyền đó như một cái tệ cần thiết ông lại thấy nó toàn thiện, toàn mỹ. Khổng Giáo chủ yếu là cố gắng để chính đáng hóa bạo quyền và nâng sự chấp nhận kiếp sống nô lệ lên hàng một đạo đức tuyệt đối.

Khổng Tử sống trong một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng. Với thời gian uy quyền của bạo chúa bị suy giảm vì hai lý do, một là đê điều tương đối đã ổn vững, công tác chủ yếu chỉ còn là giữ gìn và tu bổ, vai trò của bạo chúa không còn cần thiết như trước nữa ; hai là xã hội ngày càng phát triển, mức sống cao hơn, dân số đông hơn, các nhu cầu mới xuất hiện, nhiều tiểu chủ địa phương xuất hiện và trở thành mạnh. Tới một mức độ chín muồi nào đó nhận thức về xã hội và cách tổ chức xã hội cần được xét lại. Đó là hiện tượng đã xảy ra dưới triều đại nhà Chu. Các sử gia vẫn thường nhận định là nhà Chu suy vì để mất uy quyền thiên tử, thực ra là vì xã hội đã tiến hóa và đòi hỏi một hệ thống chính trị khác.

Nhà Chu không còn uy quyền trấn áp các chư hầu nữa thì tất nhiên các chư hầu cạnh tranh và cấu xé lẫn nhau. Ý hệ độc tôn quân quyền không còn hợp thời nữa thì tất nhiên xuất hiện những suy tư mới.

Thời Đông Chu Liệt Quốc chính là khúc quanh lịch sử vĩ đại đó. Nhưng tập quán chính trị chuyên chính đã kéo dài nhiều ngàn năm và đã ăn rễ vào tâm lý con người nên các tham vọng chuyên chế dĩ nhiên còn rất mạnh và còn có chỗ dựa tâm lý mạnh. Phải có một phép mầu ghê gớm các xã hội thiết lập bên các dòng sông lớn mới lột xác và biến đổi được. Nhưng phép mầu đó đã không xảy ra tại Trung Quốc cũng như nó đã không xảy ra tại mọi nước khác. Người dân đã được điều kiện hóa để chấp nhận sự tàn bạo nên khi một chế độ tàn bạo cáo chung nó chỉ nhường chỗ cho một chế độ tàn bạo khác thích nghi hơn với thời đại mới. Giữa hai chuyển hướng bắt buộc phải có cho chế độ nhà Chu, một là chấm dứt khế ước bạo quyền, chính thức hóa sự tản quyền và nới rộng tự do cho dân chúng, hai là, ngược lại, tăng cường tới cực điểm bạo lực của trung ương để khuất phục các chư hầu và đập tan mọi ý đồ chống đối, cuối cùng Trung Quốc đã theo con đường thứ hai. Nhà Chu đã chấm dứt nhường chỗ cho nhà Tần với một bộ máy cai trị lớn hơn và mạnh hơn. Từ nhà Tần trở đi, một hệ thống chính trị khác, hệ thống quân chủ tập quyền và tuyệt đối dựa trên bạo lực không cần thiết đã ra đời thay thế cho hệ thống chính trị quân chủ dựa trên bạo lực cần thiết trước đó.

Ở đây cũng cần mở một dấu ngoặc để nói về một sự kiện rất đáng chú ý. Sở dĩ, trong các chư hầu, nhà Tần đã mạnh lên để tiêu diệt các chư hầu khác và gồm thâu thiên hạ là vì đã áp dụng lý thuyết của Hàn Phi, chủ trương xiết chặt về chính trị nhưng cởi mở về kinh tế. Cái gọi là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ngày nay cũng không khác gì về nội dung, nó chỉ là một sự áp dụng lại một lý thuyết đã được đưa ra cách đây 22 thế kỷ. Nhà Tần đã chỉ tồn tại được vài chục năm bởi vì chính sách độc tài chính trị cởi mở kinh tế đã mau chóng tích lũy mâu thuẫn và đã sụp đổ. Đây là một bài học, lịch sử hình như đang diễn lại.

Nhà Hán sau khi đã tiêu diệt nhà Tần đã xiết lại luôn về kinh tế, đem Khổng Giáo làm quốc giáo độc tôn, cấm đoán mọi ý đồ xét lại. Từ đó chế độ chính trị Trung Quốc không còn thay đổi nữa và Trung Quốc dậm chân tại chỗ hơn hai mươi thế kỷ.

Các xã hội nông nghiệp hình thành bên các dòng sông lớn đều mang một tật nguyền chung của các nền văn minh phù sa là tư tưởng và sáng kiến bị thui chột. Phải hàng ngàn năm mới đắp xong những con đê lớn với những chịu đựng ghê gớm. Cuộc sống đày đọa và gắn chặt với đất đó đã nhồi nặn ra những con người chỉ quanh năm vật vã với đất để kiếm miếng ăn, dần dần sự thủ cựu và thiển cận biến thành một bản chất, con người không biết nghĩ và không dám nghĩ.

Chúng ta là một dân tộc như thế. Cả lịch sử lập quốc của ta đã chỉ là lịch sử con đê sông Hồng Hà. Ta hệ lụy với dòng sông hơn mọi dân tộc khác, đến nỗi gọi quốc gia là ênướcê. Quốc gia của ta chỉ quanh quẩn là đất nước, núi sông, sơn hà. Chúng ta còn tật nguyền hơn mọi dân tộc phù sa khác. Trí tuệ của ta thui chột một cách thê thảm. Người Trung Quốc còn biết xét lại và đổi mới, dù chỉ là một cách vụn vặt, Khổng Giáo của họ qua các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh ; người Việt Nam chúng ta thì hoàn toàn không. Người Trung Quốc còn biết dùng lịch phương Tây ngay từ đời nhà Minh ; ta thì tới cuối thế kỷ 19 vẫn bám chặt lịch cũ, thay đổi đã chỉ đến do sự áp đặt của người Pháp khi ta đã mất chủ quyền. Ta có một bờ biển dài và đẹp, mở thênh thang ra một đại dương hiền hòa nhưng ta vẫn chỉ sống đời này qua đời khác với đất như một dân tộc lục địa.

Đối với các dân tộc khác, tự do, dân chủ (hay nhân quyền cũng thế vì đó chỉ là những góc nhìn khác nhau của cùng một sự kiện là con người được quí trọng, được phát huy hết khả năng của mình, được có ý kiến và sáng kiến) là một phương thức tổ chức xã hội ; đối với chúng ta nó còn là một liều thuốc trị bệnh tê liệt trí não. Chúng ta là một bệnh nhân mà tự do là liều thuốc chữa. Chúng ta phải uống thuốc tự do nếu muốn lành bệnh để tranh đua với thế giới.

 

*********************

Đạo lý thánh hiền

 

 

tqan11

Những người bênh vực Khổng Giáo thường gắn liền Khổng Giáo với đạo đức. Bài bác Khổng Giáo bị coi là bài bác đạo đức, nghĩa là vô đạo. Trong một cuộc bút chiến với Phạm Quỳnh, ông Phan Kế Bính, một trí thức xuất chúng và cũng có Tây học, đã có công đóng góp nhiều cho văn hóa Việt Nam và có tên đường ở Sài Gòn và Hà Nội, đã viết một câu chắc nịch : "Đạo lý là đạo lý Khổng Mạnh". Như vậy phải chăng các dân tộc không biết tới Khổng Mạnh là những dân tộc không có đạo đức ?

Khổng Giáo đề cao một số giá trị mà con người phải cố gắng để đạt được. Nhưng nếu ta hỏi các nhà nghiên cứu Khổng Giáo những giá trị đó là gì thì các vị này sẽ rất bối rối. Có vị bảo là "trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín", cũng có vị bảo đó là "nhân, trí, dũng, văn", có vị lại thêm "trực (ngay thẳng), tri (hiểu biết), đạo, cung, kính, dung (dễ chấp nhận người khác)". Đọc Luận Ngữ và sách của các danh nho khác còn phải thêm : "đạt, mẫn, tôn, trọng, thuận". Như vậy đủ thấy "đạo lý Khổng Giáo" dù đã xuất hiện và ngự trị từ cả hàng nghìn năm vẫn còn rất mập mờ.

Các giá trị thường được nhắc tới là "trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Các giá trị này đã được cải thiện dần dần với thời gian và đi vào quần chúng. Lúc ban đầu chúng chỉ là những giá trị dành cho người quân tử, tức người làm quan hay học để làm quan, và có ý nghĩa đặc biệt của chúng.

Luân lý Khổng Giáo thường được tóm gọn trong "tam cương, ngũ thường". "Tam cương" là ba bổn phận của kẻ sĩ : trung với vua, hiếu với cha mẹ, thủy chung với vợ. Tam cương không được rõ ràng lắm. Cũng có những học giả coi "tam cương" là "quân, sư, phụ", nghĩa là bổn phận đối với vua, với thầy và với cha. "Ngũ thường" thì vẫn được coi là "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín".

Khổng Giáo về sau được bổ túc bởi một loạt "giá trị" dành cho phụ nữ, đó là "tam tòng, tứ đức".      "Tam tòng" là ba sự phục tùng mà người đàn bà phải tuân thủ : lúc còn con gái thì phải phục tùng cha, lấy chồng thì phải phục tùng chồng, chồng chết thì phải phục tùng con [tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử]. "Tứ đức" là bốn đức tính người đàn bà phải rèn luyện, đó là "công (khéo tay), dung (nhan sắc), ngôn (ăn nói) và hạnh (hạnh kiểm)". Thêm vào đó lại có một giá trị đặc biệt cho người đàn bà : chữ "trinh".

Nếu hiểu "hiếu" là kính trọng và tận tụy với cha mẹ, "nhân" là yêu thương người, "lễ" là kính trọng người khác trong mọi giao dịch, "tín" là giữ lời hứa và tôn trọng mọi cam kết, "trí" là cố gắng để đạt tới sự hiểu biết rộng thì dĩ nhiên đó là những giá trị của mọi xã hội và mọi nền văn minh chứ không phải của riêng Khổng Giáo. Nếu muốn nói tới các giá trị của Khổng Giáo thì phải nói tới các giá trị chỉ có trong Khổng Giáo hay được đặc biệt nhấn mạnh và đề cao trong Khổng Giáo mà thôi.

Nhưng trước khi bàn về nội dung của Khổng Giáo ta phải nhận định một điểm rất quan trọng, đó là Khổng Giáo dứt khoát không phải là một đạo lý.

Ngôn ngữ Việt Nam và Trung Quốc thường hay lẫn lộn về khái niệm nên có thể những điều sau đây không được sự nhất trí của nhiều độc giả, nhưng vấn đề là có thực. Triết học phân biệt đạo lý hay đạo đức [éthique, ethic] và luân lý [morale, moral]. Đạo lý là những giá trị có căn bản triết học, được phân tích rõ ràng, được biện luận đến nơi đến chốn và sau cùng được chấp nhận như là kết quả của một cố gắng suy tư. Luân lý, trái lại, chỉ là những điều được áp đặt và trở thành thói quen và qui luật trong một xã hội. Không thể coi việc người Do Thái cấm ăn thịt heo hay thịt những con vật mà móng chân sẻ ra, cấm ăn cá không có vẩy là một đạo lý được. Đó chỉ là một luân lý, nghĩa là một qui luật được luân chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác mà thôi.

Khổng Tử và các môn đệ không hề phân tích, biện luận mà chỉ phán ra các mệnh lệnh mà thôi, nên Khổng Giáo không phải là một đạo lý mà chỉ là một luân lý mà thôi.

Về nội dung các giá trị Khổng Giáo thì sao ?

Trước hết, hệ thống giá trị áp đặt cho phụ nữ rất mọi rợ và vô nhân đạo. Nó hạ giá người phụ nữ xuống hàng một nô lệ và một vật dụng. Trí tuệ và nhân cách của người đàn bà không được kể đến. "Công, dung, ngôn, hạnh" là gì ? "Công" chỉ là tài thêu thùa, may mặc, nấu bếp, nghĩa là tài hầu hạ, phục dịch. "Dung" không phải là sắc đẹp mà là cấm không được làm đẹp vì như thế là lòe loẹt, lẳng lơ. "Ngôn" là ăn nói phải e dè, càng nói ít càng tốt. Còn "Hạnh" chỉ là sự chăm chỉ phục tùng, phục tùng cha mẹ, rồi phục tùng chồng, rồi phục tùng cả con trai mình. Ấy là chưa kể trong gia đình còn phải phục tùng cả chú bác, anh chị. Nếu là một người con gái út trong gia đình nghèo thì địa vị của một phụ nữ chẳng còn gì.

Rồi lại có cái chữ "trinh" cực kỳ đểu cáng. Một người phụ nữ đã có quan hệ tình dục với ai bị coi là "mất thân", có tì vết, mất hết giá trị. Không phải chỉ có phụ nữ bình thường mà ngay cả các công chúa cũng không thoát khỏi sự khống chế tàn tệ của chữ trinh. Ở Việt Nam có chuyện Chử Đồng Tử. Anh chàng này nghèo khổ, không có nổi cái khố, một hôm một cô công chúa vô tình quay màn tắm ngay chỗ anh ta trần truồng nằm chui dưới cát. Đến khi dội nước thì lộ ra anh ta. Cô công chúa chỉ lỡ nhìn thấy anh ta trần truồng mà coi như bị mất trinh, đành phải cưới anh ta làm chồng cho phải đạo ! Văn học Trung Quốc cũng không thiếu những câu chuyện các cô gái vì vô tình đụng chạm phải một người đàn ông mà phải coi như đã mất trinh, đành phải lấy người đó làm chồng. Chữ êtrinhê là một sáng tạo dã man của đàn ông để nô lệ hóa phụ nữ và coi phụ nữ như một đồ chơi độc quyền của họ. Ngày nay chúng ta đều đồng ý rằng quan niệm của Khổng Giáo về người phụ nữ là rất lạc hậu. Nhưng chúng ta đã thực sự vất bỏ nó chưa ? Tôi chưa chắc, quán tính của chúng ta vẫn còn nặng lắm. Cái tâm lý chồng chúa vợ tôi vẫn còn hiện diện rất mạnh, ngay trong cả các gia đình trí thức sinh sống tại các nước tân tiến phương Tây. Người vợ dù là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư đại học vẫn là nạn nhân của một sự phân công quái gở là lo chuyện bếp núc, phục dịch trong gia đình trong khi đức ông chồng ung dung hưởng thụ. Người chồng Việt Nam là một trong những người chồng thô bỉ nhất thế giới.

Tôi có lần nói chuyện với một học giả, giáo sư đại học. Ông ta lo lắng vì con gái đã lớn và học chung với nhiều bạn trai. Mối lo của ông ta là con gái sẽ giao du với bạn trai. Tôi nói giao du là chuyện dĩ nhiên chẳng có gì đáng sợ, ông ấy trả lời rằng trai gái bây giờ nó tự do lắm, nó cứ bắt tay nhau một cách tự nhiên, có khi còn hôn nhau khi gặp gỡ hoặc chia tay. Tôi hỏi "thì đã sao ?". Và ông ta nổi đóa : "Nó hôn má, rồi có ngày nó sẽ hôn môi, rồi nó sẽ làm tình !". Đối với ông ta hình như nếu con gái ông ta có bồ và hôn môi một chàng trai nào, nhất là lại làm tình thì không khác gì trời sập. Nhưng ngược lại, nếu đứa con trai ông ta cũng làm những điều ấy thì lại rất bình thường. Đó là một trí thức uyên bác đã sống tại Pháp gần 40 năm.

Chữ "trung" và chữ "hiếu" được định nghĩa từ đời nhà Tống một cách rõ rệt như thế này : "vua bảo phải chết mà không chịu chết là bất trung, cha bắt phải chết mà không chết là bất hiếu" [quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu]. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử định nghĩa chữ "hiếu" như sau : "cha còn sống thì phải theo ý cha, cha mất thì theo việc cha làm, ba năm không được sửa đổi những gì cha đặt ra" [phụ tại quan kỳ chí, phụ một quan kỳ hành, tam niên vô cải ư phụ chi đạo], "cha mẹ có lầm lỗi can gián không được cũng không được làm trái ý, đau lòng cũng không được giận" [sự phụ mẫu cố gián, kiến chí bất tòng, hữu kính bất vi, lao nhi bất oán] ; "cha mẹ còn sống thì không được đi xa" [phụ mẫu tại, bất viễn du]. Cũng cần lưu ý là chữ "hiếu" của Khổng Giáo chủ yếu là hiếu với cha mà thôi, người mẹ rất ít được đề cập tới. Sự kính mến người mẹ ở trong các xã hội thuộc văn hóa Trung Hoa có thể được nhìn như là một phản ứng dân gian trước sự tàn nhẫn của Khổng Giáo đối với phụ nữ. Chữ "hiếu" của Khổng Tử không những bệnh hoạn mà còn bất lương. Khổng Tử bàn luận với Diệp Công về sự ngay thẳng ("trực" cũng là một giá trị của Khổng Giáo). Diệp Công nói rằng người ngay thẳng nếu cha mình đi ăn trộm cũng phải tố giác, Khổng Tử phản đối nói rằng đạo làm con thì dù cha có đi ăn trộm cũng phải bênh, như thế mới là trực. Đó là những lời vàng ngọc của đức thánh Khổng !

Về sau các nho sĩ cũng không làm cho "trung" và "hiếu" lành mạnh hơn, trái lại chỉ thêm vào những điều xằng bậy, thí dụ như "hiếu" được định nghĩa phải có con trai. Có ba tội bất hiếu, tội nặng nhất là không có con trai [bất hiếu hữu tam, vô hậu chi đại], "trung" được định nghĩa chỉ được thờ một chủ mà thôi.

Về chữ "nhân", Khổng Tử định nghĩa một cách rất lăng nhăng. Nhan Hồi hỏi ông về "nhân", Khổng Tử đáp đó là các đức tính "cung (kính cẩn), khoan (khoan dung), mẫn (thông minh), huệ (may mắn)". Như vậy thì "nhân" không phải là một giá trị riêng mà chỉ là tổng hợp năm giá trị khác của Khổng Giáo. Việc coi "mẫn" và "huệ" là những thành tố của "nhân" cũng đáng ngạc nhiên. Khi Phàn Trì hỏi thì ông đáp "nhân" có nghĩa là yêu người ; đây là lần duy nhất mà Khổng Tử định nghĩa khái niệm "nhân" một cách gần đúng. Khi Trọng Cung hỏi thì ông đáp "nhân" là "ra khỏi cửa phải như gặp thượng khách, sai dân thì phải uy nghi như tế lễ lớn, mình không muốn điều gì thì đừng làm cho người khác" [xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế, kỷ sở bất dục vật thi ư nhân] ; ở đây "nhân" chỉ giản dị là sự đúng đắn. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử còn đưa ra một định nghĩa khác về "nhân" : "người trí thì thích nước, người nhân thì thích núi, người trí thì động còn người nhân thì tĩnh" [trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn, trí giả động, nhân giả tĩnh]. Định nghĩa quái đản này tuy vậy cũng nói lên nhân sinh quan của Khổng Tử, ông không có lý tưởng giúp đời, "nhân" của ông là tĩnh, nghĩa là bất động, chứ không phải xông pha vào khó khăn để giúp người. Điều này phù hợp với đạo lập thân mà ông đã dạy người quân tử : nước nguy thì không nên đến, nước loạn thì không nên ở, xã hội lành mạnh thì ra làm quan, xã hội không lành mạnh thì rút về ở ẩn. Như vậy chữ "nhân" của Khổng Tử dứt khoát không phải là chữ "nhân" mà chúng ta thường hiểu. Khổng Tử được tôn thờ nên đời sau đã cố tình đem cái lòng tốt của mình mà hiểu những điều ông nói. Khổng Tử đặc biệt bối rối khi nói về nhân vì cá nhân ông không có lòng nhân đạo, ông mạt sát thậm tệ những người dân cùng khổ và chắc chắn là ông đã từng chủ trì nhiều buổi lễ chôn sống những người vô tội trong những đám tang của những gia đình quí tộc.

Nhân nói về chữ "nhân" cũng nên dừng lại giây lát để bàn về một chủ nghĩa chính trị có tên là "nhân trị" của Khổng Giáo. Đại đa số những người bàn về nhân trị thường cho đó là một chủ nghĩa nhân bản, lấy sự quí trọng con người làm căn bản. Điều này hoàn toàn sai. Ý niệm nhân được định nghĩa một cách mơ hồ như đoạn trên không thể là nền tảng cho một thể chế chính trị nào. Chữ nhân trong "nhân trị" chỉ có nghĩa là cá nhân mà thôi, "nhân trị" vì vậy có nghĩa là để cho một người cai trị một cách tùy tiện, đối ngược lại với "pháp trị", có nghĩa là cai trị theo luật pháp. Nhân trị chỉ giản dị là độc tài cá nhân tuyệt đối ; mà về bản chất thì mọi chế độ độc tài tuyệt đối đều dã man vô nhân đạo cả nên thuyết nhân trị cũng phải được xếp vào loại chủ thuyết dã man. Phan Chu Trinh đã phân tích khá rõ ràng về điểm này. Chữ Hán, nhất là khi đọc theo lối Việt, có nhiều chữ cùng âm mà khác nghĩa cho nên có những trường hợp ngộ nghĩnh là người Việt hiểu sai hẳn. Sự hiểu lầm cho rằng chủ nghĩa nhân trị là một chủ nghĩa quí trọng con người là một thí dụ. Một thí dụ khác : tôi từng được nghe rất nhiều người viện dẫn câu "quân tử hợp quần, tiểu nhân hợp đảng" để từ chối tham gia vào các tổ chức chính trị. Đối với họ tổ chức chính trị là đảng và như vậy những người quân tử cao thượng như họ không thèm gia nhập, đạo lý Khổng Mạnh đã dạy như vậy. Thực là oan cho Khổng Mạnh quá. Chữ "đảng" ở câu này không có nghĩa là đảng chính trị mà có nghĩa là xóm làng. "Quân tử hợp quần, tiểu nhân hợp đảng" có nghĩa là người có danh phận (quân tử) thì có thể kết hợp với nhau (hợp quần) còn dân chúng (tiểu nhân) thì chỉ sống chung với nhau trong xóm, nghĩa là không giao du và kết hợp rộng rãi.

Chữ "lễ" của Khổng Giáo cũng là một sự hiểu lầm. Đọc Kinh Lễ và Luận Ngữ thì rất rõ ràng là lễ chỉ là nghi thức và hình thức mà thôi, thí dụ như tế trời thì phải mặc áo nào, gặp vua thì quì như thế nào, lạy bao nhiêu lạy, lúc tiếp chỉ của vua thì phải có cung cách nào, gặp quan lớn phải có thái độ nào, gặp quan nhỏ thì ra sao, v.v... Khổng Tử khi đưa khách vào gặp vua thì giang tay cúi đầu giới thiệu, rồi cung kính đứng đợi, đến lúc khách quay ra thì hô lên "khách không quay lại nữa". Đó là "lễ" của Khổng Giáo, nó không có nghĩa là sự đối xử lịch sự, bặt thiệp trong xã hội đối với mọi người. Về lễ, chính Khổng Tử đã nói một câu kinh khủng : "lễ không kể đến bọn thứ dân" [lễ bất há thứ dân].

Về lễ phép, phải nói rằng người Á Đông rất vô lễ, nhất là những dân tộc chịu ảnh hưởng Khổng Giáo. Người phương Tây đi qua mặt một ai đều xin lỗi, nhận của ai món đồ nào đều cám ơn, gặp nhau chúc tụng nhau ngày vui, đi thì nhường bước cho phụ nữ... Ngay cả giữa các đối thủ với nhau, họ cũng tỏ ra trang nhã. Wellington đánh bại Napoléon I, nhưng khi Napoléon bị cầm tù và chết trên đảo Sainte Hélène ông cũng tới đó nghiêng mình kính cẩn. Ngược lại, các tướng Trung Hoa ra trận thì chửi nhau, bắt được địch thì đối xử tàn tệ. Quan Vân Trường được coi là bậc thánh, nhưng khi Lưu Bị giới thiệu đứa con nuôi là Lưu Phong thì hỏi Lưu Bị ngay trước mặt Lưu Phong : "Anh đã có con rồi, nuôi giống con tò vò này làm gì ?" ; bắt được tướng địch là Vu Cấm thì nói : "Tao giết mày cũng như giết giống chó ngựa thôi". Tập quán Á Đông đối với kẻ trên, kẻ thắng thì khúm núm, đối với kẻ dưới, kẻ bại thì thô lỗ. Đó không phải là lễ hiểu theo nghĩa đúng và đẹp của nó.

Gần đây có phong trào kêu gọi tái lập phương châm "tiên học lễ hậu học văn". Những người chủ trương như vậy hoặc có dụng ý thống trị hoặc không hiểu ý nghĩa thực sự của tôn chỉ này. "Tiên học lễ hậu học văn" chỉ có nghĩa là trước hết học nghi thức và hình thức, học lạy, học quì và cúi đầu, nói chung là cúng tế, rồi sau đó mới học tới kiến thức. "Tiên học lễ hậu học văn" chỉ có nghĩa là trước học cúng rồi sau mới học chữ.

Cũng phải hiểu rằng, lễ và nhạc trong Khổng Giáo là những dụng cụ thống trị, mục đích của chúng là lấy nghi thức và âm thanh để trấn áp tinh thần và khuất phục.

Nhiều độc giả tới đây sẽ phê phán tôi là dựa vào kinh sách để lên án Khổng Giáo, trong khi Khổng Giáo được thể hiện một cách khác trong cuộc sống. Các vị có lý, luân lý Khổng Giáo trong đời sống hằng ngày không đến nỗi như vậy.

Tại sao ? Đó là vì Khổng Giáo là một hệ thống giá trị khe khắt, máy móc và vô nhân đạo được các vua chúa đem áp đặt vào cuộc sống. Người dân đành phải chấp nhận và vì không thể chấp nhận nguyên vẹn nó, người dân đã phản ứng lại bằng cách thay đổi nội dung của nó để bớt đi phần nào sự khe khắt. Do đó mà Khổng Giáo đã phần nào được nhân bản hóa. Chữ "trung" thì họ không đổi được, nhưng chữ hiếu đã được hiểu là sự quí trọng và săn sóc cha mẹ. "Lễ" được hiểu là cách đối xử đẹp đẽ giữa người và người, nhân cũng mang màu sắc của tình thương.

Nhà văn Bá Dương của Trung Quốc, trong một loạt bài tạp văn được tập trung trong một cuốn sách nhan đề "Người Trung Quốc Xấu Xí" [Sửu lậu đích Trung Quốc nhân], gọi văn hóa Khổng Giáo là một hũ tương đặc sệt. Tôi thấy cách gọi này không đúng hẳn. Tương chỉ làm bởi một chất chính là đậu, ngâm vào muối để cho rã ra và phân hóa lâu ngày mà thành. Khổng Giáo có đủ thứ, nào là kinh sợ quỉ thần, tuyệt đối phục tùng nhà vua, rồi lại đến cách ăn ở giữa vợ chồng, cha con, thầy trò, cách học hỏi, tu thân, v.v... vật chất cũng có, tinh thần cũng có, siêu hình cũng có, luân lý cũng có mà chính trị cũng có. Nói chung là đủ thứ được pha trộn lộn xộn lâu ngày với nhau, thâm nhập vào nhau và biến chất lẫn nhau. Phải coi đó là một hũ mắm thập cẩm, thịt có, cá có, tôm có, mà rau cũng có. Mỗi người nếm nói một cách riêng, người thì bảo là thịt, người thì nói là cá, người lại nói là tôm. Ai cũng đúng cả mà cũng chẳng ai đúng cả. Cho nên có người nói Nho Giáo là hệ thống chính trị, có người nói đó là một triết lý và cũng có người coi nó là đạo lý.

Điều quan trọng đối với chúng ta là những tập tính mà Khổng Giáo đã tạo ra trong nếp sống dân gian.

Trước hết là óc thủ cựu. Tôn chỉ "thuật nhi bất tác", chỉ lập lại mà không sáng tạo, đã được các vua chúa áp đặt như một mệnh lệnh tuyệt đối. Với thời gian nó thành một đạo lý và làm tê liệt cả trí não các dân tộc theo văn hóa Trung Hoa, nhất là Trung Quốc và Việt Nam. Chúng ta không những không tìm cái mới mà còn thù ghét cái mới.

Thứ hai là óc bất dung, độc quyền lẽ phải. Các vua chúa áp đặt địa vị độc tôn của Khổng Giáo, rồi dùng bọn nô nho mạt sát mọi tư tưởng khác biệt nhân danh chính nghĩa vệ đạo. Dần dần chúng ta bỏ mất cả khả năng đối thoại. Chúng ta không thể thảo luận với nhau một cách bình tĩnh và tương kính, hễ khác ý kiến là phải dùng những lời lẽ hận thù, hằn học, là thấy cần phải tiêu diệt nhau. Chúng ta coi tranh luận có nghĩa là hạ bệ người trước mặt, làm cho hắn mất uy tín và bị lên án nếu được. Tôi có thể làm chứng về tinh thần "vệ đạo" này bằng kinh nghiệm cá nhân. Tôi có viết một số bài báo trình bày một số ý kiến cá nhân và đã nhận được một loạt bài phản bác. Có những bài rất cay nghiệt, nhưng các tác giả không phản bác được gì cả vì họ chỉ tập trung cố gắng để khiến độc giả ghét tôi thay vì tranh luận ý kiến !

Thứ ba là sự sùng bái người xưa một cách bệnh hoạn, hậu quả tổng hợp của sự sùng bái quỉ thần và chữ hiếu được đẩy quá xa. Yêu quí người xưa là một tình cảm tốt vì đó là cội nguồn của ta. Tổ tiên đã khổ sở và vất vả để lại cho chúng ta một di sản, di sản đó dù nhiều hay ít chúng ta cũng là người thừa kế và thụ hưởng. Nếu không có di sản đó thì ngày nay chúng ta vẫn còn ăn lông ở lỗ. Nhưng cái bệnh hoạn là ở chỗ ta tin người xưa là đúng và lấy họ làm mẫu mực. Chúng ta không dám tin rằng thế giới càng ngày càng tiến, chúng ta hiểu biết nhiều và thông minh hơn cha ông, cũng như con cháu chúng ta sẽ thông minh và hiểu biết hơn chúng ta.

Thứ tư là lô-gích bạo lực. Nhiều người sẽ phản đối và viện dẫn vô số câu nói rất hòa bình và khoan dung. Nhưng quả thực phải nói nền tảng của xã hội Khổng Giáo là bạo lực. Vua không bao giờ có lỗi thì làm sao mà thay thế những hôn quân, bạo chúa ? Đạo lý Khổng Mạnh không cho phép chống lại vua, cho nên chỉ có những kẻ bất chấp đạo lý nổi loạn giết vua mới thay đổi được tình thế. Kẻ ấy nếu thua thì bị coi là giặc, là phản, là vô đạo, nhưng nếu may mắn thắng được thì các nho sĩ sẽ quì xuống thuần phục và giải thích là mệnh trời đã đổi. Mọi thay đổi chính quyền đều phải diễn ra qua bạo lực và đổ vỡ chứ không thể diễn ra một cách hòa bình. Đảng Cộng Sản Việt Nam khi chủ trương chống diễn biến hòa bình đã chỉ lập lại một tâm lý bạo lực đã sẵn có trong văn hóa Khổng Giáo.

Dĩ nhiên thương tật nặng nề nhất trong tâm lý Trung Quốc và Việt Nam vẫn là tâm lý tôi đòi, nhẫn nhục trước độc tài chuyên chế. Như đã nói, chúng ta thừa hưởng tâm lý đó từ nền văn hóa phù sa. Khổng Tử chịu ảnh hưởng nặng nề của tâm lý đó, đưa nó lên hàng một đạo lý. Khổng Giáo không gì khác hơn là một chương trình huấn luyện đầy tớ, mục đích của nó là tạo ra những tay sai đắc lực, phục tùng chủ không điều kiện và bắt mọi người phải phục tùng chủ không điều kiện. Đến lượt Khổng Tử cũng được tôn lên hàng một thánh nhân và một mẫu mực. Mấy chục thế kỷ chuyên chế của quân quyền về mặt chính trị và của Khổng Giáo về mặt tư tưởng đã biến tâm lý chấp nhận bạo quyền thành một bản năng ; ta có thể là nạn nhân của một chế độ chuyên chính và chống lại chuyên chính ấy, nhưng nếu thành công ta sẽ áp đặt một thứ chuyên chính khác. Ta chưa dứt khoát được tư tưởng bởi vì, do di sản Khổng Giáo, ta vẫn còn mang mầm độc tài chuyên chính ngay trong lòng mình.

 

**********************

Việt Nho

 

 

tqan12

Tôi không dùng hai chữ Việt Nho theo cùng một nghĩa với linh mục Kim Định. Theo linh mục Kim Định thì đạo Nho nguyên là đạo của người Việt, người Trung Quốc chỉ đã học được của người Việt, do đó coi đạo Nho là đạo của người Trung Quốc là một sai lầm.

Có nhiều lý do khiến tôi không chia sẻ quan điểm đó. Ở đây tôi dùng chữ Việt Nho để chỉ Khổng Giáo tại Việt Nam, nghĩa là Khổng Giáo du nhập từ bên Trung Quốc sang, được tiếp thu và thể hiện tại Việt Nam. Những ai đã bối rối khi đặt vấn đề Nho nào, Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho hay Thanh Nho sẽ còn phải bối rối nữa vì còn có thêm Việt Nho, cũng khác các thứ Nho kia.

Khác với Khổng Giáo Trung Quốc, Khổng Giáo Việt Nam không xuất hiện một cách tự nhiên và dần dần chín muồi với thời gian. Nó đã được hệ thống cai trị đem đến và áp đặt như một dụng cụ cai trị. Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc của Thục An Dương Vương, sáp nhập vào với hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây mà lập ra nước Nam Việt vào cuối đời nhà Tần, đầu đời nhà Hán và đem Khổng Giáo, tức là hệ thống cai trị của hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, vào Việt Nam. Sau khi nhà Triệu bị diệt thì Việt Nam trở thành một phần đất chiếm đóng của Trung Quốc. Không hề thấy sử sách ghi lại một cố gắng khai mở nào về mặt văn hóa. Như thế phải hiểu rằng Khổng Giáo trong những thế kỷ đầu sau khi được du nhập vào Việt Nam chỉ thuần túy là văn hóa của kẻ chiếm đóng và cùng lắm là của một số những người có danh phận hợp tác với chính quyền mà thôi. Phải mãi tới thời Tam Quốc, thế kỷ thứ 3 sau Tây lịch mới có Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp mở mang việc học. Trước đó, thời Đông Hán, sách sử có ghi ba người là Lý Tiến, Lý Cầm và Trương Trọng đậu khoa hiếu liêm, nhưng rất có thể là họ đậu từ bên Tàu rồi được cử sang làm quan hoặc chính họ là con quan cai trị người Tàu. Nói chung, dân bản xứ không được huấn luyện Khổng Giáo.

Như vậy phải nhận diện hai yếu tố : Một là trong bốn thế kỷ đầu của Bắc thuộc người Trung Hoa không có ý định giáo dục để đồng hóa người Việt thành người Trung Hoa, họ sang Việt Nam để thống trị và khai thác mà thôi, và Khổng Giáo chỉ thể hiện qua bộ máy thống trị. Hai là khi Khổng Giáo bắt đầu được phổ biến tại Việt Nam thì cái hào quang của mùa xuân tư tưởng Xuân Thu Chiến Quốc đã qua rồi. Khổng Giáo đã thành Hán Nho, tức là thứ Nho Giáo đã xuống cấp, đã bị tước bỏ hết mọi tinh hoa của các Mặc Tử, Tuân Tử, Hàn Phi... để chỉ còn là một thứ Nho Giáo thui chột. Cả hai yếu tố đều quan trọng khi nhận định về Nho Giáo ở Việt Nam.

Chính sách ngu dân của người Trung Quốc rất rõ rệt. Trong hơn một ngàn năm đô hộ không có dấu tích lăng miếu nào của Khổng Giáo cả. Mãi tới đời nhà Lý, khi nước ta đã độc lập, các vua Việt Nam mới bắt đầu xây Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử và 72 môn đệ của Khổng Tử. Nho học mới bắt đầu thực sự phát triển từ đó. Đến khi nhà Minh diệt được nhà Hồ, vua Minh Thành Tổ ra lệnh cho các quan cai trị phải tịch thu và tiêu hủy tất cả những cuốn sách bằng chữ Nho của người Việt Nam. Ít lâu sau hình như thấy lệnh này không được thi hành triệt để, Minh Thành Tổ lại xuống chỉ nhắc lại một lần nữa. Nhà Minh tịch thu sách chữ Nho mà không tịch thu sách chữ Nôm vì họ nghĩ rằng Nho Giáo là tinh hoa của họ, họ sợ người Việt học chữ Nho sẽ trở nên hùng mạnh và thành mối nguy cho họ. Sử nước ta hay có thói quen cho rằng người Trung Quốc cố gắng đồng hóa để sáp nhập Việt Nam, nhưng xét theo những việc họ làm thì chỉ thấy họ muốn thống trị Việt Nam để vơ vét mà thôi chứ không muốn người Việt Nam trở thành giống như người Tàu. Sự bành trướng của Trung Quốc có chỗ nghịch lý là chính người Trung Quốc hình như không muốn bành trướng, họ xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn chặn các sắc dân phía Bắc. Những mở mang đất đai quan trọng của Trung Quốc như sapt nhập nước Kim, Mông Cổ và Mãn Châu đều do chính những sắc dân này chinh phục được và thống trị Trung Quốc rồi vì dân số ít mà bị đồng hóa. Có lẽ nước ta còn đến ngày nay là vì chúng ta chưa hề thắng và thống trị Trung Quốc.

Tóm lại, Nho Giáo Việt Nam là thứ Nho Giáo cấp thấp được người Việt Nam tiếp thu một cách muộn màng và sùng bái mà không có đóng góp nào. Cố gắng Hán hóa Việt Nam quan trọng nhất đã diễn ra dưới hai triều đại Lý, Trần rồi tiếp tục dưới mọi triều đại kế tiếp. Trí thức Việt Nam thường hay lên án âm mưu đồng hóa của Trung Quốc, nhưng nếu họ bình tĩnh mà nhìn vào lịch sử nước ta họ sẽ thấy cố gắng đồng hóa trước hết đến từ các vua chúa Việt Nam. Cũng may là cố gắng này không thành công, nhưng người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của Khổng Giáo dưới dạng sơ đẳng và cằn cỗi nhất. Chính vì vậy mà văn hóa của Việt Nam thấp kém và bất dung hơn văn hóa Trung Quốc.

Nho Giáo đã chỉ phát triển sau một thời gian rất dài trong đó Phật Giáo được tự do bành trướng. Nhờ ảnh hưởng của Phật Giáo mà mới đầu Nho Giáo dưới thời Lý có phần nhân bản hơn Trung Quốc. Chỉ từ thời Hậu Lê trở đi, khi Phật Giáo đã suy vi, Việt Nam mới theo hẳn một hệ thống chính trị Nho Giáo khắc nghiệt.

Một số tác giả hay nói tới một đặc tính của văn hóa Việt Nam là tam giáo đồng nguyên, ý nói sự sống chung hài hòa giữa Phật Giáo, Nho Giáo và Lão Giáo. Nhưng "tam giáo đồng nguyên" là một cụm từ của Trung Quốc rất vô nghĩa và cũng rất sai trong bối cảnh Việt Nam. Phật Giáo đã phát triển trước Nho Giáo rất lâu, Nho Giáo phát triển được không bao lâu thì quay ra hạ bệ Phật Giáo ngay, không làm gì có sự chung sống hài hòa. Còn ảnh hưởng của đạo Lão tại Việt Nam thì không đáng kể, người Việt hình như không hiểu gì về triết lý Lão Tử, chỉ tiếp thu một vài yếu tố hời hợt và mau chóng hội nhập chúng vào những mê tín đồng bóng.

Một yếu tố quan trọng khác của văn hóa Việt Nam là đặc tính văn hóa phù sa rất mãnh liệt. Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra trăm con, một nửa theo mẹ lên núi, một nửa theo cha xuống biển là ở thời Xuân Thu Chiến Quốc. Tại sao lại "xuống biển" ? Có lẽ phải hiểu là xuống vùng đồng bằng sông Hồng, lúc đó còn ngập nước sông vào mùa lũ, như vậy là lúc đó con đê sông Hồng chưa có và mới chỉ được đắp lên sau đó. Đê sông Hồng chỉ bắt đầu đắp lên sớm nhất là dưới thời nhà Triệu và được các quan cai trị người Tàu đốc thúc xây dựng tiếp. Hiện tượng này có tầm quan trọng đặc biệt. Người Trung Quốc đã phải mất ba bốn ngàn năm để ổn định việc đê điều trên hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử. Chúng ta có lẽ là nền văn minh phù sa muộn nhất. Tổ tiên ta vốn đã ít người mà lại phải thực hiện trong khoảng thời gian một ngàn năm công việc mà các dân tộc khác đã thực hiện trong ba, bốn ngàn năm, sự tàn bạo mà họ phải chịu đựng đã gấp ba bốn lần. Mọi xã hội phù sa đều chật vật và hệ lụy nặng nề với nước và đất, nhưng tổ tiên ta chắc chắn đã khổ cực với nước và đất hơn nhiều, họ đã phải trả những giá vô cùng đắt cho việc hình thành đồng bằng sông Hồng, đến nỗi nước và đất là tất cả đối với họ.

Quốc gia nào thành lập trên lưu vực của những con sông lớn cũng đều mang nặng dấu ấn của nền văn minh phù sa : cần cù, nhẫn nại, nhưng thủ cựu, thiếu sáng kiến và thiếu óc mạo hiểm. Chúng ta còn mang nặng đặc tính văn minh phù sa hơn những xã hội khác, những ưu và khuyết điểm đó còn hiện diện mạnh mẽ hơn trong tâm lý và văn hóa của chúng ta.

Một nét đậm khác là chúng ta là một dân tộc bị nô lệ quá lâu. Chúng ta nô lệ người Trung Quốc hơn mười thế kỷ. Các chế độ độc lập sau đó cũng đã rập khuôn theo guồng máy thống trị của người Trung Quốc. Việt Nam tuy có độc lập nhưng thân phận của người trong nước không thay đổi là bao. Niềm an ủi duy nhất, và không phải không có tầm quan trọng, là được thấy các vua quan cũng giống mình và nói cùng ngôn ngữ với mình. Một cách trớ trêu có lẽ thời Pháp thuộc lại là thời dân ta được tự do suy nghĩ và phát biểu nhất, ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn ngủi tại miền Nam Việt Nam. Lịch sử chật vật đó đã để lại những dấu ấn rất đậm trong văn hóa, trong cách suy nghĩ và hành động của chúng ta. Bản chất nô lệ vẫn chưa rời hẳn chúng ta. Nói ra như vậy có thể làm phiền lòng một số độc giả, chính tôi cũng rất phiền lòng, nhưng di sản của ta thế nào thì ta phải nhận thế ấy. Ta cần biết mình là ai để biết mình có thể làm gì và phải làm gì. Vả lại ta không nên quan niệm đất nước chỉ là lịch sử và địa lý. Đất nước trước hết là một dự án tương lai chung. Nếu từ những di sản không mấy thuận lợi này mà ta xây dựng được một đất nước đáng tự hào thì cuộc sống của chúng ta lại càng có ý nghĩa.

Published in Tư liệu

Bài viết ký ngày "Đầu năm Đinh Dậu 2017" có tựa đề : "Tổ Quốc Ăn Năn : một lừa đảo thế kỷ" được ông Nguyễn Gia Thưởng đăng trên trang mạng đã ăn cắp được của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đưa ra 12 thí dụ tiêu biểu để khẳng định "Tổ Quốc Ăn Năn chính là bản sao của quyển Le Mal Français. Một bản sao như một cặp song sinh : anh là người Pháp, em là người Việt !".

tqan1

Nguyễn Gia Kiểng và Tổ Quốc Ăn Năn 

Lời Tòa Soạn của trang mạng này tri hô : "Đọc xong Le Mal Français của Alain Peyrefitte, độc giả sẽ thấy Tổ Quốc Ăn Năn chính là bản sao của quyển Le Mal Français. Một bản sao như một cặp song sinh : anh là người Pháp, em là người Việt !

Đây là một bằng chứng tố cáo một vi phạm đạo đức, vi phạm luân lý và lương tâm của người cầm bút. Tác giả Tổ Quốc ăn Năn đã mượn toàn bộ ý tưởng của quyển Le Mal Français của Alain Peyrefitte và đem xào nấu vào trong tiếng Việt. Ông đã đánh cắp hầu hết ý tưởng và câu văn trong cuốn sách này. Và ngay cả cách bố cục và lối hành văn cũng được tác giả nhập tâm một cách kỹ lưỡng và sao chép không hề ngần ngại, không hề ngượng ngùng. Nói tóm lại, ông đã phạm tội đạo văn !".

Đọc Lời Tòa Soạn của ban biên tập dù không ai không khỏi nghi ngờ ông Thưởng cũng là người viết Lời Tòa Soạn, người đọc cảm thấy đây là một ban biên tập bất thường. Tác phẩm Tổ Quốc Ăn Năn của ông Nguyễn Gia Kiểng trưng dẫn một khối tài liệu khổng lồ, được viết bằng một mạch luận mạnh mẽ chưa từng có của của một con người độc lập, triệt để đánh giá lại toàn bộ lịch sử nước nhà, văn hóa, tâm lý, các giá trị xã hội hằng tôn thờ, các phong tục, tập quán, đạo đức, triết lý, kinh tế… tức mọi mặt của đời sống dân tộc, quốc gia vốn đã góp phần làm nên một đất nước Việt Nam thất bại như ngày hôm nay nhưng được ông Thưởng trưng ra chỉ 12 bằng nhưng không có chứng để quy chụp, vu khống, xúc phạm, đánh phá uy tín tác giả Nguyễn Gia Kiểng.

Mọi bằng chứng của ông Thưởng sẽ hụt hẫng nếu bạn đọc gạt bỏ tiền đề đã được khẳng định trước của ông Thưởng rằng cuốn "Tổ Quốc Ăn Năn là bản sao của cuốn Le Mal Francais của ông Alain Peyrefitte" và chỉ được dùng cuốn Le Mal Francais để tham khảo. Nếu có nhiều tác phẩm khác của vô số tác giả khác cũng nói về 85 đề tài nóng bỏng và khẩn cấp về con người và đất nước hôm nay cả bằng Việt ngữ, Pháp ngữ và Anh ngữ, Nhật ngữ… được nêu lên trong Tổ Quốc Ăn Năn thì là vấn đề khác không nên xét đến !

Bài viết xin này tập trung vào 12 bằng chứng ông Thưởng cho là "đạo văn" mà ông cho là đã vi phạm đến đạo đức, luân lý và lương tâm người cầm bút của thế kỷ này.

"Đạo văn" (plagiarism) là hiện tượng xảy ra trong các trường đại học khi sinh viên hết ý, không có ý, không đọc tài liệu, lười biếng đã sao chép (thường là copy, cut), sửa đổi đôi chút các ý tưởng, câu cú từ những nguồn tham khảo không được ghi rõ xuất xứ rồi paste (in vào) bài nghị luận hay tranh luận của mình. Tất cả các trường đại học đều có răn đe các sinh viên về nạn "đạo văn", dù "đạo văn" không chỉ xảy ra ở các trường đại học.

Trường đại học Oxford (Anh Quốc) định nghĩa đạo văn ngắn gọn : Đạo văn là lấy công trình [tác phẩm] hay ý tưởng của người khác, bất chấp có sự đồng ý hay không đồng ý của họ hay không đưa vào làm công trình riêng của mình mà không ghi nhận đầy đủ nguồn xuất xứ

[Plagiarism is presenting someone else"s work or ideas as your own, with or without their consent, by incorporating it into your work without full acknowledgement (web Oxford University/academic matters)].

Trường Oxford đưa ra một 7 thí dụ để sinh viên hiểu thế nào là đạo văn. Bạn đọc có thể vào web đã nêu trên nếu muốn tìm hiểu, nhưng vì giới hạn của bài viết này không thể trích lại được vì quá dài. Người viết chỉ xin ghi nhận điều quan trọng nhất trong trường thi là cần phải ghi nguồn xuất xứ khi sử dụng tài liệu của người khác.

Trường thi là thế, trong trường đời cũng có lắm những trường hợp đạo văn ly kỳ mà thời sự tiêu biểu nhất là trường hợp bà đương kim đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ Melanie Trump đã bị tố giác "đạo văn" một đoạn của bà nguyên Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ, bà Michelle Obama, được phát biểu trên cùng một sân khấu chính trị, chỉ khác thời gian, là Đại hội Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc Hoa Kỳ.

Ngày 18/7/2016, bà Melanie Trump đọc diễn văn vận động cho chồng là ông Donald Trump nhân ngày Đại Hội đảng Cộng Hòa Toàn quốc tại Cleveland, Ohio.

Trong một đoạn bà Trump nói : "My parents impressed on me the values that you work hard for what you want in life ; that your word is your bond and you do what you say and keep your promise ; that you treat people with respect".

Tạm dịch : Phụ thân của tôi đã khắc ghi trong tôi những giá trị rằng bạn phải làm việc hết sức cho những gì bạn muốn trong cuộc đời ; rằng lời nói của bạn là sự cam kết và bạn làm những gì bạn nói và giữ lời hứa ; rằng bạn phải kính trọng mọi người".

So với một đoạn trong bài phát biểu của bà Michelle Obama cũng nhân ngày Đại hội Đảng Cộng Hòa Toàn quốc năm 2008 :

"And Barack and I were raised with so many of the same values : that you work hard for what you want in life ; that your word is your bond and you do what you say you're going to do ; that you treat people with dignity and respect, even if you don't know them, and even if you don't agree with them".

Bạn đọc có thể chấm điểm bà Trump có đạo văn bà Obama hay không dựa trên định nghĩa của trường Oxford nhưng phe bà Trump và ông Trump phản đối tố giác bà Trump đã đạo văn vì bà Trump chỉ sử dụng từ ngữ thông dụng (common words) chứ không có ý đạo văn bà Obama.

Cũng cần lưu ý ở đây cả hai nhân vật trên cùng sử dụng Anh ngữ, sự đạo văn dễ nhận ra giữa các từ ngữ, câu cú, ý tưởng hai đoạn của hai bài nói chuyện. Khác biệt ngôn ngữ chắc chắn sẽ gây tranh cãi hơn vì còn phải dựa vào tính chuyên môn của người phiên dịch. Yếu tố "đệ tam nhân" làm cho sự trung thực của bài đọc, bài viết phải được xem xét lại vì có nhiều trường hợp như người ta nói "dịch là giết". Đặc biệt là khi người dịch có ý gian xảo chọn lựa, thêm thắt các từ ngữ sao cho ăn nhập với kết luận chủ ý của người dịch.

Xét đến 12 bằng chứng do ông Nguyễn Gia Thưởng đưa ra, tính trung thực của các bằng cớ đã có vấn đề lớn vì ông Nguyễn Gia Thưởng đã để lộ ra xúc cảm cá nhân vượt quá tính chuyên môn của người phiên dịch. Nhưng ta hãy tạm chấp nhận các phần "tạm dịch" của ông Nguyễn Gia Thưởng và tạm nhận trên cõi đời này chỉ có hai cuốn Le Mal FrancaisTổ Quốc Ăn Năn viết về các vấn đề Việt Nam tương tự. Sự tạm nhận rất là miễn cưỡng vì giữa "Người Pháp xấu xí" thì có ăn nhập gì đến "Tổ Quốc Ăn Năn" nhưng nếu không có sự tạm nhận miễn cưỡng này, các bằng chứng ông Thưởng đều không đáng suy nghĩ.

Thí dụ 1 :

1. Le Mal Français : page 12 – Que la France fût continuellement malchanceuse, j'en acquis très tôt la conviction. L'histoire qu'on nous enseignait m'en fournissait les tristes preuves.

- Dịch : Tôi đã sớm xác định được rằng nước Pháp thường xuyên gặp sự không may. Môn sử mà chúng ta học đã cho tôi hàng loạt bằng chứng buồn lòng.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 211 - (Dừng chân nghĩ lại) - Nhân nói về cuộc Nam tiến, cũng cần nhận định rằng lịch sử nước ta có cái gì đó thực u uất. Trong suốt quá trình mở nước và dựng nước của ta hình như các biến cố trọng đại lúc nào cũng khởi đầu từ những sự không may.

Người tinh ý sẽ thấy phần dịch Việt ngữ đã bỏ mất câu "j'en acquis très tôt la conviction". Dù không phải là người thông thạo tiếng Pháp nhưng tôi nghĩ câu này nếu có lợi cho ý đồ của ông Nguyễn Gia Thưởng thì ông đã không bỏ qua câu này. Câu này có nghĩa "tôi đã nhận ra rất sớm xác tín này". Câu này ông Thưởng không tìm thấy trong đoạn văn của ông Kiểng và vì không có lợi cho khẳng định của mình nên ông Thưởng cho qua phà. Yếu tố khách quan và chuyên môn của người dịch phải được đánh giá nghiêm khắc ở đây.

Dù vậy, bạn đọc khách quan cũng nhận thấy cách lập luận hai đoạn văn này giữa hai tác giả chẳng có ăn nhập gì với nhau ngoài danh từ "sự không may". Danh từ "sự không may" tự nó không phải là một đặc ngữ, một bí ẩn ngữ cao siêu mà nhiều người khác không biết đến để khi diễn tả một ý tưởng tương tự, chỉ có thể bị tội ăn cắp của ông Peyrefitte.

Ông Nguyễn Gia Thưởng không màng đến xuất xứ của các nhận định đã được tác giả Nguyễn Gia Kiểng xác nhận trong các thí dụ trên. Thí dụ (2) là một giáo sư người Pháp, thí dụ (5) là người Hòa Lan và thí dụ (7) là Napoléon I. Ông Thưởng quá hăng hăng quy chụp ông Kiểng nên đã không quên mất nguồn xuất xứ đã được chỉ ra.

Thí dụ 2 :

2. Le Mal Français : page 14 - "la France enjuivée, revenu au temps de Dreyfus". "Les Français ne s'aiment pas", me disais-je.

- Dịch : Nước Pháp Do Thái hóa, lui về thời Dreyfus. Tôi tự nhủ : "Người Pháp không yêu thương nhau".

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 71 - "Ông kể lại rằng khi ông còn trẻ vừa tới Pháp du học, một giáo sư người Pháp có kinh nghiệm nhiều về Việt Nam đã nói về người Việt Nam rằng : "Ils ne s'aiment pas" (người dịch : Họ không yêu thương nhau).

Thí dụ 3 :

3. Le Mal Français : page 48 - Un peuple dégoûté de l'histoire. "Les Français se considèrent comme un peuple en décadence, sinon comme un peuple fini… Ils sont malades de ce que j'appellerais le dégoût de l'histoire". Le sursaut pouvait-il venir de ce peuple résigné ?

Dịch : Một dân tộc chán ghét lịch sử. "Người Pháp tự coi mình là một dân tộc suy thoái nếu không gọi thẳng ra là một quốc gia đã hết thời... Theo tôi, họ mắc phải căn bệnh ghê tởm lịch sử". Một dân tộc đã buông xuôi như vậy liệu có thể nào bừng tỉnh được không ?

Tổ Quốc Ăn Năn : trang 117 và 118 - Chính vì thế mà chúng ta luôn luôn thụ động để cho thực tế xô đẩy chứ không chủ động việc tổ chức tương lai của mình. Quan tâm về lịch sử, nghĩa là ý niệm quốc gia, đã tới chậm như vậy lại không được coi trọng. Sử bị bỏ rơi trong hơn hai thế kỷ… Cuối cùng chúng ta không biết rõ lịch sử của chúng ta, mà còn bị tiêm nhiễm những nhận định rất lệch lạc.

Hai đoạn văn độc lập với nhau từ ý tưởng, ngôn ngữ diễn đạt và cả câu cú. Đây là một thí dụ tiêu biểu về sự cưỡng ép thô bạo của ông Thưởng để ghép ông Kiểng vào tội đạo văn.

Thí dụ 4 :

4. Le Mal Français : page 104 - Louis XIV n'avait d'autre grand dessein que faire ployer le genou aux princes et aux nations : il dévastait les Flandres, la Hollande, le Palatinat, les pays Rhénans, le val d'Aoste ; il bombardait Gênes et Bruxelles ; il forçait les autres États à reconnaître le présénce des ambassadeurs de France ; il humiliait le pape Alexandre VII ; il rompait les traités, il ne donnait sa parole que pour la reprendre.

Dịch : Vua Louis XIV không có tham vọng nào khác hơn là bắt các ông hoàng và các quốc gia quì gốiÔng ta tàn phá xứ Flandres (n.d. : một phần của Hà Lan), Hà Lan, đất vương công Palatinat (n.d. : một phần của Đức), xứ Rhénans (n.d. : một phần của Đức), xứ Val d'Aoste (n.d. : một phần của Ý), dội pháo thành Gênes et Bruxelles, buộc các nước khác phải nhượng bộ Đại sứ Pháp, ông ta hạ nhục Giáo hoàng Alexandre VII, phá hủy các hiệp ước, hứa hẹn chỉ để rồi nuốt lời (tráo trở, lật lọng).

Tổ Quốc Ăn Năn : trang 157 và 167 - Nguyễn Huệ là một con người hung bạo đánh tất cả mọi người : đó là một sự thực… Nguyễn Huệ dùng bạo lực và sự tráo trở trong mọi trường hợp đối với bất cứ ai có khả năng trở thành một đối thủ… Nguyễn Huệ tiêu biểu cho những giá trị mà chúng ta cần đánh đổ : võ biền, độc đoán, hung bạo, lật lọng trái ngược với những giá trị ta cần phát huy. (Chú thích : Tác giả đã hoán chuyển nhân vật Louis XIV thành vua Quang Trung).

Vua Louis XIV và vua Nguyễn Huệ chắc chắn không thể là anh em song sinh để có thế hoán chuyển người này sang người khác. Một người có nguồn gốc quý tộc, lên ngôi vua khi mới 4 tuổi thì có gì giống với hoàng đế Nguyễn Huệ phải gây đao binh để lập nghiệp đế vương ? Những khó khăn chính trị, cai trị, trấn áp đối thủ… hoàn toàn là đặc thù của quốc gia sở tại sao lại có thể hoán đổi với nhau làm một được ?

Bằng chứng đạo văn hung hồn có tính thế kỷ của ông Thưởng là hai tính từ tráo trở, lật lọng mà dựa vào đó ông Thưởng khẳng định ông Nguyễn Gia Kiểng đã "hoán chuyển nhân vật Louis XIV thành vua Quang Trung" ! Khổ nỗi hai từ lật lọng, tráo trở được đóng trong ngoặc đơn, là sáng tác của ông Thưởng chứ không phải của ông Peyrefitte ! Trong những thí dụ khác, ông luôn mở ngoặc đơn để viết (n.d.) tức người dịch để tách ra khỏi tác giả, nhưng trong đoạn này ông phá lệ. Ông ngầm tạo ra cảm nhận chính tác giả Peyrefitte đã viết như thế. Có thể có bạn đọc không để ý đến tiểu tiết gian xảo này nhưng về mặt phiên dịch chuyên môn, đây là một lỗi không thể tha thứ. Xét theo trích dẫn Pháp văn của ông Thưởng, không có từ nào là lật lọng tráo trở trong nguyên tác. Ông Thưởng phải "kiếm thêm" để ghép cho ăn nhập với từ lật lọng, tráo trở được ông Nguyễn Gia Kiểng mô tả tính khí của vua Quang Trung trong tiểu luận này. Việc gán ghép thêm nỗi lòng cá nhân của ông Thưởng qua chứng minh trên cho thấy ông Thưởng thiếu hẳn lòng tự trọng và tính trung thực của một người công chính. Ông Thưởng cũng đã thiếu sự kính trọng đối với tác giả Peyrefitte.

Nếu có chăng trường hợp ông Nguyễn Gia Kiểng chỉ đọc mỗi một cuốn Le Mal Francais rồi viết được cuốn Tổ Quốc Ăn Năn với 618 trang và 82 tiểu luận (!) thì người ta chỉ có thể nói nhân vật Louis XIV đã gây cảm hứng, kích thích, thúc đẩy một tác giả viết về một tiểu luận mới. Viết một tiểu luận mới lấy cảm hứng từ một tác giả không phải là đạo văn, đạo ý mà nó là sáng tạo một tác phẩm mới. Nhưng đã có bằng chứng nào để nói ông Kiểng đã lấy cảm hứng từ cuốn Le Mal Francais, khi một nhân vật lịch sử như vua Louis XIV phải có hàng chục, trăm tác giả viết về ông vua này cứ gì chỉ ông Peyrefitte. Trước Louis XIV đã có các vô số các vua gian ác như Nero của La mã, có Trụ Vương, Tần Thủy Hoàng của Tàu, có Stalin của Nga và có Mao Trạch Đông… thì ai có thể khẳng định ông Nguyễn Gia Kiểng lấy cảm hứng từ Louis XIV ? Mới đây trên đài truyền hình SBS Úc châu đã chiếu một phim tài liệu nhiều tập về cuộc đời Vua Louis XIV. Chẳng thấy có ghi nhận công ơn trời biển của ông Peyrefitte trong bộ phim này.

Thí dụ 5 :

5. Le Mal Français : page 136 - "Dieu a créé la terre mais les Hollandais ont créé les Pays Bas". Vieux dicton hollandais.

- Dịch : "Thượng đế đã tạo ra thế giới, nhưng chính người Hòa Lan đã làm ra đất nước Hòa Lan" - tục ngữ cổ Hòa Lan.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 31 - Người Hòa Lan thường tự hào : "Thượng đế đã tạo ra thế giới, nhưng chính chúng tôi đã làm ra đất nước này".

Thí dụ 6 :

6. Le Mal Français : page 138 - Elle possède certaines des plus puissantes sociétés mondiales : la Royal Dutch Shell, Unilever. L'empire industriel et commercial de Philips qui donne du travail à plus de 250.000 personnes en divers pays.

Dịch : Nước này (n.d : Hòa Lan) sở hữu nhiều công ty hùng mạnh trên trường quốc tế như Royal Dutch ShellUnilever. Đế chế công nghiệp và thương mại Philips tạo công ăn việc làm cho 250.000 người tại nhiều quốc gia.

Tổ Quốc Ăn Năn : trang 31 - Các công ty lớn của Hòa Lan như PhilipsRoyal DutchUnilever có chi nhánh trên khắp các lục địa và tại tất cả các quốc gia phát triển.

Thí dụ 7 :

7. Le Mal Français : page 138 - Une nation de boutiquiers - "C'est une nation de boutiquiers" disait avec dédain Napoléon.

- Dịch : Một quốc gia chủ tiệm - Napoléon đã từng nhận xét với thái độ miệt thị (n.d : về nước Anh) : "Đó là một quốc gia của mấy người chủ tiệm".

-Tổ Quốc Ăn Năn : trang 398 và 399 - Anh : một dân tộc bán tiệm. Napoléon I có lần nhận định một cách không mấy nể nang người Anh là một "dân tộc bán tiệm" (un peuple de boutiquiers).

Ba "bằng chứng" này không thể áp dụng định nghĩa đạo văn theo trường đại học Havard được. Xuất xứ của thông tin đã được tác giả ghi nhận.

Thí dụ 8 :

8. Le Mal Français : page 139 - Le miracle suisse - La Suisse n'est pas mieux dotée par la nature que les Pays-Bas. Elle est un peu plus grande, mais si montagneuse que la moitié de son territoire ne permet ni culture ni même élevage. Pas de sources d'énergie, si ce n'est hydraulique. Pas, ou presque, de minerais.

- Dịch : Phép màu Thụy Sĩ - Thiên nhiên không ưu đãi Thụy Sĩ hơn so với Hòa Lan. Rộng lớn hơn một chút, nhưng nhiều núi non mà quá nửa diện tích không thể trồng trọt hay thậm chí chăn nuôi. Không có nguồn năng lượng nào, ngoại trừ thủy điện. Hầu như không có khoáng sản.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 405 - Như Thụy Sĩ, quốc gia nhỏ bé và bị quên lãng trong nhiều thế kỷ, không có bờ biển, không tài nguyên thiên nhiên, lại thêm núi non trùng điệp, vậy mà đã trở thành quốc gia giàu có nhất thế giới.

Đây là kiến thức phổ thông được giảng dạy từ cấp trung học nói về Thụy Sĩ, Hòa Lan, kể cả Nhật Bản, Đại Hàn là những quốc gia không có ưu đãi thiên nhiên, ít tài nguyên, nhưng đã biến sự thua kém thiên nhiên thành sức bật để vươn lên hàng cường quốc trung bình trên thế giới. Nó không phải là kiến thức mới mẻ mà đã có trong giáo trình môn Sử Địa bậc trung học tại miền Nam trước năm 1975. Những thông tin này không phải vừa mới được ông Peyrefitte tìm thấy ngày hôm qua để ông Nguyễn Gia Kiểng phải đạo ý mới mẻ này của tác giả Le Mal Francais.

Xin lạm bàn một chút về kiến thức phổ thông. Kiến thức là gì nếu không phải là những gì tồn đọng lại trong ký ức của một người sau khi đã tiêu hóa hết thông tin ? Số lượng thông tin ít nhiều do sự tiếp thu của cá nhân và trở thành kiến thức cá nhân. Nó là tài sản học thức cá nhân. Tài sản tinh thần là một phương tiện căn bản để giúp một người có thể dựa vào đó thi thố với đời. Trên mặt cá nhân, giải quyết những khó khăn cá nhân để mưu tìm hạnh phúc và trên mặt xã hội, giải quyết những khó khăn chung của xã hội để đóng góp phần mình vào sự thăng tiến phồn vinh của xã hội. Tài sản tinh thần của một người là kết quả tích lũy kinh nghiệm sống của hàng ngàn thế hệ trước đó. Trong kiến thức của mỗi cá nhân có món nợ kinh nghiệm hàng ngàn năm của tiền nhân. Một câu viết, một câu nói của cá nhân đương đại phản ánh cả một tiến trình tiến hóa hàng ngàn năm về mặt ngôn ngữ của con người. Trong mỗi nhân dạng của con người hôm nay có hình bóng của hàng ngàn thế hệ động vật tiến hóa trước đó. Vậy chỉ có những kiến thức thông tin độc nhất, xuất chúng nhất và riêng biệt nhất mới nên thể được vinh danh ghi nhận. Những kiến thức đã được coi là phổ thông không thể có truy tìm xuất xứ và rất nhiều khi không tìm ra xuất xứ. Khi nói về sự hợp quần gây sức mạnh, một cây làm chẳng nên non, người Anh Mỹ nói "một con se sẻ không làm nên mùa hè" (a sparrow does not make a summer) nhưng người Việt Nam ta sẽ nói "một con én không làm nổi mùa xuân" . Một nhận xét thông thường được diễn tả bằng ngôn ngữ khác nhau, vậy ai đã đạo văn, đạo ý của ai trong câu nói trên ?

Kiến thức phổ thông các về Hòa Lan, Thụy Sĩ, Đại Hàn, Nhật Bản… đều có một một đặc tính là nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên nhưng đã vươn lên thành cường quốc kinh tế, không phải do một cá nhân ông Alain Peyrefitte tìm ra mà mọi người dùng đến những từ ngữ thông dụng đều là bị ông Thưởng cho là đạo văn.

Thí dụ 9 :

9. Le Mal Français : page 320 - Il n'y a sans doute pas de pays au monde où les diplômes soient mieux respectés et leur validité aussi persistante.

- Dịch : Có lẽ không có nước nào trên thế giới mà người ta lại tôn thờ bằng cấp như vậy và bằng cấp lại có giá trị bền bỉ đến thế.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 52 và 53 - Hình như đối với người Việt bằng cấp là quan trọng nhất, và một con người trước hết được đánh giá qua những bằng cấp mà mình có. Bằng quí như thế nên tôi đã từng thấy những người "chơi bằng". Họ có đủ loại bằng cấp… Bằng cấp đối với người Việt vì vậy có một tầm quan trọng rất đặc biệt.

Hai đoạn này không thể song sinh được xét về mặt ngôn ngữ diễn đạt một khía cạnh tâm lý xã hội tương đồng. Khi chuyển dịch lại đoạn tiếng Việt trong thí dụ này sang tiếng Pháp người đọc sẽ thấy rõ ràng sự khác biệt về ngôn ngữ và ý tưởng. Tâm lý yêu chuộng bằng cấp là tâm lý xã hội của nhiều quốc gia chứ không chỉ riêng Pháp và Việt Nam. Nó là một tâm lý thông thường trong một xã hội đóng kín trong đó bằng cấp chứ không phải kiến thức được dùng làm thước đo khả năng hiển đạt vinh thăng xã hội của một người. Riêng xã hội Việt Nam thì từ ngày xưa đã câu dân gian "chẳng tham ruộng cả ao điền, tham vì cái bút cái nghiên anh đồ" mà ngày tâm lý này đã phát triển tột đỉnh đưa đến tệ nạn mua bán, gian lận bằng cấp đã tràn ngập xã hội và guồng máy nhà cầm quyền Việt Nam. Vậy tác giả Nguyễn Gia Kiểng không thể nói đến tệ trạng xã hội rộng khắp này ở Việt Nam mà không bị quy chụp ăn cắp ý tưởng của một người khác ?

Thí dụ 10 :

10. Le Mal Français : page 414 - Ignorance de la géographie et de l'histoire. Que "le Français ignore la géographie" était passé en proverbe chez les étrangers.

- Dịch : Dốt nát về địa lý và lịch sử - Bảo rằng "người Pháp dốt đặc về địa lý" đã thành câu tục ngữ cửa miệng của người nước ngoài.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 118 – Quan tâm về lịch sử, nghĩa là ý niệm quốc gia, đã tới chậm như vậy lại không được coi trọng mà còn bị tiêm nhiễm những nhận định rất lệch lạc.

Về mặt "đạo văn, đạo ý", nếu dịch các đoạn của tác giả Tổ Quốc Ăn Năn ra Pháp văn sẽ thấy sự khác biệt trong lập luận, ý tưởng và văn ý của ông Nguyễn Gia Kiểng so với tác giả Le Mal Francais.

Tâm lý, văn hóa thiếu quan tâm đến lịch sử và địa lý xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới không chỉ ở Việt Nam. Sự coi thường hai lãnh vực này tác động bao nhiêu đến xã hội là nhận định riêng của những cá nhân hằng trăn trở thao thức vì các bế tắt của xã hội. Bạn có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng không thể nói đó là sự sao chép lại quan điểm của một người hay nhiều người có cùng nhân định tương tự. Phải chăng chỉ vì ông Peyrefitte nói về nhận xét riêng của ông trên xã hội Pháp, mà không một người Việt Nam nào có thể nhận xét độc lập về xã hội của mình mà không bị gán ghép là cóp nhặt của người khác ? Nghĩ rằng một dân tộc xuất hiện lâu đời đã hàng ngàn năm nhưng không có được nhiều người có thể độc lập tư tưởng, suy nghĩ và can đảm đánh giá lại tác động của những giá trị xã hội tôn vinh hay thiếu sót đã đưa xã hội đến lụn bại như ngày hôm nay như tác giả Nguyễn Gia Kiểng là mặc cảm tự ti, nô lệ tư tưởng thấp kém của những người như ông Thưởng.

Thí dụ 11 :

11. Le Mal Français : page 414 – Ignorance de la géographie et de l'histoire. Nous répugnons à admettre des progrès évidents. Nous vivons sur des stéréotypes anciens, sans nous demander s'ils ne sont pas devenus désuets. Par exemple : "Les Français ne lisent pas". On cite une vieille statistique, toujours la même, d'avant le livre de poche.

- Dịch : Ngu dốt về địa lý và lịch sử. Chúng ta không chịu thừa nhận sự tiến bộ hiển nhiên. Chúng ta sống theo những khuôn mẫu cũ mà không tự hỏi xem nó đã lỗi thời hay chưa. Ví dụ như "Người Pháp không chịu đọc" : Họ cứ nhai đi nhai lại mãi những con số thống kê cũ rích, từ cái thuở sách bỏ túi còn chưa ra đời.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang 107 và trang 109 - Phải nhìn nhận một sự thực đau lòng : chúng ta là một dân tộc không biết đọc, không biết viết và không biết nói. Người Việt không biết truyền thông, không biết đọc, không biết viết, v.v…

Thí dụ 12 :

12. Le Mal Français : page 461 - Le propos de ce livre n'était pas d'établir un programme ou un "manifeste" mais de réfléchir et de faire réfléchir pour contribuer peut être, en suscitant un débat d'idées à nourrir les programmes et manifestes que d"autres, ensuite viendront élaborer.

- Dịch : Mục đích của cuốn sách này không phải là để thiết lập một chương trình hay một "tuyên ngôn" mà là để ngẫm nghĩ, và khiến độc giả cùng ngẫm nghĩ, hy vọng tạo dịp trao đổi ý kiến, hầu đóng góp nuôi dưỡng những chương trình hay tuyên ngôn của những ai tiếp tục phát triển sau này.

- Tổ Quốc Ăn Năn : trang XI – Cuốn sách này là một cuốn sách để thảo luận ý kiến, mục đích chỉ là đề xướng ra mà không kết thúc các cuộc thảo luận.

Hai mục đích của hai tác giả trong hai cuốn sách này đề ra trong phần này khác nhau thì sao lại là đạo văn cho được ?

Đúc kết :

Qua 12 bằng chứng của ông Nguyễn Gia Thưởng như được phân tích, cho thấy não trạng của một người đã khẳng định trước một kết luận sẽ tìm mọi cách để bênh vực lý lẽ của mình bằng mọi phương tiện kể cả bất lương. Nó chỉ là kết quả của một nhận định sơ sài, hồ đồ thiếu hẳn sự thận trọng của một người quan sát bình thường.

Tính bất lương của ông Nguyễn Gia Thưởng được thể hiện trơ trẽn táo tợn trong phần kết luận của ông :

"Để bước sang một năm mới trong tinh thần lương thiện và lành mạnh, lật sang một trang sử mới trong việc xây dựng tổ chức, tạo nấc thang cho tiến trình dân chủ hóa đất nước, chúng tôi mời tác giả Tổ Quốc Ăn Năn hoàn trả cho ông Alain Peyrefitte những gì của ông Alain Peyrefitte".

Ông Thưởng kêu gọi sự lương thiện "hoàn trả cho ông Alain Peyrefitte những gì của ông Peyrefitte" trong tiếng cổ vũ hoan hô nhao nhao đòi "giải trình, giải trình" của những người đồng chí của ông Thưởng khiến người ta không khỏi liên tưởng đến hoạt cảnh bọn côn đồ bắt Vương ông và Vương quan trong truyện Kiều của Nguyễn Du :

Người nách thước, kẻ tay dao

Đầu trâu mặt ngựa, ào ào như sôi

(Nguyễn Du, Kiều, câu 493-494)

Ông Nguyễn Gia Thưởng là người chủ động và chủ chốt trong nhóm ly khai đã ăn cắp cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là ethongluan.org. Ông Thưởng dựa trên web ăn cắp để đăng bài vu cáo ông Nguyễn Gia Kiểng mà không có sự lương thiện để hoàn trả lại cho Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên những gì của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Nhưng ông Thưởng lại muối mặt nhân danh sự lương thiện để kêu gọi ông Kiểng trả lại cho ông Peyrefitte những gì… của ông Kiểng !

Victor Hugo trong tác phẩm kinh điển "Những Kẻ Khốn Cùng" kể chuyện một tên ăn cắp nhưng quyết hoàn lương, sống làm người tử tế trong quảng đời còn lại. Ông Nguyễn Gia Thưởng xem ra đang viết một câu chuyện trái ngược. Từ làm một người tử tế trong 30 năm, nay bắt đầu cuộc đời của một tên ăn cắp !

Mười hai bằng chứng khẳng định tác phẩm Tổ Quốc Ăn Năn của ông Nguyễn Gia Kiểng là bản sao của Le Mal Francais của Alain Peyrefitte chỉ nói thêm ngoài hành vi ăn cắp trộm đạo, ông Thưởng còn phạm tội vẽ bậy phá phách trên các tường thành công cộng (graffiti vandalism).

Sơn Dương

(Úc, 20/02/2017)

Tìm đọc :

Tổ Quốc Ăn Năn (649 trang)

Tải về PDF.

Tải về tệp apk (xem trên điện thoại android).

*******************

Phỏng vấn Nguyễn Gia Kiểng

(Vietinfo.eu, 12/12/2016)

Nguyễn Gia Kiểng là một tên tuổi không mới lạ đối với người Việt nói chung. Ông tốt nghiệp kỹ sư và học lên cao học kinh tế tại Pháp. Ông được biết đến nhiều với tư cách là một trong những người sáng lập ra tổ chức Tập hợp dân chủ đa nguyên. Cuốn Tổ Quốc Ăn Năn mà ông là tác giả, cũng mang lại nhiều ý kiến trái chiều.

Tháng 5/2015, một tác phẩm mới của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên do ông chấp bút nhan đề Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2, đã được giới thiệu với bạn đọc người Việt tại Mỹ. Tháng 6/2015, sách được giới thiệu với bạn đọc Việt tại Paris.

Ngày 17/12/2016, ông Nguyễn Gia Kiểng đã đến Praha để trao đổi với cộng đồng người Việt tại Cộng hòa Séc về nội dung của dự án chính trị dân chủ đa nguyên này.

Bài phỏng vấn này với tác giả Nguyễn Gia Kiểng chỉ nhằm mục đích tiếp cận cuốn sách mới thông qua cuốn sách đầu tiên và tác giả của chúng, để rồi sau đó cùng mở ra một cánh cửa mời cộng đồng Việt tại Séc đến đàm thoại cùng tác giả. Vì một vài lý do, bài phỏng vấn được thực hiện trong một thời gian rất gấp, và được gửi nguyên văn để các bạn đọc tự cảm nhận.

*****

Thanh Mai : Thưa anh Nguyễn Gia Kiểng, xin thú thực rằng đọc Tổ Quốc Ăn Năn đã lâu và đã không còn nhớ chi tiết, em đã chọn ra một cách tình cờ hai chương là Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi và Hồ Quý Ly và Mạc Đăng Dung để dành cho phạm vi bài phỏng vấn này. Nếu như anh Nguyễn Gia Kiểng muốn chọn chương nào khác, xin anh hãy cho biết.

1. Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi

Thanh Mai : Mở đầu bằng câu thơ của Phạm Duy, chương Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi như "ném" người đọc về lại với dòng sông êm đềm mang tên quê hương và tuổi thơ, để rồi phải trực diện với một nhận định khá... đanh thép của tác giả rằng "Một lý do quan trọng khác khiến chúng ta kém về truyền thông là chúng ta khinh thường tiếng Việt". Tuy nhiên chỉ dưới đó một đoạn, tác giả viết : "Những người trẻ trưởng thành tại hải ngoại có khả năng truyền thông hơn hẳn cha anh vì được huấn luyện một cách khác, được khuyến khích phát biểu; nhưng cũng vì tiếng Anh, tiếng Pháp được hấp thụ từ mẫu giáo và gần như là tiếng mẹ đẻ của họ. Họ không vướng một tiếng mẹ đẻ đã bị gạt bỏ".

Đầu tiên, xin anh cho giải thích hộ "Họ không vướng một tiếng mẹ đẻ đã bị gạt bỏ" là sao ?

Nguyễn Gia Kiểng : Xin cảm ơn Thanh Mai đã đặt câu hỏi này. Phải nhìn nhận một sự thực là cộng đồng người Việt hải ngoại đã mất căn cước văn hóa một cách rất nhanh chóng. Thế hệ thứ hai hầu như không còn sử dụng tiếng Việt nữa, họ đã gạt bỏ tiếng Việt. Họ phát biểu lưu loát hơn, mạch lạc hơn nhưng bằng tiếng Pháp, tiếng Anh hay tiếng Đức, tiếng của đất nước mà họ sinh ra hoặc lớn lên. Tại sao như vậy là một đề tài thảo luận lớn nhưng một trong những lý do chính là văn hóa của chúng ta không phong phú và ngôn ngữ của chúng ta quá sơ sài, cha mẹ không có gì để tự hào và cố gắng truyền lại cho con cái. Dân tộc nào xét cho cùng cũng gắn bó với nhau vì một vài cuốn sách lớn về giá trị văn học và tư tưởng, chúng ta thiếu những cuốn sách như thế.

Thanh Mai : Thực tế là thế hệ trẻ ở hải ngoại phần đông đều không nói tiếng Việt tốt. Do ảnh hưởng của văn hóa, văn minh phương Tây, họ (hầu như) không (được phép) khinh thường bất cứ điều gì, nhất là con người. Ngoại ngữ Anh, Pháp của họ tốt như tiếng mẹ đẻ, tốt hơn hẳn thế hệ thứ nhất. Nhưng như anh nói, họ làm truyền thông rất tốt. Vậy hình như truyền thông tốt hay không tốt, không hoàn toàn phụ thuộc vào tiếng Việt, thưa anh! Và xin anh giải thích thêm.

Nguyễn Gia Kiểng : Theo tôi họ truyền thông giỏi hơn chính nhờ sử dụng ngay từ đầu đời một ngôn ngữ phong phú và chính xác hơn. Ngôn ngữ quyết định phẩm chất của thông điệp và giá trị của truyền thông. Đàng sau mỗi ngôn ngữ là một cách suy nghĩ. Tiếng Việt của chúng ta còn sơ sài quá, chúng ta thiếu nhiều chữ, thí dụ như những chữ concept, conception, conceptualisation, conceptualiser, concevoir trong tiếng Pháp chúng ta chỉ có một từ "khái niệm" hoặc "quan niệm". Mặt khác tiếng Việt cũng chưa biết ghép tính từ với danh từ để tạo ra một tiếng mới, thí dụ như chữ "vĩ nhân" mà chúng ta mượn từ chữ Hán. Vĩ nhân là một khái niệm khác do cách ghép chữ vĩ, tính từ, với chữ nhân, danh từ, trong đó tính từ được đặt trước danh từ. Trong tiếng Việt tính từ chỉ đặt sau danh từ để nói lên một đặc tính chứ không tạo ra một từ mới. Tôi không phải là một nhà ngữ học, tôi chỉ sử dụng ngôn ngữ để truyền đạt ý kiến nhưng cũng thấy khó khăn của tiếng Việt so với hai ngôn ngữ khác mà tôi biết là tiếng Pháp và tiếng Anh. Ngôn ngữ cũng phần nào tiết lộ lịch sử của một dân tộc. Các ngôn ngữ tiến bộ thường đặt nền tảng trên hai động từ "có" và "là", tôi là ai và tôi có gì. Trong tiếng Việt động từ nền tảng lại là "ăn". Ăn nói, ăn ở, ăn trộm, ăn cướp, ăn tiền, ăn nằm, ăn ảnh, ăn năn, ăn thua v.v. Sự kiện chúng ta đồng hóa "thắng" và "ăn", nghĩa là kẻ thắng với kẻ được ăn, kẻ thua với kẻ không được ăn cũng chứng tỏ rằng trước khi tiếp xúc với nền văn minh Trung Hoa chúng ta còn ở một trình độ phát triển rất thấp. Mặt khác kinh nghiệm của các dân tộc đã chứng tỏ rằng một dân tộc muốn tiến lên phải sử dụng ngôn ngữ của mình chứ không thể vay mượn một ngôn ngữ khác dù hoàn chỉnh đến đâu. Hãy so sánh Hàn Quốc và Philippines. Chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là cải tiến tiếng Việt nếu muốn vươn lên.

Thanh Mai : Nếu tiếng Việt ta chưa hoàn chỉnh thì ta cần cải thiện và phong phú nó – thêm vào một số âm, chấp nhận thêm một số từ đa âm, chế ra một số tiếng mới cho những ý niệm mới – rồi tiếp tục phát huy nó. Ngôn ngữ là một cố gắng sáng tạo không ngừng" Anh viết những dòng trên đây vào thời điểm khi chưa có blog, chưa có các diễn đàn và mạng xã hội, và cùng với nó chưa có các ngôn ngữ @.

Anh có hài lòng với sự sáng tạo ngôn ngữ của lớp trẻ ngày nay ? Tại sao ? Anh có thể cho biết, sự sáng tạo trong ngôn ngữ cần bao hàm giá trị gì để anh có thể hài lòng với nó ? 

Nguyễn Gia Kiểng : Tôi chưa thể hài lòng. Ngôn ngữ FaceBook và Twitter mà tôi gặp thường ngày không tạo ra những tiếng mới mà thường chỉ là cách viết lóng, đôi khi ẩu, một từ có sẵn, thí dụ như "rùi" thay cho "rồi". Điều mà chúng ta cần là những từ mới để chỉ những khái niệm mới. Trong nhiều trường hợp chúng ta có thể lấy ngay tiếng Anh thay vì cố dịch ra tiếng Hán Việt và làm sai nghĩa và không giúp chúng ta tiếp thu một khái niệm mới một cách đúng đắn. Thí dụ như politics có nghĩa là "việc của thành phố", nghĩa là "việc nước" vì vào thời cổ Hy Lạp mỗi thành phố là một nước nhỏ. Chúng ta dịch politics thành "chính trị", một khái niệm gần như đồng nghĩa với cai trị hay quyền lực. Hậu quả là người ta không thấy chính trị ngày nay phải khác hẳn với ngày xưa. Nhiều người nói "tôi không quan tâm tới chính trị" là do cách hiểu đó. Nếu thay vì chính trị chúng ta dịch là "việc nước" thì chắc ít ai nói "tôi không quan tâm tới việc nước".

2. Hồ Quý Ly và Mạc Đăng Dung

Thanh Mai : Hẳn là để viết chương này anh đã phải nghiên cứu nhiều sách lịch sử, mặc dù không thấy anh dẫn nguồn tư liệu như thói quen thường gặp ở các học giả được đào tạo lâu năm ở phương Tây như anh. Để hiểu thêm chương sách, xin anh cho biết, "người ta" là ai. Ai là người "trọng Hồ khinh Mạc" mà hình như anh đang phản biện ? Và các nguồn sách, tác giả nào đã được anh tin tưởng sử dụng.

Nguyễn Gia Kiểng : Như tôi đã xác nhận trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn và trong nhiều dịp khác tôi không phải là một nhà nghiên cứu. Tôi là một người hoạt động chính trị. Người hoạt động chính trị cần nói những điều đúng, hay ít nhất những điều mà mình có lý do vững chắc để tin là đúng, nhưng không cần dẫn nguồn một cách tỉ mỉ như một nhà khảo cứu. Về Hồ Quí Ly và Mạc Đăng Dung trong tất cả các bài học lịch sử mà tôi đã học ở tiểu học và trung học và trong tất cả các sách sử mà tôi đã đọc, hầu như lúc nào Hồ Quý Ly cũng được ca tụng là người tài giỏi dù đôi khi cũng bị chê là đã làm mất nước, trong khi Mạc Đăng Dung thì hầu như lúc nào cũng bị mạt sát. Tôi cũng đã thảo luận với nhiều trí thức và cũng thấy như vậy. Tôi thấy đây là một thành kiến sai. Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê là chuyện cung đình của giai cấp thống trị nhưng Mạc Đăng Dung không làm mất nước. Trái lại Hồ Quý Ly chỉ là một người bất tài tham lam và làm mất nước. Nên nhớ Hồ Quý Ly không tự coi là người Việt. Ngay khi cướp được ngôi của nhà Trần ông ta đã đổi tên nước là Đại Ngu theo tên nước cũ của ông bên Tầu. Ông ta đã làm đất nước tan hoang và sau cùng cả vua tôi phải đầu hàng bẩy tên lính của nhà Minh.

Những điều này mọi sách sử của Việt Nam đều ghi. Tôi cũng nhân dịp này giới thiệu một bộ sử mới mà tôi cho là bộ sử đầy đủ và đúng đắn nhất của Việt Nam. Đó là bộ "Nhìn lại sử Việt" của Lê Mạnh Hùng. Mọi người quan tâm đến lịch sử Việt Nam đều nên đọc bộ sử này.

Thanh Mai : Trong chương viết này chỉ viện dẫn đánh giá của Nguyễn Trãi với Hồ Quý Ly, ngoài ra không có bất cứ ý kiến nào ngoài ý kiến chủ quan của tác giả. Trong khi đó, Mạc Đăng Dung sinh sau Nguyễn Trãi, vì vậy Nguyễn Trãi không thể có bất cứ ý kiến gì về Mạc Đăng Dung

Anh nói sao nếu như có ai đó cho rằng đưa vào chương viết đánh giá của Nguyễn Trãi với Hồ Quý Ly chỉ là bao biện ? (*)

Nguyễn Gia Kiểng : Tôi không hiểu lập luận này. Nguyễn Trãi là một trí tuệ lớn của Việt Nam. Bài Bình Ngô Đại cáo của ông gần như một tuyên ngôn độc lập. Viện dẫn Nguyễn Trãi đâu có gì là sai trái, không nhắc tới quan điểm của ông là một thiếu sót.

Thanh Mai : Chương viết kết thúc bằng câu :

"Cho đến ngày nay, lập trường trọng Hồ khinh Mạc vẫn còn ngự trị, điều đó chứng tỏ trí tuệ tập thể chúng ta vẫn còn mê muội, tâm lý của chúng ta vẫn chưa được khai thông".

Cũng vẫn để hiểu thêm thông điệp của tác giả, xin anh cho biết, phải chăng không trọng Hồ, không khinh Mạc mới là đúng ? Hay là phải trọng Hồ, phải trọng Mạc ? Hay là tuân thủ nguyên tắc dân chủ mỗi chúng ta có quyền được tiếp cận thông tin, tài liệu khác nhau từ các nguồn nghiên cứu lịch sử khác nhau và có quyền bảo lưu ý kiến của mình và đồng thời tôn trọng ý kiến người khác ? Và cuối cùng thì thông điệp mà anh muốn chuyển tải ở chương này là gì ?

Nguyễn Gia Kiểng : Điều tôi muốn truyền tải chỉ giản dị là không nên đọc lịch sử để khen hay chê mà để hiểu dân tộc mình qua mỗi giai đoạn. Thí dụ như việc nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê phải được nhìn đúng với ý nghĩa của nó. Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc nước ta đã thay đổi. Thành phần thượng lưu vùng châu thổ sông Hồng, với trung tâm là Hải Dương, quê hương của Mạc Đăng Dung, đã hội nhập vào văn hóa Trung Hoa trong khi giai cấp quí tộc vùng Thanh Hóa - Nghệ An vẫn còn giữ bản sắc Văn Lang và ý chí độc lập. Các vua Lê dù làm chủ nước Việt vẫn tự coi là các động chủ Mường. Tình trạng này gây mâu thuẫn với giới nho sĩ miền Bắc và cuối cùng đưa đến việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi. Nên lưu ý là các danh sĩ Bắc Hà như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan tuy không hưởng ứng nhưng cũng không phản đối việc thoán đoạt này. Còn việc Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần thì chỉ thuần túy vì lòng tham. Hồ Quý Ly đã làm đất nước kiệt quệ và cuối cùng mất về tay nhà Minh. Dù không lên án Hồ Quý Ly phản nghịch cũng phải luận tội làm mất nước.

*****

600 trang sách Tổ Quốc Ăn Năn là một nỗ lực kiên trì và khổng lồ.

Đoạn dưới đây trong chương kết của Tổ Quốc Ăn Năn có lẽ chính là thông điệp ngắn gọn và giá trị nhất của toàn bộ cuốn sách :

"Kinh tế không phải là tất cả. Hạnh phúc của một dân tộc không phải chỉ là lợi tức trung bình trên mỗi đầu người, càng không phải là tỷ lệ tăng trưởng 5 hay 10% mỗi năm. Còn những điều cao hơn, và cao hơn nhiều. Đó là phẩm giá, là quyền được nói và làm điều mình muốn, là quyền được sống mà không sợ bị bắt giam vô cớ, được phát triển khả năng của mình mà không cần đút lót, và được tham dự vào những quyết định quan trọng cho cộng đồng. Những điều này chỉ có một chế độ dân chủ có thể đem lại".

Có lẽ nó cũng là tiền đề để bước vào cuốn sách thứ hai của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, mang tên Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2, hơn 280 trang, được giới thiệu trên trang mạng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (http://thongluan-rdp.org)

3. Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2

Ở đây, xin chỉ chú trọng vào chương 7 của cuốn sách - Đấu tranh thiết lập dân chủ đa nguyên. 

Thanh Mai : Thưa anh Nguyễn Gia Kiểng, cuốn sách đưa ra 4 điều kiện cần và đủ cho cuộc cách mạng dân chủ và 5 giai đoạn vận động dân chủ - hơi tương tự khuôn mẫu 3 không 4 tốt của Trung Hoa, nhưng không sao nếu như logic.

Điều kiện đầu tiên nói rằng "mọi người trong nước đồng ý rằng chế độ hiện hữu là tệ hại và phải thay đổi"

Vaclav Havel cho rằng, mỗi con người trong chế độ cộng sản đều là một mắt xích giúp cho cỗ máy chuyên chế vận hành. Họ vừa là nạn nhân vừa là đồng phạm. Họ có thể cho rằng tình trạng hiện hữu là tệ hại. Song để thay đổi thì không. Và không dám, như vẫn đang không dám tại Việt Nam và Cuba.

Tập hợp có kế sách gì với tình trạng này ?

Nguyễn Gia Kiểng : Điều hiển nhiên không ai có thể chối cãi là trừ một thiểu số trục lợi rất nhỏ mọi người Việt Nam hiện nay đều đồng ý rằng chế độ cộng sản là rất tệ hại và phải thay đổi, tuy vậy quần chúng vẫn phải sống và để sống họ phải miễn cưỡng hợp tác với chế độ và gián tiếp giúp nó tiếp tục tồn tại. Đó là một nghịch lý. Điều chúng ta cần ý thức là mỗi dân tộc đều là sản phẩm của lịch sử của chính mình và do đó có mức độ đoạn tuyệt và vùng dậy khác nhau. Đó là mức độ mà sự phẫn nộ biến thành ý chí đấu tranh và khiến con người lấy quyết định đứng dậy. Tại nước ta và Trung Quốc điểm đoạn tuyệt đó lâu đạt đến vì di sản văn hóa. Do truyền thống Khổng Giáo chúng ta chỉ có những người khoa bảng chuyên môn với chức năng làm công cụ cho chính quyền chứ không có những con người dám và có thể suy tư một cách độc lập về những vấn đề của đất nước và dám chấp nhận mọi thử thách để tranh đấu cho lập trường của mình, nghĩa là những trí thức chính trị. Chính sự thiếu vắng những trí thức chính trị đã khiến chúng ta không ý thức được rằng chấm dứt độc tài và thiết lập dân chủ là cuộc cách mạng lớn nhất trong lịch sử nước ta và không nhìn thấy những điều kiện phải có hoặc phải tạo ra để thành công cuộc cách mạng này. Cũng vì sự thiếu vắng này mà chúng ta không đồng ý được với nhau về lộ trình vận động dân chủ và những việc phải làm cho mỗi giai đoạn. Cố gắng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là góp phần giúp trí thức Việt Nam nhìn rõ những điều kiện phải hội đủ và những chặng đường phải đi qua trong cuộc đấu tranh cho dân chủ. Ý chí đấu tranh sẽ đến khi người ta hiểu phải làm gì. Không có gì mạnh bằng một ý kiến đã chín muồi. Chúng tôi tin rằng tình hình đang chín muồi. Chúng ta đã bắt đầu có những trí thức chính trị và hàng ngũ của họ ngày càng đông.

Thanh Mai : Các giai đoạn trong 5 giai đoạn dưới đây đều có gì đó như tương đồng với các giai đoạn tiến tới giành chính quyền ngày xưa những năm 1945. Không ít các cơ sở quần chúng ngày đó đã bị thủ tiêu. Không ít các phương tiện được dùng không đúng mục đích.

5 giai đoạn của cuộc vận động dân chủ - xây dựng một cơ sở tư tưởng - xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt - xây dựng kiểm điểm phương tiện - xây dựng cơ sở quần chúng - tiến công giành chính quyền. Xin anh Nguyễn Gia Kiểng cho biết tại sao người dân vẫn nên tin mô hình này, cho dù lịch sử đã trải qua các kinh nghiệm cay đắng đến nhường kia ?

Nguyễn Gia Kiểng : Bốn điều kiện cần và đủ để cuộc cách mạng dân chủ thành cộng và năm giai đoạn của cuộc vận động dân chủ là thành quả của một nghiên cứu chăm chú các cuộc cách mạng lớn trên thế giới. Khi chúng tôi đi đến kết luận này nhiều anh em trong nhóm khởi đầu của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã bỏ cuộc vì thấy cuộc đấu tranh quá dài và khó khăn. Nhưng đó là một kết luận khách quan mà ta phải tin và chấp nhận dù muốn hay không. Người ta không thể thành công một công trình nào cả nếu không biết trước phải làm những gì và phải làm như thế nào. Trong dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Ha,i chúng tôi đã nhận định rằng hai giai đoạn đầu đòi hỏi nhiều thời gian và cố găng nhất, thường thường phải vài thập niện, nhưng một khi hai giai đoạn này đã hoàn tất thắng lợi có thể giành được rất nhanh chóng, trong vài năm, thậm chí vài tháng. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã kiên trì theo đuổi lột trình này và có thể nói hai giai đoạn này đã hoàn tất được một phần lớn.

Chúng ta càng có lý do để lạc quan vì một làn sóng dân chủ mới, làn sóng dân chủ thứ tư trong lịch sử thế giới, đang trào dâng và sẽ cuốn đi những chế độ độc tài cuối cùng. Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện cho một quá khứ bắt buộc phải qua đi trong khi dân chủ đa nguyên là một tương lai bắt buộc phải đến và sắp đến.

**************

Danh sách các câu hỏi còn dài, kính mời cộng đồng tham gia một cuộc đối thoại thực sự cởi mở. 

Buổi gặp gỡ với ông Nguyễn Gia Kiểng và giới thiệu sách Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai sẽ được nhóm Văn Lang tổ chức vào ngày 17/12/2016 tại Phòng họp Hotel Lifestyle. V Lužích 999/1, 142 00 Praha-Libuš.

Thanh Mai (vietinfo.eu)

 (*) Chú thích (Theo wiki) Hồ Quý Ly 1336 – 1407 ; Nguyễn Trãi 1380 - 1442 ; Mạc Thái Tổ 1483 - 1541.

Published in Quan điểm
samedi, 11 février 2017 08:51

Tại sao Tổ Quốc phải ăn năn ?

Có người chất vấn "Tại sao Tổ Quốc phải ăn năn ?". Tôi xin hỏi lại họ : "Tổ Quốc là cái gì mà không phải ăn năn ?".

tq1

Tổ Quốc Việt Nam ta là nước, mỗi chúng ta là bèo

Một cách giản dị, Tổ Quốc không chỉ là đất, nước, núi, sông, truyền thống, văn hóa… Mà quan trọng hơn rất nhiều, Tổ Quốc còn hiện diện trong mỗi một con người cùng chia sẻ một quá khứ, một hiện tại và một tương lai chung. Mỗi con người, qua các thời kỳ lịch sử, chính là hình hài, là hiện thân của Tổ Quốc. Quá khứ, hiện tại và tương lai của Tổ Quốc đều thể hiện trong mỗi một con người Việt Nam hôm nay. Tổ Quốc ăn năn có nghĩa là mỗi con người chúng ta phải ăn năn, phải nhìn lại mình, phải xét lại mình trước ngưỡng cửa của những thay đổi nhức nhối mang tính sống còn đối với Tổ Quốc.

Người phương Tây có câu "thành La Mã không phải chỉ được xây nên trong một ngày". Người Trung Quốc cũng nói "âm mưu giết vua, giết cha không phải chỉ được ấp ủ trong ngày một, ngày hai". Mọi điều xảy đến đều có nguyên nhân và có thời gian tích tụ của nó. Tổ Quốc Việt Nam chúng ta thua kém hổ nhục như ngày hôm nay, và không có một tương lai nào, nguyên nhân cũng không phải là trong ngày một, ngày hai. (Có vị còn bảo nguyên nhân thua kém bắt đầu từ năm 1975 – sic !). Chúng ta thua kém, chậm chễ so với bên ngoài, rồi tàn sát nhau, mạt sát nhau, chia rẽ nhau,… chính do văn hóa truyền thống mấy nghìn năm của chúng ta, đa phần là độc hại. Điều này thiết nghĩ không cần phải nói nhiều. Sự thực đã quá hiển nhiên, chỉ có những ai còn tư duy con đà điểu "rúc đầu vào đống cát để khỏi nhìn thấy bế tắc" mới lớn tiếng phản đối mà thôi.

Tổ Quốc ăn năn và xét lại không phải là để phủ nhận chính mình, phủ nhận quá khứ lịch sử của mình. Mà làm sao phủ nhận được chứ ? Quá khứ dù tồi dở đến mấy cũng đã trở thành máu thịt, hơi thở và hồn cốt của mỗi con người chúng ta hôm nay. Tổ Quốc ăn năn và xét lại là một hành động, một tư duy tối cần thiết cho mỗi người trong công cuộc dân chủ hóa và bảo vệ đất nước. Bảo vệ đất nước cũng chính là bảo vệ mỗi chúng ta. Dân chủ hóa sẽ tạo điều kiện để mỗi chúng ta có thể tự do thực hiện những ước mơ của mình.

Và, nếu nói văn hóa truyền thống Việt Nam còn có một điểm sáng thì tôi xin dẫn ra đây câu của các cụ "Nước nổi bèo nổi, nước cạn bèo chạm đất" – Có nghĩa là gì ? Là cuộc sống của mỗi cá nhân đều có liên hệ cộng sinh mật thiết với môi trường sống của nó. Ở đây Tổ Quốc Việt Nam ta là nước, mỗi chúng ta là bèo. Tổ quốc hổ nhục thua kém thì mỗi chúng ta (kể cả tiền nhiều, chức trọng ở mọi nơi) liệu có tự hào và vinh quang được chăng ? (Liên hệ luôn với trường hợp cầm tấm hộ chiếu Việt Nam ra nước ngoài). Trong một cái hồ, khi chất độc được đổ xuống, liệu nó có trừ ra những con cá đẹp đẽ mạnh khỏe nào không, hay tất cả đều chết ?

Cái nghĩa hợp quần, cái ý thức chung nó giản dị như vậy mà đa số người Việt Nam ta vẫn chưa chịu hiểu. Và nếu thế thì Tổ Quốc ta vẫn sẽ còn phải chịu nhục dài dài, bởi mỗi chúng ta không biết ăn năn và xét lại.

Cảm ơn tác giả của "Tổ Quốc ăn năn" ! Xin gửi đến ông sự biết ơn sâu sắc ! Tư tưởng của ông sẽ là những viên gạch đầu tiên trong tiến trình xây dựng lại một Tổ Quốc Việt Nam "mà thế hệ hôm nay có thể hãnh diện, thế hệ mai sau có thể tự hào". Làm cách mạng thì dễ, nhưng thay đổi tâm hồn của một dân tộc lại rất khó. Những cuộc cách mạng chính trị đôi khi lại là những cuộc cách mạng ít quan trọng nhất. Còn những cuộc cách mạng vĩ đại lại chính là những cuộc cách mạng về lối sống, thuần phong, mỹ tục và tư tưởng.

Không phải bằng cách thay đổi chính quyền mà ta có thể thay đổi tư duy, tình cảm của một dân tộc. Lật đổ thể chế của một quốc gia nhiều khi không đồng nghĩa với đổi mới được tâm hồn của dân tộc đó. Dù sao, từ đáy lòng mình, tôi chúc ông và các cộng sự của mình thành công !

Nguyễn Việt Anh

Nguồn : Facebook, 11/02/2017

Published in Quan điểm

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

Phần Hai - 2

Cõng rắn cắn gà nhà

2-tqan101

Nếu nỗi oan khiên kéo dài của Lê Chiêu Thống có thể giải thích được thì sự lên án Nguyễn Ánh là cõng rắn cắn gà nhà lại càng khó hiểu.

Nguyễn Ánh bị nhiều người lên án là đã rước quân Pháp vào Việt Nam, để rồi Việt Nam bị Pháp đô hộ. Điều này hoàn toàn sai.

Nguyễn Ánh chết năm 1820, trong khi người Pháp chỉ bắt đầu xâm chiếm nước ta từ năm 1858, nghĩa là 38 năm sau dưới triều Tự Đức, cháu nội ông. Hai vị vua nhà Nguyễn, Minh Mạng và Tự Đức, xứng đáng bị lên án nặng nề, nhưng không phải vì họ đã thỏa hiệp với Pháp mà vì họ đã chống Pháp một cách điên cuồng và mù quáng.

Nguyễn Ánh không phải đã không làm những việc sai trái. Năm 1784, ông đã gởi hoàng tử Cảnh theo giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện Louis XVI. Hai bên ký kết thỏa ước, theo đó Nguyễn Ánh sau khi thành công sẽ dành nhiều đặc quyền lớn cho người Pháp và nhượng đứt đảo Côn Lôn cho Pháp. Ông cũng đã cầu viện quân Xiêm sang Việt Nam giúp đánh quân Tây Sơn. Nhưng cả hai việc làm đáng trách này đã không giúp được gì cho ông. Thỏa ước ký với Louis XVI đã không được thực hiện, còn đám quân Xiêm thì đã bị Nguyễn Huệ đánh tan nhanh chóng. Sau này Nguyễn Ánh thành công, khôi phục được nhà Nguyễn hoàn toàn dựa vào cố gắng của chính ông. Nguyễn Ánh có sử dụng một số tay đánh thuê người Pháp, nhưng đó chỉ là những cá nhân, điều này rất bình thường thời đó. Anh em Tây Sơn cũng đã sử dụng bọn cướp biển Lý Tài và Tập Đình ; họ cũng cố tranh thủ sự ủng hộ của người phương Tây mà không được vì người phương Tây chỉ coi Tây Sơn là quân cướp.

Có người nói vì Nguyễn Ánh cầu viện mà người Pháp mới biết tới Việt Nam. Lời buộc tội này lại càng ngây ngô hơn nữa.

Người châu Âu nói chung và người Pháp nói riêng đã đến Việt Nam từ đầu thế kỷ 16, lúc tổ tiên Nguyễn Ánh là Nguyễn Hoàng chưa ra đời, rồi liên tục gia tăng sự hiện diện. Họ đã thiết lập nhiều trung tâm thương mại tại Hội An, Hà Nội và Hưng Yên. Người châu Âu đến nước ta là lẽ tự nhiên vì lúc đó họ đã mạnh và đang bung ra khám phá thế giới. Việc họ đến nước ta, đem theo một văn hóa và một kỹ thuật mới đáng lẽ phải là một may mắn lớn cho nước ta, chỉ tiếc rằng chúng ta đã không đủ sáng suốt để lợi dụng.

Nguyễn Ánh có công lớn với đất nước. Chính ông đã thống nhất được đất nước. Không có ông không chừng ngày nay miền Nam và miền Bắc vẫn còn là hai quốc gia riêng biệt.

Phe cộng sản mạt sát Nguyễn Ánh là điều dễ hiểu, nhưng điều ngạc nhiên là Nguyễn Ánh bị lên án một cách hồ đồ như thế mà không được minh oan một cách rõ rệt, trong khi tôn thất nhà Nguyễn, ngày trước và ngay bây giờ, không thiếu những người có kiến thức và trình độ cao. Đó là vì một bên có lý do để ra sức buộc tội Nguyễn Ánh, còn một bên dù muốn bênh Nguyễn Ánh cũng không thể bào chữa cho ông một cách thông suốt. Nếu muốn bào chữa cho Nguyễn Ánh thì phải mổ xẻ sự nghiệp của ông một cách khách quan nhưng điều này lại khó làm. Muốn nói rõ về Nguyễn Ánh thì bắt buộc phải nhìn nhận những sai phạm của ông đối với đất nước - cầu viện Pháp, cầu viện Xiêm -, và cách đối xử thô bạo của ông đối với con cháu Tây Sơn. Cũng phải luận việc ông bội bạc và giết hại các công thần. Điều này các vua nhà Nguyễn không cho phép vì họ không thể chấp nhận một phê phán nào về ông tổ của họ. Sau này Ngô Đình Diệm, sau khi đã truất phế vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, cũng không dại gì mà bênh vực ông tổ nhà Nguyễn. Sau Ngô Đình Diệm là chế độ của các tướng tá, trong đó những vấn đề văn hóa, lịch sử không đặt ra nữa.

Nguyễn Ánh bị buộc tội oan trong khi ông là người có công lớn, và hơn thế nữa tổ tiên ông còn có công rất lớn là đã khai phá ra một nửa đất nước.

Nếu ai hỏi tôi ai là người có công nhất đối với Việt Nam, tôi sẽ lưỡng lự giữa Lý Công Uẩn và Nguyễn Hoàng. Lý Công Uẩn có công lập ra một quốc gia Việt Nam thực sự, có kỷ cương, có triều chính, có văn hóa và đặt nền nếp cho Việt Nam từ đó về sau (nhưng đồng thời ông cũng vô tình làm một điều tai hại là khẳng định vai trò của Khổng Giáo như một văn hóa chính thức). Nguyễn Hoàng có công mở ra một nửa đất nước, và đó cũng là nửa nước trù phú nhất. Lưỡng lự giữa hai người nhưng nếu bắt buộc phải chọn một người có lẽ tôi thiên về Nguyễn Hoàng.

Trước năm 1945, hình như không có chuyện buộc tội Nguyễn Ánh. Phan Chu Trinh, một người chủ trương dân chủ và công khai bài xích triều Nguyễn, khi xỉ vả vua Khải Định là hèn đốn đã viết :

      "Ai về âm phủ hỏi Gia Long,

      Khải Định thằng này phải cháu ông ?",

nghĩa là cũng nhìn nhận Nguyễn Ánh là bậc anh hùng.

Sau năm 1945, nhà Nguyễn đã thoái vị, đảng cộng sản đã nắm chính quyền tất nhiên không còn muốn lòng dân nhớ nhà Nguyễn nữa. Lời cáo buộc Gia Long cõng rắn cắn gà nhà bắt đầu từ đây. Khi cựu hoàng Bảo Đại trở về thành lập chính quyền quốc gia, mạt sát và hạ bệ Gia Long dĩ nhiên nằm trong chính sách tuyên truyền của đảng cộng sản. Dưới chế độ cộng sản bênh vực Gia Long, chưa nói đến khen Gia Long, là phạm tội phản động.

Vụ án Gia Long tuy không ồn ào bề ngoài nhưng trong chiều sâu đã gây chia rẽ không nhỏ trong hàng ngũ miền Nam trước năm 1975. Tôi đã có nhiều dịp nhận ra điều đó. Một lần tôi được chứng kiến một cuộc cãi vã ngắn nhưng rất dữ dội. Trong một câu chuyện vãn, không hiểu tại sao hai nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh lại được đề cập tới. Một anh bạn khen Nguyễn Huệ là anh hùng, chê Gia Long là tầm thường, may nhờ Nguyễn Huệ mất sớm mà thắng được. Một anh bạn khác phản ứng một cách giận dữ : "Nguyễn Huệ là một tên tướng cướp gặp thời, Gia Long mới có công thống nhất đất nước". Anh kia cũng không chịu thua. Cả hai đi tới kết luận là người trước mặt mình không có trình độ, rồi họ chấm dứt cuộc thảo luận với cùng một nét mặt khinh bỉ. Về sau tôi có hỏi người nọ về người kia, cả hai đều nói về nhau một cách nặng lời, chắc chắn là không thể hợp tác với nhau được nữa. Tại sao một giai đoạn lịch sử hai trăm năm về trước lại có thể chia rẽ những con người ngày hôm nay ? Chúng ta đặt quá nhiều đam mê và xúc động vào một lịch sử rất không chính xác.

Thương nhau thương cả đường đi

Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.

Có lẽ nhiều người đã giận các vua Minh Mạng, Tự Đức mù quáng và ngoan cố làm mất nước, ghét Bảo Đại hèn nhát trác táng, rồi ghét luôn cả Gia Long.

Nhưng cách vận dụng lịch sử thiếu lương thiện nhất vẫn thuộc về đảng cộng sản. Họ luôn luôn bóp méo lịch sử cho những mục đích tuyên truyền. Năm 1979 khi vừa cải tạo về tôi nghe đứa cháu gái tôi học lịch sử : "Năm... tên bán nước Gia Long đem quân đánh Phú Xuân". Tôi giật mình, sách sử gì mà ngôn từ hạ cấp như vậy ? Tôi đòi xem cuốn sách và còn thấy cả "tên cướp nước Triệu Đà". Triệu Đà chết đã hơn hai ngàn năm nay cũng bị vạ lây, bởi vì lúc đó hai chế độ cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đang xung đột. Để ý đến cách dạy sử lúc đó, tôi phải phẫn nộ. Hình như Việt Nam chỉ mới thực sự thành lập từ khi có đảng cộng sản.

Những đề tài thi sử thường gặp lúc đó là : "Đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập ngày nào, năm nào ?", "Quân Đội Nhân Dân Việt Nam thành lập ngày nào, năm nào ?", "Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước năm nào, ở đâu ?". Và câu hỏi quan trọng nhất : "Ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, trước khi đọc tuyên ngôn độc lập, Bác Hồ đã nói gì ?" (Câu trả lời là "Bác Hồ đã nói : Tôi nói đồng bào có nghe rõ không ?").

Sự sửa đổi lịch sử được thể hiện trên thực tế. Tại Sài Gòn, đường Nguyễn Hoàng được thay bằng đường Trần Phú, theo tên một cấp lãnh đạo cộng sản đã chết. Chúa Hiền, người có công khai mở miền Nam, nhường tên đường cho Võ Thị Sáu, một nữ cán bộ khủng bố cộng sản. Đường Gia Long dĩ nhiên không còn, nay là đường Lý Tự Trọng. Vô số công thần lập quốc bị xóa tên đường nhường chỗ cho những cán bộ cộng sản không tên không tuổi. Từ ngày 30/04/1975, nước Việt Nam không phải chỉ thay đổi hiện tại và tương lai mà còn thay đổi cả quá khứ.

Lịch sử là gia phả chung của đất nước, là ký ức tập thể của dân tộc, xuyên tạc nó là xúc phạm đến trí tuệ của dân tộc. Chưa nói rằng bôi nhọ một người đã nằm xuống từ lâu rồi cho một mục đích giai đoạn là một việc mà chỉ có những kẻ thấp kém mới làm. Làm như thế đảng cộng sản cũng đã hạ giá chính cái lý tưởng của họ. Nếu lý tưởng của họ trong sáng, dự án chính trị của họ đặc sắc thì họ cần gì phải vận dụng những thủ đoạn tồi tàn như vậy ?

Nhưng một câu hỏi cũng đặt ra cho chúng ta ? Tại sao họ lại có thể làm như thế và một phần nào đó đã thành công ? Đó là vì chúng ta thiếu một sử quan đứng đắn. Lịch sử của ta thiếu sót và thiếu chính xác, đó là một điều đáng tiếc ; nhưng điều còn đáng tiếc hơn nữa là cách tiếp cận lịch sử của chúng ta. Chúng ta không coi lịch sử như một tài sản chung của dân tộc mà mọi người phải trân trọng. Từ bao đời rồi lịch sử vẫn chỉ được coi là một diễn đàn để hạ nhục đối phương và tâng bốc mình lên.

Tập quán đó dần dần ăn rễ vào tâm lý mọi người, trong tiềm thức chúng ta. Chúng ta không coi việc xuyên tạc lịch sử là nghiêm trọng, chúng ta không coi lịch sử là ký ức của những cố gắng dựng nước, trái lại chúng ta coi lịch sử như là sự nối tiếp nhau của những trận đánh tàn phá đất nước. Chúng ta đọc lịch sử một cách sơ sài và dựa vào lịch sử để đưa ra những phê phán hồ đồ nhưng chắc nịch. Các dân tộc khác có thể chia rẽ vì không đồng ý với nhau trên những việc cần làm cho hôm nay và ngày mai ; người Việt Nam lại còn có thể chia rẽ và hận thù nhau vì những chuyện đã hoàn toàn thuộc về quá khứ mà mọi người chỉ biết một cách rất mơ hồ.

****************************

 

Cho những người đã nằm xuống

2-tqan102

Một thảm kịch vẫn còn chia rẽ trầm trọng trong người Việt Nam với nhau là việc cấm đạo. Con số nạn nhân thực sự là bao nhiêu không ai biết. Một số nhà nghiên cứu đưa ra ước lượng trên một trăm ngàn.

Họ đã bị giết không phải vì đã phạm vào một tội ác nào mà chỉ vì đã theo một tín ngưỡng không được triều đình chấp nhận, dù tín ngưỡng ấy không xúi giục họ làm điều gì bạo ngược mà chỉ dạy họ công bình, bác ái. Có khi sự sống và sự chết được quyết định một cách giản dị : ai chịu bước qua thánh giá để chứng tỏ mình đã phủ nhận tín ngưỡng Công Giáo thì được sống, ai không chịu thì bị dẫn thẳng ra pháp trường. Và khoảng một trăm ngàn người Công Giáo đã chịu chết để giữ tín ngưỡng của mình. Họ đã chết một cách hiền lành không chống trả, chết trong lời cầu nguyện.

Việc bách hại người Công Giáo đã là một vết nhơ khó tẩy xóa trong lịch sử Việt Nam. Đó là sự kiện chính nhà nước Việt Nam, chứ không phải một đoàn quân xâm lược nào, đã tàn sát một số lớn những người Việt Nam hoàn toàn vô tội. Thảm kịch còn lớn hơn nữa vì nhà nước đó biết họ vô tội nhưng vẫn giết họ.

Điều đáng ngạc nhiên là cho tới nay chưa có một chính quyền Việt Nam nào, nhân danh sự liên tục của quốc gia, tổ chức một ngày để xin lỗi những người Công Giáo về sự sai lầm kinh khủng đó.

Phải chăng là vì các chính quyền không ý thức được cuộc sống liên tục của một quốc gia và do đó không cảm thấy có trách nhiệm về những gì những người cầm quyền trước mình đã làm ? Hay vì một hành động long trọng như vậy sẽ không khỏi đặt ra những vấn đề lớn cho một chính quyền tự mình cũng cảm thấy tay có nhúng chàm ? Chính quyền cộng sản hiện nay cũng đưa ra vô số biện pháp chèn ép các tôn giáo. Tài liệu "Quan Điểm và Cuộc Sống" của Nguyễn Hộ, được phổ biến năm 1994, còn tố giác chính đảng cộng sản Việt Nam đã tập trung những người theo đạo Cao Đài tại Củ Chi, tàn sát họ và chôn tập thể. Ông Nguyễn Hộ là tư lệnh phó quân đội cộng sản khu vực Sài Gòn bao gồm Củ Chi hồi năm 1946 lúc xảy ra vụ tàn sát này nên những điều ông nói ra chỉ có thể đúng sự thực.

Một điều cũng rất đáng ngạc nhiên là cho tới nay tập thể người Công Giáo chưa bao giờ chính thức đòi các chính quyền Việt Nam phải giải oan, phục hồi danh dự và nhận lỗi với những nạn nhân. Họ tự thấy quá cô đơn, hay họ thấy không còn ràng buộc lắm với đất nước này nên không thấy cần phải đòi hỏi như vậy ?

Nhưng đó là một việc phải làm và sẽ phải làm một cách rất long trọng. Mọi người đều hiểu như vậy, và vì không muốn làm hay không thể làm, nhiều người đã thoái thác bằng một thái độ cực kỳ tệ hại là tiếp tục bào chữa cho việc cấm đạo, tiếp tục bào chữa cho việc tàn sát người Công Giáo, tiếp tục bôi nhọ ký ức của những người đã chết oan và tiếp tục gây chia rẽ trầm trọng trong dân tộc. Thái độ thiếu lương thiện này lại gây ra một số nạn nhân khác : có những người nhẹ dạ đã thực sự bị lường gạt vì những luận điệu dối trá ấy và thực sự ghét người Công Giáo. Tôi đã từng được nghe nhắc lại không biết bao nhiêu lần là đạo Công Giáo do thực dân Pháp đem đến, trong khi sự thực là đạo Công Giáo đã được các giáo sĩ Tây Ban Nha và Hòa Lan truyền sang nước ta từ đầu thế kỷ 16. Người Pháp chỉ đến vào giữa thế kỷ 19, nghĩa là ba thế kỷ sau. Hơn nữa, tỷ lệ người Việt Nam theo đạo Công Giáo vào cuối thể kỷ 17 trước khi có việc cấm đạo được ước lượng là xấp xỉ 10%. Sự xâm lăng và thống trị của người Pháp làm cho tỷ lệ người Việt Nam theo đạo Công Giáo giảm đi chứ không tăng lên.

Năm 1989, khi vụ Phong Thánh cho 117 thánh tử đạo tại Việt Nam đang sôi nổi, tòa báo Thông Luận chúng tôi nhận được một thư độc giả. Lá thư, bằng một giọng điệu hằn học và miệt thị, kể lại việc quân Pháp đánh thành phố Hải Dương, trong đó chỉ có 15 người lính Pháp và cả trăm người Công Giáo đi theo gánh gạo, vác đạn, v.v... Không một lời về việc bách hại hàng trăm ngàn người Công Giáo vô tội.

Năm 1993, Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận mời cụ Nguyễn Huy Bảo phát biểu trong một cuộc họp về đề tài "Dân Việt Nam có thể có dân chủ được không ?". Đề tài đó không phải là tất cả buổi họp. Mỗi sinh hoạt của Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận gồm ba phần. Phần đầu về kiểm điểm nội dung những số báo Thông Luận từ kỳ họp trước đến nay ; phần thứ hai hoặc thảo luận về một đề tài, hoặc thảo luận về một vấn đề chính trị có tính thời sự ; phần thứ ba là sinh hoạt thân hữu, trong đó các thân hữu tự do trình bày những gì mình đã làm, những gì một thân hữu khác đã làm, những gì mình có ý định làm và tìm người hợp tác. Các thân hữu có xuất bản sách thường đem sách của mình tới giới thiệu và bán trong phần này. Bài thuyết trình của cụ Nguyễn Huy Bảo nằm trong phần thứ hai.

Cụ Bảo có đề cập tới chính sách thủ cựu của các vua quan nhà Nguyễn, trong đó có việc cấm đạo, như là sai lầm đã khiến Việt Nam lỡ mất một cơ hội canh tân với hậu quả tai hại. Chẳng có gì là quá khích và lố lăng trong bài thuyết trình. Nhưng như thế cũng đã đủ để ngay khi cụ vừa dứt lời, một thanh niên vẫn thường hay lui tới câu lạc bộ đùng đùng nổi giận đứng lên bất chấp cả chủ tọa to tiếng mạt sát cụ Bảo bằng những lời lẽ nặng nề, bất chấp cả tinh thần trang trọng của buổi họp, bất chấp cả sự kính trọng tối thiểu mà lễ giáo Việt Nam vẫn dành cho người lớn tuổi (cụ Bảo lúc đó đã 85 tuổi). Những công thức chế tạo sẵn đua nhau tuôn chảy : "Ông là một sản phẩm của thực dân Pháp", "Bài thuyết trình của ông là của một con người đã chối bỏ tổ tiên...", "ông lập lại những luận điệu phản quốc, những lập luận của bọn giáo sĩ cướp nước", v.v...

Tôi làm chủ tọa buổi họp hôm đó và tôi đã phải quả quyết cắt lời anh ta. Anh ta biết tôi và vẫn dành cho tôi một sự kính trọng nào đó, không biết sự kính trọng đó bây giờ còn hay không vì sau đó không thấy anh ấy lui tới câu lạc bộ nữa. Tôi ôn tồn nói với anh ta là không có ý kiến nào cấm nêu ra và không có đề tài nào cấm bàn đến, anh ta đừng sợ sẽ không được phát biểu hết ý kiến của mình, nhưng phải tôn trọng chủ tọa và cũng phải tôn trọng tinh thần thảo luận của câu lạc bộ là mọi trao đổi phải có sự tương kính. Rồi tôi lại trao lời cho anh nói tiếp. Có lẽ tự thấy mình đã quá lời, anh ta xin lỗi vì đã dùng lời lẽ quá nặng nhưng giải thích : "Xin quí vị thông cảm cho, vì dân tộc tôi đã đau khổ quá nhiều vì bọn giáo sĩ tới làm do thám cho thực dân cướp nước, vì những tên Việt gian bỏ đất nước đi theo bọn giáo sĩ. Tôi phải tố cáo bọn giáo sĩ, tố cáo mưu đồ cướp nước của Vatican...". Lời xin lỗi đồng thời cũng là một lời thóa mạ.

Sau buổi họp, ra ngoài gặp tôi, anh ta vẫn còn hậm hực : "Tôi phải vạch mặt tên này (cụ Bảo), hắn là một tên giáo sĩ". "Giáo sĩ" đối với anh ta là một từ ngữ rất nặng, tự nó đã có tính mạt sát rồi.

Tôi không giận anh ta, vì cái tập quán thù ghét thậm tệ người khác dựa trên những sự kiện mà chỉ cần bình tĩnh một chút cũng đủ thấy là rất sai là một đặc tính của người Việt Nam. Tôi vẫn có cảm tình với anh ta. Xuất thân là một người lao động vượt biên sang Pháp, ngoài việc làm ăn anh ta còn dành rất nhiều thì giờ để học hỏi. Anh ta đọc rất nhiều sách và tỏ ra có quan tâm với tương lai đất nước. Càng có cảm tình với anh bao nhiêu tôi càng giận những người trí thức thiếu lương thiện đã đầu độc những tâm hồn nhẹ dạ. Anh ta có kể cho tôi nghe một số sách mà tôi có đọc qua.

Đó là những cuốn sách viết úp úp mở mở, gom lọc tài liệu với dụng ý rõ rệt là tạo cho độc giả một ngờ vực rằng việc truyền bá đạo Công Giáo ở Việt Nam nằm trong âm mưu thôn tính Việt Nam của Pháp. Tôi không thể nhìn thấy một sự xứng đáng nào trong những cố gắng đó. Chúng chỉ tố giác sự thấp kém của các tác giả. Họ hận thù vì thành kiến, rồi chính hận thù làm cho tâm hồn họ bị vẩn đục và trí tuệ họ bị mê muội. Với thời giờ bỏ ra nghiên cứu như vậy, nếu đừng để cho hận thù làm mù quáng đi, họ đã thấy là không làm gì có một âm mưu thôn tính Việt Nam, chưa nói tới một âm mưu với sự đồng lõa giữa Vatican và chính quyền Pháp. Mà tại sao Vatican lại đồng lõa với Pháp mà không đồng lõa với Ý, Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha ? Những ai nghiên cứu phong trào thực dân trong ba thế kỷ 17, 18 và 19 đều biết rằng phong trào này chủ yếu là do các công ty tư nhân đi tìm lợi nhuận. Không làm gì có một ý chí chính trị của các nước châu Âu nói chung và Pháp nói riêng để chiếm đóng các nước châu Á cả (trong một bài sau chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về vấn đề này). Chính quyền Pháp đã bị đẩy tới chỗ phải can thiệp vào Việt Nam dưới áp lực của dân chúng sau khi những đợt bách hại người Công Giáo gây ra xúc động quá lớn.

Tôi càng không hiểu tại sao, trong lúc này và tại hải ngoại, vẫn có những người cố gắng bôi nhọ người Công Giáo bằng những tài liệu xuyên tạc hạ cấp kiểu Tây Dương Gia Tô Bí Lục. Để làm gì ? Đáng buồn nhất là một số người lại còn gắn liền sự phát triển của Phật Giáo với sự bài xích Thiên Chúa Giáo. Phật Giáo Việt Nam không mạnh thêm, mà còn có thể bị hoen ố đi vì những "Phật tử" như thế.

Lý do chính khiến cho vết thương cấm đạo vẫn còn rướm máu cho tới nay là vì chúng ta vẫn chưa tìm được cách đọc lịch sử. Điều đau nhức nhất trong thảm kịch cấm đạo là có những người Việt Nam thực sự yêu nước, thực sự dũng cảm đã tham gia tích cực vào việc tàn sát và nhục mạ những người Công Giáo vô tội. Tôi muốn nói tới những phong trào Văn Thân và Cần Vương. Chắc chắn là trong động cơ thúc đẩy họ có lòng yêu nước, nhưng sự cuồng tín tôn thờ Nho Giáo của họ còn mạnh hơn. Họ đã giết người Công Giáo bởi vì họ thực sự tin rằng người Công Giáo đã bỏ đạo lý của ông cha, đi tôn thờ một tà đạo của người phương Tây mà lúc đó họ gọi là bọn quỷ trắng. Một người Việt Nam đã theo đạo Công Giáo thì không còn là đồng bào của họ nữa, mà chỉ còn là một tâm hồn đã bị quỷ ám cần phải tiêu diệt. Các phong trào Cần Vương và Văn Thân có lẽ đã chỉ giết vài người lính Pháp, nhưng họ đã giết hại hàng chục ngàn linh mục và giáo dân Việt Nam. Họ mù quáng, thiển cẩn, có tội lớn mà không có công nào. Họ chỉ cố gắng bảo vệ một cái quá khứ hủ lậu cần phải vất bỏ đi. Nhưng họ là những người có chí khí, có can đảm. Họ nằm trong truyền thống của đất nước và của ông cha, nên chúng ta chỉ có thể buồn vì sự mù quáng của họ, chứ không thể ghét họ được. Do đó chúng ta bối rối, rồi để có thể tôn vinh họ, chúng ta biện hộ cho việc họ làm, đổ tội cho những người Công Giáo vô tội đã nằm xuống.

Đó cũng là vì ta không biết đọc lịch sử. Đó cũng là vì ta không tìm ra được cách nào để yêu quí tổ tiên của ta. Đinh Tiên Hoàng, Lý Công Uẩn, Trần Hưng Đạo, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Văn Thân và Cần Vương, và cả những người Công Giáo đã nằm xuống ; những anh hùng lập quốc cùng những người đã có tội, những người can đảm cũng như những người hèn nhát, tất cả đều là tổ tiên của ta. Chúng ta không chối bỏ được gia phả. Những người đã có tấm lòng như Văn Thân và Cần Vương, chúng ta vẫn có thể quí mến họ, nhưng khi họ nhảm nhí thì phải nói là họ nhảm nhí, chứ sao lại đổi trắng thay đen ? Đâu phải vì chúng ta quí trọng những người Cần Vương, Văn Thân mà nhất định chúng ta phải quí trọng ngay cả những sai quấy của họ và thù ghét những người Công Giáo mà họ đã thù ghét ? Nhất là họ thù ghét một cách xằng bậy và hành động một cách càn dở ?

Nguyễn Khắc Viện, một trí thức cộng sản đã đóng góp nhiều nghiên cứu có giá trị, đã viết về vụ Phong Thánh như sau : "Dầu sao thì chúng tôi cũng không thể chối bỏ các vị tiền bối Văn Thân của chúng tôi". Ông ta cũng đặt nghi vấn là có sự liên kết của người Công Giáo với quân Pháp. Hai chữ "dầu sao" nói lên bối rối của ông ta. Nhưng ông Nguyễn Khắc Viện làm tôi thất vọng về sự tầm thường của một trí thức như ông. Ai bắt ông phải chối bỏ các vị Cần Vương và Văn Thân ? Tại sao lại phải chối bỏ ? Có phải vì họ đã mù quáng giết người Công Giáo mà chúng ta phải chối bỏ họ không ? Có phải khi ông cha ta làm điều gì sai thì không còn là ông cha ta nữa không ? Nếu lý luận như vậy thì phải coi chừng chúng ta mất gia phả.

Một lần cho tất cả, phải khẳng định sự vô tội của người Công Giáo. Không làm gì có âm mưu nào trong việc truyền giáo tại Việt Nam. Những giáo sĩ tới Việt Nam chỉ để truyền đức tin Ki-Tô mà thôi và các giáo dân đã theo đạo cũng chỉ vì đức tin Ki-Tô. Các chúa Trịnh, chúa Nguyễn, rồi các vua nhà Nguyễn, thủ phạm của cuộc cấm đạo đẫm máu, ít ra cũng lương thiện hơn những "học giả" biện bạch cho họ. Các dụ cấm đạo chỉ buộc tội người Công Giáo theo một tà đạo mà thôi, không bao giờ buộc thêm cho người Công Giáo một tội nào khác cả. Và lý do chính khiến đạo Công Giáo bị coi là một tà đạo và bị nghiêm cấm là vì trong giáo lý của nó, đức Chúa Trời mà mọi người phải thờ phụng trên hết mọi sự không phải là nhà vua.

Việc cấm đạo đã bắt đầu ở ngoài Bắc dưới chúa Trịnh Tráng để rồi đạt tới cao điểm dưới thời Trịnh Doanh ; ở miền Nam ngay dưới thời Nguyễn Hoàng, rồi tiếp tục qua mọi đời chúa dù không gay gắt bằng. Đến khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, việc cấm đạo cũng chỉ ngừng lại ở thời Gia Long. Minh Mạng lên ngôi là lập tức cấm đạo, tiếp tục qua Thiệu Trị và đạt cao điểm dưới thời Tự Đức. Sau cùng chính vua Tự Đức cũng nhận ra sự sai lầm của mình và ra một dụ bỏ việc cấm đạo, kêu gọi Văn Thân thôi bách hại người Công Giáo với lời lẽ trầm thống, chứng tỏ một sự hối hận rất chân thành.

Có người viện dẫn một số tài liệu của Bộ Hải Quân Pháp để chứng minh có sự toa rập giữa các giáo sĩ và chính quyền Pháp. Nhưng các giáo sĩ đã truyền giáo trong điều kiện khó khăn tất nhiên phải có sự giao dịch với các thế lực có ảnh hưởng tới Việt Nam lúc đó. Những người bị bách hại tất nhiên phải tìm chỗ dựa. Điều này cũng tự nhiên như ngày nay chúng ta vận động các chính phủ dân chủ và các tổ chức nhân đạo bênh vực cho những người dân chủ gặp khó khăn tại Việt Nam. Mặt khác, đừng quên là các giáo sĩ cũng đã làm nhiều khuyến cáo và đề nghị với chính các vua nhà Nguyễn để hy vọng giúp Việt Nam canh tân và mạnh lên, chỉ tiếc là họ đã không được nghe vì vua quan nhà Nguyễn quá thủ cựu.

Nhiều người Công Giáo Việt Nam, giáo sĩ cũng như giáo dân, mặc dầu bị ruồng rẫy, tù tội, hạ nhục vẫn cố hết sức tìm cách giúp các vua nhà Nguyễn cải tổ để đưa đất nước đi lên dù chỉ gặp sự dửng dưng của vua quan nhà Nguyễn. Nếu những bài điều trần của Nguyễn Trường Tộ lọt được tai vua quan nhà Nguyễn thì đất nước chúng ta đã không như ngày nay.

Điều đáng ngạc nhiên chính là sự nhẫn nại của người Công Giáo. Mặc dầu bị bách hại đẫm máu họ đã không vùng lên chống lại chính quyền, trong khi đó là một phản ứng tự vệ rất bình thường. Nhà Nguyễn phá kỷ lục về giặc giã : các tay anh chị nổi lên khắp nơi tại miền Bắc, có khi để chống sưu cao thuế nặng, có khi để đòi lập lại nhà Lê, có khi chỉ vì lý do giản dị là quan quân quá yếu. Người Công Giáo ở miền Bắc lúc đó rất đông đảo chiếm hơn 10% dân số, lại rất tập trung và rất gắn bó. Nếu họ nổi loạn, nhờ người Pháp huấn luyện và giúp khí giới, họ đủ khả năng đánh bại được quân nhà Nguyễn lúc đó rất suy yếu về cả vật chất lẫn tinh thần. Một viên thiếu úy với bảy tên lính Pháp đã có thể nghênh ngang vào tính Ninh Bình, bắt tất cả tuần phủ, án sát trói lại, tịch thu mấy chục khẩu đại bác, bắt quân Việt Nam hạ khí giới quì hai bên đường. Người Công Giáo, nếu muốn, thừa sức đánh bại thứ quân đội vô dụng đó. Nhưng họ vẫn chịu đựng thà chết vì đức tin chứ không nổi loạn. Ở vào thời buổi đó, đâu đâu cũng có nổi loạn, nhưng những người Công Giáo, có lý do nhất và có khả năng nhất để nổi loạn, lại không nổi loạn.

Cái gì đã khiến người Việt Nam theo đạo Công Giáo đông đảo như vậy ? Đó chính là thông điệp Ki-Tô. Vào thời buổi nhiễu nhương, con người chà đạp và chém giết lẫn nhau, còn gì an ủi hơn là được nghe một thông điệp hòa bình, bác ái, là được nghe những lời nhắn nhủ êai thương xót người ấy là phúc thật, ai chịu khốn khổ vì lẽ phải ấy là phúc thậtê ? Đạo Công Giáo đã được sự hưởng ứng mạnh mẽ của những người cùng khổ. Cũng như Phật Giáo, và khác với Nho Giáo, đạo Công Giáo đã đến với dân tộc Việt Nam không phải qua giai cấp thống trị, mà qua giai cấp bị chà đạp. Dụ cấm đạo của vua Minh Mạng nhận định các giáo sĩ đã lôi kéo bọn "bần dân mạt hạng".

Người Công Giáo nhẫn nại và chịu đựng nhưng thừa sự dũng cảm. Họ sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đức tin của họ. Sự dũng cảm của họ nổi bật vào một lúc mà sự nhút nhát là tâm lý chế ngự. Quan quân cứ nghe vài tiếng súng là vất gươm súng mà chạy. Chính những người Công Giáo tử đạo đã cho tôi niềm tin vững chắc vào dân tộc Việt Nam : nếu có một lý tưởng trong sáng, người Việt Nam có thể rất dũng cảm và chấp nhận những hy sinh rất to lớn.

Sau này, một chính quyền sáng suốt của đất nước Việt Nam dân chủ sẽ phải đề ra một ngày lễ phục hồi danh dự cho những người Công Giáo đã tử đạo. Đó là điều chúng ta cần làm để hòa giải cộng đồng Công Giáo với cộng đồng dân tộc, để hàn gắn một vết thương rất đau nhức, một trang sử bi đát của dân tộc ta.

Chúng ta cũng sẽ phải có những ngày tưởng niệm cho những người đã chết oan trong những cuộc chiến vừa qua, những nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất, những người đã chết trong chiến dịch Phượng Hoàng, hay đã bị bắt cóc ám sát, những người đã bỏ mình trên biển cả trong khi chạy trốn chế độ cộng sản.

Chúng ta cần khép lại những vết thương đau, những trang sử bi đát của dân tộc, để có thể nhìn lại nhau là anh em ruột thịt và cùng bắt tay nhau xây một tương lai Việt Nam chung.

******************************

Chấp nhất kỷ chi kiến

 

2-tqan103

Giai đoạn Pháp đánh chiếm Việt Nam là một giai đoạn lịch sử có tài liệu khá đầy đủ, nhưng lại là giai đoạn khó học nhất. Hồi còn là học sinh tôi rất chán học giai đoạn này, dù khá mê sử. Lý do là vì chán nản quá. Chỉ thấy tháng này bị thua to ở chỗ này, tháng tới bị đại bại ở chỗ khác. Năm này mất tỉnh này, năm sau mất tỉnh khác. Và thua một cách rất nhục nhã. Năm 1772, Francis Garnier đem 170 lính tới Hà Nội, yết bảng bãi bỏ luật lệ nước ta, ban hành luật của riêng mình, các quan quân cũng không dám phản ứng. Đã thế cũng chưa yên, Garnier còn bắt Nguyễn Tri Phương đầu hàng vô điều kiện, phải tự đến nộp mình. Nguyễn Tri Phương không chịu, Garnier đánh thành, chỉ trong chớp nhoáng là xong, mấy ngàn quân Việt vất vũ khí mà chạy. Các tướng Việt, người chết, người bị bắt sống. Kế đó một thiếu úy Pháp đem bảy người lính tới chiếm Ninh Bình, quan quân đem lọng ra đón xin hàng, các quan bị bắt trói, quân đội phải quì xuống hạ khí giới. Chỉ lúc đã trưởng thành tôi mới có đủ kiên nhẫn và chịu đựng để đọc lịch sử về giai đoạn này. Bây giờ đã ngoài năm mươi tuổi, đã đọc đi đọc lại nhiều lần, mà mỗi lần đọc vẫn thấy nhục nhã quá chừng.

Tình hình nguy ngập như vậy, nhưng các vua quan nhà Nguyễn hoàn toàn không ý thức được. Họ hoàn toàn không biết gì về thế giới bên ngoài cũng như về tình hình bi đát của đất nước. Bất lực và thờ ơ trước cuộc xâm lăng từ bên ngoài bao nhiêu họ tỏ ra quan tâm và hiệu lực bấy nhiêu trong việc cấm đạo. Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức rất ít khi ra khỏi thành phố Huế, trừ một vài lần ngự giá đi săn.

Quân Pháp bắt đầu thực sự đánh chiếm Việt Nam từ năm 1858. Họ đánh chiếm Đà Nẵng, sau đó vào chiếm miền Nam, rồi ra đánh Bắc Việt, áp đặt nền đô hộ vào năm 1883.

Cuộc chinh phục đã kéo dài 25 năm. Thời gian đó tương đối dài, không phải vì do sức kháng cự mạnh mẽ của Việt Nam mà vì sự do dự của nước Pháp. Nếu quả thực có quyết tâm muốn chiếm Việt Nam, có lẽ người Pháp không cần quá một năm. Sức kháng cự của quân Việt Nam không đáng kể.

Cần đính chính một quan điểm rất phổ biến nhưng rất sai là nước Pháp, cũng như mọi đế quốc thực dân châu Âu trong thế kỷ 19, có âm mưu khuất phục và chiếm đóng Việt Nam. Sở dĩ chúng ta dễ nghĩ hoặc tin như vậy là vì chúng ta quen với lịch sử châu Á trong đó mọi chinh phục đều do các nhà nước khởi xướng và thực hiện. Nhưng đó không phải là tình trạng của châu Âu. Các nước châu Âu quả nhiên đã tranh giành nhau chiếm đóng châu Mỹ vì họ coi đó là phần đất vô chủ mạnh ai nấy chiếm. Nhưng chính sách của họ đối với châu Á lại khác. Việc chinh phục châu Á chủ yếu do các công ty tư phát động. Các công ty này chỉ có đủ lực lượng để chiếm những phần đất chưa có chủ quyền, như tại Ấn Độ, Mã Lai, Indonesia. Việc Tây Ban Nha chiếm Phi-líp-pin là một ngoại lệ, nhưng Phi-líp-pin là một quần đảo vô chủ vào lúc đó. Các chính quyền châu Âu không có chính sách khuất phục và chiếm đóng các nước đã có tổ chức nhà nước. Cùng lắm họ chỉ can thiệp để bảo vệ các hoạt động thương mại hay truyền giáo, và ngay trong trường hợp này họ cũng rất thận trọng. Họ thường liên kết với nhau chứ không ra tay một mình. Nói chung họ nhắm tìm thị trường và thường cố thỏa hiệp để tránh chiến tranh và thiệt hại. Việc Pháp đánh chiếm Việt Nam là một ngoại lệ lớn mà nguyên nhân là chính quyền nhà Nguyễn vừa quá ngoan cố lại vừa quá yếu.

Lý do chính khiến người Pháp đánh chiếm Việt Nam là việc cấm đạo, lý do phụ là Pháp muốn bành trướng thương mại tại Viễn Đông. Cũng vì lý do chính khiến người Pháp chiếm Việt Nam là do chính sách cấm đạo mà cho tới nay nhiều người ghét đạo Công Giáo, vẫn đổ tội cho đạo Công Giáo đã làm Việt Nam mất nước. Đó là một luận điệu rất ngây ngô. Cấm đạo là một chính sách xằng bậy, tàn sát dã man người Công Giáo là một tội ác đối với loài người. Nhà Nguyễn làm bậy để mất nước là lỗi tại nhà Nguyễn, sao lại buộc tội người Công Giáo, chỉ là nạn nhân mà thôi ? Nếu chúng ta không thích người hàng xóm, xách súng sang giết họ rồi bị đi tù thì có thể đổ lỗi rằng vì người hàng xóm mà mình bị đi tù được không ?

Nói rằng lý do chính là cấm đạo cũng chưa đúng. Phải nói rằng lý do chính là sự ngoan cố quá đáng và sự tàn nhẫn quá đáng trong việc cấm đạo thì đúng hơn.

Vua Minh Mạng lên ngôi năm 1820, thì năm 1825 ra dụ cấm đạo. Lúc này nước Pháp hoàn toàn vắng mặt tại Việt Nam và còn đang khốn đốn vì xung đột nội bộ và những tàn phá do những cuộc chiến thảm khốc của Napoléon I để lại. Lý do cấm đạo trong dụ là "đạo Phương Tây là tà đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục". Cùng năm ấy, một dụ cấm đạo khác gay gắt hơn nữa được ban hành và kèm thêm biện pháp treo giải thưởng cho những ai bắt được giáo sĩ đem nộp. Chính biện pháp này đã gây ra một phong trào bắt đạo và giết đạo tại khắp nơi. Chia rẽ lương giáo bắt đầu trầm trọng từ đó. Hận thù trong dân tộc tăng cao. Bắt đạo và giết đạo trở thành một phong trào dân gian, cho nên sau các hiệp ước Nhâm Tuất (1862) và Giáp Tuất (1874), mặc dù triều đình chấp nhận không cấm đạo nữa nhưng các phong trào Văn Thân vẫn đi đánh phá các làng Công Giáo. Vua Minh Mạng tỏ ra rất ngây thơ khi sai một phái bộ sang Pháp yêu cầu Pháp ngừng việc truyền giáo tại Việt Nam. Làm sao chính quyền Pháp có thể thỏa mãn yêu cầu vô lý này ?

Việc cấm đạo tiếp tục qua thời Thiệu Trị rồi trở nên đặc biệt gay gắt dưới thời Tự Đức. Vua Tự Đức vừa lên ngôi năm 1848 là ra ngay một dụ cấm đạo, và năm 1851 lại có thêm một dụ cấm đạo khác khắc nghiệt hơn nữa. Mãi tới năm 1862, sau khi phải ký hiệp ước Nhâm Tuất nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp, triều đình nhà Nguyễn mới chính thức công nhận quyền giảng đạo và theo đạo. Tuy triều đình chấp nhận ngoài mặt như vậy nhưng việc cấm đạo vẫn tiếp tục trên thực tế do các nhóm Văn Thân chủ trương. Sau hiệp ước Giáp Tuất, vua Tự Đức phải ra dụ truyền cho đảng Văn Thân không được giết hại giáo dân nữa, nhưng họ vẫn tiếp tục, bất chấp cả lệnh vua. Việc cấm đạo đã tạo ra một cuộc nội chiến giữa các toán quân Văn Thân đánh phá các làng đạo và dân Công Giáo cố thủ để tự vệ.

Từ khi vua Minh Mạng cấm đạo năm 1825 đến năm 1858, khi Pháp bắt đầu đánh Việt Nam, 33 năm đã trôi qua. Trong thời gian ấy người Pháp, và cả người Tây Ban Nha, tuy rất bất bình về việc cấm đạo vẫn còn do dự không muốn gây chiến với Việt Nam. Các tài liệu của người Pháp về giai đoạn này khá đầy đủ và cho thấy chính phủ Pháp đã chịu rất nhiều áp lực của dư luận Pháp, phẫn nộ trước việc cấm đạo và đòi can thiệp.

Chính quyền Hoa Kỳ cũng đã đem một chiến thuyền tới làm áp lực gay gắt đòi bỏ dụ cấm đạo, nhưng rồi lại đi dù không kết quả.

Tuy vậy, năm 1856, chính phủ Pháp chỉ cử chiến hạm Catinat đến đòi bỏ dụ cấm đạo. Vua quan ta không chịu tiếp. Tàu Catinat bắn phá Đà Nẵng cảnh cáo rồi bỏ đi. Mấy tháng sau, họ lại quay lại xin bỏ cấm đạo, quan quân nhà Nguyễn đã không coi sự cảnh cáo trước đây là nghiêm trọng còn lên mặt đòi Pháp phải xin lỗi. Họ xin lỗi, nhà Nguyễn vẫn cứ tiếp tục cấm đạo. Vào lúc đó, người Pháp nhận thấy rằng không còn giải pháp nào khác : hoặc họ phải để nhà Nguyễn tiếp tục tàn sát người Công Giáo trước sự công phẫn ngày càng lên cao của dư luận quần chúng Pháp, hoặc họ phải dùng võ lực thực sự. Việc dùng võ lực vừa dễ vì nhà Nguyễn tuy hung bạo nhưng lại không có lực lượng nào đáng kể lại vừa phù hợp với quyền lợi thương mại của Pháp nên cuối cùng Pháp đi đến quyết định đánh Việt Nam.

Năm 1858, Pháp liên kết với Tây Ban Nha đem chiến thuyền bắn phá và đổ bộ đánh chiếm Đà Nẵng rồi sau đó quay vào Nam đánh chiếm Nam Kỳ. Năm 1860, tình hình đã nguy ngập lắm, Pháp đang đánh Nam Kỳ mà vua Tự Đức vẫn chỉ lo cấm đạo. Lại một dụ khác. Lần này nhà Nguyễn ra lệnh phá tất cả các làng Công Giáo, bắt giáo dân thích hai chữ "tà đạo" vào mặt rồi phân phối đi các làng khác. Cứ năm người không có đạo được cử canh giữ một người có đạo. Thế rồi năm 1862 triều đình phải ký hiệp ước nhường đứt ba tỉnh miền Đông và đảo Côn Lôn cho Pháp, phải bỏ dụ cấm đạo và bồi thường chiến tranh nặng nề cho Pháp. Chẳng bao lâu sau, Pháp lấy nốt ba tỉnh miền Tây Nam Phần. Sự mù quáng của vua quan nhà Nguyễn đã làm mất đi miền trù phú nhất của đất nước.

Dù đã bị thiệt hại nặng nề, vua quan nhà Nguyễn vẫn chưa sáng mắt ra để nắm lấy một hy vọng cuối cùng. Nước Pháp, sau khi chiếm được Nam Kỳ, đã thỏa mãn và có ý ổn định tình thế ở đó. Năm 1872, có vụ Francis Garnier ra Bắc lộng hành rồi bị quân Cờ Đen giết chết, nhưng việc đó không nằm trong chính sách can thiệp của chính phủ Pháp. Nước Pháp muốn hòa nên đã ký với triều Nguyễn hiệp ước Giáp Tuất (1874), với những điều khoản tương đối có lợi cho Việt Nam, trong đó có cả những điều khoản giúp cho Việt Nam 5 chiến hạm với đầy đủ súng đạn và 1.000 khẩu súng. Pháp còn cam kết gởi huấn luyện viên giúp Việt Nam đào tạo quân đội. Chỉ cần sáng suốt một chút thôi triều Nguyễn đã phải hiểu rằng mình hoàn toàn không đủ sức để chống lại với Pháp, chọn lựa duy nhất là khai dụng triệt để hiệp ước Giáp Tuất để gia tăng sức mạnh, khi nào có sức mạnh rồi mọi việc sẽ trở thành dễ dàng, kể cả việc lấy lại Nam Kỳ. Nhưng triều đình Nguyễn lại phá hoại hiệp ước Giáp Tuất, kiếm đủ cách để làm khó dễ. Đến sứ thần Pháp xin yết kiến vua mấy lần cũng không cho. Để rồi đi đến đâu ? Chín năm sau (1883) phải ký hiệp ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ, và từ đó ngay việc lên ngôi của vua cũng phải được Pháp cho phép và tấn phong. Nước ta hoàn toàn mất chủ quyền. Ngôi vua của nhà Nguyễn chỉ còn là hư vị.

Ai đọc những trang sử này mà không thấy giận cho sự mù quáng kinh khủng của vua quan nhà Nguyễn ? Vua quan chỉ biết ngâm vịnh, kiến thức không ngoài Tứ Thư, Ngũ Kinh, Nghiêu Thuấn, Xuân Thu, Tam Quốc. Sử gia Trần Trọng Kim than : "Việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại rồi cứ nghễu nghện xưng mình là hơn người, cho thiên hạ là dã man". Biết bao nhiêu người đã dâng sớ canh tân mà không được nghe, thấy nước mất chắc chắn mà không làm gì được. Ngày nay nhớ lại quãng thời gian đó ta cũng không khỏi bùi ngùi cho những Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Điều, Nguyễn Hiệp, Lê Đĩnh, Phan Liêm, Bùi Viện. Có lẽ họ chết không nhắm mùắt được.

Nhưng có phải quả thực là vua quan nhà Nguyễn ngu dốt, hèn nhát như nhiều người vẫn phê phán hay không ? Điều đáng buồn là không, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức không phải là những hôn quân, bạo chúa. Trừ những sai lầm trong cách giao tiếp với người Phương Tây, những biện pháp khác của họ không phải là dở. Mặc dầu gặp rất nhiều khó khăn, văn học của ta chưa bao giờ thịnh bằng thời Nguyễn. Ở vào một thời đại khác, các vị vua ấy, nhất là vua Tự Đức, có thể đã là những bậc anh quân.

Nhà Nguyễn cũng không thiếu những bầy tôi có tài lương đống : Nguyễn Tri Phương, Hoàng Kế Viêm, Trương Đăng Quế, Nguyễn Đình Giản, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản, Trần Đình Túc, v.v... Ở một thời đại khác chắc các vị này đã để tên trong lịch sử như những con người lỗi lạc tận trung báo quốc.

Điều đã khiến các vua nhà Nguyễn và các đại thần thất bại là họ không ý thức được rằng thế giới đã thay đổi và họ đang sống trong một khúc quanh lịch sử lớn. Những cố gắng và hy sinh của họ đều đã vô ích chỉ vì không còn hợp thời nữa. Lên án họ là mù quáng, thiển cận thì cũng đúng thôi, nhưng họ có phải là những con người thiển cận một cách bất thường hay không ?

Tôi nghĩ là không. Thiển cận và thiếu giác quan về chuyển hóa và thời đại không phải là của riêng họ, mà là một hằng số của chính trị Việt Nam. Chúng ta không có tư tưởng, và càng không có tư tưởng chính trị. Và hình như chúng ta vẫn chưa thức tỉnh để nhận ra điều đó.

Các vua quan nhà Nguyễn quả là không hiểu gì về thời thế. Sức mạnh áp đảo của người Pháp đã quá rõ rệt mà họ cứ ngoan cố chống lại và đôi khi còn khiêu khích. Đi từ thất bại này đến thất bại khác, phải chấp nhận ngày hôm nay những nhượng bộ bốn lần lớn hơn những gì mà đối phương đòi hỏi ngày hôm qua mà họ vẫn không mở mắt. Nước Tàu đã khốn khổ, bị đánh tả tơi mà triều đình Nguyễn vẫn tôn sùng và tin là có thể nhờ cậy được. Giặc ngoài đáng sợ như vậy mà cứ quay về đàn áp những người dân Công Giáo bên trong. Sự thiển cận của họ thật là kinh khủng, nhưng nó cũng khó so sánh được với sự thiển cận của các lực lượng chống cộng hải ngoại sau 1975.

Rõ ràng là sau năm 1975 không thể có giải pháp võ trang nữa nhưng tổ chức nào cũng chủ chiến, cũng hô hào bạo lực. Sự mê muội của triều đình Nguyễn khi trông đợi vào nước Trung Hoa đã suy kiệt có lẽ không lớn bằng sự mê muội của chủ trương tái lập chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã chết hẳn rồi, và đã chết một cách thực hổ nhục. Thái độ châu chấu đá voi của triều Nguyễn chống Pháp tới cùng xét ra không lố bịch bằng thái độ của những người đã thảm bại và thua chạy nhưng vẫn nhất định đòi những người cộng sản phải "tỉnh ngộ quay về với chính nghĩa quốc gia". Vua quan nhà Nguyễn tuy thủ cựu nhưng cũng không ngược đãi những người chủ trương canh tân bằng các lực lượng chống cộng đối xử với những người chủ trương dân chủ đa nguyên, hòa giải và hòa hợp dân tộc, bất bạo động. Nếu vấn đề đặt ra cho triều Nguyễn lúc đó là canh tân, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tránh đụng độ với người Pháp để tập trung mọi cố gắng mà tiến lên và mạnh lên, thì vấn đề của đối lập Việt Nam sau 1975 là phải tận dụng sự thức tỉnh của những người cộng sản tiến bộ để hòa giải với họ và cùng họ hình thành một kết hợp dân chủ mới. Cùng một vấn đề và cũng cùng một thái độ cố chấp. Ngày nay có hơn gì ngày xưa đâu. Chỉ khùác ở chỗ các vua quan nhà Nguyễn còn có thể hưởng sự giảm khinh vì họ không được nhìn thấy thế giới bên ngoài.

Chính quyền cộng sản có sáng suốt gì hơn vua quan nhà Nguyễn không ? Ngày hôm nay vấn đề là bảo vệ chủ quyền dân tộc, đoàn kết dân tộc để phát triển đất nước. Nhưng họ đã làm gì ? Họ đã cố bám lấy chủ nghĩa Mác-Lênin như nhà Nguyễn ngày xưa cố bám vào Nho Giáo. Họ quỵ luỵ trước một Trung Quốc đang bối rối như các vua nhà Nguyễn quỵ lụy với Thiên Triều đang khốn khổ ngày xưa. Họ bách hại những người dân chủ như các vua Nguyễn ngày xưa cấm đạo. Và họ cũng cấm đạo thực sự. Họ đàn áp Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Họ có khác gì nhà Nguyễn ? Có khác chăng là ở chỗ các vua Nguyễn không có đủ phương tiện, không có báo chí, radio, truyền hình, không có các tòa đại sứ ở khắp nơi để thấy được sự thay đổi của thế giới như họ.

Nhưng sự thiển cận không phải là tất cả. Còn một lý do khác khó chấp nhận hơn. Nếu thực sự yêu nước, nếu suy nghĩ một cách lương thiện về quyền lợi của đất nước và chỉ quan tâm tới quyền lợi của đất nước mà thôi, thì đường đi về tương lai không có gì khó, tất cả mọi vấn đề trở thành sáng sủa. Nhưng một lần nữa, phải nhìn nhận rằng đại đa số chúng ta bất chấp đất nước. Ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta yêu nước thì thực ra chúng ta đang yêu một cái gì khác. Chúng ta yêu chỗ đứng, quyền lợi hay lòng tự ái của chúng ta. Chúng ta yêu các thành kiến của chúng ta mà chúng ta cho là ý kiến, chúng ta yêu sự cố chấp của chúng ta mà chúng ta lầm coi là sự kiên trì. Chúng ta yêu chính mình và yêu sự mê muội của mình.

"Chấp nhất kỷ chi kiến giá họa ư tha nhân", chỉ biết ý kiến mình mà thôi, lúc nào cũng sẵn sàng buộc tội người khác. Câu viết lạc lõng của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo vô tình nói lên nhận định của ông về con người Việt Nam. Gần sáu thế kỷ đã trôi qua rồi mà sao Nguyễn Trãi vẫn còn đương thời đến thế !

****************************

Dắt dìu nhau vào đến Cà Mau

 

2-tqan104

      Tấm áo nâu,

      Dắt dìu nhau vào chốn rừng sâu,

      Dắt dìu nhau vào tới Cà Mau.

      Phạm Duy [Tình Ca]

Đại đa số người Việt Nam nhìn nhận ông cha mình đã tiêu diệt Chiêm Thành và lấn chiếm Cam-bốt. Sự nhìn nhận này đi đôi với một mặc cảm phạm tội. Tôi đã nghe nhiều người than : "Ông cha mình kể ra cũng ác thực !". Tội ác của Việt Nam đối với Chiêm Thành được coi là ghê gớm gấp nhiều lần đối với Cam-bốt vì Cam-bốt chỉ bị mất đất đai trong khi Chiêm Thành bị tuyệt diệt. Tháng 4 năm 1975 một đồng nghiệp, bàn về cuộc thảm bại của Việt Nam Cộng Hòa và cuộc tháo chạy đẫm máu của dân và quân miền Nam trên quốc lộ 7B tại miền Trung, nói với tôi : "Đó là vua Chàm báo thù người Việt". Vua Chàm theo ngôn ngữ của anh là tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bởi vì ông Thiệu người Phan Rang, trung tâm chính trị của nước Chiêm Thành trước đây, nơi mà hiện nay vẫn còn Tháp Chàm, một công trình lớn của người Chiêm Thành.

Năm 1989, tôi có được mời tham dự một cuộc hội thảo quốc tế tại Paris về vấn đề Cam-bốt. Theo chương trình nghị sự thì mục đích của cuộc hội thảo là vấn đề Việt Nam chiếm đóng Cam-bốt và những giải pháp cho cuộc khủng hoảng này. Tuy vậy cuộc hội thảo đã mau chóng biến thành một diễn đàn chống Việt Nam, chống nước Việt Nam và người Việt Nam, chứ không phải chỉ chống chính quyền cộng sản Việt Nam. Việt Nam được mô tả như một dân tộc hiếu chiến và bành trướng, đã tàn sát dân tộc Chiêm Thành, chiếm đất đai của Cam-bốt và hiện đang âm mưu tiêu diệt Cam-bốt và Lào. Hiện diện trong hội nghị có đại diện các tổ chức đối lập Cam-bốt và nhiều chuyên gia Pháp về Đông Dương. Lúc đó cuộc chiếm đóng Cam-bốt của quân Việt Nam đã kéo dài hơn mười năm. Các tổ chức đối lập Cam-bốt dĩ nhiên giành nhau chức vô địch chống Việt Nam, nhưng các chuyên gia Pháp về Đông Dương cũng không nói gì khác, họ đều cảnh tỉnh người Cam-bốt hãy đoàn kết chống lại nguy cơ thôn tính của Việt Nam mà họ coi là thường trực. Mặc dầu ngày hôm đó tôi được mời thuyết trình với tư cách một chuyên viên kinh tế và đề tài của tôi là nhận định về những khả năng phát triển của Cam-bốt, tôi đã cảm thấy phải lên tiếng bác bỏ những ngộ nhận quá lớn về lịch sử cuộc nam tiến của người Việt. Tôi đưa ra một số sự kiện và yêu cầu các chuyên gia về Đông Dương có mặt trong phòng hội đóng góp. Dĩ nhiên buổi hội thảo đã trở nên rất gay go, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là các chuyên gia khẳng định bản tính xâm lược của người Việt đã chỉ có một hiểu biết rất sơ sài về cuộc nam tiến của dân tộc ta. Bản tính xâm lược hiếu chiến của người Việt chỉ là một thành kiến chứ không phải một nhận định nghiêm chỉnh dựa trên tư liệu. Điều đáng nói là thành kiến này đa số người Việt Nam cũng chia sẻ, vì chúng ta đã chịu quá nhiều ảnh hưởng của những luận điệu được lập lại nhiều lần trong suốt thời Pháp thuộc.

Chúng ta cần nhận thức rõ cuộc nam tiến của dân tộc ta vì hai lý do : một là vì đó là sự kiện rất vĩ đại đối với chúng ta, hơn một nửa lãnh thổ của ta đã có được nhờ cuộc nam tiến đó ; hai là vì chúng ta cần chấm dứt một mặc cảm tội lỗi không đúng.

Trước hết hãy nhìn lại trường hợp của nước Chiêm Thành.

Sự đụng độ giữa nước Việt Nam cổ xưa (với các quốc hiệu Văn Lang, Giao Châu, rồi Đại Việt) với Chiêm Thành đã diễn ra ngay từ lúc Việt Nam chưa thực sự thành một quốc gia độc lập. Đó là sự đụng độ giữa hai nền văn minh. Một bên là văn minh Nho Giáo và nông nghiệp dưới ảnh hưởng Trung Hoa, một bên là văn minh Ấn Độ dựa trên hai giai cấp tăng sĩ và chiến binh. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, hình như lúc nào cũng có chiến tranh giữa quận Giao Chỉ thuộc Trung Quốc và nước Chiêm Thành. Từ khi Việt Nam được độc lập, trong các triều đại kế tiếp nhau, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn, chiến tranh Việt - Chiêm là một hằng số. Lịch sử các triều đại Việt Nam thường chỉ ghi vắn tắt kiểu : "Năm..., quân Chiêm Thành sang quấy phá, vua sai... đi tiễu trừ, quân ta chiếm được...". Cũng có đôi khi sử ta ghi lý do là vì Chiêm Thành bỏ lệ triều cống.

Nguyên nhân của những cuộc chiến liên tiếp gần hai ngàn năm này do đâu ? Nếu dựa vào lịch sử Việt Nam thì thường thường là do Chiêm Thành gây hấn trước. Mặc dầu vào các thời đại đó đánh Chiêm Thành là một lẽ thường không cần gì phải biện bạch, và do đó các sử gia không có lý do gì để xuyên tạc nguyên do, nhưng không thể lấy sử Việt Nam làm sự thực tuyệt đối. Nền văn minh Ấn Độ hồi đó lấy thần linh và chiến tranh làm nền tảng, nước Chiêm Thành coi chiến tranh là lý tưởng nên có thể họ gây chiến thường hơn, nhưng đó chỉ là suy luận. Xung đột Đại Việt - Chiêm Thành ngày nay đã thuộc hẳn vào quá khứ, cả Đại Việt lẫn Chiêm Thành đều đã là những nhân tố lịch sử cấu tạo ra nước Việt Nam ngày nay. Người Việt Nam ngày nay không có lý do gì để bênh bên này hay bên kia cả. Tất cả đều đã thuộc vào gia phả của chúng ta. Nhận định chỉ có mục đích để hiểu.

Vấn đề là qua cả ngàn năm đụng độ, Chiêm Thành và Đại Việt đã trở thành hai quốc gia không thể sống chung, chỉ một quốc gia có thể tồn tại và nước nào yếu sẽ bị tiêu diệt. Đó đã có thể là số phận của Đại Việt, nhưng đó đã là số phận của Chiêm Thành.

Cái lý "một mất một còn" có lẽ mọi người đều hiểu. Nhưng điều nghiêm trọng là nhiều người, kể cả người Việt Nam, cho rằng người Việt có tội đã tàn sát và diệt chủng người Chiêm Thành. Điều này trước hết rất vô lý. Giả thử Đại Việt có tiêu diệt Chiêm Thành thực đi nữa thì một người Việt Nam hôm nay làm sao biết mình có bao nhiêu phần trăm gốc Việt, bao nhiêu phần trăm gốc Chàm, hay bao nhiêu phần trăm gốc Hoa, gốc Miên, v.v... để biết mình là tội phạm hay là nạn nhân. Điều này cũng hoàn toàn không được lịch sử chứng minh. Lịch sử ta có ghi lại nhiều cuộc tàn sát dã man trong nhiều lần chinh chiến qua nhiều thời đại vào lúc nước Chiêm Thành hãy còn nhưng không hề ghi chép một cuộc tàn sát sau cùng nào đưa đến sự diệt chủng của người Chiêm Thành. Vả lại trong thế kỷ chót của nước Chiêm Thành, thế kỷ 17, đã có rất nhiều thương nhân và giáo sĩ nước ngoài có mặt tại Đàng Trong nhưng không ai ghi lại một cuộc tàn sát nào cả.

Theo lý luận thì cũng không thể có việc diệt chủng. Cuộc chinh phục Chiêm Thành trở thành dồn dập trong thế kỷ chót của nước này, nghĩa là thế kỷ 17, dưới thời các chúa Nguyễn. Các chúa Nguyễn đem được bao nhiêu dân từ ngoài Bắc vào khai phá Đàng Trong ? Chắc chắn là không nhiều lắm, bởi vì ở thời đại ấy một con số khoảng một trăm ngàn người nhất định đã phải tạo ra một cuộc di dân rất qui mô được ghi chép lại. Nhưng lịch sử lại không hề nói tới một cuộc di dân lớn nào. Và từ thế kỷ thứ 17 trở đi, hai họ Trịnh - Nguyễn giao tranh với nhau, việc di dân vào Nam chắc chắn là rất khó khăn, nếu có những người tiếp tục vào Nam thì cũng chỉ là những chuyến đi lẻ tẻ. Dù ước lượng một cách rộng rãi tới đâu đi nữa thì người Việt từ Bắc vào khai phá đất Chiêm Thành từ thế kỷ 17 về sau cũng không thể quá một trăm ngàn người. Thực ra cuộc di dân đã bắt đầu từ rất lâu trước Nguyễn Hoàng. Dưới triều Lê Thánh Tông, người Việt đã vào tới Nha Trang. Nhưng đây chỉ là những đợt di dân rất lẻ tẻ. Nếu chỉ dựa vào người Việt di cư hoặc đã định cư ở Đàng Trong thì các chúa Nguyễn nhất định không đương đầu được với họ Trịnh. Chắc chắn phải có sự hòa nhập giữa người Việt di dân và người Chàm tại chỗ. Sự hòa nhập này đã diễn ra một cách liên tục và âm thầm từ thế kỷ 11, nó đã chỉ tăng vận tốc dưới thời các chúa và vua họ Nguyễn. Một sự kiện đã được ghi nhận trong lịch sử là vua Minh Mạng đã từng bắt tất cả người Chàm phải mặc quần áo như người Việt và lấy họ Việt, nhất là họ Nguyễn. Biện pháp thô bạo này ít nhất chứng tỏ rằng không có sự tàn sát mà chỉ có sự hòa nhập, dù là hòa nhập bằng đồng hóa. Sự hòa nhập này cũng có thể nhận thấy ở ngay giọng nói của người miền Trung.

Sự hòa nhập liên tục trên một qui mô lớn đã khiến Đàng Trong của các chúa Nguyễn có đủ người để vừa khai khẩn miền Trung vừa khai phá miền Nam.

Trong sự hòa nhập này, chắc chắn người Chàm chiếm đa số, nhưng nó đã được coi như một sự Việt hóa bởi vì người Việt, kẻ chiến thắng, chiếm tất cả mọi vai trò lãnh đạo và áp đặt văn hóa, nếp sống của mình. Dần dần trọng lượng Việt tăng cao vì hai lý do. Lý do đầu tiên là điều mà một số nhà xã hội học gọi là định luật của đất : mỗi vùng đất tùy mức độ phì nhiêu và trong một điều kiện sinh sống nào đó có mật độ dân số riêng, dân số ít sẽ gia tăng mau chóng để đạt tới mức đó rồi khựng lại. Người di dân Việt Nam và người Việt gốc Chàm chiếm được những vùng đất canh tác tốt nên sinh sản mau chóng hơn người Chàm thuần túy bị dồn vào rừng núi. Lý do thứ hai là sự Việt hóa càng ngày càng toàn diện do sự áp đặt văn hóa và nếp sống của kẻ chiến thắng.

Những người mà chúng ta gọi là người Chàm hiện nay chỉ là một phần của dân Chiêm Thành, gồm những người bất khuất không chịu sự đồng hóa của người Việt đã di tản vào miền rừng núi hiểm trở, và ở đó họ cũng chịu định luật của đất : thủy thổ đó, ở mức độ văn minh đó chỉ có đất sống cho từng đó người. Dân số của họ sút giảm đi với thời gian.

Dầu sao thì hiện nay cuộc tranh cãi về sự biến mất của nước Chiêm Thành cũng không còn là một đề tài thời sự nữa. Vấn đề đặt ra là đảm nhận sự hòa nhập đó, một sự hội nhập bất công đối với người Chiêm Thành vào giai đoạn đó, dù giải thích thế nào đi nữa chúng ta cần tìm ra một thái độ đứng đắn trong khi nhìn lại vấn đề Chiêm Thành. Những người Chàm đã mất hay còn sống, đã hội nhập hay chưa hội nhập phải được coi là những con người thực sự của đất nước Việt Nam. Lịch sử nước Chiêm Thành, cũng như lịch sử Văn Lang, Giao Châu, Đại Việt phải được coi là lịch sử của Việt Nam. Phạm Hùng, Chế Mân, Chế Bồng Nga phải được coi là các vị vua của Việt Nam ngày xưa. Văn hóa Chiêm Thành cần được sưu tầm và gìn giữ như là tài sản của đất nước Việt Nam.

Vấn đề Chiêm Thành ngày nay đã trở thành một vấn đề hoàn toàn Việt Nam. Người Việt Nam cần nhìn và đảm nhận lịch sử của chính mình một cách đúng đắn.

Đó cũng là một vấn đề hoàn toàn nằm trong chính sách đối nội của chúng ta, không giống như việc khai phá và hội nhập đất Chân Lạp.

*************************

 

Cướp đất của ai ?

 

2tqan105

Các sử gia và các nhà bình luận vô tình hay cố ý đã làm cho nhiều người, Việt Nam cũng như ngoại quốc, quên rằng miền Nam Việt Nam đã được mở ra chủ yếu do một cuộc di dân hòa bình để khai phá đất hoang chứ không phải do một cuộc lấn chiếm bằng bạo lực bờ cõi sẵn có của một nước Cam-bốt hiền hòa.

Trong thâm tâm, đa số người Việt Nam nhìn nhận như một sự thực không cần chứng minh rằng Việt Nam có lỗi với Cam-bốt. Những vụ "cáp duồn" (tiếng Khmer có nghĩa là chém đầu người Việt) dù có gây ra nhiều phẫn nộ cũng không làm thay đổi được mặc cảm này. Đây là một trường hợp điển hình chứng tỏ phải coi chừng những sự thực không cần chứng minh.

Trái với một cảm tưởng rất lan tràn, Cam-bốt không phải là đất nước của những con người hiền hòa, nạn nhân của những tham vọng bành trướng và thống trị từ lân bang. Có thể nói đất nước Cam-bốt đã ra đời bằng bạo lực, đã trưởng thành trong bạo lực và đã suy tàn vì bạo lực.

Được bồi đắp từ lòng biển do phù sa sông Cửu Long, vùng đất gồm nước Cam-bốt và miền Nam Việt Nam mới đầu thuộc đế quốc Phù Nam với những sắc dân đến từ biển, nhất là từ Indonesia và từ Ấn Độ qua ngả Miến Điện và Thái Lan. Phù Nam đã mau chóng biến thành một đế quốc hiếu chiến. Vào thế kỷ thứ 7, người Khmer, một sắc dân theo văn minh Ấn Độ, từ miền Nam Lào tràn xuống tiêu diệt đế quốc Phù Nam và dần dần khắc phục các sắc dân địa phương, chiếm quyền bá chủ trong vùng để lập ra đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer còn tỏ ra hiếu chiến và bạo ngược hơn hẳn đế quốc Phù Nam. Đế quốc Khmer đã chế ngự được cả một vùng rộng lớn bao gồm cả Thái Lan, một phần Miến Điện và cả miền Nam Việt Nam. Vào thế kỷ 12 đế quốc Khmer còn bành trướng về phía Bắc, chiếm gần hết đất Chiêm Thành, đến tận đèo Hải Vân của Việt Nam hiện nay. Nhưng lãnh thổ thực sự của nó tập trung ở vùng Angkor. Những đền đài Angkor không phải chỉ là dấu tích của một nền văn minh mà trước hết là di tích của sự tàn bạo. Những sử liệu ít ỏi còn lại, mà đặc sắc nhất là ký ức của Chu Tá Quan, một sứ giả của nhà Nguyên có mặt tại Cam-bốt, mô tả cảnh những người nô lệ bị xiềng xích vào nhau để xây đền đài dưới sự điều động tàn bạo của các tăng sĩ và chiến sĩ Khmer. Họ phải lao lực đến kiệt sức và khi chết thi hài được lôi ra làm thức ăn cho cầm thú. Từ thế kỷ 13 trở đi, người Thái Lan bắt đầu tiến lên, sức mạnh của họ đã dần dần bắt kịp và vượt người Khmer. Họ giành được độc lập rồi tiến đánh trả thù người Khmer trong hàng thế kỷ đã bắt họ làm nô lệ xây đền đài cung điện. Họ đã hủy diệt đế quốc Khmer, tàn phá Angkor Vat và bắt người Khmer về làm nô lệ xây đền đài cho họ. Nền văn minh Angkor cáo chung vào năm 1431 với sự phá hủy lần cuối cùng thủ đô Angkor. Đế quốc Khmer xây dựng trên sự tàn bạo đã sụp đổ trong sự tàn bạo. Sự tàn phá và tàn sát của người Thái Lan đã khủng khiếp đến độ tất cả dấu tích đồ sộ của trung tâm Angkor bị chìm mất trong rừng sâu và không một nhân chứng nào sống sót để nhớ lại sự hiện hữu của nó. Phải đợi đến năm 1850, một nhà khảo cứu Pháp mới tình cờ khám phá lại di tích Angkor mà ngay những người Cam-bốt cách đó hai trăm cây số không hề biết đến nữa.

Kể từ 1431 chung quanh Phnom Penh chỉ còn lại một triều đại Chân Lạp yếu nhược với ảnh hưởng không đáng kể trên những vùng đất trước kia thuộc ảnh hưởng của đế quốc Khmer.

Cuộc nam tiến của người Việt đã đến rất lâu sau khi vùng đất miền Nam trở thành vô chủ. Những người Việt đầu tiên khai phá miền Nam không phải là những đạo quân viễn chinh mà phần lớn là những người nông dân nghèo khổ, chạy trốn cuộc chiến phân tranh Trịnh - Nguyễn. Từ năm 1623 trở đi, trong khoảng một thế kỷ rưỡi, Việt Nam đã sát nhập nhiều vùng đất mới ở phía Nam. Nhưng những sát nhập hành chánh này chỉ là sự hợp thức hóa một thực tại ; những phần đất ấy từ lâu đã do người Việt sinh sống và khai thác. Cuộc nam tiến của nước ta chủ yếu là một sự bành trướng trong hòa bình. Sự mở mang lãnh thổ Việt Nam đã chấm dứt khi anh em Tây Sơn nổi lên năm 1771 và Việt Nam bắt đầu lâm vào nội chiến.

Vua Sihanouk, bằng thái độ và bằng hành động của ông, lập lại y hệt hình ảnh của những vị vua Chân Lạp trong hai thế kỷ 17 và 18. Shihanouk trở mặt như chong chóng và đổi đồng minh như thay áo, ông được nhiều nhà bình luận chính trị phương Tây coi là khôn ngoan và mưu lược, nhưng tài trí của ông đã chỉ khiến nước Cam-bốt phải chịu những tàn phá kinh khủng nhất.

Các vị vua Chân Lạp, tổ tiên của Sihanouk, cũng đã cư xử không khác gì ông. Một vị vua Chân Lạp có thể ngày hôm nay cầu viện Việt Nam để tranh ngôi vua với một người anh em họ, để rồi ngày mai lại cầu viện Thái Lan chống lại Việt Nam và ít lâu sau thần phục Việt Nam chống lại Thái Lan. Mỗi lần cầu viện ngoại bang họ đều dâng lễ vật hay dâng đất. Việc dâng đất đối với họ không có gì là quan trọng vì trên thực tế đó là những vùng đất mà họ đã mất chủ quyền từ lâu. Việc dâng đất chỉ có nghĩa là nhìn nhận một thực tại và cam kết sẽ không quấy nhiễu.

Một câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao người Cam-bốt lại thù ghét Việt Nam hơn Thái Lan, trong khi Thái Lan đã xung đột nhiều hơn với Cam-bốt, đã sát nhập nhiều đất của Cam-bốt hơn, đã từng tàn sát người Cam-bốt một cách dã man, và nhất là đã tiêu diệt đế quốc Khmer ?

Trước hết là sự xung đột giữa hai nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa. Người Cam-bốt và người Thái Lan cùng chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ nên dù đã có cả một quá khứ xung đột vô cùng đẫm máu họ vẫn thấy gần gũi với nhau trong khi người Việt Nam, thuộc ảnh hưởng văn minh Trung Hoa, đối với họ là những kẻ lạ mặt. Nhưng trầm trọng hơn nữa là chính sách chia để trị của chính quyền thuộc địa Pháp. Người Pháp đã tạo ra cái huyền thoại nước Việt Nam tham đất và đói đất để biến Việt Nam thành một đe dọa và một đối tượng thù ghét cho người Cam-bốt.

Trong chiều sâu còn một hằng số quan trọng hơn mà ta cần nắm vững khi nhận định về những tương quan giữa nước ta và Cam-bốt : người Cam-bốt rất thực tiễn, họ không đặt nặng những vấn đề văn hóa và lịch sử mà hành động chủ yếu theo những cái lợi trước mắt. Cho tới nay, những người lãnh đạo Cam-bốt luôn luôn hòa hoãn với các quốc gia có thể có ảnh hưởng mạnh lên nước họ và sẵn sàng lấy thái độ thù địch với những quốc gia mà họ nghĩ là không có hay không còn khả năng đe dọa họ, nếu họ thấy là có lợi. Họ thường có thái độ thù địch đối với Việt Nam vì trong nhiều giai đoạn họ nhận định Việt Nam vừa không có lợi gì cho họ lại vừa không làm gì được họ.

Cũng nên nhìn rõ một đặc tính của người Khmer : trong suốt dòng lịch sử họ luôn luôn phải chịu đựng những chế độ hung bạo cho nên sự hung bạo đã ăn rễ trong dân gian ; người Cam-bốt rất dễ bị sách động vào các cuộc thảm sát. Trong một quốc gia khác, những lãnh tụ dù khát máu như Pol Pot cũng không thể gây ra một cuộc thảm sát như thế giới đã thấy tại Cam-bốt. Nhìn vào những gì người Cam-bốt đã làm với nhau, ta sẽ thấy rằng sự hung bạo của người Cam-bốt không phải là bằng chứng của hận thù, bởi vì họ hung bạo ngay với đồng bào họ. Do đó không nên coi những vụ thảm sát người Việt tại Cam-bốt như là dấu hiệu của một hận thù không thể vượt qua được.

Một số đông chúng ta không hiểu rõ lịch sử của chính nước mình, nhất là cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, và do đó vẫn còn bị ảnh hưởng của luận điệu của chính quyền thuộc địa Pháp, cũng mang mặc cảm tội lỗi đối với Cam-bốt. Chúng ta đừng quên rằng, ngoại trừ một vài qui định hành chánh dưới thời Pháp thuộc không nhất thiết có lợi cho Việt Nam, biên giới giữa hai nước không hề thay đổi từ hơn hai thế kỷ qua. Đó là một trong những biên giới ổn định nhất thế giới. Điều này đủ để bảo đảm cho khả năng chung sống hòa bình giữa hai nước. Chúng ta cũng đừng quên rằng về phương diện địa lý Cam-bốt cần Việt Nam hơn là Việt Nam cần Cam-bốt. Trong tương lai, nếu Cam-bốt gượng dậy được từ thảm kịch hiện nay, họ sẽ không có chọn lựa nào khác là hợp tác chặt chẽ với Việt Nam, và lúc đó họ sẽ hợp tác với chúng ta một cách rất nồng nhiệt.

Điều quan trọng trong quan hệ với Cam-bốt là chúng ta cần từ bỏ một mặc cảm tội lỗi không đúng để vạch ra một chính sách sống chung trên căn bản tương kính, có lợi cho cả đôi bên.

Đối với cuộc nam tiến mở nước của chúng ta, chúng ta cần ghi ân trước hết những hy sinh của những tổ tiên rất khiêm nhường của ta, những tấm áo nâu dắt dìu nhau vào chốn rừng sâu và dắt dìu nhau vào tới Cà Mau. Công mở nước là của họ chứ không phải của các vua chúa và các danh tướng.

***************************

 

Dừng chân nghĩ lại

 

2-tqan106

Nhân nói về cuộc nam tiến, cũng cần nhận định rằng lịch sử nước ta có cái gì đó thực u uất. Trong suốt quá trình mở nước và dựng nước của ta hình như các biến cố trọng đại lúc nào cũng khởi đầu từ những sự không may. Những người Lạc Việt đầu tiên đã từ Trung Hoa xuống miền Nam để tránh sự hà khắc, rồi hội nhập với người tại chỗ để lập ra nước Việt. Cuối thế kỷ 16, Nguyễn Hoàng vì sợ bị bách hại, đem dân vào Hoành Sơn, cùng với những người di dân Việt đã theo nhau đến đó từ một hai thế kỷ trước hội nhập với người Chiêm Thành mà mở rộng miền Trung. Cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn đã khiến một số đông đảo chạy trốn về phía Nam, tránh sưu cao thuế nặng và tránh cho con cái khỏi bị bắt lính, rồi miền Nam dần dần thành hình. Lúc nào cũng thế, người Việt chạy trốn một sự bất hạnh rồi vô tình đi thêm một bước đường mở nước.

Sau năm 1975, chúng ta lại có một bạo quyền khác và vì đã tựa lưng vào biển cả, đàn chim Việt đã vượt trùng dương, tạo ra cộng đồng người Việt hải ngoại, tỏa sự hiện diện của Việt Nam ra khắp thế giới.

Tất cả những biến cố này đều là những biến cố trọng đại và vô cùng ích lợi. Chúng nói lên khả năng phi thường của một dân tộc luôn luôn đủ khôn khéo để biến họa thành phúc. Nhưng đồng thời chúng cũng là một hổ nhục lớn cho những người lãnh đạo. Đến bao giờ chúng ta mới có thể chủ động thay vì chỉ phản ứng trước một tình thế bắt buộc ? Đến bao giờ chúng ta mới có thể có những chuyển biến tốt do chủ ý, xuất phát từ một dự tính lạc quan ? Tất cả những câu hỏi này chất vấn những người có chức năng lãnh đạo đất nước, nghĩa là những người trí thức.

Đến đây, tôi đã mời độc giả cùng làm một cuộc hành trình khá dài qua lịch sử nước ta, từ lúc lập quốc cho đến khi đạt tới lãnh thổ hiện nay. Cuộc hành trình này chỉ có mục đích giúp ta nhìn rõ hơn chúng ta là ai, hay ít nhất đừng hiểu lầm chính mình. Chúng ta đã đi được một đoạn đường khá dài, và vừa đến một trạm xá thuận lợi để tạm dừng chân, ngồi xuống và nghĩ về mình.

Đối với một dân tộc, nghĩ về mình trước hết là nghĩ về lịch sử của mình. Có người từng nói hãy gõ cửa lịch sử để tìm câu trả lời cho tương lai. Có thể đúng, với điều kiện là chúng ta hiểu được ngôn ngữ của lịch sử để tiếp thu được những thông điệp của nó.

*************************

 

Tám mươi năm Pháp thuộc

 

2-tqan107

Người Pháp khởi sự bắn phá Đà Nẵng năm 1858 rồi bỏ đi. Vài năm sau họ trở lại với một ý chí chinh phục thực sự. Năm 1862 họ đánh chiếm ba tỉnh miền Tây, sau đó chiếm hoàn toàn miền Nam rồi tiến ra Bắc. Nếu tính từ cột mốc 1862 này đến khi Việt Nam tuyên bố độc lập năm 1945 thì cuộc đô hộ của người Pháp đã kéo dài 83 năm. Tuy nhiên, chỉ từ năm 1884 trở đi sự thống trị của người Pháp mới được thiết lập trên toàn lãnh thổ. Nếu lấy cột mốc 1884 thì cuộc đô hộ của người Pháp kéo dài 61 năm.

Thực ra hiệp ước Patenôtre trên lý thuyết cũng không đặt toàn bộ lãnh thổ Việt Nam dưới ách đô hộ của người Pháp. Nó chia Việt Nam làm ba phần. Nam Phần là thuộc địa hẳn hoi của Pháp, Bắc Phần vẫn là lãnh thổ của triều đình Nguyễn nhưng đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Còn Trung Phần vẫn hoàn toàn thuộc chủ quyền nhà Nguyễn. Nhưng người Pháp đã nhanh chóng lấn chiếm thêm chủ quyền Việt Nam trước sự bất lực của triều Nguyễn. Đến năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi ký thêm một hiệp ước nhượng bộ nữa, đặt toàn lãnh thổ Việt Nam dưới sự đô hộ của Pháp. Từ đó người Pháp tha hồ phế lập các vua nhà Nguyễn.

Những sự kiện này mọi người đọc qua lịch sử Việt Nam đều biết. Sự kiện cần được nhấn mạnh là nói chung, trừ một số sĩ phu bất khuất, người Việt Nam đã hoan hô sự thống trị của Pháp, hay ít nhất đã ưa chính quyền thuộc địa Pháp hơn là triều đình nhà Nguyễn. Tại miền Bắc, các cô tôi kể chuyện các bà có thai cố gắng đi vào Hà Nội để đẻ con vì Hà Nội, không giống như các tỉnh miền Bắc khác, được coi là thuộc địa từ năm 1888 và những người ra sinh ra tại Hà Nội được coi là thần dân Pháp [sujet français].

Tới đây có lẽ cũng nên mở một ngoặc đơn để nhận xét một đặc tính của người Pháp. Tại sao lại "thần dân" mà không phải là "công dân" [citoyen français] ? Lại là một trò chơi chữ và phân biệt tinh vi của người Pháp. Người Pháp có biệt tài lấp lửng và mơ hồ để bắt cá hai tay, vừa thủ lợi vừa tránh né trách nhiệm khi cần. Năm 1948 tại Vịnh Hạ Long, Pháp thỏa thuận với Bảo Đại để Việt Nam được độc lập, nhưng lại bắt buộc Việt Nam ở trong khối Liên Hiệp Pháp. Bình thường ra đã độc lập thì phải có quyền gia nhập hoặc không gia nhập một khối nào, nhưng chính quyền Pháp đã ràng buộc hai vấn đề với nhau. Pháp thừa nhận Việt Nam độc lập, nhưng độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, có nghĩa là nếu Quốc Gia Việt Nam quyết định rút ra khỏi khối Liên Hiệp Pháp thì Pháp cũng không còn nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam nữa. Người Pháp chia rẽ nhau trên một giải pháp cho Việt Nam và họ chọn một giải pháp nửa chừng và mâu thuẫn. Chưa hết, người Pháp còn đẩy trò chơi chữ đến một mức độ lố bịch, khôi hài. Câu nhìn nhận "Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp" chỉ được viết bằng tiếng Việt chứ không được dịch ra tiếng Pháp trong hiệp ước Hạ Long. Người Pháp không có óc minh bạch của các dân tộc Anglo-Saxon. Phải nói ngay rằng trong tiếp xúc với phương Tây ta đã không được tiếp xúc với phần tinh hoa nhất của họ, đó là điều đáng tiếc.

Tuy nhiên, mặc dầu những khổ nhục của tình trạng ngoại thuộc, tám mươi năm Pháp thuộc đã đem lại cho đất nước ta những tiến bộ rất trọng đại. Đó là giai đoạn mà nước ta phát triển mau chóng nhất. Người Pháp đã xây dựng ra nhiều thành phố lớn, trong đó có hai cảng Hải Phòng và Sài Gòn, đã xây dựng phần lớn các trục lộ giao thông lớn. Họ cũng đã đem văn hóa, nếp sống, cách tổ chức và những giá trị phương Tây vào đất nước ta. Có thể nói Pháp đã còng tay Việt Nam và dẫn vào thời đại mới. Đóng góp của người Pháp cho nước ta không thể chối cãi, ngay cả dưới mắt một người Việt Nam yêu nước. Năm 1936 khi chính phủ Mặt Trận Bình Dân Pháp của thủ tướng Léon Blum có ý định trở lại hiệp ước 1884, nghĩa là trả lại miền Bắc và miền Trung cho triều đình Nguyễn họ đã bị ngay những trí thức Việt Nam tiến bộ phản đối dữ dội. Các trí thức này không phải không muốn độc lập, nhưng họ không muốn lập lại sự cai trị của triều đình Huế. Không ai, kể cả vua Bảo Đại và các cận thần, ngạc nhiên trước sự phản đối này.

Chúng ta đã bị ngoại thuộc nhiều lần trong quá khứ, nhưng lần này là một ngoại thuộc hoàn toàn khác. Từ trước kẻ xâm lăng đến vơ vét tài sản, tàn phá đất nước và đẩy dân chúng vào cảnh cơ cực. Lần này kẻ thống trị ngoại bang mở mang đất nước, nâng cao mức sống và trí tuệ của dân ta. Ách đô hộ của người Pháp, với sự du nhập của văn hóa và các giá trị phương Tây còn có giá trị giải phóng của nó. Chính từ giai đoạn này mà chúng ta hoàn toàn không còn lệ thuộc Trung Quốc về mặt chính trị nữa và cũng có luôn khả năng ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đã quá lỗi thời. Không những bảo vệ Việt Nam đối với Trung Quốc, người Pháp còn đủ sức mạnh để buộc Trung Quốc chấp nhận những thỏa hiệp có lợi cho Việt Nam, chẳng hạn như hiệp ước về vịnh Bắc Phần.

Người Pháp còn cho Việt Nam một cơ hội mở rộng không gian sinh hoạt. Họ thành lập ra Liên Hiệp Đông Dương gồm ba kỳ của Việt Nam, Lào và Cam-bốt. Hai nước Lào và Cam-bốt vừa quá ít dân so với Việt Nam, lại vừa ở mức độ phát triển thấp hơn nên Đông Dương thực ra là Việt Nam. Chỉ trong vài thập niên, phần lớn các công chức cao cấp tại hai nước này đã là người Việt. Điều nghịch lý là sau thế chiến II, khi người Pháp bằng lòng trả độc lập cho các nước Đông Dương nhưng đòi duy trì Liên Bang Đông Dương trong khối Liên Hiệp Pháp, chính phủ cách mạng Việt Nam, do ông Hồ Chí Minh cầm đầu, đã phản đối dữ dội làm cho hội nghị Đà Lạt năm 1946 thất bại. Dĩ nhiên, tại Hội Nghị Đà Lạt, Pháp còn đưa nhiều đòi hỏi bắt chẹt khác, thí dụ như đòi tách Nam Kỳ ra riêng, nhưng điều đáng để ý là chính phủ Hồ Chí Minh đã phản đối dữ dội Liên Bang Đông Dương mà sau này họ đòi lập lại. Điều này chứng tỏ rằng những người làm chính trị của Việt Nam thiếu hẳn viễn kiến. Nhiều người Việt Nam ngày hôm nay vẫn còn tiếc cơ hội đó. Nhưng tiếc hay không cũng là sự đã rồi. Vấn đề là Liên Bang Đông Dương không nên nhắc lại nữa. Nó chỉ gây ngờ vực và lo âu cho hai nước Lào và Cam-bốt đối với Việt Nam mà thôi. Điều chúng ta cần mưu tìm là một hợp tác bình đẳng trong tinh thần tương kính với hai nước láng giềng này. Một sự hợp tác như thế sẽ có lợi cho cả ba dân tộc.

Chính vì sự thành công của chính quyền thuộc địa Pháp mà thái độ đối với nó đã gây chia rẽ trầm trọng giữa người Việt Nam. Có những người cho chế độ thuộc địa Pháp là hay và nên tiếp tục. Cũng có những người cho rằng độc lập là cần thiết nhưng cần phải tiếp tục hợp tác với người Pháp để mở mang dân trí và dân sinh trước đã, trong số những người này có hai trí thức lỗi lạc nhất đầu thế kỷ 20 là Phan Chu Trinh và Phạm Quỳnh. Sau cùng cũng có những người cho rằng phải đánh đuổi người Pháp để chấm dứt cái nhục bị đô hộ và giành lại chủ quyền ngay tức khắc. Các khuynh hướng này thay vì thảo luận bình tĩnh với nhau đã mạt sát và kết án lẫn nhau. Người này gọi người kia là ngu dốt, người kia gọi người này là phản quốc, bán nước.

Vấn đề thực là phức tạp. Điều phức tạp hơn nữa là giữa những người chủ trương giành độc lập ngay tức khắc cũng không có đồng thuận. Có những người chỉ chủ trương giành độc lập, nhưng cũng có những người chủ trương đánh đuổi người Pháp để thiết lập một chế độ cộng sản. Và hai khuynh hướng này cũng sẵn sàng tàn sát nhau.

Chúng ta đã không biết ra khỏi ách đô hộ của người Pháp một cách tốt đẹp bởi vì chúng ta đã thiếu hẳn một đồng thuận dân tộc. Đồng thuận dân tộc không phải là dễ, nó đòi hỏi một tư tưởng quốc gia và nó cũng đòi hỏi những khuôn mặt uy tín để có thể thuyết phục và qui tụ mọi người trên những chọn lựa quan trọng. Nhưng tư tưởng của chúng ta vốn đã rất kém, nếu không muốn nói là không có gì. Tư tưởng Khổng Giáo đã sụp đổ, nhưng thời gian tiếp xúc với phương Tây vẫn còn quá ngắn nên chưa xuất hiện được những nhà lý luận mới. Phan Chu Trinh là một nhân vật đã có thể góp phần tốt đẹp vào cuộc chuyển hóa tư tưởng trọng đại của đất nước ta, nhưng tiếc thay ông đã qua đời quá sớm, năm 1925, lúc mới vừa 52 tuổi.

****************************

Một bài học lịch sử

 

2-tqan108

Lý do vẫn thường được viện dẫn để giải thích tại sao chúng ta bị người Pháp thôn tính là : vì ta thiếu vũ khí và kỹ thuật tối tân. Chúng ta có vẻ hài lòng với giải thích đó, nhưng khi sự thôn tính đó diễn ra một cách quá dễ dàng thì vũ khí không giải thích tất cả. Vũ khí, ngay cả thêm kỹ thuật tổ chức quân đội, cũng không thể giải thích thất bại quá hổ nhục của ta.

Để đánh thành Hà Nội do Nguyễn Tri Phương có chuẩn bị trước để phòng vệ, người Pháp đã chỉ cần 170 quân và họ hạ thành Hà Nội trong nháy mắt, bắt sống Nguyễn Tri Phương. Lần thứ hai, họ đem một số quân đông gấp ba, gần 500 người, nhưng lần này Hoàng Diệu chỉ kháng cự yếu ớt rồi tự tử để quân Pháp chiếm thành.

Để chiếm Hải Dương, quân Pháp đã chỉ cần 15 người lính bắn vài phát súng là xong. Quân nhà Nguyễn đã không kháng cự chứ không phải đã thua trận. Tại Ninh Bình chúng ta còn nhục nhã hơn nhiều. Một viên thiếu úy dẫn bảy tên lính tới thành. Tổng đốc Nguyễn Đức Tuân và toàn bộ quân sĩ Việt Nam phải hạ khí giới, quì xuống hai bên đường đầu hàng.

Trước đó, Jean Dupuis, một lái buôn với vài tên lính đánh thuê do y tuyển dụng đã có thể làm mưa làm gió mỗi lần đưa tàu buôn ra Bắc. Các quan lại Việt Nam tại Hà Nội mỗi khi thấy tàu Dupuis tới gần phải chạy trước, sợ y bắt và nọc ra đánh.

Nếu bảo rằng ta thua vì không có vũ khí thì tại sao vài ngàn quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc lại hai lần đánh bại quân Pháp một cách dễ dàng, chém đầu viên chỉ huy Pháp ? Mà Lưu Vĩnh Phúc có đánh lén đâu. Trong lần Henri Rivière ra Hà Nội, cũng là lần Pháp đem lực lượng hùng hậu nhất, Lưu Vĩnh Phúc đem quân đến sát Hà Nội, đóng doanh trại, gởi chiến thư gọi Rivière ra đánh. Cách đối địch này chẳng có gì là độc đáo. Henri Rivière đem quân ra. Quân Cờ Đen xông tới tàn sát quân Pháp, chém Henri Rivière, đem bêu đầu. Năm đó là năm 1872.

Trước đó, đầu thế kỷ 19, giữa lúc Pháp hùng mạnh nhất về quân sự, với hoàng đế Napoléon I làm bá chủ cả châu Âu, thì những người nô lệ da đen trên đảo Haiti nổi dậy thành lập một quốc gia độc lập thách thức đế quốc Pháp. Napoléon I đã cử một hạm đội hùng hậu gồm 86 chiến thuyền và 34.000 lính thủy dưới sự chỉ huy của đô đốc Leclerc, em rể Napoléon I, sang chinh phạt. Dưới quyền đô đốc Leclerc là 13 trung tướng và 27 thiếu tướng. Đạo quân hùng hậu và tinh nhuệ này còn mang theo một đàn chó trận được tập luyện để săn người da đen. Chúng sử dụng những biện pháp cực kỳ tàn bạo, treo cổ, nhận nước cho chết, thả tù nhân cho chó ăn thịt, v.v... Nhưng những người da đen đơn sơ đã chống trả, họ đã đánh tan đạo quân này trong thời gian không đầy hai năm, buộc quân Pháp phải đầu hàng. Lúc đó tổng số người da đen tại Haiti chưa tới nửa triệu người.

Thành tích này thật nổi bật so với Việt Nam. Lúc đó chúng ta đã có khoảng xấp xỉ mười triệu dân, đã có một lịch sử dài với nhiều quá khứ chống ngoại xâm và mở mang bờ cõi rất oanh liệt. Quân Pháp sang chiếm nước ta cũng chỉ vài ngàn người với phương tiện thô sơ, mỗi lần ra Bắc họ chỉ đem vài trăm lính dưới sự chỉ huy của những sĩ quan trung cấp.

Vũ khí, kỹ thuật tổ chức, ngay cả số đông cũng không phải là tất cả. Chúng ta thua, và thua rất nhục nhã, chỉ vì tinh thần dân tộc của chúng ta không còn. Mỗi lần quân Pháp ra đánh Bắc Hà, dân chúng kéo nhau "đi xem quân Tây và quân Nam đánh nhau" như những người bàng quan. Các vua nhà Nguyễn đã chỉ coi miền Bắc và miền Nam như những vùng đất xa xôi. Các chính sách hà khắc, giết hại công thần, cấm đạo đã làm tan vỡ hoàn toàn đồng thuận dân tộc. Nước Việt Nam vào giai đoạn đó chỉ còn là một hư cấu và vì thế nó đã mất hết sức tự vệ.

Từ đó đến nay chúng ta có xây dựng cho lòng yêu nước mạnh hay không ? Một cách ngược đời, giai đoạn Pháp thuộc đã làm tăng trưởng tinh thần quốc gia và lòng yêu nước. Ba yếu tố đã đóng góp vào sự tăng trưởng này. Một là sự hổ nhục vì bị đô hộ bởi một số ít thực dân, thuộc một chủng tộc khác và đến từ phương xa, đã gây ra một phản ứng liên đới giữa những người cùng chung nòi giống và văn hóa. Hai là do tiếp xúc với phương Tây, chúng ta đã tiếp thu được ý thức quốc gia, một ý thức trước đó chúng ta chỉ có một cách mơ hồ và người phương Tây cũng chỉ khám phá trước chúng ta không bao lâu ; tôi sẽ còn trở lại vấn đề này trong những trang sắp tới. Ba là thời Pháp thuộc đã đem lại phồn vinh, và do đó một sinh lực mới cho cộng đồng dân tộc.

Sức mạnh mới đó đã khiến dân ta quật khởi vùng lên giành chủ quyền. Đảng cộng sản đã vận động được lòng yêu nước đó để dựa vào chiêu bài giải phóng dân tộc mà tranh đấu cho chủ nghĩa cộng sản, và họ cũng đã giáng một đòn chí tử vào lòng yêu nước vừa mới có được một sức mạnh. Lần đầu tiên ở nước ta xuất hiện một lực lượng không kêu gọi đoàn kết dân tộc mà kêu gọi hận thù giữa dân tộc. Tiếng gọi đấu tranh giai cấp về thực chất là một tiếng gọi nội chiến, một tiếng gọi giải thể quốc gia, thay thế tinh thần quốc gia bằng tinh thần giai cấp. Sau đó chính sách toàn trị của họ đã biến đất nước thành của riêng một đảng - như ngày trước nó là của riêng một dòng vua - và trục xuất đại khối dân tộc khỏi định mệnh đất nước. Đã thế, đảng cầm quyền lại còn áp dụng vô số biện pháp phân loại dân chúng và phân biệt đối xử. Những đổ vỡ và thất vọng kéo dài quá lâu đã làm sụp đổ lòng yêu nước của người Việt.

Ngày trước, chính sự suy sụp của tinh thần dân tộc đã khiến chúng ta thua một cách hổ nhục dưới tay người Pháp chứ không phải vì người Pháp mạnh. Ngày nay cũng chính sự suy sụp tinh thần dân tộc đã khiến chúng ta không tự giải phóng được khỏi tay đảng cộng sản chứ không phải vì chế độ cộng sản mạnh. Có những lúc mà những bài học lịch sử thật đáng suy ngẫm.

***********************

 

Soi lại chân dung,

ba nét đậm của đất nước

 

2-tqan109

Cuốn sách này dĩ nhiên không thể có tham vọng lố bịch là viết lại lịch sử. Nó đã mời độc giả theo dòng lịch sử mà nghĩ lại một số nhân vật và sự kiện với một dụng ý khác.

Cách mà một dân tộc đánh giá các triều đại và các nhân vật lịch sử nói lên rất nhiều về tâm lý của dân tộc đó. Chính qua cách chọn lựa và tôn vinh các anh hùng mà mỗi dân tộc bộc lộ hồn tính của mình.

Một mặt, việc luận công và tội trong lịch sử tùy thuộc ở các giá trị mà mỗi dân tộc đề cao hơn là ở những sự kiện đã thực sự xảy ra, và vì thế có thể thay đổi với thời gian. Một thí dụ là hoàng đế Napoléon I của nước Pháp. Napoléon là một thiên tài về quân sự, đã đánh bại và chế ngự gần hết châu Âu. Ông cũng là một nhân vật hào hoa phong nhã, có sức truyền cảm khó bì và không những chỉ đem vinh quang quân sự cho nước Pháp, ông còn làm ra luật pháp, đặt ra những định chế quan trọng mà nước Pháp tới nay vẫn còn gìn giữ và tự hào. Thời đại của ông cũng để lại những công trình lớn, vĩ đại cả về tầm vóc lẫn mỹ thuật. Có một dạo người Pháp tôn sùng ông như một thần tượng, nhưng ngày nay, nếu được hỏi, ít có người Pháp nào còn bày tỏ sự ái mộ với Napoléon. Không phải vì Napoléon đã thay đổi mà vì tâm lý và cách nhìn lịch sử của người Pháp đã thay đổi.

Mặt khác, những nhận định và đánh giá rõ ràng là sai lầm mà lại kéo dài quá lâu cũng tố giác sự hời hợt và sự thiếu óc phê phán của một dân tộc.

Đặt lại một số vấn đề lịch sử như vậy cũng là chất vấn tâm lý tập thể của một dân tộc và rà soát lại các giá trị nền tảng, các giá trị đã góp phần quyết định tạo ra số phận của dân tộc đó. Các nhà tư tưởng hiện nay đều đồng ý trên một điểm : tâm lý và các giá trị là tất cả đối với một dân tộc ; địa lý, tài nguyên thiên nhiên và ngay cả bối cảnh quốc tế chỉ là thứ yếu. Các dân tộc như Mỹ, Đức, Nhật, dù ở hoàn cảnh nào, dù có bị tàn phá đến đâu cũng vẫn nhanh chóng phục hồi và vươn lên trong khi nhiều dân tộc khác dù được thiên nhiên và hoàn cảnh ưu đãi tới đâu cũng vẫn thua kém. Một dân tộc vì thế chỉ thay đổi được số phận của mình nếu thay đổi tâm lý và các giá trị, nghĩa là thay đổi văn hóa, thay đổi cách suy nghĩ, hành động và ứng xử.

Cuộc hành trình qua lịch sử mà cuốn sách này mời độc giả cùng đi đã không thoải mái. Tôi hiểu là những phân tích không khoan nhượng đã làm phiền lòng không ít độc giả. Những gì mà chúng ta đã biết hoặc đã tin là một phần của chính chúng ta, và dĩ nhiên chúng ta cảm thấy như bị xúc phạm và bị đả thương khi có người bác bỏ. Tôi mong các độc giả đó hiểu cho rằng chính tôi đã rất đau nhức khi phải xét lại những gì mà chính mình trong một thời gian dài đã cho là đúng và lấy làm nền tảng cho nhiều lý luận khác. Nhất là khi tôi phải làm việc đó tự mình và một mình, trong một cuộc xung đột với chính mình.

Nhưng đó là việc phải làm. Chúng ta phải nhận định lại lịch sử để nhận diện lại chính chúng ta và thay đổi số phận của chúng ta. Hoàn cảnh bi đát của chúng ta hiện nay không cho phép chúng ta thỏa mãn. Khi chúng ta nhìn lịch sử của mình một cách khác cũng là lúc chúng ta nghĩ về mình một cách khác, để từ đó chấp nhận một cách ứng xử khác và tiến tới một tương lai khác.

Cuộc hành trình này đã dẫn chúng ta tới lịch sử hiện đại, nghĩa là phần lịch sử còn đang diễn ra mà chúng ta còn có thể tác động. Phần lịch sử này chúng ta sẽ phải đề cập một cách khác. Nhưng tới đây chúng ta đã có thể rút ra một vài nhận định quan trọng.

Một là đất nước ta đã hình thành như một phần của Trung Quốc, rồi do hoàn cảnh địa lý mà tách rời ra, nhưng chỉ tách rời về mặt hành chánh chứ không tách rời về mặt văn hóa. Như vậy ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa trên chúng ta rất lớn, ngay cả khi chúng ta không ý thức được. Không phải là một sự ngẫu nhiên mà các vua quan nhà Nguyễn vẫn cố bám vào Trung Quốc giữa lúc chính Trung Quốc cũng đang rất khốn đốn. Cũng không phải là một ngẫu nhiên mà sau khi đã bị Pháp đô hộ và đã chịu ảnh hưởng nặng nề của Pháp, Việt Nam Quốc Dân Đảng mà những người chủ xướng đều có Tây học, vẫn chủ trương rập khuôn Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Cũng không phải là một ngẫu nhiên mà Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn lếch thếch chạy theo Đảng Cộng Sản Trung Quốc, dù có lúc hai bên đã thù ghét nhau thậm tệ. Cho dù thương nhau hay ghét nhau, cùng một văn hóa thì vẫn cùng một cách hành động. Chúng ta còn muốn tiếp tục đi theo và đi sau người Trung Hoa nữa không, hay chúng ta đã nhìn thấy những khuôn mẫu khác và những lộ trình khác tốt đẹp hơn ? Nếu không muốn theo mô hình Trung Quốc nữa thì chúng ta cần một cố gắng cởi trói, vượt thoát và khai thông rất trọng đại.

Hai là trong quá trình lịch sử chúng ta đã bị ngoại thuộc nhiều hơn là độc lập, chúng ta đã chịu đựng quá nhiều chiến tranh và chỉ được hưởng quá ít hòa bình, đã bị chia cắt nhiều hơn thống nhất. Đó là một lịch sử rất chật vật và vì thế chúng ta là một dân tộc bị chấn thương nặng. Cách suy nghĩ và hành động của chúng ta chắc chắn là không bình thường. Do đó cần rất dè dặt trong các phân tích và các dự đoán chính trị. Có những sự kiện đáng lẽ phải xảy ra lại không xảy ra và cũng có những biến cố đáng lẽ không thể có lại vẫn có. Trong những trường hợp như thế, một nhận định bình thường, nghĩa là không kể đến tình trạng bất bình thường của dân tộc ta, rất dễ khiến chúng ta lý luận gượng ép, khen chê một cách sai lạc và gây khó khăn thêm cho sự tìm kiếm một giải pháp đúng đắn. Trong hoàn cảnh phức tạp và khủng hoảng tinh thần này, chúng ta cần rất nhiều bình tĩnh và sáng suốt.

Sau cùng, tuy chúng ta có một lịch sử dài nhưng lại là một quốc gia mới hình thành xong. Chúng ta đã không ngừng đón nhận nhiều đóng góp về đất đai và chủng tộc. Cấu tạo địa lý và nhân văn của chúng ta mới chỉ rõ rệt từ nửa sau thế kỷ 18. Từ đó đến nay lại là giai đoạn đầy rẫy những thảm kịch nội chiến, ngoại xâm, ngoại thuộc, chia cắt, xung đột ý thức hệ, v.v... Chúng ta là một quốc gia chưa ổn vững, cần được củng cố, xây dựng và gìn giữ với tất cả thận trọng, nhất là vào giữa lúc mà ý niệm quốc gia đang bị công phá khắp nơi trên thế giới. Nguy cơ tan rã có thực. Trong khi dù muốn hay không chúng ta vẫn cần có một quốc gia để làm không gian liên đới cho cố gắng xây dựng một tương lai chung. Vì nhiều lý do, mà lý do giản dị nhất là không ai muốn hòa nhập với một dân tộc nghèo khổ như chúng ta.


 

***********************

 

 

Một chuyển tiếp tự nhiên

2-tqan200

 

Một cuộc hành trình dù vội vã đến đâu qua lịch sử Việt Nam cũng không thể bỏ qua đảng cộng sản. Tác động của nó vào lịch sử Việt Nam đã vô cùng to lớn.

Đó là phong trào Việt Nam lần đầu tiên tôn vinh đế quốc Nga (dưới mỹ từ Liên Bang Xô Viết). Sự thần phục này nghịch lý về nhiều mặt. Nga là nước không những ở rất xa nước ta, chưa hề có một quan hệ nào với nước ta, mà lại là nước do điều kiện địa lý rất ít giao thiệp với thế giới bên ngoài. Nga có trình độ phát triển thấp hơn hẳn các nước phương Tây. Văn hóa Nga dù không tồi cũng không sánh được với văn hóa phương Tây.

Chọn lựa đồng minh và quan thầy kỳ lạ này đến từ một chọn lựa độc đáo khác : Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng là phong trào nổi dậy đầu tiên không lấy quốc gia làm đối tượng phục vụ, hơn thế nữa mục đích sau cùng của nó còn là giải thể quốc gia Việt Nam (cũng như mọi quốc gia khác) để hội nhập vào một thế giới vô sản. Chủ nghĩa đã mạnh hơn các quan tâm về địa lý, lịch sử và văn hóa. Điểm này cần được nhận định đúng đắn để rút một suy tư về đất nước. Chính vì khó có thể tin rằng một phong trào không nhắm phục vụ mà còn nhắm giải thể Việt Nam mà lại được người Việt Nam ủng hộ nên ngay cả một số những người chống cộng vẫn cố biện bạch rằng phong trào cộng sản là một phong trào yêu nước.

Nhưng sự thực không phải như thế. Sự lấn cấn sở dĩ có là vì chúng ta không phân biệt hai khái niệm khác nhau : người cộng sản và đảng cộng sản. Có và có nhiều người cộng sản yêu nước, nhưng đảng cộng sản không phải là một đảng yêu nước.

Đảng cộng sản thành lập lúc ban đầu dưới danh xưng là Đảng Cộng Sản Đông Dương với vai trò phân bộ của phong trào cộng sản quốc tế. Nó nổi dậy lần đầu với tên gọi "Xô Viết Nghệ Tĩnh" và lá cờ đỏ mang khẩu hiệu "Vạn Tuế Sô Nga". Cuộc nổi dậy này hoàn toàn chỉ do những động cơ giai cấp, dưới khẩu hiệu "trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ", nó chỉ nhắm tàn sát những người bị coi là kẻ thù của giai cấp vô sản. Trên thực tế đây không phải là một cuộc nổi dậy vì Việt Nam. Chiêu bài dân tộc chỉ được dùng tới sau đó, do một chọn lựa chiến lược mà Stalin áp đặt lên đệ tam quốc tế : chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội trong từng quốc gia. Những người cộng sản Việt Nam đầu tiên không phải đã hân hoan đón nhận mệnh lệnh này. Họ đã chỉ tuân hành nó một cách miễn cưỡng. Điều đã thôi thúc những người cộng sản trung kiên, đã khiến họ có thể hy sinh tính mạng và đã đem lại sức mạnh cho đảng cộng sản, vẫn là lý tưởng quốc tế vô sản.

Đảng cộng sản cũng khiến Việt Nam một thời được cả thế giới biết đến và nể phục như một dân tộc anh hùng bất khuất đã chống trả một cách thắng lợi với hai cường quốc lớn Mỹ và Pháp. Nó cũng là phong trào lần đầu tiên đánh bại Hoa Kỳ. Mỗi người Việt Nam, kể cả những người chống cộng và đã thực sự đứng trong hàng ngũ đối địch với đảng cộng sản, sẽ lầm nếu phủ nhận những chiến công này. Phủ nhận chúng cũng như người Ai Cập phủ nhận các kim tự tháp hay như người Trung Hoa phủ nhận Vạn Lý Trường Thành. Đó là những công trình được xây dựng trên mồ hôi, nước mắt và xương máu của các dân tộc nhưng đồng thời cũng là những di sản của họ. Ngược lại, những người cộng sản cũng nên tương đối hóa những chiến thắng đó. Cùng lắm chúng chỉ khiến chúng ta xuất hiện như là một dân tộc giỏi chiến tranh trong một thế giới ngày càng tôn vinh những giá trị khác và trong đó chỗ đứng và sự vinh nhục của các dân tộc được quyết định bởi những thành tựu về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, thương mại. Hơn nữa chúng ta đã phải trả giá quá đắt cho những chiến thắng này. Chúng ta đã kiệt quệ hoàn toàn và còn thù ghét lẫn nhau, để rồi bế tắc trong sự thua kém.

Đảng cộng sản đã làm chết bốn triệu người qua ba mươi năm chiến tranh (con số sẽ cần được khảo sát một cách chính xác) nhưng đã nắm được chính quyền và thống nhất đất nước. Họ đã thất bại khi cầm quyền. Cần nói rõ về sự thất bại này để tránh ngộ nhận chủ quan : chế độ cộng sản, sau những đập phá lúc ban đầu do bản chất cách mạng của nó, đã làm nhiều cố gắng xây dựng đúng. Nó đã nâng cao phần nào cuộc sống của người dân mặc dầu dân số Việt Nam tiếp tục tăng nhanh. Nó cũng đã thúc đẩy nhiều công trình nghiên cứu có ích, và nó cũng dành cho người dân một chỗ đứng và một phẩm giá lớn hơn hẳn các chế độ quân chủ tại Việt Nam trước đó. Nếu chúng ta không tự giới hạn trong cuộc tương tranh quốc-cộng mà cố gắng nhìn cả chiều dài của lịch sử thì chế độ cộng sản phải được coi là chế độ hay nhất mà chúng ta đã có từ trước đến nay trong những chế độ đã cai trị toàn bộ Việt Nam (không kể chế độ Việt Nam Cộng Hòa, một công thức canh tân được đề ra để đối đầu với công thức cộng sản, nhưng đã thất bại sau 27 năm tồn tại và chưa bao giờ kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ và dân số Việt Nam).

Đảng cộng sản không thất bại so với các triều đại đã cai trị Việt Nam trước họ. Nhưng họ đã thất bại so với thế giới. Các vua chúa Việt Nam trước đây tuy không bằng họ ngày nay, nhưng lại hơn các lân bang lúc đó và vì thế Việt Nam đã đứng vững được và bành trướng được. Đảng cộng sản hơn các vua chúa ngày xưa nhưng lại thua kém các chính quyền khác trên thế giới ngày nay nên Việt Nam tụt hậu. Trong khi các quốc gia khác tiến rất xa so với quá khứ của họ, Việt Nam dưới chế độ cộng sản chỉ tiến khá xa so với quá khứ của mình mà thôi. Đó là tất cả vấn đề. Tội chính của Đảng Cộng Sản Việt Nam là tội làm mất thì giờ của đất nước, mà trong thời đại này thì giờ là tất cả, mất thì giờ nhiều quá có thể mất nước luôn. Việt Nam trong thập niên 1960 và trong nửa đầu thập niên 1970 đã được cả thế giới biết đến và nể phục vì đã làm một việc phi thường là dám chống lại quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Việt Nam bước vào thế kỷ 21 cũng đang được cả thế giới biết đến, nhưng không nể phục chút nào, vì đang làm một việc cũng rất phi thường khác là tiếp tục theo đuổi một chủ nghĩa ngây ngô đã sụp đổ. Nhưng làm sao có thể ôm lấy một cái gì đã đổ nát tung tóe ? Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay chẳng phải là cộng sản. Nó chỉ là một pha trộn quái dị của nhiều thành tố cộng sản, tư bản, phát-xít, quân phiệt và mafia.

Trong chiều dài của lịch sử, đảng cộng sản đã có một thành tích quan trọng. Họ đã thống nhất đất nước. Đó là một thành tích lớn dù nhiều người, trong đó có tôi, tin rằng chúng ta có thể thống nhất đất nước một cách ít tốn kém và đổ vỡ hơn.

Họ đã chấm dứt vĩnh viễn được cuộc tranh cãi, không còn lý do nữa nhưng vẫn không chịu chấm dứt hẳn, xem tôn giáo nào đáng được coi là quốc giáo. Họ đã dứt khoát khẳng định Việt Nam là một nhà nước thế quyền. Trong thế giới ngày nay, loại trừ được ảnh hưởng của các tôn giáo trong sinh hoạt chính trị là một may lắn lớn. Tuy nhiên nhiều người, trong đó có tôi, tin rằng chúng ta vẫn có thể làm được việc này bằng một cố gắng văn hóa, chính trị đứng đắn mà không phải dùng tới những biện pháp thô bạo. Vấn đề nên làm là đưa các tôn giáo ra khỏi chính trị, đảng cộng sản đã làm điều ngược lại là đem chính trị vào tôn giáo. Điều mà đảng cộng sản cố gắng làm - nhưng không làm được - là tiêu diệt các tôn giáo.

Họ cũng đã thay đổi một cách quan trọng tập tính người Việt. Đạo đức truyền thống đã bị phá sản hoàn toàn. Biết bao nhiêu người, kể cả những người cộng sản ngoan cố, đã than phiền sự băng hoại của đạo đức. Con người trở thành vị kỷ, lưu manh, thô lỗ. Nhưng cuộc chuyển hóa tư tưởng này không hoàn toàn tiêu cực. Trên ít nhất hai điểm nó rất tích cực.

Một là nó đã tiêu diệt được óc tôn sùng bằng cấp, một căn bệnh tâm thần rất tai hại của người Việt. Không phải đảng cộng sản nhận thức được sự tai hại của tâm lý trọng bằng cấp và dụng tâm đánh đổ nó. Trái lại chính vì họ quá trọng bằng cấp mà đã cấp phát bừa bãi cho các đảng viên những học vị to lớn, với kết quả là khiến các bằng cấp trở thành những mảnh giấy lộn không hơn không kém. Tình trạng này đưa đến hậu quả tốt mà họ không ngờ là con người từ đây sẽ chỉ được đánh giá theo khả năng. Từ đây người Việt Nam sẽ phải học để biết, để có khả năng chứ không học để giành lấy một bằng cấp không còn chứng minh gì nữa. Nói một cách khác, từ đây người ta sẽ phải có thực học thay vì chỉ cần học vị. Đây là một cuộc cách mạng văn hóa rất lớn, mà vô tình đảng cộng sản đã làm được.

Hai là nó đã phần nào biến dân tộc Việt Nam từ một dân tộc từ chương, công chức và làm công thành một dân tộc buôn bán và kinh doanh. Ngay lúc đi tù về tôi đã chứng kiến cuộc chuyển hóa vĩ đại này. Hình như nhà nào cũng buôn bán một cái gì. Một tủ kem, một thùng thuốc lá, một quầy tạp hóa tí hon, một quán cà-phê đột xuất v.v... Cũng có những người suốt ngày tháng loay hoay chạy mối bán thuốc tây, hàng vải, đủ thứ. Từ ngàn xưa chúng ta coi thường và bài xích thương mại và do đó đã nghèo khó, lạc hậu và thua kém. Chế độ cộng sản vô tình - hoàn toàn vô tình vì chủ nghĩa của họ không những bài xích mà còn thù ghét thương mại - đã chữa được cho người Việt Nam chứng bệnh tâm lý tổ tông truyền này.

Trái với một số người, tôi không quá lo ngại về sự băng hoại đạo đức hiện nay. Thật ra chúng ta đòi hỏi gì ở con người ? Chúng ta mong muốn những con người có khả năng, chăm chỉ, lương thiện và nhã nhặn. Tất cả những đức tính đó một sinh hoạt kinh tế thị trường đúng nghĩa, nhất là hoạt động buôn bán, sẽ đem lại. Trong một sinh hoạt kinh tế thị trường thực sự, không có khả năng, lười biếng, gian trá thì mất việc ; có khả năng, lương thiện, chăm chỉ thì lên chức, lên lương. Buôn bán mà gian trá, thô lỗ thì mất khách và phá sản. Kinh tế thị trường tự do cũng có cái lô-gích và cái đạo đức của nó. Phần lớn những thói hư tật xấu đều có thể khắc phục được trong vòng một thế hệ nếu chúng ta mau chóng có được một nhà nước dân chủ pháp trị đúng đắn, tin tưởng vào kinh tế thị trường và khai thác triệt để mọi ưu điểm của nó.

Một thành quả cũng rất vô tình nhưng vô cùng vĩ đại của chế độ cộng sản là đã tạo ra cộng đồng người Việt hải ngoại. Lúc đi du học trong thập niên 1960, tôi ngỡ ngàng khám phá ra là Việt Nam không có cộng đồng hải ngoại như các dân tộc cùng tầm vóc khác. Đó là một thiệt hại rất lớn. Cộng đồng hải ngoại là những đầu cầu thương mại, văn hóa, khoa học và kỹ thuật rất quí báu nhưng, điều còn nhiều lần quí báu hơn, nó cũng là con mắt của một dân tộc để nhìn và hiểu thế giới. Một dân tộc không có cộng đồng hải ngoại không khác gì một người mù. Không có cộng đồng hải ngoại thì không có gì đáng ngạc nhiên nếu chúng ta thiển cận, mù quáng, hẹp hòi, bất dung, cố chấp, và sau cùng lạc hậu. Tất cả các quốc gia mới vươn lên gần đây đều đã nhờ sự đóng góp tích cực của một cộng đồng hải ngoại hùng mạnh.

Đảng cộng sản đã không chủ đích thành lập một cộng đồng người Việt hải ngoại vì nhìn thấy vai trò của nó. Họ không có một viễn kiến quốc gia nào. Chính sự bạo ngược của họ đã làm cho hàng triệu người phải liều chết vượt biển ra đi, và họ còn cấm cản một cách dã man làn sóng vượt biên. Sau cùng chính họ cũng đứng ra tổ chức vượt biên, nhưng chỉ để làm tiền và trục xuất người Việt gốc Hoa theo một quan niệm dân tộc hẹp hòi. Họ đã làm mất đi một tài nguyên nhân lực quan trọng của đất nước, đồng thời cũng khiến cộng đồng người Việt hải ngoại không có được tiềm năng đóng góp mà đáng lẽ số lượng của nó phải đem lại bởi vì phần lớn người Hoa khi còn ở Việt Nam là những người Việt gốc Hoa nhưng khi ra nước ngoài chỉ còn là những người Mỹ, người Pháp, người Úc gốc Hoa. Tuy vậy, kết quả vẫn còn đó, một cộng đồng người Việt hải ngoại gần ba triệu người, trong đó phân nửa sinh ra tại hải ngoại đã thành hình. Và đây là một trong những sự kiện lịch sử vĩ đại nhất từ ngày lập quốc.

Một lời sau cùng trước khi sang phần khác : chúng ta sẽ rất lầm nếu căm thù đảng cộng sản và chế độ cộng sản. Chế độ cộng sản là một giai đoạn chuyển tiếp lô-gích từ chế độ quân chủ Khổng Giáo sang một chế độ dân chủ. Chủ nghĩa cộng sản, dù được văn bản hóa tại châu Âu, chỉ là một cải tiến của Khổng Giáo. Về bản chất, cộng sản và Khổng Giáo chỉ là một ; ý thức hệ cộng sản đã cải tiến Khổng Giáo bằng cách đem vào, ở một mức độ thấp, một số ý niệm mới : luật pháp và nhân quyền, cùng với một kỹ thuật tổ chức hiệu lực hơn. Đó là điều sẽ được trình bày trong phần sau.

Ở đây, tôi chỉ xin đưa ra hai nhận định. Một là, lý do chính khiến đảng cộng sản đã được hưởng ứng và đã thành công là vì chủ nghĩa cộng sản rất phù hợp với văn hóa Khổng Mạnh mà chúng ta đã thấm nhuần và trân trọng trong suốt dòng lịch sử. Chúng ta đã phải đi qua đoạn đường cộng sản bởi vì đó là một giai đoạn chuyển tiếp tự nhiên trừ khi chúng ta làm một bước nhảy vọt về văn hóa và tâm lý, nhưng bước nhảy vọt này đã không có. Hai là, chế độ cộng sản, nhìn như một giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ quân chủ tuyệt đối đặt nền tảng trên Khổng Giáo sang một chế độ dân chủ, đã kéo dài bởi vì chúng ta chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo một cách quá nặng nề.

Chúng ta đã phải đi qua đoạn đường cộng sản vì, do thiếu kém tư tưởng, chúng ta đã không dám hoặc không muốn vứt bỏ một cách dứt khoát và nhanh chóng Khổng Giáo để quả quyết chọn lựa dân chủ. Không thiếu những người vừa chống cộng kịch liệt vừa đề cao Khổng Giáo như một đạo lý cao đẹp chỉ cần cải tiến để thích nghi với thời đại mùới mà không ý thức được rằng chủ nghĩa cộng sản chính là một cải tiến lớn của Khổng Giáo. Không phải là một sự tình cờ mà phong trào cộng sản đã thành công ở cả ba nước theo Khổng Giáo : Trung Quốc, Cao Ly và Việt Nam (trái với một nhận định hời hợt, Nhật Bản không phải là một nước Khổng Giáo). Cũng không phải là một sự tình cờ mà ba trong bốn nước cộng sản còn lại là những những nước thuộc văn hóa Khổng Giáo. Cộng sản không phải là một tai họa từ trên trời rơi xuống, nó tự chính chúng ta mà ra. Đó là một di sản của lịch sử mà chúng ta phải nhìn nhận và quản lý đúng đắn để thoát khỏi.

Published in Tư liệu

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

Phần Hai - 1

Đoạn đường đã qua

2-tqan1

 

 

Mấy ngàn năm lịch sử

 

 

2-tqan2

Báo chí trong nước hồi năm 1992 thuật lại một cuộc thảo luận được coi là sôi nổi và hào hứng nhất từ xưa đến nay. Đó là cuộc tranh cãi về lời nói đầu của hiến pháp 1992, đúng ra là tranh cãi về câu đầu của lời nói đầu. Các đại biểu quốc hội không đồng ý nên viết "Trải qua bốn ngàn năm lịch sử" hay "Trải qua mấy ngàn năm lịch sử", hay "Trải hơn bốn ngàn năm lịch sử". Kết quả là ban lịch sử của Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định chọn câu : "Trải hơn bốn ngàn năm lịch sử" và các đại biểu quốc hội đã vâng lời. Họ không bao giờ là đại biểu. Họ chỉ là những người được đảng chỉ định vào quốc hội.

Cuộc tranh cãi này đáng chú ý về sự hời hợt của họ. Nó xoay quanh một con số, mà ai cũng biết là không chính xác, về chiều dài của lịch sử chứ không đi vào nội dung của lịch sử.

Lịch sử dĩ nhiên là rất quan trọng. Nó là một kho kinh nghiệm và một nguồn suy tư. Nó cho phép một dân tộc, hiểu theo nghĩa là sự sống liên tục của những đời người ngắn ngủi kế tiếp nhau và gắn bó với nhau trong một số phận chung, nhìn lại mình và hiểu mình để tiếp tục sống và tiến lên.

Quan tâm tới lịch sử đánh dấu sự hình thành của ý niệm quốc gia. Hiểu như thế thì tuy đất nước Việt Nam (hiểu theo nghĩa đen là đất và nước) đã có từ hàng chục triệu năm và những con người Việt Nam cũng đã có từ hàng chục ngàn năm và đã dần dần sống thành xã hội có tổ chức nhưng ý niệm về quốc gia Việt Nam chỉ mới xuất hiện rất gần đây, vào đầu thế kỷ thứ 13 khi Lê Văn Hưu soạn ra bộ Đại Việt Sử Ký. Điều này tự nó cũng đầy ý nghĩa. Nước Việt đã thành lập xong rồi, ý thức quốc gia của người Việt Nam mới bắt đầu xuất hiện. Sự kiện này nói lên đặc tính của dân tộc Việt Nam : ý niệm đi rất sau thực tiễn, hành động đi trước ý thức. Nhược điểm tổ tông truyền này vẫn còn có thể nhận thấy rất rõ rệt ngay trong thời đại chúng ta : cứ làm mà không cần suy nghĩ về tinh thần và cái trở thành của việc mình đang làm. Chính vì thế mà chúng ta luôn luôn thụ động để cho thực tế xô đẩy chứ không chủ động việc tổ chức tương lai của mình.

Quan tâm về lịch sử, nghĩa là ý niệm quốc gia, đã tới chậm như vậy lại không được coi trọng. Sử bị bỏ rơi trong hơn hai thế kỷ, mãi đến đời Lê Thánh Tông, Ngô Sĩ Liên mới soạn lại lần thứ hai bộ Đại Việt Sử Ký. Điều đáng ngạc nhiên là nhà Trần đã không cảm thấy cần chép lại chiến công hiển hách phá quân Nguyên của mình. Như thế phải hiểu rằng người Việt Nam không quan tâm lắm về đất nước của mình. Bản Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo chỉ thúc dục các tướng chịu ơn vua phải chiến đấu cho vua chứ không nói đến dân tộc và đất nước. Ý thức quốc gia chỉ thể hiện một cách mạnh mẽ rõ rệt trong bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi. Vì thế nếu coi Bình Ngô Đại Cáo là tuyên ngôn lập quốc cũng không phải là quá đáng. Lúc đó đã là thế kỷ thứ 15.

Muốn có ích, nghĩa là muốn làm một nguồn kinh nghiệm cho phép rút ra những bài học chung cho dân tộc, lịch sử phải chính xác và đầy đủ. Lịch sử là một tài liệu để làm việc. Lịch sử không đầy đủ và không chính xác có nghĩa là chúng ta làm việc trên một tài liệu vừa thiếu vừa sai. Như thế làm sao có thể rút ra những kết luận đúng đắn ? Nhưng lịch sử của ta rất sơ sài, lại rất thiếu chính xác. Các nhà viết sử đều là những bầy tôi ăn cơm vua, mặc áo chúa phải viết cho vừa lòng chủ chứ không viết theo sự thực. Bước vào thời đại mới, chúng ta lại chỉ có những chính quyền thiển cận coi lịch sử là dụng cụ tuyên truyền cho chế độ. Lịch sử, kể cả lịch sử cận đại của ta, không những thiếu sót mà còn bị xuyên tạc. Đã thế, vô số lý luận hồ đồ lại còn được tung ra với mục đích giải thích lịch sử theo chiều hướng có lợi cho một phe phái. Người Việt Nam, kể cả trí thức, vốn đã thiếu óc phê bình, lại còn bị khủng bố bởi cả một phong trào khai thác lịch sử.

Cuối cùng chúng ta không những không biết rõ lịch sử của mình, mà còn bị tiêm nhiễm những nhận định rất lệch lạc. Chúng ta là một dân tộc mất ký ức tập thể. Điều đó có thể giải thích một phần tại sao một dân tộc khá tốt bụng, khá sáng dạ, khá siêng năng, có một địa lý khá thuận lợi lại không vươn lên được và vẫn quằn quại mãi trong nghèo khó và lạc hậu.

**********************

 

Con cháu tiên rồng

 

 

2-tqan3

Người Trung Hoa tự coi là con Trời, người Nhật tự coi là con cháu của Mặt Trời, người Việt Nam ta tự coi mình là con cháu Tiên Rồng. Dân tộc nào cũng có tự ái riêng và đều muốn tự gán cho mình một dòng dõi cao quí. Những huyền sử đó có thể coi là ý thức cộng đồng đầu tiên. Mỗi dân tộc cần có một niềm tự hào nào đó để tự duy trì. Bài học đầu tiên mà ta có thể rút ra từ huyền sử đó là muốn trường tồn và tiến lên ta luôn luôn cần có thêm những lý do mới để tự hào. Từ đó ta có thể tự đặt cho mình câu hỏi : Hiện nay ta có lý do nào để tự hào không ? Nếu có là ta đang tiếp tục củng cố dân tộc, nếu không là ta đang làm hao mòn vốn cũ.

Niềm tự hào con cháu tiên rồng, hiểu theo nghĩa một huyền thoại thống hợp gắn bó chúng ta với nhau, có cái lợi là làm ta hãnh diện muốn tiếp tục làm người Việt, nhưng bù lại nó có thể cho chúng ta cái cảm tưởng rằng chúng ta là một giống nòi thuần nhất và làm ta quên mất thực sự ta là ai, và đó mới là điều quan trọng.

Cứ theo huyền sử thì tổ nước ta là Sùng Lãm, tức Lạc Long Quân, con cháu của vua Thần Nông bên Tàu. Nước gốc của chúng ta là Xích Quỷ bao gồm cả một vùng đất rộng lớn của Trung Quốc, từ phía Nam sông Dương Tử và một phần nhỏ hơn nhiều là miền Bắc nước ta bây giờ. Sự tích kể tiếp là Sùng Lãm lấy bà Âu Cơ đẻ ra một trăm con, sau đó hai người chia tay nhau, mỗi người giữ năm mươi con. Âu Cơ ở lại núi, còn Sùng Lãm đem năm mươi con xuống vùng bể Nam Hải. Sau đó Sùng Lãm phong cho người con trưởng lên làm vua nước Văn Lang, tức là miền Bắc nước ta. Nước Văn Lang sau này được mở rộng thành nước Việt Nam ngày nay.

Như vậy, cũng phải tương đối hóa dòng dõi con rồng cháu tiên của chúng ta. Thực ra như vậy, theo huyền sử của chính chúng ta, thì người Hoa Nam mới là con rồng cháu tiên, còn chúng ta chỉ là một hệ phái của con rồng cháu tiên được lai giống với người địa phương. Chúng ta ít con rồng cháu tiên hơn người Trung Hoa ở phía Nam sông Dương Tử. Và chúng ta lai con rồng cháu tiên chắc không nhiều, bởi vì giữa Hoa Nam và nước ta núi non hiểm trở, người đi dần xuống miền Nam không có bao nhiêu. Chính vì thế mà dù bị hơn một ngàn năm Bắc thuộc, chịu hoàn toàn ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa mà chúng ta tiếp thu một cách nồng nhiệt và say mê, chúng ta vẫn có tiếng nói riêng, nếp sống riêng. Như Nguyễn Trãi nói : "Lãnh thổ có núi ngăn chia, phong tục Bắc Nam khác nhau". Có nhà dân tộc học còn quả quyết người Việt Nam thuộc chủng tộc Mã Lai - Ấn Độ. Như thế đủ biết cái thành tố con rồng cháu tiên trong huyết thống của chúng ta không có bao nhiêu.

Nhưng cái huyền sử con rồng cháu tiên không phải là không có cơ sở thuần lý. Nó nói lên một nét đậm trong quá trình hình thành của nước ta, đó là cuộc Nam Tiến đã khai sinh ra nước ta và vẫn còn tiếp tục cho tới cuối thế kỷ 18. Đất nước Việt Nam được thành lập ban đầu do hậu quả của cuộc Nam Tiến của người Trung Hoa và sau đó của chính người Việt. Nước Trung Hoa hình thành tại vùng đất giữa sông Hoàng Hà và sông Dương Tử, rồi vì người càng ngày càng đông, một phong trào di dân tìm đất mới về phương Nam đã xuất hiện. Chuyện Lạc Long Quân đem năm mươi con xuống vùng bể Nam Hải có thể coi là một đợt di dân, tương tự như Nguyễn Hoàng đem dân vào miền Trung sau này.

Cuộc Nam Tiến của người Trung Hoa đến Quảng Đông, Quảng Tây thì khựng lại vì gặp bức tường núi dầy gần 100 cây số. Chỉ có một số ít người vượt được núi, hợp với thổ dân mà tạo ra nước Văn Lang.

Người Việt Nam ta có lẽ vì chỉ coi huyền sử như chuyện hoang đường hoàn toàn nên ít suy nghĩ về quá trình lập quốc của mình. Không thiếu gì trí thức lẫn lộn các giống Việt ở miền Nam Trung Hoa, sống trong nhiều nước nhỏ gọi là Bách Việt, với người Việt Nam. Triết gia Kim Định coi người Việt Nam là người Bách Việt, ông cho Nho Giáo là một phát minh của người Việt chứ không phải của người Tàu. Trong thập niên 1960, các trí thức và sinh viên Việt Nam mở một loạt lớp học dạy miễn phí cho các học sinh trung học nghèo tại Sài Gòn. Cố gắng đáng ca tụng này được biết dưới danh hiệu Trung Tâm Bách Việt. Nhưng nếu người Bách Việt không phải người Trung Hoa thì ai là người Trung Hoa ? Chúng ta cũng có mang huyết thống Bách Việt trong người, nhưng yếu tố đó chỉ là một phần nhỏ thôi. Ảnh hưởng văn hóa và tư tưởng của Trung Hoa lên nước ta quan trọng gấp bội yếu tố huyết thống.

Nước Văn Lang được thành lập do pha trộn của một số nhỏ người Hoa Nam với một số đông người bản xứ, và cả những sắc dân từ quần đảo Nam Dương. Chúng ta có thể quả quyết là về nhân chủng yếu tố địa phương đã mạnh hơn bởi vì sau cả ngàn năm dưới sự thống trị của người phương Bắc trong đó chữ Nho vừa được độc quyền vừa được tôn vinh, người Việt vẫn giữ được và không những thế còn phát triển được và cải thiện được ngôn ngữ riêng của mình. Sau này, nhất là từ thế kỷ 15 trở đi, khi nước Văn Lang dần dần mở rộng về phía Nam, chúng ta đã tiếp nhận nhiều yếu tố huyết thống khác, kể cả một đợt di dân mới bằng đường biển của người Trung Hoa vào thẳng miền Nam Việt Nam.

Nước Việt Nam ta vì vậy là một quốc gia biến đổi không ngừng do những đóng góp đất đai và chủng tộc mới. Sự thay đổi không ngừng đó, thể hiện ngay trong quốc hiệu của ta : Văn Lang, Âu Lạc, Nam Việt, Giao Chỉ, An Nam, Tượng Quận, Giao Châu, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Ngu, Việt Nam, Đại Nam. Sự thay đổi đó khiến chúng ta nhiều khi lẫn lộn tên nước mình. Sách "Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện" rõ ràng coi Nam Hải là tên nước ta, mặc dầu đó chỉ là tên của tỉnh Quảng Đông bên Trung Quốc vào thời Bắc thuộc.

Ngay cả tên Việt Nam ngày nay thực ra cũng rất mới. Vua Gia Long sau khi thống nhất đất nước muốn đặt quốc hiệu là Nam Việt nhưng vì nhà Thanh không cho, sợ lẫn lộn với nước Nam Việt của Triệu Đà gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây, nên đã chọn quốc hiệu là Việt Nam. Nhưng sau đó 18 năm, khi vua Gia Long chết, vua Minh Mạng lại bỏ tên Việt Nam và đổi thành Đại Nam. Khi người Pháp đô hộ nước ta, hai tiếng Việt Nam cũng không xuất hiện trở lại, nước ta bị chia làm Cochinchine, Annam, Tonkin. Đảng cộng sản lúc mới thành lập cũng không dùng chữ Việt Nam, họ tự gọi là Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng. Việt Nam Quốc Dân Đảng là chính đảng đầu tiên sử dụng trở lại hai tiếng Việt Nam. Hai tiếng Việt Nam đã trở thành thiêng liêng khi 13 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng lên đoạn đầu đài tại Yên Bái ngày 17/6/1930 hô to : "Việt Nam muôn năm !". Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, rồi ba năm sau Bảo Đại cho ra đời Quốc Gia Việt Nam. Như thế tên Việt Nam đã trở thành linh thiêng từ 1930 và mới trở thành chính thức từ 1945 trở đi.

Chúng ta không ý thức được sự năng động trong quá trình lập quốc của mình nên đã cố bắt chước nơi người Tàu một quan niệm quốc gia cứng nhắc. Đất nước Việt Nam được coi như là đất của một sắc tộc, sắc tộc Kinh. Văn hóa của ta là văn hóa của người Kinh. Đạo đức của ta là đạo đức của người Kinh, pháp luật của ta là pháp luật của người Kinh. Lịch sử của ta cũng chỉ là lịch sử của người Kinh. Tất cả đều là của người Kinh, các sắc tộc khác hoàn toàn bị bỏ qua.

Trong khi khái niệm "người Kinh" tự nó cũng rất mơ hồ. Nó cũng chỉ là một sự hòa trộn của nhiều chủng tộc. Nó chỉ là tập thể của những người chịu ảnh hưởng văn hóa của Trung Hoa mà thôi, trong khi ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa càng ngày càng yếu đi trước ảnh hưởng của văn hóa phương Tây.

Tại sao, những Phạm Hùng, Chế Bồng Nga lại không được coi là các vị vua của Việt Nam ?

Tôi không phải là một nhà sử học và cũng không phải là một nhà dân tộc học nên hoàn toàn không dám có tham vọng đưa ra một luận thuyết mới về nguồn gốc và sự hình thành của nước ta. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh về hai đặc điểm quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam.

Đặc điểm thứ nhất là chúng ta không phải là một quốc gia thuần nhất, mà là một quốc gia đa nguyên về bản chất. Vì thế chúng ta cần một ý thức quốc gia riêng : Quốc gia Việt Nam không thể được định nghĩa như một chủng tộc mà cần được quan niệm như là sự chấp nhận chia sẻ một tương lai chung.

Đặc điểm thứ hai là dù có lịch sử tương đối dài, chúng ta trên thực tế là một quốc gia rất mới. Cả một nửa lãnh thổ, và một phần đáng kể dân chúng, chỉ mới hội nhập từ bốn thế kỷ nay, nhiều vùng chỉ từ một thế kỷ nay. Cho nên chúng ta không thể thủ cựu, trái lại phải năng động, liên tục thích nghi và đổi mới bởi vì sự nghiệp mở nước vẫn chưa thể coi là đã xong hẳn.

***********************

 

Mở mắt và nhỏ lệ

 

 

2-tqan4

Tôi mở mắt và nghe mình nhỏ lệ

Những trận giặc kéo dài qua nhiều năm

Nhân loại đau buồn kể lể

Thành phố bị chiếm tiêu điều

Làng mạc hắt hiu trong cơn điên cuồng lửa đạn

Em là người hậu chiến hồn hắt hủi bơ vơ ngoài phố

Thương bằng hữu bỗng biến thành kẻ tội tù.

      Mai Trung Tĩnh ["40 bài thơ"]

Không hiểu do cảm hứng nào mà Mai Trung Tĩnh làm ra những vần thơ tiên tri như thế. Mai Trung Tĩnh tên thật là Nguyễn Thiệu Hùng, anh ruột của Nguyễn Thiện Tường, bạn thân của tôi. Tôi hay lui tới gia đình Tường, nhất là những sáng chủ nhật. Lúc đó ba của Hùng và Tường mất có lẽ đã lâu lắm rồi, mẹ Tường hay cho chúng tôi tiền để đi ăn phở với nhau. Không biết bà cụ buôn bán gì nhưng gia đình tương đối khá giả, bà cụ coi tôi gần như một đứa con của gia đình. Tường học đệ nhị với tôi ở lớp Bình Dân Giáo Dục. Thực ra Tường có đủ điều kiện để đi học bình thường như những người khác nhưng cũng ghi tên học Bình Dân Giáo Dục buổi tối để học với tôi cho có bạn. Lúc đó, năm 1960, Hùng đã đậu xong tú tài, đang học Đại Học Văn Khoa, ngoài ra còn đi dạy Việt văn ở cấp trung học để kiếm thêm lợi tức cho gia đình. Hùng thích Sartre, Gide và Camus, tuần nào cũng bỏ tiền ra mua Paris Match vì thích những bài bình luận chính trị của Raymond Cartier.

Khi viết câu : "Em là người hậu chiến hồn hắt hủi bơ vơ ngoài phố thương bằng hữu bỗng biến thành kẻ tội tù", Hùng không ngờ câu đó lại ứng nghiệm cho mình tới hai lần trong khoảng 15 năm. Tập thơ "40 bài thơ" của Hùng làm chung với Lê Đức Vượng (tức Vương Đức Lệ) được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc năm 1960. Mỗi người hai mươi bài. Những câu thơ trên lấy từ bài "Lịch sử" của Hùng. Tôi còn nhớ, ngay ngày cuốn sách in xong, Hùng ân cần tặng tôi một bản. Tôi thích bài "Lịch sử" và nhớ cho tới bây giờ.

Tuy là giáo sư, nhưng như mọi người trong lứa tuổi, như các anh em tôi, Hùng cũng thuộc diện "sĩ quan biệt phái". Ai cũng biết "sĩ quan biệt phái" chỉ là một cụm từ rỗng nghĩa, có mục đích để chính quyền Việt Nam Cộng Hòa có thể gọi nhập ngũ trở lại một số người bất cứ lúc nào. Nhưng trên thực tế đó là những người không có, hay không còn, liên hệ gì tới quân đội. Bằng cớ là ngay trước lúc sắp sụp đổ, chính quyền Sài Gòn cũng không gọi họ nhập ngũ. Tuy vậy cái nhãn "sĩ quan biệt phái" đã khiến Hùng bị bắt đi cải tạo gần bảy năm. Tôi gặp lại Hùng mùa thu năm 1982 khi Hùng mới đi cải tạo về và tôi cũng sắp đi Pháp. Bẵng đi tám năm, tôi không liên lạc với Hùng, rồi không ngờ lại được tin Hùng trong một trường hợp khác.

Phải nói là rất không ngờ. Sau khi đi cải tạo về, tôi gặp một số trí thức trẻ có ưu tư với đất nước và chúng tôi giao du với nhau thành một nhóm chia sẻ lập trường dân chủ. Gặp Hùng, tôi không rủ Hùng gia nhập vì lúc đó Hùng mới đi tù về còn đang yếu mệt và tôi cũng sắp đi Pháp, vả lại tôi biết Hùng không thích chính trị. Đoàn Viết Hoạt ở tù ra năm 1988 thì ít lâu sau đó bắt liên lạc được với chúng tôi. Tôi biết Hoạt có thành lập một nhóm bạn dự định cho lưu hành tập tài liệu "Diễn Đàn Tự Do" nhưng không biết rằng Hùng cũng có trong đó. Chỉ sau khi nghe tin Hoạt và nhóm Diễn Đàn Tự Do, trong đó có Hùng, bị bắt tôi mới biết và ngạc nhiên. Hùng bị kết án năm năm, sau đó kháng án và được giảm xuống bốn năm.

Cái nhìn lịch sử của nhà thơ rất chính xác. Lịch sử nước ta là một lịch sử đau thương. Đó là một chuỗi ngoại thuộc và chiến tranh.

Cứ coi như nước chúng ta thực sự thành lập với nhà Hồng Bàng với 18 đời vua. Cứ tính trung bình mỗi vị chừng mười lăm năm thì nhà Hồng Bàng kéo dài được non ba trăm năm thì bị nhà Thục cướp ngôi năm 258 trước công nguyên. Như thế thì có nghĩa là chúng ta có khoảng hai ngàn năm trăm năm lịch sử. Thế nhưng cổ sử của ta lại chép rằng Kinh Dương Vương, ông nội của vua Hùng Vương thứ nhất làm vua nước Xích Quỷ từ năm 2879 trước tây lịch, như thế là ta có tới gần năm ngàn năm lịch sử. Như vậy có một khoảng trống trên hai ngàn năm. Khoảng thời gian ấy là khoảng thời gian cần thiết để một số người từ Hoa Nam vượt vách núi dầy dặc trên một trăm cây số. Giả thuyết hợp lý nhất là vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước công nguyên một số người đã qua được vách núi và đến được giáp vùng đồng bằng sông Hồng để cùng với người thổ dân lập ra nước Văn Lang. Huyền sử con rồng cháu tiên có lẽ đã xuất phát từ một lý do rất thực tiễn. Muốn khuất phục những con người thô sơ, không gì bằng dựa vào phép thần tiên, và những người ít ỏi từ miền Bắc xuống đã tự tạo cho mình một nguồn gốc thần tiên để thu phục người bản xứ.

Trong khoảng năm trăm năm đầu, đất nước Văn Lang chắc là có rất ít người. Bằng chứng là nhà Thục, dòng họ đã diệt họ Hồng Bàng, không hề có một dấu vết nào trong lịch sử Trung Hoa cả, đó chỉ là một gia đình nào đó đã từ Hoa Nam sang Bắc Việt và qui tụ được một số gia nhân lập thành một giang sơn riêng. Vậy mà nhà Thục đã diệt được họ Hồng Bàng thì đủ biết tầm vóc của Văn Lang lúc đó không hơn một bộ lạc là bao.

Dù nhỏ bé như vậy, mà trong năm trăm năm đầu trước công nguyên, dân ta đã phải chịu ba cuộc chiến tranh : nhà Thục diệt Hồng Bàng, rồi nhà Triệu diệt nhà Thục, rồi nhà Triệu bị nhà Hán bên Trung Hoa tiêu diệt và nước ta bị sát nhập vào Trung Quốc.

Kế tiếp là hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Trong khoảng thời gian này cũng đã có vô số binh biến đẫm máu. Hai Bà Trưng khởi nghĩa, làm chủ đất nước và cầm cự được ba năm, rồi cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Chinh và Triệu Quốc Đạt. Rồi vô số những loạn lạc đao binh khác, có khi do chính các quan cai trị muốn xưng hùng xưng bá đánh giết lẫn nhau, có khi do nhân dân nổi dậy chống áp bức. Có lần dưới thời Tam Quốc bên Trung Hoa, lúc nước ta đang dưới sự đô hộ của nhà Ngô, dân Giao Châu nổi lên giết được quan thái thú rồi đi thần phục nhà Ngụy ở mãi tận phương Bắc, để rồi lại bị Đông Ngô đánh dẹp. Trong thời gian năm trăm năm của thời Bắc thuộc lần thứ hai, từ năm 43 đến năm 554, nước ta lúc nào cũng có binh biến, và binh biến thường thường do các quan cai trị Trung Hoa thấy Giao Châu có núi ngăn cách với Trung Hoa muốn thành lập một quốc gia độc lập. Cuối cùng Lý Bôn, một người gốc Trung Hoa, làm chủ được đất nước, lập ra nhà Tiền Lý, kéo dài được sáu mươi năm. Nhìn vào giai đoạn này, ta có thể rút ra hai kết luận : Một là ý thức về mình như một xã hội riêng biệt với phương Bắc của ta đã do chính những quan đô hộ người Trung Hoa đem đến. Hai là nước ta đã được thai nghén trong binh lửa và đó cũng là một điều không may.

Trong sáu mươi năm ngắn ngủi của nhà Tiền Lý, nước ta đã phải đương đầu với cuộc tái chiếm của Trung Hoa, rồi cuộc nội chiến giữa Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử, cuối cùng lại rơi vào Bắc thuộc một lần nữa.

Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba này chiến tranh lại còn triền miên và dữ dội hơn nữa. Chiến tranh với Lâm Ấp (Chiêm Thành), cuộc nổi dậy của Mai Thúc Loan, của Phùng Hưng, rồi lại đánh Chiêm Thành, rồi chiến tranh với nước Nam Chiếu (ở khu vực Vân Nam, Trung Quốc bây giờ), và dĩ nhiên, yếu tố thường trực vẫn là những cuộc tranh giành giữa các quan đô hộ.

Trong thời gian ấy xã hội Việt Nam vẫn tiếp tục hình thành, người mỗi ngày một đông, trí tuệ mỗi ngày một mở mang, ý thức cộng đồng càng ngày càng rõ rệt, kềm kẹp của ách thống trị càng ngày càng bất lực. Đến đầu thế kỷ thứ 10, năm 906, một hiện tượng lạ lùng xảy ra, hệ thống đô hộ của người Trung Hoa tự nó sụp đổ và dân Giao Châu tôn Khúc Thừa Dụ lên làm chủ. Đất nước Việt Nam coi như đã thực sự hình thành. Người Trung Hoa định tái lập nền thống trị nhưng không được nữa, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán rồi xưng vương, dẫn đất nước vào giai đoạn độc lập chính thức.

Một ngàn năm Bắc thuộc thường được coi như một giai đoạn đen tối của nước ta, nhưng đó cũng là giai đoạn đất nước ta thai nghén và hình thành như một đất nước theo khuôn mẫu chính trị Trung Hoa. Quá trình hình thành của nước ta là một chuỗi dài chinh chiến. Đứa trẻ Việt Nam vì thế đã ra đời với một cơ thể yếu.

Nhưng được độc lập rồi, loạn lạc, chiến tranh không giảm mà còn tăng. Nhà Ngô trị nước chẳng được bao lâu thì rơi vào loạn mười hai sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước và thi hành một chính sách trị nước cực kỳ tàn bạo, kéo dài mười bốn năm. Lê Hoàn soán ngôi nhà Đinh lập ra nhà Tiền Lê trị vì ba mươi năm. Trong vòng ba mươi năm đó dân ta đã phải chịu đựng một cuộc chiến tranh với nhà Tống, một cuộc chiến tranh với Chiêm Thành và nhiều cuộc chiến tranh bình định khác. Nhà Tiền Lê chấm dứt với triều Lê Long Đĩnh kéo dài năm năm, từ 1005 đến 1009. Lê Long Đĩnh tuy chỉ làm vua trong một thời gian ngắn ngủi nhưng đã để tên lại trong lịch sử như là bạo chúa kinh khủng nhất của nước ta. Sự thực hay chỉ là một bịa đặt của nhà Lý để bào chữa cho việc cướp ngôi nhà Tiền Lê ? Thế kỷ đầu của độc lập, đối với dân ta, còn đau thương hơn cả thời Bắc thuộc.

Triều Lý vẫn được coi là một thời thịnh trị của nước ta vì đã lập ra triều chính, kỷ cương, văn hóa, thi cử như một quốc gia thực sự. Điều đó đúng, nhưng nếu nhìn kỹ hơn một chút thì trong hơn hai thế kỷ dưới thời Lý dân ta cũng không sung sướng là bao. Chiến tranh cũng rất thường xuyên : đánh dẹp Nùng Trí Cao, đánh dẹp các tù trưởng không thần phục, đánh Chiêm Thành, Ai Lao, rồi lại đánh Chiêm Thành, rồi đem quân đánh Tống, rồi kháng cự với quân xâm lăng Tống và mất Cao Bằng, Lạng Sơn, rồi lại đánh Chiêm Thành, rồi giặc Thân Lợi, giặc Phạm Du, cuộc nổi loạn của đám tướng Phạm Bình Di - Quách Bốc làm nhà vua phải bỏ cả kinh đô mà chạy, cầu cứu họ Trần rồi mất ngôi về tay nhà Trần.

Công lao lớn nhất của nhà Trần là đã phá được quân Mông Cổ trong ba cuộc chiến tranh khốc liệt bậc nhất trong lịch sử nước ta. Nhưng cũng không phải chỉ có thế. Anh em nhà Trần có lúc còn đánh lẫn nhau, giặc giã ở trong nước cũng không ít : giặc Mường, giặc Đoan Thượng, giặc Nguyễn Nọn, giặc Phạm Sư Ổn, Dương Nhật Lệ, rồi những cuộc chiến tranh liên miên với Chiêm Thành, trong đó quân Trần bại nhiều hơn thắng, kinh đô Thăng Long bị tàn phá nhiều lần. Rồi đánh nhau với Ai Lao. Ngày nay nhiều người vẫn coi nhà Trần là một thời thịnh trị, gần như nhà Lý, vì nhà Trần đã có công đánh được quân Nguyên, nhưng xét ra có lẽ chưa đời nào dân ta khổ bằng dưới thời nhà Trần.

Nhà Trần mất, nhà Hồ lên, quân Minh sang đánh chiếm nước ta. Lập tức Giản Định Đế, Trùng Quang Đế nổi lên rồi bị dẹp. Kế tiếp là cuộc kháng chiến mười năm của Lê Lợi. Giành được độc lập rồi, nhà Hậu Lê cũng phải đương đầu với vô số cuộc nổi dậy, nhất là cuộc nổi dậy của Trần Cao, kinh thành bị tàn phá mấy lần. Nhà Lê mất, một cuộc nội chiến phù Lê diệt Mạc bùng lên, kế tiếp là Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn, cuộc chiến tranh với quân Thanh và quân Xiêm, cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và dư đảng phù Lê, cuộc nội chiến khốc liệt giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh.

Nhà Nguyễn thống nhất được đất nước, làm vua được tám mươi năm thì mất nước vào tay người Pháp, sau khi đã phải đánh dẹp chật vật nhiều cuộc nổi dậy khác, nhất là cuộc ly khai của Lê Văn Duyệt được Lê Văn Khôi tiếp nối. Sau thế chiến II, chúng ta chiến tranh khốc liệt cho tới năm 1975.

Trong suốt dòng lịch sử của ta, dân ta được bao nhiêu năm hòa bình ? Có lẽ chỉ được khoảng một trăm năm mươi năm yên ổn dưới thời Lý, gần một thế kỷ đưới thời Trần, tám mươi năm dưới thời Hậu Lê, xấp xỉ bảy mươi năm (1672-1739) tại miền Bắc trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh (dưới thời các chúa Trịnh Tạc, Trịnh Cán, Trịnh Cương). Và sáu mươi năm dưới thời Pháp thuộc, nhưng lại là hòa bình trong ngoại thuộc. Xét ra, trong hai ngàn năm trăm năm lịch sử của ta, chúng ta chỉ có được khoảng bốn trăm năm vừa có độc lập vừa có hòa bình tương đối. Thế nhưng ngay cả khi có hòa bình tương đối, chúng ta cũng luôn luôn phải chịu đựng những chế độ hà khắc. Chúng ta rất ít có hòa bình và chưa bao giờ có tự do.

Gần đây, dưới chế độ cộng sản, chúng ta cũng đã phải chịu một cuộc chiến tranh biên giới ngắn nhưng dữ dội với Trung Quốc, một cuộc chiến tranh dai dẳng tại Cam-Bốt, và một cuộc nội chiến rất đặc biệt tuy không có tiếng bom đạn nhưng cũng diễn ra một cách thảm khốc trong lòng người. Hàng trăm ngàn người đã bị tù tội, hàng triệu người bị cướp đoạt tài sản, bị phân biệt đối xử, bị trù dập và cấm đoán. Hơn một triệu người bỏ nước ra đi. Biết bao nhiêu là đau thương và thù hận.

Cuộc hành trình vội vã qua lịch sử này có mục đích để chúng ta êmở mắt và nhỏ lệê cho thân phận của đất nước mình. Chúng ta chiến tranh nhiều quá. Không có dân tộc nào trên mặt đất này chịu nhiều chiến tranh như chúng ta. Chiến tranh đã khiến chúng ta trở thành một dân tộc không bình thường. Câu hỏi tại sao nước ta có địa thế tốt, con người cần mẫn và tinh khôn mà lại không vươn lên được có lẽ đã có câu trả lời. Chiến tranh đã đầy đọa chúng ta trong suốt dòng lịch sử để rồi trở thành một bản năng của chúng ta. Những người lãnh đạo cộng sản lấy những quyết định chiến tranh một cách thản nhiên dễ sợ. Nhưng họ cũng không khác bao nhiêu so với những người Việt Nam khác, họ chỉ thể hiện một chứng bệnh tâm thần tập thể của chúng ta mà thôi.

Thử nhìn những cuộc tranh cãi chính trị tại hải ngoại. Chỉ vì một ý kiến không hợp ý mình, người ta có thể công kích nhau một cách thậm tệ, dữ dằn. Nếu có binh quyền trong tay chắc chắn là người ta không ngần ngại tuyên chiến.

Mộng ước của mọi người Việt Nam hôm nay là đổi hướng đi của lịch sử và mở ra một kỷ nguyên của tiến bộ và hạnh phúc. Đó là một cuộc đổi đời rất lớn. Nhưng có cuộc đổi đời nào không đòi hỏi một thay đổi lớn về tâm lý ? Nếu biết nhỏ lệ xót thương cho số phận của đất nước ta, biết dứt khoát tiêu diệt cái bản năng chiến tranh trong con người của mỗi chúng ta, biết lấy đối thoại, tương kính, tương nhượng làm căn bản dựng nước mới là chúng ta đã rút được bài học lịch sử quí giá nhất và đã vượt được trở ngại kinh khủng nhất.

*********************

 

Ảo ảnh Lý Trần

 

2-tqan5

Đối với đại đa số người Việt, thời đại Lý Trần là thời đại vinh quang nhất của nước ta. Tôi đã được nghe nhiều người nói và đọc nhiều bài viết bày tỏ mong ước đưa đất nước trở lại thời đại thịnh trị đó. Nguyễn Hữu Thanh, người sáng lập ra đảng Duy Dân và tư tưởng Duy Dân, lấy tên là Lý Đông A. Đông A có nghĩa là Trần, Lý Đông A có nghĩa là Lý Trần. Sự tôn kính thời đại Lý Trần có lý do của nó. Nhà Lý có công biến nước ta thành một quốc gia thực sự, có kỷ cương, có tổ chức, có văn hóa. Nhà Trần có công đánh bại quân Nguyên - một đạo quân bách chiến bách thắng đã từng đánh bại cả thế giới, trừ Nhật Bản. Chiến thắng quân Nguyên là một trang sử oai hùng mà người Việt Nam có quyền hãnh diện. Tuy nhiên sự tôn thờ thời đại Lý Trần mang ba ngộ nhận lớn.

Thứ nhất là coi thời đại Lý Trần là một thời an bình. Điều này chỉ đúng một phần. Nhà Lý trị vì nước ta được hai trăm mười sáu năm, nhưng nếu cộng tất cả các năm mà lịch sử không chép có giặc giã, chiến tranh thì chỉ được khoảng một trăm năm mươi năm mà thôi. Còn lại là gần bảy mươi năm chinh chiến. Trong lịch sử nước ta, tỷ lệ những năm hòa bình như vậy là rất cao, tuy nhiên so với tiêu chuẩn của các nước khác, tỷ lệ đó phải được coi là rất khiêm nhường.

Nhà Trần làm vua được một trăm bảy mươi lăm năm thì chỉ có được khoảng chín mươi năm hòa bình mà thôi. Gần như một nửa thời gian là chiến tranh, loạn lạc. Và chiến tranh rất khốc liệt. Trái với một nhận định phổ thông, cuộc chiến tranh chống quân Nguyên không phải thảm khốc nhất. Ba cuộc chiến tranh với quân Nguyên chỉ kéo dài tổng cộng năm năm. Phần còn lại là nội chiến hoặc chiến tranh với Chiêm Thành. Những cuộc chiến tranh này thảm khốc không kém cuộc chiến tranh kháng Nguyên và kéo dài hơn. Kinh đô không biết bao nhiêu lần bị tàn phá. Dân chúng có lẽ còn cơ cực hơn cả trong cuộc chiến tranh chống quân Nguyên vì quân Chiêm Thành, khác với quân Nguyên, không chủ trương tiêu diệt quân nhà Trần mà chỉ sang cướp bóc và đốt phá.

Ngộ nhận thứ hai là dưới thời Lý Trần nước ta đã lớn mạnh và văn minh lên. Điều này không đúng. Nhìn kỹ thì nước ta không tiến bộ nhanh hơn so với thời Bắc thuộc. Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba (604-909), nước ta đã tiến bộ rất nhiều. Từ một xã hội bán khai, Việt Nam đã trở thành một xã hội có văn hóa. Nhiều người Việt đã đậu những khoa thi lớn của Trung Quốc. Xã hội Việt Nam đã trưởng thành, ý chí độc lập đã mạnh tới độ hệ thống cai trị của Trung Hoa tự nó tan rã. Trong khoảng thời gian năm trăm năm độc lập, trong đó bốn trăm năm là thời đại Lý Trần, nước ta đã tụt hậu rất nhiều, rồi mất độc lập. Sau khi Lê Lợi đuổi được quân Minh và tái lập được chủ quyền, Nguyễn Trãi đã kể tội quân Minh trong bài Bình Ngô Đại Cáo như sau : "Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống biển mò châu [...]. Nay xây nhà mai đắp đập, chân tay nào phục dịch cho vừa...". Lời kể tội này cho thấy trong khoảng thời gian đó Trung Hoa đã vượt xa Việt Nam rất nhiều. Họ đã biết khai thác mỏ và luyện kim, đã biết đặt vấn đề xây dựng công cộng.

Ngộ nhận thứ ba, cũng là ngộ nhận lớn nhất và vẫn còn được nhắc đi nhắc lại cho tới ngày nay, là thời Lý Trần đã lấy Phật Giáo làm quốc giáo. Sự thực thì chỉ có các vua đầu của nhà Lý là đã tôn thờ đạo Phật mà thôi, nhưng dù có tôn thờ Phật Giáo đi nữa, Phật Giáo cũng không được lấy làm căn bản cho chính trị. Khổng Giáo mới là căn bản. Có thể nói chính nhà Lý đã biến Khổng Giáo thành quốc giáo và mở đầu sự suy thoái của Phật Giáo. Dưới thời Bắc thuộc, Khổng Giáo là đạo lý của kẻ thống trị phương Bắc, Phật Giáo là tôn giáo của quần chúng Việt nam. Từ nhà Lý trở đi, Khổng Giáo trở thành đạo lý dân tộc và dần dần đẩy lui ảnh hưởng của Phật Giáo. Ngay cả các vị vua đầu nhà Lý, dù có tôn kính Phật Giáo, vẫn ra sức xây dựng Nho Giáo trước hết. Họ lập đền thờ Khổng Tử và Chu Công, xây dựng nền học vấn Nho Giáo, xây dựng xã hội và đất nước theo khuôn mẫu Nho Giáo. Các kỳ thi tuyển chọn nhân tài trị nước chỉ đòi hỏi những kiến thức của Nho Giáo mà thôi chứ hoàn toàn không đòi hỏi một kiến thức Phật Giáo nào. Phật Giáo chỉ được coi như một tín ngưỡng cá nhân. Các nhà vua trị nước theo khuôn mẫu Khổng Giáo, vị nào sùng đạo Phật lắm thì cũng chỉ giữ cho mình. Một số cao tăng Phật Giáo được dùng làm quốc sư, nhưng chính họ cũng chỉ khuyên vua nên làm thế nào để trị nước cho hay trong khuôn mẫu Khổng Giáo mà thôi. Chính dưới thời Lý nước ta đã xác nhận khuôn mẫu xã hội Khổng Giáo cho suốt dòng lịch sử sau này.

Đến đời nhà Trần thì Phật Giáo không những bị loại hẳn khỏi chính trị mà còn bị chèn ép. Cuối đời nhà Trần còn có việc ép buộc một số lớn tăng sĩ Phật Giáo bỏ tu hành. Sự khinh bỉ Phật Giáo dưới thời Trần lớn đến độ các danh sĩ lớn được mọi người kính trọng mạt sát Phật Giáo một cách công khai. Trương Hán Siêu, một đại thần được coi là tài giỏi, thanh liêm, đức độ, còn cho dựng bia khích bác Phật Giáo ngay tại cửa chùa, một điều mà ngày nay ngay cả chế độ cộng sản dù coi tôn giáo là thù địch cũng không làm. Vậy mà vào thời Trần, việc làm của Trương Hán Siêu được coi là chính đáng, hay ít ra bình thường.

Nhà Trần lại nổi bật ở đặc điểm loạn luân và tàn ác. Anh em, cô cháu cứ lấy nhau một cách bừa bãi. Không những thế, nhà Trần còn ép buộc dân chúng phải lấy nhau trong cùng một họ. Phong hóa nước ta chưa bao giờ đồi trụy đến thế.

Nhận định như vậy không phải là để phủ nhận thời đại Lý Trần. Thời đại này đã đem lại cho chúng ta nhiều tiến bộ. Hội nghị Diên Hồng đã là bước tiến đáng kể theo hướng dân chủ, tiếc thay không được nối tiếp. Thời đại Lý Trần cũng đem lại cho chúng ta một thời gian hòa bình khá lâu, và biến nước ta thành một quốc gia chính thức theo nghĩa đúng của nó. Thời đại Lý Trần có nhiều điểm khả quan, nhưng chỉ là khả quan tương đối so với lịch sử đau khổ của chúng ta mà thôi. Không có lý do gì để nói rằng đó là một thời đại hoàng kim của nước ta.

Càng không có lý do để muốn đem đất nước trở về thời đại Lý Trần. Sự kiện lập trường này thỉnh thoảng vẫn còn xuất hiện từ cửa miệng và ngòi bút của một số trí thức mà không gặp sự bác bỏ gay gắt đáng lẽ phải có đủ tố cáo sự non nớt về trí tuệ của chúng ta. Trong thời đại chuyển biến dồn dập ngày nay, nhất là khi thế giới đã bắt đầu rời kỷ nguyên kỹ nghệ để tiến vào kỷ nguyên trí tuệ, ngay cả những khuôn mẫu tuyệt hảo cách đây vài chục năm cũng phải bỏ đi để tìm đường lối mới, huống chi một khuôn mẫu, tự nó chẳng có gì sáng tạo và cũng chỉ thành công một cách vừa phải cách đây tám thế kỷ. Ảo ảnh Lý Trần chứng tỏ chúng ta hủ lậu, bảo thủ và mê muội một cách thực đau lòng.

********************

 

Hồ Quí Ly và Mạc Đăng Dung

 

2-tqan6

Trong một thời gian cách nhau hơn một thế kỷ, nước ta đã có hai trường hợp cướp ngôi. Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần năm 1400, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê năm 1527. Hai trường hợp khởi đầu trong một kịch bản tương đối giống nhau : một dòng họ hư đốn làm cho đất nước suy đồi, rồi một đại thần phế bỏ vua, tự lập lên ngôi. Trong cả hai trường hợp, vị vua cũ bị giết hại. Trong cả hai trường hợp, các triều thần của dòng vua cũ được mời ở lại giúp vua mới. Nhưng kết quả đã khác nhau, và sự phán xét của lịch sử đã rất lạ lùng.

Hồ Quí Ly là một đại thần bất lực, bên trong làm cho đất nước suy đồi, bên ngoài thì không giữ được bờ cõi. Quân Chiêm Thành ra vào cướp phá như chỗ không người, kinh đô mấy lần bị rơi vào tay quân địch, Hồ Quí Ly chỉ biết dắt vua bỏ chạy. Chẳng có công lao gì với đất nước nhưng Hồ Quí Ly cũng đã trấn áp được vua Trần rồi cướp ngôi. Hồ Quí Ly cũng tỏ ra đặc biệt bội bạc với đất nước Việt Nam đã cho ông ta tất cả, ông ta vẫn tự coi là người Tàu dù tổ tiên đã lập nghiệp tại Việt Nam từ bốn đời. Cướp được ngôi vua, Hồ Quí Ly, trước đó mang họ Lê theo bố nuôi, đã lấy lại họ Hồ theo họ cũ của mình và đổi tên nước ta từ Đại Việt thành Đại Ngu theo tên cố quốc của mình, rồi thi hành một chính sách cướp bóc ra mặt đối với dân chúng. Nguyễn Trãi kể tội Hồ Quí Ly : "Vừa qua nhà Hồ vì chính sách phiền hà làm cho lòng người oán giận". Kết quả là Hồ Quí Ly làm mất nước, nước ta lại rơi vào vòng Bắc thuộc sau gần năm trăm năm độc lập. Tội của Hồ Quí Ly đối với Việt Nam thực là lớn. Thế nhưng xem ra Hồ Quí Ly chỉ bị lên án vừa phải thôi, không những thế còn được khen là con người lỗi lạc, một trí tuệ siêu việt và sáng tạo.

Mạc Đăng Dung, hơn một trăm năm sau, có công giúp vua dẹp loạn rồi được tin dùng và lợi dụng cơ hội để cướp ngôi. Cũng như trường hợp Hồ Quí Ly, đám con cháu của triều đình cũ sang Tàu cầu cứu và quân Tàu rục rịch đánh nước ta. Mạc Đăng Dung tự trói mình xin thần phục Trung Quốc và giữ được nước. Nhà Mạc sau đó không tỏ ra dấu hiệu hà khắc nào, không gặp giặc giã nào đáng kể, dân tình không đến nỗi khổ sở. Nhưng nhà Mạc đã gặp cuộc chiến tranh qui mô để tái lập nhà Lê do Nguyễn Kim, rồi Trịnh Kiểm và Trịnh Tùng lãnh đạo, rồi bị tiêu diệt sau sáu mươi lăm năm. Mạc Đăng Dung đã bị tất cả các sử gia và trí thức mạt sát thậm tệ.

Cách phán xét nhà Hồ và nhà Mạc cho tới nay ít làm ai ngạc nhiên. Cũng cùng thoán nghịch mà sao người làm mất nước lại không bị lên án gay gắt bằng người không làm mất nước ? Đối với người lãnh đạo quốc gia có tội nào lớn hơn tội làm mất nước ?

Người ta lên án Hồ Quí Ly và Mạc Đăng Dung đã phản bội vua và cướp ngôi. Điều này vào thời đại đó và với khuôn mẫu đạo lý đó là đúng. Nhưng ngày nay nhìn lại thì sao ? Nếu chúng ta coi khuôn mẫu Khổng Giáo vẫn còn là tốt cho đất nước và cần được duy trì thì cả Hồ Quí Ly và Mạc Đăng Dung đều đáng lên án. Ngược lại, nếu chúng ta coi khuôn mẫu Khổng Giáo là khuôn mẫu cổ hủ đáng lẽ không được duy trì quá lâu như vậy, thì hành động thoán nghịch của Hồ Quí Ly và Mạc Đăng Dung phải được coi là đáng khen vì nó là một thách thức đối với khuôn mẫu Khổng Giáo. Còn nếu chúng ta không có ý kiến dứt khoát thì hành động thoán nghịch chẳng là công mà cũng chẳng là tội. Nó chỉ là một biến cố chính trị. Vậy thì ngoại trừ đối với một số người thủ cựu một cách mê muội, cái tội êthoán nghịchê không nên đặt ra nữa. Cái gì bắt một dân tộc phải tiếp tục chịu đựng những ông vua tồi tệ như cuối đời Trần hay cuối đời Hậu Lê ? Đạo lý nào bắt buộc như vậy chỉ là một đạo lý tồi tệ. Xét công, tội của Hồ Quí Ly và Mạc Đăng Dung phải dựa vào những gì họ để lại sau đó.

Hồ Quí Ly không làm được gì cho đất nước, chỉ làm khổ dân và rồi làm mất nước. Người ta ca tụng Hồ Quí Ly là có nhiều ý kiến sáng tạo : đổi lại hệ thống giáo dục một cách thực dụng hơn, đem toán học, địa lý và nông nghiệp vào giáo dục, lập các trạm y tế ở khắp nơi. Nhưng câu hỏi đặt ra là nếu quả thực đó là những ý kiến mà Hồ Quí Ly cho là ích quốc lợi dân thì tại sao trong mấy chục năm làm thái sư, có tất cả mọi quyền trong tay, kể cả quyền giết vua mà Hồ Quí Ly đã sử dụng một cách thường xuyên, Hồ Quí Ly không đem áp dụng ? Đó là một câu hỏi lớn mà sẽ không bao giờ ta tìm được câu trả lời chính xác. Một trong những giải thích có thể là Hồ Quí Ly cũng chẳng thực sự coi trọng những biện pháp canh tân sau đó. Quí Ly cũng coi trọng cái học từ chương như mọi người thời đó, những biện pháp mà Quí Ly đưa ra chỉ là để đánh đổ các giá trị cũ để đào thải lớp nho sĩ thời đó, được quí trọng vì cái học từ chương và trong đại đa số không ủng hộ Quí Ly.

Người ta cũng ca tụng Quí Ly đã biết phát minh ra tiền giấy. Có người còn nói Quí Ly đáng được coi là thủy tổ của ngành ngân hàng ! Những điều này hoàn toàn sai và chứng tỏ rằng những người nói như vậy chỉ phát ngôn bừa bãi chứ họ không biết gì về ngân hàng và tiền tệ. êTiền giấyê của Quí Ly không khác gì tiền mã đã có từ lâu rồi để cúng tế người chết mà thôi, nó hoàn toàn không có một giá trị thanh toán nào cả. Hành động của Quí Ly chỉ là một hành động của kẻ tham lam muốn cướp hết vàng bạc trong nước cho mình và những đồng tiền giấy chỉ là những chứng nhận đã nộp vàng để được yên thân mà thôi.

Nếu quả thực những điều Quí Ly làm là những biện pháp canh tân thực sự, thì một trí tuệ đủ khả năng nhìn ra những biện pháp đó cũng phải ý thức được, ít nhất một phần nào, những khó khăn của việc thực hiện và đã không thi hành một cách vội vã, cẩu thả như Quí Ly đã làm. Trên thực tế, ngoại trừ việc cướp bóc vàng bạc, Quí Ly chẳng làm được gì cả. Nhà Hồ cũng chỉ kéo dài được bảy năm.

Người ta trách Mạc Đăng Dung là làm nhục quốc thể, quì lạy tướng Trung Hoa và cắt đất dâng cho Trung Quốc. Việc quì lạy tướng Tàu là tồi thực, nhưng đó là điều mà các vua Việt Nam ngày trước vẫn thường làm trước sứ giả Trung Quốc, không phải riêng gì Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung đã quỵ luỵ hơn các vua khác vì lúc đó ông ta không đứng trước một sứ giả mà trước một đạo quân hùng mạnh sắp tràn vào Việt Nam xâm chiếm. Hành động hèn nhát của Đăng Dung đã cứu được đất nước khỏi chiến tranh và ngoại thuộc. Hèn thực, nhưng cũng may thay cho nước ta.

Người ta lên án Mạc Đăng Dung đã dâng đất cho Trung Hoa. Nhưng sự dâng đất này chỉ là hình thức và không đáng kể. Mạc Đăng Dung chỉ dâng năm động ở Cao Bằng. Năm cái động đó có đáng gì đâu so với ngay cả những đất đai mà nhà Lý, được coi là oanh liệt, đã phải nhượng cho Trung Quốc để cầu hòa, sau nhiều cố gắng chiến đấu. Vả lại, người Trung Hoa chẳng bao giờ sang tiếp thu năm cái hang núi này cả, cho nên trên thực tế, Mạc Đăng Dung không làm mất một tấc đất nào.

Người ta coi Hồ Quí Ly hơn Mạc Đăng Dung, ở chỗ Hồ Quí Ly đã dám đánh lại quân Tàu, dù là đánh để rồi thua và mất nước. Người ta sỉ vả Mạc Đăng Dung là đã hèn nhát xin hàng tướng Tàu, dù nhờ đó mà Việt Nam tránh được chiến tranh và không mất nước. Mà thực sự Hồ Quí Ly có đánh được gì đâu, quân Minh đi đến đâu, quân Hồ bỏ chạy đến đó, như ngày trước quân Chiêm tiến đến đâu, Hồ Quí Ly chạy đến đó, chỉ trong vài tháng cả vua quan bị bắt trói giải về Tàu.

Tại sao lại có việc trọng Hồ Quí Ly, khinh Mạc Đăng Dung ? Có hai lý do. Lý do thứ nhất là tinh thần quốc gia chúng ta không cao. Ta không coi trọng những gì có lợi cho đất nước mà chỉ để ý xem cái gì là độc đáo trong một con người ; chúng ta vẫn suy luận như những cá nhân chứ không phải như một dân tộc. Lý do thứ hai là óc tôn thờ chiến tranh đã nói ở một phần trước trong sách này. Đánh bao giờ cũng có sức quyến rũ hơn hòa, dù là đánh ngu xuẩn như Hồ Quí Ly.

Cho đến ngày nay lập trường trọng Hồ khinh Mạc vẫn còn ngự trị ; điều đó chứng tỏ trí tuệ tập thể chúng ta vẫn còn mê muội, tâm lý của chúng ta vẫn chưa được khai thông.

***********************

 

Người trong một nước ?

 

2-tqan7

Ông Hồ Chí Minh để lại một câu nói nổi tiếng, đã rất nhiều lần được nhắc lại và phá vài kỷ lục về in ấn : "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không thể nào thay đổi". Ông ấy không nói thêm nhưng mọi người đều hiểu : nước Việt Nam phải thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đó là một câu nói bày tỏ quyết tâm sắt đá áp đặt bằng mọi giá chế độ cộng sản trên toàn cõi Việt Nam. Ở vào thời điểm 1969, khi cuộc chiến Nam Bắc đang diễn ra khốc liệt, đó là một khẩu hiệu chiến tranh. Mọi người đều đã hiểu như vậy và đúng là phải hiểu như vậy.

Ngoài ra, câu nói "Nước Việt Nam là một" chỉ có thể là một quyết tâm chứ không phải là một sự thực nếu nhìn vào lịch sử nước ta.

Miền Nam Việt Nam được mở ra cùng với thế kỷ 17, khi Nguyễn Hoàng, còn gọi là chúa Tiên, bắt đầu khai phá, một thời gian sau khi đem dân vào Nam tránh họa Trịnh Kiểm. Con cháu Nguyễn Hoàng thiết lập ra một đất nước riêng biệt, đánh nhau với họ Trịnh để giữ bờ cõi trong gần một thế kỷ, sau đó Đàng Trong (tức miền Nam) và Đàng Ngoài (tức miền Bắc) sống như hai quốc gia riêng biệt và thù địch cho tới khi nhà Nguyễn bị Tây Sơn tiêu diệt vào năm 1778. Kế đó anh em Tây Sơn chia rẽ nhau và đất miền Nam của chúa Nguyễn bị chia làm hai, phía Bắc thuộc Nguyễn Huệ, phía Nam thuộc Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ. Ngay khi nhà Tây Sơn dựng lên, Nguyễn Ánh khởi binh khôi phục nhà Nguyễn, mấy lần chiếm lại Gia Định rồi lại bị đánh bại. Nhưng khi anh em Tây Sơn chia rẽ nhau, Nguyễn Ánh đã làm chủ được vùng đất từ Biên Hòa trở vào cho tới mũi Cà Mau.

Trước trận Đống Đa, năm 1789, nước ta thực sự bị chia làm bốn nước. Miền Bắc của vua Lê, từ Nghệ An cho tới Quảng Nam của Nguyễn Huệ, miền Nam Trung Phần của Nguyễn Nhạc, và Nam Phần thuộc về Nguyễn Ánh. Có lúc chúng ta có tới ba hoàng đế : Chiêu Thống tức Lê Duy Kỳ, Quang Trung tức Nguyễn Huệ và Thái Đức Hoàng Đế tức Nguyễn Nhạc, và một vương : Nguyễn Ánh. Sau trận Đống Đa, Nguyễn Huệ diệt nhà Lê, ta còn lại hai hoàng đế và một vương. Đến năm 1802, Gia Long mới thống nhất được sơn hà. Như thế có nghĩa là một nửa của đất nước mới bắt đầu được hội nhập dần dần theo một tiến trình bắt đầu từ cách đây hơn bốn trăm năm và mới kết thúc cách đây hai trăm năm. Trong khoảng thời gian bốn thế kỷ qua, cùng với sự mở rộng đất nước, chúng ta chia đôi trong hơn hai thế kỷ, có lúc chia ba, có lúc chia bốn. Gia Long thống nhất đất nước được sáu mươi hai năm thì Nam Phần bị Pháp chiếm làm thuộc địa, rồi hai mươi năm sau đó cả nước bị Pháp đô hộ và chia ra làm ba Kỳ : miền Bắc, miền Trung và miền Nam với ba chế độ chính trị khác nhau. Sau thế chiến hai, nước Việt Nam bị chia làm hai vùng quốc gia và công sản, dưới hai chế độ khác nhau. Từ năm 1954 đến năm 1975, hai vùng quốc gia và cộng sản tập trung lại thành hai miền Nam Bắc tiếp giáp nhau ở sông Bến Hải, vĩ tuyến 17. Đất nước lại thống nhất trở lại từ năm 1975.

Nói chung là từ ngày bắt đầu mở ra miền Nam, cách đây trên bốn trăm năm, chúng ta có được tám mươi năm thống nhất. Tám mươi năm trong thời gian hơn bốn trăm năm kể ra là quá ít, nhưng con số rất khiêm nhường đó cũng đã bỏ qua đi những chuyện các sứ quân nổi lên hùng cứ một phương như vẫn xảy ra thường xuyên dưới triều Nguyễn. Nó cũng không kể tới sự kiện là ngay cả khi có thống nhất về mặt hành chánh chúng ta cũng không có thống nhất trong dân tộc. Dưới thời nhà Nguyễn, nhân dân bị chia làm hai loại, giữa những người không có hay có đạo Công giáo. Khoảng một trăm ngàn người Công giáo đã bị sát hại chỉ vì tín ngưỡng của họ. Từ sau 1975, dân tộc cũng bị chia làm hai loại người, những người cộng sản rất thiểu số nhưng lại chiếm tất cả mọi quyền hành và những người không cộng sản chiếm đại đa số nhưng lại chỉ có quyền phục tùng.

Tóm lại, từ bốn thế kỷ qua, đất nước Việt Nam ít khi là một, còn dân tộc Việt Nam thì chưa bao giờ là một cả. Không những có chia cắt và chia rẽ, mà còn chia cắt để tàn sát lẫn nhau, chia rẽ để chà đạp và bách hại lẫn nhau. Làm sao có thể ngạc nhiên nếu chúng ta không vươn lên được ?

Cái quá trình chia cắt và chia rẽ đó khiến chúng ta nhìn nhau không phải như người cùng một nước, mà là những người quốc gia hay cộng sản, người Bắc hay người Nam hay người Trung, người Công Giáo hay người Phật tử, người giàu hay người nghèo. Không những chia rẽ nhau mà còn thù ghét nhau.

Năm 1946, khi người Pháp trở lại Nam Phần, họ lập tức tìm được những người cộng tác để lập ra "Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc" với chủ trương tách Nam Phần thành một quốc gia riêng. Phong trào đầu tiên mà chính quyền này phát động là bách hại những người gốc miền Bắc không may có mặt tại Sài Gòn. Kỹ thuật rất giản dị, một người khả nghi bị chận lại và bị bắt phải nói ba tiếng "Tân Sơn Nhất". Nếu phát âm là "Tâng Sơng Nhức" thì được coi là người Nam, tức là người tốt ; còn nếu phát âm là "Tân Sơn Nhất" là bị nhận ra là "Bắc kỳ" và bị ăn đòn. Điều đáng buồn là đây không phải chỉ là một chủ trương tồi tệ của một thiểu số manh động, đa số những người tham dự vào cái trò chơi "đánh Bắc kỳ" này là những người rất bình thường. Tất cả những nạn nhân đều không phải là những người giàu có và thế lực, những người này có đầy đủ mọi quan hệ cần thiết để che chở cho họ, họ vẫn sống yên ổn. Tất cả những nạn nhân đều là những người cùng khổ bị đem vào làm phu ở trong Nam.

Năm 1945, sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nắm được chính quyền, đảng cộng sản đã tàn sát thẳng tay những phần tử Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt, mà họ thừa biết là rất yêu nước, vì không chấp nhận chủ nghĩa của họ. Ông Hồ Chí Minh coi tất cả những người cộng sản trên thế giới là anh em (ông từng viết : "Năm châu bốn bể là nhà, bốn phương vô sản đều là anh em"), nhưng ông lại coi những đồng bào Việt Nam của ông không chia sẻ lý tưởng Mác-Lênin của ông là thù địch và ông giết họ không gớm tay. Ngay cả những người cộng sản Đệ Tứ, cũng tôn sùng Mác và Lênin như ông nhưng không thuộc trường phái Stalin, ông cũng thẳng tay tiêu diệt. Dĩ nhiên để có lý cớ tàn sát họ, ông buộc cho họ đủ thứ tội phản động, phản quốc, Việt gian, v.v... Yêu nước trước hết là phải yêu đồng bào. Ai muốn nói ông Hồ Chí Minh tài giỏi, quyết tâm, can đảm là quyền của họ, nhưng không ai có thể thuyết phục tôi rằng ông là một người yêu nước.

Phải nghĩ thế nào về cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc năm 1955 ? Những tài liệu và nhân chứng khác nhau ước lượng số người bị giết từ 20.000 đến 100.000. Trong đại bộ phận họ không phải là những người giàu - mà giàu có phải là một tội đáng chết không ? - họ chỉ là những người có năm, mười mẫu ruộng, tuy không đến nỗi cùng khổ như những người bần cố nông khác nhưng cũng là những người nghèo. Tôi đã gặp rất nhiều người từng chứng kiến những vụ đấu tố hồi đó, họ cho hay rằng có những người dân quê rất bình thường đã tham gia một cách man rợ vào những cuộc giết người đó, không phải vì bị ép buộc mà với những con mắt rực lửa hận thù. Nếu cải cách điền địa chỉ là do dã tâm của đảng cộng sản và của các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hồ Viết Thắng thì cũng đã là ghê gớm lắm rồi. Nhưng thực tế còn đau lòng gấp nghìn lần. Nó chứng tỏ rằng người Việt Nam ác độc với nhau, và do đó không đáng với tên gọi là một dân tộc.

Ngay gần đây, vào năm 1992, tại trại cấm Hồng Kông, nơi hàng chục ngàn người Việt Nam tị nạn bị nhốt vào các trại tù để sắp sửa bị đuổi về cũng đã xảy ra một trường hợp hổ nhục. Những con người cùng xấu số và đau khổ như nhau đó đã không thương nhau mà còn tàn sát nhau giữa người ra đi từ miền Bắc và người ra đi từ miền Nam.

Tôi may mắn được đi du học rồi lớn lên và làm việc tại các nước phương Tây. Điều tôi học hỏi được không phải ở trong những cuốn sách mà ở trong những cái nhìn. Người Mỹ nhìn nhau là người Mỹ, rất ít khi họ để ý nhãn hiệu dân chủ hay cộng hòa, người ở bang New York hay người ở bang Michigan. Người Pháp nhìn nhau như những người Pháp trước khi là người ủng hộ đảng Xã Hội hay đảng De Gaulle, người Anh nhìn nhau như những người Anh trước khi là những người lao động hay bảo thủ. Họ là những dân tộc. Hơn hai ngàn năm lịch sử dựng nước của ta không đem ta lại gần nhau mà còn khiến ta thù địch với nhau. Chúng ta phải nhìn lại mình và nghĩ lại mình.

Dĩ nhiên chúng ta đều muốn nước Việt Nam thống nhất và dân tộc Việt Nam hòa hợp. Đó là điều kiện bắt buộc. Hoặc là thế, hoặc là chúng ta sẽ không có một tương lai nào cả. Nhưng "nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một" là điều mà chúng ta phải xây dựng ra chứ chưa sẵn có. Và để xây dựng đất nước Việt Nam đó chúng ta cần một tinh thần mới. Đó là tinh thần chấp nhận nhau, quí mến nhau, tôn trọng những dị biệt của nhau để cùng nhau xây dựng một tương lai chung.

Tinh thần đó là bắt buộc nhưng chưa đủ, chúng ta cần ý thức được một cách thật sâu đậm sự phân hóa và thù hận trầm trọng của đất nước ta. Chúng ta cần ý thức được rằng Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc là một vấn đề vô cùng nặng nề và gai góc, cho nên cần được thực hiện với tất cả quyết tâm, với tất cả tâm hồn và với tất cả kiên nhẫn.

Khi Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đề xướng ra lập trường Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc, cái nhìn của chúng tôi không phải chỉ hạn hẹp trong khuôn khổ cuộc tranh chấp quốc gia - cộng sản, mà là cái nhìn bao quát cho cả một dòng lịch sử đau thương của dân tộc này. Chúng tôi đã gặp sự tiếp nhận nào ? Chúng tôi đã gặp những đả kích gay gắt và hằn học từ đủ mọi phía. Người ta mạt sát chúng tôi là bọn cơ hội chủ nghĩa, bọn đón gió trở cờ, bọn phản bội. Nhưng phản bội cái gì ?

Cũng có những người phản bác rằng "Dân tộc Việt Nam là một khối thuần nhất, không có gì để thù hằn nhau". Cường điệu hay vô ý thức ?

Ôn hòa hơn, nhiều người đánh giá chúng tôi là ngây thơ ấu trĩ, là thiếu căn bản dân tộc, là mất gốc, là không thuộc lịch sử. Nhưng dân tộc nào, gốc nào và lịch sử nào ?

Một số người độ lượng hơn cho chúng tôi là những người tình cảm và không tưởng. Nhưng làm sao có thể đoạn tuyệt được với cái quá khứ đau buồn đè nặng từ nhiều thế kỷ và vượt lên trên được cả một khối hận thù chồng chất này nếu không có một tấm lòng thực lớn ?

Để thắng những trở ngại quá lớn lao, thái độ thực tiễn nhất là phải ước mơ. Vấn đề thống nhất đất nước - thống nhất không những về mặt hành chánh mà cả trong lòng người - và hòa hợp dân tộc chắc là không thể giải quyết xong ngay trong sinh thời của tác giả và độc giả cuốn sách này, nhưng nếu dồn mọi cố gắng, chúng ta có thể giải quyết một phần trong thời đại của chúng ta, và tạm xong sau vài thế hệ kế tiếp.


 

******************************

 

Đem tâm tình viết lịch sử ?

 

2-tqan8

Lúc sắp rời Việt Nam đi du học tôi có được nghe nói khá nhiều về một cuốn sách mới xuất bản với một cái tên khá ngộ nghĩnh "Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử". Hình như là của Nguyễn Kiên Trung nếu tôi không nhớ sai.

Cuốn sách đó tôi không đọc một phần vì không có cơ hội, một phần cũng vì cái tên ngộ nghĩnh đó. Tại sao lại có thể lấy tâm tình mà viết lịch sử ? Lịch sử phải chính xác và khách quan mới có thể dùng làm tài liệu để suy nghĩ và làm việc. Đem tâm tình để đọc lịch sử cũng đã là điều phải rất thận trọng, còn đem tâm tình mà viết lịch sử là điều hết sức nguy hiểm. Tâm tình nhất định là chủ quan rồi. Nếu tâm tình của mình sai lệch thì sao ? Mình có thể đầu độc những tâm hồn trong trắng.

Nhưng "Đem Tâm Tình Viết lịch Sử" là một truyền thống của các xã hội thuộc văn hóa Trung Hoa. Các quan viết sử nhục mạ và bôi bẩn một số nhân vật làm cho họ bị đời sau nguyền rủa đồng thời cũng tâng bốc, làm đẹp và thánh hóa một số nhân vật khác để làm gương mẫu cho các thế hệ sau.

Cách viết sử này chỉ nhắm một mục đích chính trị ngắn hạn nhưng với thời gian nó đã tạo ra một tâm lý tai hại là lấy người xưa và việc xưa làm mẫu mực. Không những tai hại mà còn nguy hiểm, bởi vì qua các anh hùng, một số giá trị bệnh hoạn được lưu truyền và làm ô nhiễm trí tuệ.

Một thí dụ. Còn gì trong trắng hơn tâm tình các em bé học sinh tiểu học ? Vậy mà đa số các em lại say mê Quang Trung Nguyễn Huệ, một con người vô cùng hung bạo và hiếu sát. Trong đầu họ, và trong đầu chính tôi vào lứa tuổi đó, Nguyễn Huệ là tấm gương sáng. Đó cũng là vì đầu óc ngây thơ của tôi đã bị ảnh hưởng của những bậc chú bác đem tâm tình viết và đọc lịch sử.

Nhìn vào lịch sử để hiểu tâm lý và tập quán của dân tộc mình, để thấy cái mạnh cái yếu của nước mình, để biết cái gì có thể làm và cái gì không nên làm thì rất hay. Nhưng bắt chước cả kỹ thuật của người xưa là điều rất khờ khạo. Tâm lý bắt chước người xưa thực ra còn mạnh lắm. Vào cuối thập niên 80, một tổ chức chính trị lưu vong, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam của ông Hoàng Cơ Minh, đã tung ra cả một đợt học tập qui mô về Quang Trung Hoàng Đế. Thôi thì đức của vua Quang Trung, phép trị nước của vua Quang Trung, mưu thuật Quang Trung, v.v... Nguyễn Huệ trở thành một đề tài học tập, một thứ cẩm nang hành động.

Sự tôn thờ thần tượng đã làm cho chúng ta quên mất rằng thời đại của chúng ta đã tiến bộ rất nhiều so với thời xưa. Chúng ta có thể rút tỉa ra bài học chính trị nào của một thời đại trong đó vị hoàng đế muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết ? Chúng ta có thể rút tỉa ra bài học văn hóa nào ở thời đại chỉ có chiến tranh và chém giết chứ không có máy in, và thiếu cả bút mực ? Chúng ta có thể bắt chước chiến thuật nào nơi những người đi bộ đánh nhau bằng gươm giáo ?

Tâm lý tôn thờ Nguyễn Huệ thật là dễ sợ và tôi đã có hai kinh nghiệm.

Lần thứ nhất trong một bữa ăn sinh nhật của một cô bạn, tôi nói chuyện với một cựu đại úy quân đội Việt Nam Cộng Hòa đồng thời cũng là cựu giáo sư trung học. Câu chuyện xoay sang Nguyễn Huệ vì anh này lúc đó là một cán bộ của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh và muốn chia sẻ với chúng tôi những điều anh vừa học tập. Anh ta quả quyết rằng nếu Nguyễn Huệ còn sống thì Nguyễn Ánh không những không thống nhất được đất nước mà còn toi mạng dưới tay Nguyễn Huệ. Tôi đáp lại rằng điều đó không chắc vì đất Gia Định giàu có, dư khả năng cung cấp lương thực, trong khi miền Bắc lúc đó suy kiệt, vả lại Nguyễn Ánh cũng là một người đởm lược, lại còn học được cách dùng binh của phương Tây do một số tay đánh thuê mà ông ta chiêu mộ, về vũ khí Nguyễn Ánh chắc cũng hơn. Chỉ có thế thôi mà cũng đủ làm bùng lên một cơn thịnh nộ đến nỗi cô chủ nhà phải ra xem. Anh ta tha tội cho tôi, nhưng ân cần nhắn nhủ : "Anh nên học lại sử Việt Nam". Người cộng sản có lý do, và dụng ý, để tôn thờ Nguyễn Huệ, nhưng một tổ chức chống cộng lấy chiêu bài tự do dân chủ mà cũng tôn vinh Nguyễn Huệ thì quả là bắt chước một cách ngờ nghệch.

Kinh nghiệm thứ hai đỡ gay cấn hơn, nhưng lại nhiều ý nghĩa hơn. Nó xảy ra trong một cuộc họp mặt của một nhóm trí thức thượng lưu tại Paris. Đó là những người cởi mở, nhã nhặn và có tiếng tốt trong cộng đồng. Không biết ai tự nhiên đề cập đến chiến dịch học tập mưu thuật Quang Trung nói trên. Một bà, tác giả của nhiều bài nghiên cứu có giá trị về sử và, theo tôi biết, hoàn toàn không có cảm tình với tổ chức Hoàng Cơ Minh, hỏi tôi nghĩ gì về Nguyễn Huệ. Tôi đáp lại rằng Nguyễn Huệ không thể bắt chước, ông ta hay ở chỗ võ nghệ hơn người, tính tình quả quyết và tự tin ; những cái đó hoặc mình có hoặc mình không có chứ không thể bắt chước. Còn về kiến thức binh bị thì nếu sống lại bây giờ, tôi không chắc là ông ấy có được một nửa những kiến thức của một hạ sĩ quan. Sự bất đồng ý kiến xuất hiện rõ rệt trên mặt bà nữ sĩ, và bà quả quyết rằng nếu Nguyễn Huệ sống lại và cầm quân ngay lúc này ông vẫn là một vị tướng giỏi.

Cũng trong buổi gặp mặt của giới tao nhân mặc khách đó, tôi lại đụng độ với một người bạn về một nhân vật khác mà cả hai chúng tôi đều ngưỡng mộ : Nguyễn Du. Buổi gặp mặt đó thực là vất vả cho tôi.

Nguyễn Du thì ai cũng phải nhìn nhận là một thiên tài về thơ văn rồi. Vấn đề là tôi nghe các bạn chê văn hóa thời nay và lên tiếng bênh vực. Tôi biện luận rằng trong vòng nửa thế kỷ qua văn học và nghệ thuật Việt Nam đã tiến xa gấp nhiều lần con đường đã đi được trong suốt thời gian trước đó từ thời lập quốc. Tôi nói rằng các tác phẩm ngày nay có phẩm chất hơn ngày xưa nhiều lắm, nhưng chỉ vì nhiều tác giả quá, mà lại không ai vượt lên được, nên không thấy những hiện tượng như Nguyễn Du, Cao Bá Quát trong thời đại của họ. Có lẽ nếu dừng ở đấy thì mọi người đều nghe lọt tai, nhưng tôi lại dại dột viện dẫn một thí dụ. Tôi nói nếu lấy một người rất rành về tiếng Việt nhưng chưa biết truyện Kiều rồi đưa cho anh ta đọc truyện Kiều và một tập thơ gồm những bài thơ đăng trên các báo chí ở khu Bolsa, tôi bảo đảm họ sẽ thấy tập thơ Bolsa hay hơn truyện Kiều. Tôi bị phản đối dữ dội, một chị hỏi tôi đã uống rượu chưa mà phát ngôn bừa bãi như thế. Hình như mọi người, trừ tôi, đều đồng ý là cho tới nay vẫn chưa tác phẩm nào qua mặt được truyện Kiều. Cũng may là trong văn thơ không có việc biểu quyết giá trị, nếu không thì tôi đã thảm bại rồi. Cái tâm lý tôn sùng và bắt chước người xưa không phải chỉ giới hạn trong cách viết và đọc sử. Nó đã lây lan ra văn học cũng như mọi bộ môn khác.

Tôi rất sợ những người đem tâm tình viết lịch sử vì một cách chân tình họ có thể bóp méo lịch sử, thần thánh hóa người xưa và củng cố cái tập quán tai hại là lấy người xưa làm khuôn mẫu.

Chúng ta thần thánh hóa người xưa vì chúng ta không quí trọng chính mình : chúng ta không tin ở chính mình nên chúng ta đã không nhận ra được những hào kiệt ngay trong thời đại này, mặc dầu họ khá đông đảo, vì lý do giản dị là họ có nhiều điểm giống mình hoặc không hơn gì mình ; mà đã không hơn mình thì nhất định là phải tầm thường rồi.

Chúng ta chưa biết cách quản lý tổ tiên. Chúng ta cần tìm ra cách nào khác để quí trọng người xưa. Để vẫn yêu quí tổ tiên mà vẫn quí mình. Có quí mình chúng ta mới có thể nhìn ra những con người lỗi lạc ngay giữa chúng ta. Và chỉ có những hào kiệt của thời nay mới giúp được chúng ta. Trên đường chinh phục tương lai, chúng ta cần nhìn về đằng trước, chứ không thể chỉ nhìn đằng sau. Cũng như khi lái xe, chúng ta không thể chỉ nhìn kính chiếu hậu. "Ôn cố tri tân" [ôn lại chuyện xưa để biết chuyện ngày nay] là một phương pháp sai. Lấy những giải pháp ngày xưa cho những vấn đề hôm nay còn vụng về hơn là áp dụng những khuôn mẫu bên Tây bên Tàu cho nước ta. Lầm thời đại nghiêm trọng hơn lầm không gian.

***********************

 

Trở lại trường hợp Nguyễn Huệ

 

2-tqan9

Những điều tôi vừa viết về Nguyễn Huệ chắc đã làm một số độc giả nổi nóng. Một số vị có thể hỏi tại sao tôi lại gây "tranh cãi vô ích" về những vấn đề văn hóa và lịch sử giữa lúc cần dồn hết nghị lực cho cuộc vận động dân chủ. Lý do là vì tôi thấy những cuộc tranh cãi này không những không vô ích mà còn rất cần thiết.

Cuộc tranh đấu cho tự do và dân chủ đã đi vào một giai đoạn mới. Sau nhiều tranh luận, những người dân chủ Việt Nam đã đạt tới đồng thuận về một lập trường tranh đấu. Đây là một khai thông quan trọng và rất đáng mừng. Nhưng tại sao có đồng thuận rồi mà cuộc vận động dân chủ vẫn chưa khởi sắc, đồng bào trong và ngoài nước vẫn chưa hưởng ứng ở mức độ chờ đợi ? Theo tôi, đó là vì chúng ta đụng phải một bức tường tâm lý kiên cố do lịch sử và văn hóa để lại. Không chọc thủng được bức tường này chúng ta sẽ dẫm chân tại chỗ, không giành được dân chủ, và ngay cả nếu có giành được dân chủ cũng không thể vươn lên bắt kịp các quốc gia tiên tiến. Mà muốn chọc thủng bức tường tâm lý này thì bắt buộc phải đặt lại một số vấn đề văn hóa và lịch sử.

Tôi không vô ý thức đến độ không biết rằng đụng tới lịch sử và văn hóa là đụng tới phần thầm kín, thiêng liêng và cấm kỵ của một dân tộc, do đó tất nhiên phải chờ đợi những phản ứng giận dữ.

Chúng ta thua kém thế giới một cách bi đát và sự tồn vong của đất nước đang bị đe dọa. Khi mộng ước của rất nhiều người hiện nay chỉ giản dị là được rời Việt Nam đi làm công dân một nước khác, khi có những bà mẹ đặt đứa con ba tuổi lên chiếc thuyền mỏng manh vượt biển với hy vọng duy nhất là nó tìm được một cuộc sống bình thường thôi tại một phương trời xa lạ nào đó, là chúng ta đang sống một thảm kịch quốc gia.

Nhưng giải thích thảm kịch đó bằng những lý do cụ thể như bối cảnh thế giới, sự mù quáng của vua quan nhà Nguyễn, chính sách đen tối của thực dân Pháp, sự thô bạo của đảng cộng sản, sự tồi dở của các chính quyền quốc gia, những âm mưu của người Mỹ, v.v... là những lập luận mà chúng ta dễ chấp nhận. Ngược lại nói rằng số phận hẩm hiu của chúng ta là hậu quả của chính cái mà chúng ta trân trọng nhất : hồn tính, giáo dục, di sản tinh thần của ông cha để lại thì chúng ta cảm thấy bị xúc phạm.

Di sản tinh thần của một dân tộc thể hiện rõ nhất qua các anh hùng. Các anh hùng dân tộc là thuốc thử màu bộc lộ tâm lý của một dân tộc. Qua cách chọn lựa và tôn vinh các anh hùng, các dân tộc tiết lộ những giá trị mà mình ôm ấp. Nếu chúng ta thay đổi cách nhận định anh hùng dân tộc thì đồng thời chúng ta cũng thay đổi các giá trị nền tảng của xã hội ta, chúng ta sẽ thay đổi cách suy nghĩ và hành động và do đó thay đổi số phận của chúng ta.

Đối với đại đa số người Việt, Nguyễn Huệ không phải chỉ là một anh hùng mà còn là một thần tượng. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, mà tôi rất ái mộ, đã ca tụng Nguyễn Huệ và chiến thắng Đống Đa bằng những vần thơ nồng nàn trong một bài thơ rất dài mà tôi xin trích hầu độc giả hai câu :

      Muôn chiến công một chiến công dồn lại

      Một tấm lòng muôn vạn tấm lòng mang.

Chúng ta đã được huấn luyện ngay từ buổi đầu đời, từ ghế trường tiểu học để sùng bái Nguyễn Huệ. Như vậy Nguyễn Huệ vừa là thần tượng vừa là mối tình đầu của trí tuệ Việt Nam, đụng tới ông là đụng tới cả một tín ngưỡng và một đam mê.

Ở đây xin mở một dấu ngoặc đơn ngắn. Có một cái gì rất không ổn trong cách mà thanh thiếu niên Việt Nam được giáo dục để đánh giá các anh hùng dân tộc. Nước ta có nhiều anh hùng nhưng có ba vị có công lớn nhất : Lý Công Uẩn mở ra đất nước có kỷ cương, văn hiến ; Trần Hưng Đạo đánh đuổi quân Nguyên giúp chúng ta giữ được bờ cõi tránh được sự dầy đạp của quân Mông Cổ hung bạo ; Nguyễn Hoàng mở ra miền Nam trù phú. Cả ba đều là những con người đức độ, đem phồn vinh cho dân chúng. Thế mà chỉ có Trần Hưng Đạo được nhắc tới thường xuyên, nhưng cũng rất xa sau Nguyễn Huệ ; Lý Công Uẩn thì họa hiếm ; còn Nguyễn Hoàng thì không bao giờ.

Cần phải trở lại trường hợp Nguyễn Huệ bởi vì đó là một sai lầm đã kéo dài quá lâu và đã gây quá nhiều tác hại. Tôi không phải là sử gia, cũng không phải là một nhà nghiên cứu mà là một người hoạt động chính trị. Người hoạt động chính trị nói những điều cần nói, có bổn phận phải nói trung thực, dựa vào những sự kiện nghiêm túc và lý luận một cách lương thiện. Nhưng người hoạt động chính trị, nếu không có thì giờ như trường hợp của tôi, không có bổn phận phải ghi chú dữ kiện lấy từ sách nào, chương nào, trang nào, v.v... Đó là công việc của nhà nghiên cứu. Những dữ kiện mà tôi dựa vào để bàn về Nguyễn Huệ là có thực, các sử gia đều có.

Trước hết là một vài nhận định về chiến thắng Đống Đa.

Nguyễn Huệ được tôn sùng nhờ trận Đống Đa mùa Xuân Kỷ Dậu 1789. Những công đức và thành tích khác của ông chỉ là phụ họa, đôi khi thêm thắt và thêu dệt. Theo ký ức tập thể của chúng ta trong trận này Nguyễn Huệ đã chỉ trong một đêm phá tan hai mươi vạn (hai trăm ngàn) quân Thanh, tránh cho chúng ta ách Bắc thuộc.

Thực ra các tài liệu của nhà Thanh cho thấy một cách rất rõ rệt là vua Càn Long không có ý định đánh chiếm nước ta. Không những thế vua Càn Long còn cấm Tôn Sĩ Nghị giao chiến. Nhà Thanh can thiệp vì có sự cầu cứu của mẹ vua Lê Chiêu Thống và đám quần thần nhà Lê, nhưng ý đồ của họ chỉ là dọa để Nguyễn Huệ thần phục Lê Chiêu Thống, và ngay cả nếu Nguyễn Huệ cứng đầu không chịu cũng chỉ giúp Lê Chiêu Thống có thanh thế mà chiêu tập lực lượng để chia đất với Nguyễn Huệ mà thôi. Dĩ nhiên nếu Việt Nam tự nguyện sát nhập vào Trung Quốc thì nhà Thanh sẽ rất hài lòng nhưng họ không chấp nhận trả một giá nào cả.

Con số hai chục vạn quân Thanh cũng rất sai sự thực. Tôn Sĩ Nghị sang bằng đường bộ, mà đường bộ thì bị vách núi dầy đặc ngăn cách không thể di chuyển một số quân khổng lồ như vậy. Trong những lần xâm chiếm qui mô Việt Nam, quân Trung Quốc đều chủ yếu xâm lăng bằng đường thủy qua cửa Bạch Đằng hay Nghệ An.

Thành phố Hà Nội hồi đó có bao nhiêu dân cư ? Mười ngàn, mười lăm ngàn, hay hai chục ngàn là cùng. Không cần hai trăm ngàn, chỉ cần năm chục ngàn thôi thì cũng đã là cả một sự tràn ngập không còn chỗ đứng, chưa nói tới việc quân Thanh kéo nhau đi chợ mua bán như sử chép. Các tài liệu còn giữ lại chỉ nói quân Thanh đóng đồn ở vài làng nhỏ cạnh Hà Nội.

Niềm tự hào dân tộc của tôi bị thương tổn lần đầu tiên vào khoảng năm 1958. Tôi đọc báo về cuộc thuyết trình của giáo sư Tưởng Quân Chương, một chuyên gia người Đài Loan về Việt Nam, tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Sự hiểu biết rất non nớt của tôi lúc đó cũng đủ để tôi ý thức rằng ông hơn hẳn nhiều trí thức Việt Nam ngay về chính lịch sử và văn hóa Việt Nam. Ông lập luận chắc chắn, dẫn chứng tài liệu đầy đủ về văn học Việt Nam, từng tác phẩm, từng tác giả. Đề cập đến trận Đống Đa, Tưởng Quân Chương dẫn tài liệu của Thanh triều, nói rằng Tôn Sĩ Nghị tổng đốc Lưỡng Quảng đã đem sáu ngàn kỵ binh sang Việt Nam để phô trương thanh thế và làm lễ thụ phong cho Lê Chiêu Thống nhưng đã bị Nguyễn Huệ đánh bất ngờ, thua chạy về và bị cách chức. Con số này theo tôi là hợp lý. Tôn Sĩ Nghị từ Trung Quốc sang Việt Nam trong vài tuần lễ thì chắc chắn là sang bằng kỵ binh rồi, mà kỵ binh thì sáu ngàn đã là nhiều lắm đối với hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, muốn hơn cũng không có. Nên nhớ là nhà Thanh lúc đó đã yên bình hơn một trăm năm nên không còn giữ quân đội hùng hậu nữa. Tôi chưa thấy sử gia Việt Nam nào bác bỏ sự kiện của ông Tưởng Quân Chương.

Một tài liệu do người Việt Nam viết về trận Đống Đa là cuốn "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" của Ngô Gia Văn Phái, một cuốn sách khá thuận cho Tây Sơn. Theo cuốn sách này thì khi quân Thanh đến, Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm bàn với nhau rằng đánh quân Thanh không được vì dân chúng Bắc Hà ủng hộ quân Thanh và ghét quân Tây Sơn, họ sẽ chỉ chỗ, dẫn đường, tiếp sức quân Thanh. (Đây cũng là một sự kiện rất quan trọng chứng tỏ dân chúng không ngưỡng mộ Nguyễn Huệ như một số tác giả viết). Ngô Văn Sở quyết định bỏ Thăng Long lui về giữ đèo Tam Điệp, nhưng đô đốc Phan Văn Lân không chịu, đòi Ngô Văn Sở cấp cho một ngàn quân (xin nhắc lại là một ngàn quân) ra giáp chiến. Phan Văn Lân đến bờ sông Như Nguyệt thì gặp quân Thanh đóng ở bên kia sông. Lúc đó tiết trời lạnh giá nhưng Phan Văn Lân nhất định bắt quân lội qua sông đánh quân Thanh. Quân Tây Sơn chết đuối khá nhiều, số còn lại qua bên kia sông lạnh cóng nên bị quân Thanh tiêu diệt, Phan Văn Lân một mình một ngựa chạy về. Thử hỏi nếu quân Thanh đông tới mười ngàn người thôi liệu Phan Văn Lân có dám liều lĩnh như vậy không ?

Còn một nguồn tài liệu khác về trận Đống Đa. Đó là những lá thư mà các giáo sĩ có mặt tại đó gởi về cho bạn bè tại Pháp. Những lá thư này được tập trung trong một tài liệu có tên là "Những lá thư kỳ lạ và xúc tích của Sứ Bộ Truyền Giáo Viễn Đông" [Lettres curieuses et édifiantes de la Mission apostolique en Extrême Orient] còn lưu giữ tại Pháp. Đây là những lá thư riêng, không phổ biến, do đó chúng không có mục đích tuyên truyền. Các giáo sĩ nói thẳng là họ bênh vực nhà Tây Sơn vì lý do cả chúa Trịnh lẫn chúa Nguyễn đều cấm đạo trong khi Tây Sơn không để ý đến tôn giáo.

Một giáo sĩ mô tả trận Ngọc Hồi (Đống Đa), trận đánh gay go nhất và có thể nói là duy nhất trong đêm hôm đó. Theo ông, quân Tây Sơn tiến vào bị quân Thanh đánh bật ra, hàng ngũ rối loạn. Lúc đó đích thân Nguyễn Huệ từ dưới xông lên, múa gươm chém chết mấy chục quân Thanh, làm chúng hoảng sợ bỏ chạy. Theo cách mô tả đó thì trận Đống Đa không thể là lớn được. Hoàng Lê Nhất Thống Chí cũng nói quân Tây Sơn tiến sau hai mươi tấm mộc, đằng sau mỗi tấm là ba mươi người. Như vậy tổng số quân Tây Sơn tham chiến ở Ngọc Hồi là sáu trăm người. Hoàng Lê Nhất Thống Chí còn nói thêm là khi nghe tin Ngọc Hồi có biến, Tôn Sĩ Nghị sai một bộ tướng đem hai chục kỵ binh đi giải cứu cùng với một đám nghĩa quân của vua Lê. Những dữ kiện này chứng tỏ trận Đống Đa chỉ là một trận nhỏ.

Mặt khác, cũng không nên quên là quân Thanh bị bất ngờ hoàn toàn nên rối loạn, lo chạy hơn là đánh lại. Vả lại cũng chỉ có một nửa quân Thanh sang sông vào Thăng Long, nửa kia vẫn ở bên tả ngạn và bỏ chạy khi đám quân sang sông bị đánh tan. Cần minh định một điều để tránh tranh cãi. Số quân Thanh chết (chủ yếu là chết đuối khi xô lấn nhau sang sông làm sập cầu nổi) có thể nhiều hơn hẳn số quân từ Trung Quốc sang vì rất nhiều người Hoa sinh sống tại Việt Nam lúc đó cũng ỷ thế quân Thanh lộng hành tự coi như lính của nhà Thanh, rồi hoảng sợ bỏ chạy khi kỵ binh của Tôn Sĩ Nghị bị đánh tan. Ký ức dân gian và các tài liệu đều nói đến việc người ngựa chen nhau trên cầu. Cảnh này phù hợp với những gì vừa nói : quân cưỡi ngựa là quân Tôn Sĩ Nghị, đám chạy bộ là bọn a dua.

Chúng ta đều biết trước khi ra Thăng Long đánh quân Thanh, Nguyễn Huệ dừng lại ở Tam Điệp để mộ quân. Các giáo sĩ thuật cách mộ quân của Nguyễn Huệ : các tướng của Quang Trung, tất cả đều mang chức đô đốc, tới gần các làng, cưỡi ngựa lên một gò cao nhìn vào làng theo số nóc nhà mà ước lượng số quân mỗi làng phải nộp, ra lệ hễ thiếu một người là họ tàn sát cả làng. Dân chúng hãi hùng đến nỗi làng nào không đủ con trai phải bắt con gái giả làm trai đem nộp cho Nguyễn Huệ. Những nông dân tuyển chọn như vậy thực ra là những tù binh chỉ có vai trò khuân vác, làm mộc đỡ tên và lấy số đông áp đảo tinh thần quân Thanh mà thôi, chủ lực của Quang Trung chỉ là số quân Tây Sơn mà ông đem từ Phú Xuân ra. Đánh xong trận Đống Đa, ông bỏ mặc số quân tân tuyển này, họ phải xin ăn dọc đường tìm về quê quán.

Nguyễn Huệ là con người như thế nào ?

Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Nguyễn Huệ là con ông Hồ Phi Phúc, người gốc Nghệ An, nhưng từ ba đời trước bị chúa Nguyễn bắt vào lập nghiệp tại làng Tây Sơn, thuộc tỉnh Bình Định. Đến đời các con thì đổi ra họ Nguyễn để dễ tiến thân. Họ Hồ dần dần trở nên khá giả, đến đời Hồ Phi Phúc thì lại mở sòng bạc nên càng giàu có. Nguyễn Huệ như vậy không phải xuất thân là một nông dân áo vải như Việt Nam Sử Lược viết. Về anh em Tây Sơn, cũng như về trận Đống Đa, Trần Trọng Kim dựa vào Hoàng Lê Nhất Thống Chí, nhưng lại thêm bớt theo chiều hướng có lợi cho Nguyễn Huệ. Tại sao ? Chúng ta sẽ trả lời sau.

Ba anh em Nhạc, Lữ và Huệ lớn lên đi ăn cướp. Khởi đầu Nguyễn Nhạc kết nạp được một đám thủ hạ đi cướp bóc trong vùng, sau khi thế lực đã mạnh mới về lập đồn ở ngay làng mình công khai chống chúa Nguyễn. Có lẽ vì họ hoành hành khá lâu tại vùng Tây Sơn nên sau này, khi họ làm vua, người ta vẫn gọi họ là nhà Tây Sơn. Ba anh em liên kết với hai đám cướp biển người Trung Hoa là Tập Đình và Lý Tài và cũng chiêu mộ nhiều người Thượng. Trong các thư từ gởi cho nhau, các giáo sĩ thắc mắc không hiểu tại sao các tướng của Tây Sơn, dù là tướng đánh bộ đi nữa, đều xưng là đô đốc : đô đốc Sở, đô đốc Long, đô đốc Tuyết, đô đốc Lộc, đô đốc Lân, v.v... Đó là vì quân Tây Sơn do đám cướp biển huấn luyện, và đối với bọn cướp biển chức đô đốc là một ước mơ.

Một sự kiện nổi bật mà các sử gia cố tình làm ngơ là quân Tây Sơn chỉ thuần túy là giặc cướp. Từ lúc dấy lên cho đến lúc tiêu diệt cả họ Trịnh và họ Nguyễn trong hai mươi năm trời, họ không đưa ra bất cứ một chủ trương dựng nước nào ; không hề có một tờ hịch nào để hiệu triệu quốc dân, hay ngay cả một tờ kể tội họ Trịnh và họ Nguyễn. Họ chỉ đánh phá và cướp bóc mà thôi, không nhân danh một chính nghĩa nào. (Ở miền Bắc, Nguyễn Hữu Cầu khi nổi loạn chống nhà Trịnh ít nhất còn xưng là "Bảo Dân Đại Tướng Quân").

Từ năm 1771, anh em Tây Sơn lập đồn trại, bành trướng thêm lực lượng, đánh chiếm Qui Nhơn rồi tiến lên mạn Bắc đánh chúa Nguyễn. Lúc đó, dù mới mười tám tuổi, Nguyễn Huệ đã bắt đồng đảng và dân chúng gọi mình là "Đức Ông Tám". Cái lối tự xưng xấc xược này cũng là một đặc tính của đám thảo khấu. Cơ nghiệp chúa Nguyễn đã tan tác vì Trương Phúc Loan chuyên quyền nên quân Tây Sơn đánh đâu được đấy, hầu như không có kháng cự. Họ Trịnh ở ngoài Bắc lại nhân cơ hội vào chiếm Thuận Hóa. Quân Nguyễn phía Nam bị Tây Sơn đánh lên, phía Bắc bị quân Trịnh đánh xuống nên tan rã nhanh chóng. Chúa Định Vương nhà Nguyễn phải bỏ chạy vào Gia Định để Đông Cung Thế Tử ở lại. Nguyễn Nhạc bắt được Đông Cung, gả con gái cho, giả hòa với chúa Nguyễn ở Gia Định, nhưng lại ngấm ngầm liên kết với họ Trịnh xin làm tiên phong đánh chúa Nguyễn. Năm 1778 anh em Tây Sơn chiếm nốt Gia Định, tiêu diệt chúa Nguyễn. Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở Gia Định và Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương giữ mặt Bắc. Nguyễn Huệ là một tướng giỏi, nhiều công trận lại giữ mặt Bắc phòng họ Trịnh nên nắm phần lớn quân Tây Sơn trong tay.

Năm 1786, nhân lúc nhà Trịnh tan tác vì lính Tam Phủ làm loạn, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ ra đánh chiếm Thuận Hóa, trước đây của chúa Nguyễn nhưng mới bị họ Trịnh chiếm. Nguyễn Huệ chiến thắng dễ dàng rồi theo lời khuyên của Nguyễn Hữu Chỉnh, một tướng của họ Trịnh vì bất mãn mà bỏ vào theo Tây Sơn, tiến ra Thăng Long diệt họ Trịnh, dù không có lệnh của Nguyễn Nhạc. Lúc đó họ Trịnh đã suy sụp toàn bộ nên Nguyễn Huệ chiếm Thăng Long như vào chỗ không người. Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tông gả con gái là công chúa Ngọc Hân và ở lại Thăng Long gần hai tháng cho đến lúc Nguyễn Nhạc từ trong Nam ra gọi về. Khi vua Lê Hiển Tông chết, Nguyễn Huệ định không cho Lê Chiêu Thống lên kế vị, thân thích nhà Lê phải nhờ Ngọc Hân xin Nguyễn Huệ mới cho. Sau đó hai anh em Nhạc và Huệ đột ngột về Nam giữa đêm, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại với dụng ý để dân Bắc Hà giết Chỉnh vì tội đã đem quân Tây Sơn ra Bắc. Nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh chạy thoát vào Nghệ An ra mắt Nguyễn Huệ. Tuy thất vọng vì Nguyễn Hữu Chỉnh không chết nhưng Nguyễn Huệ vẫn cấp cho Chỉnh một số vàng và vũ khí lấy được ở Thăng Long để Chỉnh lập nghiệp tại Nghệ An. Nguyễn Hữu Chỉnh tự tuyển quân chiếm giữ Nghệ An.

Vua Lê Chiêu Thống lúc đó chỉ có vài quan văn và khoảng mười lính hầu. Phe đảng họ Trịnh lại trở về Thăng Long tái lập nghiệp chúa. Lê Chiêu Thống không chịu cho họ Trịnh áp bức nữa nên vời Nguyễn Hữu Chỉnh ra. Nguyễn Hữu Chỉnh dẹp được dư đảng họ Trịnh và được Lê Chiêu Thống phong tước Bằng Trung Công nắm giữ binh quyền. Trong khi Nguyễn Hữu Chỉnh ra Bắc đánh dư đảng họ Trịnh thì Nguyễn Huệ lại đem quân vào Nam đánh Nguyễn Nhạc. Nhạc phải khóc lóc năn nỉ Huệ mới tha. Sau khi về Phú Xuân, Nguyễn Huệ ra lệnh cho Vũ Văn Nhậm là phó tướng của mình và cũng là rể của Nguyễn Nhạc, đem quân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Vũ Văn Nhậm bắt được Chỉnh đem giết đi. Vua Lê Chiêu Thống bỏ chạy lưu lạc khắp nơi, chiêu tập lực lượng chống Tây Sơn. Nguyễn Huệ ra Thăng Long bất ngờ, Vũ Văn Nhậm đang ngủ trưa bị lôi ra chém. Nguyễn Huệ đặt Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Ngô Thời Nhiệm ở lại trấn giữ rồi rút quân về Nam. Quần thần và tôn thất nhà Lê sang Trung Hoa cầu cứu. Tôn Sĩ Nghị sang, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, tiến ra Thăng Long đánh bại Tôn Sĩ Nghị. Nguyễn Huệ chỉ mới làm vua được bốn năm, đang chuẩn bị đánh Trung Hoa chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây thì mất năm 1792. Mười năm sau nhà Tây Sơn bị Nguyễn Ánh tiêu diệt.

Nguyễn Huệ là một con người hung bạo đánh tất cả mọi người, đó là một sự thực. Nguyễn Huệ liên kết với hai tướng cướp Tập Đình và Lý Tài đánh chúa Nguyễn rồi lại đánh Tập Đình và Lý Tài, liên kết với chúa Trịnh rồi đánh chúa Trịnh, dùng Nguyễn Hữu Chỉnh rồi bỏ Chỉnh cho dân Bắc Hà giết. Nguyễn Hữu Chỉnh không chết mà lại phát lên được thì sai Vũ Văn Nhậm đem quân đánh giết Nguyễn Hữu Chỉnh, tiện thể lấy luôn Bắc Hà. Rồi lại giết Vũ Văn Nhậm. Đến cả Nguyễn Nhạc đối với Huệ vừa có nghĩa vua tôi vừa có nghĩa anh em, Huệ cũng đánh. Sau này hòa với nhà Thanh, rồi lại kết nạp bọn cướp biển đi đánh phá nhà Thanh và còn định đem quân đánh nhà Thanh. Nguyễn Huệ dùng bạo lực và sự tráo trở trong mọi trường hợp đối với bất cứ ai có khả năng trở thành một đối thủ. Việc Huệ đánh Nhạc chỉ vì hai anh em xích mích với nhau chuyện phân chia kho tàng lấy được ở Thăng Long là một hành động phản trắc và vô đạo. Nguyễn Huệ cũng rất tàn ác, các giáo sĩ thời đó dù bênh Tây Sơn cũng ghê sợ về sự tàn ác của Nguyễn Huệ và gọi ông là một thứ "Attila mới" trong những thư họ viết cho nhau. Họ kể lại khá chi tiết những việc làm dữ tợn của Nguyễn Huệ, mà khuôn khổ cuốn sách không cho phép tôi nhắc lại hết. Sau khi diệt nhà Trịnh và nói là "một tấc đất của nhà Lê cũng không lấy", Huệ vẫn chiếm Nghệ An, vua Lê Chiêu Thống sai danh sĩ Trần Công Sản, mà Nguyễn Huệ biết tiếng và phục tài, cùng với hoàng thân Lê Án, vừa là chú vừa là thầy của công chúa Ngọc Hân, mang quốc thư vào xin lại Nghệ An và cam kết hàng năm nộp toàn bộ thuế của tỉnh cho Nguyễn Huệ, nhưng Nguyễn Huệ đã không cho còn hạ ngục và gông cổ cả phái đoàn rồi đem ra biển nhận thuyền cho chết.

Nhiều người trách Nguyễn Ánh nhỏ mọn quật mồ Nguyễn Huệ sau khi đã giết con cháu, mà quên rằng hành động thô bạo này chỉ là để báo thù một hành động thô bạo trước đó : Nguyễn Huệ đã tàn sát cả họ Nguyễn và đã đào mả tổ tiên Nguyễn Ánh đem vất đi.

Một lần trong một chuyến đánh phá Gia Định, một tướng Tây Sơn bị phục binh giết chết. Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ nổi giận ra lệnh tàn sát tất cả dân chúng trong vùng, bất luận già trẻ, lớn bé, trai gái. Cuộc tàn sát đã kinh hoàng đến độ dân chúng các vùng phụ cận sau đó không dám ăn tôm cá vì sợ tôm cá ăn thịt những xác chết trôi đầy sông.

Một thí dụ khác là trận Đống Đa. Sau khi đã đánh tan quân Thanh và sợ quân Thanh quay lại phản ứng, Nguyễn Huệ ra lệnh cho dân chúng Thăng Long phải đắp xong trong vòng ba ngày một chiến lũy chung quanh để phòng thủ. Các giáo sĩ có mặt tại đó không thể nào tưởng tượng dân chúng Thăng Long có thể làm được điều đó. Nhưng họ đã làm được, họ đã làm tới kiệt sức, vì sợ bị Nguyễn Huệ tàn sát, họ biết Nguyễn Huệ không hề do dự trước sự chém giết. Tường xây lên xong các giáo sĩ kinh hoàng, họ đặt tên cho Nguyễn Huệ là "Attila mới" từ đó.

Các tài liệu của các giáo sĩ, và nhiều nhân chứng phương Tây có mặt tại Việt Nam lúc đó, về anh em Tây Sơn hiện vẫn còn lưu giữ trong nhiều thư viện tại Pháp. Một sử gia Việt Nam, ông Tạ Chí Đại Trường, đã sưu tập một số đáng kể trong cuốn sách "Lịch Sử Nội Chiến 1771-1802" của ông. Đây là một cuốn sách nên đọc cho những ai muốn tìm hiểu về nhà Tây Sơn.

Khả năng nhìn xa trông rộng của Nguyễn Huệ cũng rất giới hạn. Nguyễn Huệ đem binh đánh làm suy yếu Nguyễn Nhạc, rồi làm ngơ để Nguyễn Ánh tiêu diệt dần lực lượng của Nhạc và Lữ ở trong Nam. Cứ bỏ qua sự tàn nhẫn với hai người anh đi thì đây cũng là một tính toán chiến lược rất chủ quan và phiêu lưu.

Nguyễn Ánh còn đang bành trướng thế lực ở trong Nam thì Nguyễn Huệ đã nghĩ đến việc đánh Trung Hoa. Thật là một ý đồ điên dại, chứng tỏ Nguyễn Huệ không có một hiểu biết chiến lược nào cả. Nếu Nguyễn Huệ còn sống để mà gây chiến với nước Tàu thì quả là đại họa cho nước ta. Cứ giả thử vua Càn Long cho không Nguyễn Huệ hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây thì ngày nay nước ta cũng đã bị xóa bỏ rồi.

Cũng nên tương đối hóa tài dùng binh của Nguyễn Huệ. Nhà Nguyễn và nhà Trịnh đánh nhau cả thảy bảy lần trong gần nửa thế kỷ, từ 1627 đến 1674, làm cho đất nước, nhất là miền Bắc suy kiệt và dân chúng chán ghét chiến tranh. Đây cũng là giai đoạn mà đạo Công Giáo và tư tưởng Thiên Chúa Giáo, sau một thế kỷ du nhập, đã phát triển mạnh, làm lung lay tư tưởng Khổng Giáo, nền tảng chính đáng của chế độ. Quần chúng Việt Nam không còn nhìn các vua chúa như những đại diện của Trời mà họ phải phục tùng vô điều kiện nữa. Cả hai họ Trịnh Nguyễn đều suy thoái, việc binh bị bị bỏ rơi, người dân vừa không phục vừa bớt sợ.

Chúa Nguyễn còn lo đánh dẹp, mở mang bờ cõi nên người dân bỏ vào miền đất hoang phía Nam lập nghiệp tránh bị bắt lính rất nhiều. Lực lượng của chúa Nguyễn vừa suy yếu vừa bị trải rộng, dần dần mất thực chất. Các băng đảng cướp lộng hành khắp nơi. Đã thế, từ thời Võ Vương (1765) trở đi, Trương Phúc Loan lại chuyên quyền làm cho triều đình tan nát. Anh em Tây Sơn, nhờ tập hợp được một số băng đảng, nổi lên tiêu diệt chúa Nguyễn mà không cần đánh một trận đáng kể nào.

Quân Tây Sơn đã thắng dễ dàng vì thế lực của chúa Nguyễn đã hoàn toàn tan rã chứ không phải vì lực lượng của họ mạnh. Năm 1778, lúc Tây Sơn đã diệt chúa Nguyễn và chiếm Gia Định, thế lực lên đến cao điểm làm kinh động cả nước, toàn quyền Anh tại ‰ên Độ cử một chuyên viên là Chapman sang quan sát tình hình Việt Nam. Chapman làm quen được với anh em Tây Sơn và được đi thăm viếng quan sát tỉ mỉ khắp nơi. Chapman báo cáo rằng thế lực của quân Tây Sơn chẳng có gì đáng kể, chỉ cần một đạo quân một trăm người mà có kỷ luật cũng đủ để đánh tan toàn bộ quân Tây Sơn một cách nhanh chóng. Xin nhấn mạnh con số một trăm và cũng xin nhấn mạnh rằng Chapman chỉ nói tới kỷ luật chứ không hề nói tới nhu cầu vũ khí tối tân.

Ở ngoài Bắc, hồi đó gọi là Đàng Ngoài, tình thế còn bi đát hơn. Đời sống cơ cực và cương thường đảo lộn (họ Trịnh phế lập và giết vua Lê một cách rất tùy tiện) nên cả uy quyền chính trị lẫn uy quyền đạo đức đều tan. Giặc giã nổi lên khắp nơi. Trịnh Sâm vừa tạm dẹp xong giặc thì lại say mê tửu sắc, bỏ trưởng lập thứ gây loạn ngay tại triều đình. Điều cần đặc biệt lưu ý là họ Trịnh lúc đó không còn quân đội. Chỉ một đám lính Tam Phủ, vài ngàn tên không người chỉ huy, mà muốn phá nhà ai, giết quan nào cũng được. Khi chúng nổi loạn, Quận Huy Hoàng Tế Lý trên nguyên tắc cầm mọi binh quyền, phải một mình cưỡi voi ra đánh nhau với chúng rồi bị giết. Các tướng mỗi người trấn giữ một phương, mỗi người chỉ có vài chục gia nhân, rồi dựa vào đám gia nhân này mà đi bắt lính. Có khi họ bắt được cả ngàn quân nhưng những "quân đội" ấy chỉ là những nông dân tội nghiệp không biết chiến đấu và cũng không muốn chiến đấu, hễ gặp quân địch là rã hàng bỏ chạy có khi còn đâm chết tướng để dễ chạy. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí mô tả khá rõ xã hội miền Bắc lúc đó. Các sứ quân đã không có thực lực mà còn hiềm khích với nhau và chẳng tuân lệnh ai. Dân gian thì hễ ai khỏe mạnh ăn cướp được là đi ăn cướp, rất ghét quân Tây Sơn nhưng gặp quan nhà Lê là bắt nộp cho Tây Sơn để lãnh thưởng. (Sau này cũng chính dân chúng bắt vua Cảnh Thịnh và các tướng Tây Sơn nộp cho Nguyễn Ánh). Nguyễn Hữu Chỉnh bị anh em Tây Sơn bỏ rơi lên thuyền chạy về Nghệ An với mấy chục gia nhân, đến nơi không dám lên bộ. Vậy mà rồi cũng đi bắt lính và thành lập được một đạo quân. Với cái "quân đội" ô hợp đó mà Nguyễn Hữu Chỉnh vào được Thăng Long như chỗ không người vì các "quân đội" khác còn ô hợp hơn nữa. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh hoành hành ở miền Bắc, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra đánh, quân Nguyễn Hữu Chỉnh chưa đánh đã tan. Trong một bối cảnh như vậy, Nguyễn Huệ trấn áp được thiên hạ nhờ có được một đạo quân tinh nhuệ là điều dễ hiểu. Lý do thành công của Nguyễn Huệ là ông có một đạo quân thực sự trong khi các đối thủ của ông không có. Những chiến thắng như vậy không đòi hỏi một tài dùng binh nào.

Ở trong Nam có trận thủy chiến tại Cần Giờ là đáng kể. Nguyễn Huệ chỉ huy gần một trăm chiến thuyền, như vậy cũng là vài ngàn thủy quân, còn quân Nguyễn Ánh không biết bao nhiêu. Nguyễn Huệ cũng phá được quân Xiêm. Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược nói rằng quân Xiêm đông tới hai vạn người. Nếu đúng như vậy thì quả là một đạo quân rất lớn vào thời đó, nhưng quân Xiêm vừa tới nước ta thì đã rã hàng, đi cướp bóc khắp nơi chẳng còn đội ngũ gì cả. Nếu có một đạo quân đàng hoàng thì đánh tan chúng không khó.

Cả ba trận Cần Giờ, Mân Thít và Đống Đa đều ở rất dưới tầm cỡ của những trận đánh thời Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh. Tài dùng binh của Nguyễn Huệ là có thực nhưng chưa được chứng minh ở tầm cỡ của các danh tướng thời Trần Hưng Đạo hay Lê Lợi.

Cần nhấn mạnh để đánh tan một hiểu lầm đã kéo dài quá lâu và đã là nguyên nhân cho nhiều giải thích lịch sử gượng ép : đó là quân Tây Sơn không mạnh mà cũng không tổ chức giỏi ; họ đã thắng được các chính quyền Trịnh và Nguyễn bởi vì các chính quyền này đã đi tới cuối tiến trình phân rã. Nguyên nhân sâu xa của tiến trình phân rã này là cả hai chế độ Trịnh Nguyễn đã không ý thức được rằng nền tảng của xã hội Việt Nam đã thay đổi sau hơn hai thế kỷ tiếp xúc với người phương Tây, và cứ cố tiếp tục duy trì lối cai trị cũ trên một xã hội đã đổi mới.

Nguyễn Huệ chỉ mới làm vua được gần bốn năm thì mất nên tài trị nước của ông không thể bàn đến. Một việc triều đình của ông làm thường được ca tụng là hay dùng chữ Nôm. Nhưng chữ Nôm thời đó đã phát triển lắm rồi. Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán đã ra đời trước đó. Và đã có Nguyễn Du. Chính Nguyễn Ánh cũng đã dùng chữ Nôm trong một số văn thư. Cũng có người nhắc đến dụ Khuyến Nông của Nguyễn Huệ, nhưng đó chỉ là một dụ bình thường lặp lại những gì các vị vua trước đó đã nói. Một biện pháp làm khổ dân chúng rất nhiều là dùng Tín Bài, một thứ thẻ căn cước, để kiểm soát dân chúng, trong mục đích bắt lính chuẩn bị đánh Trung Hoa. Biện pháp này làm dân chúng bị tham quan ô lại sách nhiễu đến nỗi nhiều người phải trốn vào rừng sinh sống để "tị nạn Tây Sơn". Vả lại làm vua một nước đã kiệt quệ vì chiến tranh, vừa mới được một hai năm yên bình đã lo chuyện đánh nhau với một nước lớn gấp bội mình là điều mà một vị vua sáng suốt không thể làm.

Nhà Tây Sơn tuy chỉ kéo dài một thời gian ngắn nhưng đã ảnh hưởng rất lớn lên lịch sử nước ta và địa lý chính trị trong vùng.

Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chặn đứng hẳn sự bành trướng của lãnh thổ Việt Nam vào đất Cam-bốt. Năm 1771, khi anh em Tây Sơn bắt đầu tấn công chúa Nguyễn cũng là năm cuối cùng mà một phần đất Cam-bốt được sát nhập vào Việt Nam. Lúc đó đất Cam-bốt gần như vô chủ, các chúa Nguyễn dồn dập mở rộng lãnh thổ, nhưng cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã làm họ sụp đổ và cuộc Tây tiến của Việt Nam chấm dứt. Nếu không có anh em Tây Sơn chắc chắn nước Cam-bốt không còn.

Việc thôi bành trướng về phía Tây Nam, tùy cách nhìn, không nhất thiết là một sự thiệt thòi cho chúng ta. Nhưng anh em Tây Sơn đã làm một việc khác rất lớn, rất tai hại cho chúng ta và đã khiến chúng ta là chúng ta ngày nay : đó là phá tan và chấm dứt hơn hai thế kỷ tiếp xúc và giao thương đầy hứa hẹn với thế giới bên ngoài, nhất là phương Tây.

Chúng ta bắt đầu tiếp xúc với phương Tây từ đầu thế kỷ 16, các giao thương tăng dần với thời gian. Đầu thế kỷ 18 đã có những trung tâm thương mại lớn. Ngoài Bắc có Hà Nội và Phố Hiến [thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến]. Trong Nam có Hội An. Hội An có địa vị đặc biệt quan trọng, đó là trái tim của mọi hoạt động kinh tế của Đàng Trong. Quân Tây Sơn đi đến đâu cướp phá và đem chết chóc đến đó. Tệ hại nhất là việc cướp phá Hội An. Các thương nhân bỏ chạy trong kinh hoàng và mọi hoạt động kinh tế sụp đổ. Miền Trung rơi vào nạn đói chưa từng thấy, người chết vô kể, có nơi mẹ ăn xác con. Khi quân Tây Sơn ra ngoài Bắc thì Kinh Kỳ và Phố Hiến cũng tiêu tan. Cũng như tại Hội An, doanh nhân nước ngoài bỏ chạy trong kinh hoàng và không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Cánh cửa của chúng ta khép lại với thế giới bên ngoài. Xã hội ta trở lại với bóng tối của sự lạc hậu. Kinh nghiệm Việt Nam đã đen tối đến độ các thương nhân không trở lại nữa ngay cả sau khi nhà Tây Sơn đã đổ. Phần đông những người phương Tây đến sau này chỉ là các giáo sĩ.

Trần Trọng Kim là một học giả có công soạn ra bộ sử công phu đầu tiên cho nước ta. Đây là một đóng góp rất lớn cần được ghi nhận một cách xứng đáng. Trước ông lịch sử nước ta chỉ được chép một cách sơ sài và không trung thực. Điều khó tưởng tượng đối với thế hệ trẻ ngày nay là cho tới thế chiến II người Việt Nam không học sử nước mình. Người học trường Pháp thì học sử Pháp, người học trường Nam thì không học sử nào cả. Tập Việt Nam Sử Lược ra đời đầu thập niên 1930, thường được sử dụng như một cuốn sách để học quốc văn, đã có tác dụng rất lớn. Nó đã giúp người Việt Nam hiểu quá khứ của mình và tạo ra một ý thức quốc gia dân tộc. Việt Nam Sử Lược sau này được lấy làm cơ bản cho các sách giáo khoa sử ở cấp trung và tiểu học. Ý thức về lịch sử của người Việt Nam nói chung vẫn chưa vượt quá Việt Nam Sử Lược.

Tuy nhiên, vì không viết sách với mục đích giảng dạy, ông Trần Trọng Kim đã không cảm thấy có bổn phận phải tuyệt đối khách quan và, đặc biệt là đối với nhân vật Nguyễn Huệ, ông đã để nhiều tâm tình và thiên kiến vào đó. Ông dựng đứng ra chuyện Nguyễn Huệ ra Bắc "phù Lê diệt Trịnh" để ca tụng Nguyễn Huệ "dứt họ Trịnh, tôn vua Lê, đem lại cương thường cho rõ ràng. Ấy là có sức mạnh mà biết làm việc nghĩa vậy" (sic). Thật là đổi trắng thay đen ! Trong khi khởi chiến thì người ta thường hay mượn một danh nghĩa, điều này chẳng có gì là lạ. Điều lạ là Nguyễn Huệ đã ngang ngược không thèm mượn một danh nghĩa nào cả. Nguyễn Huệ vâng lệnh Nguyễn Nhạc tiến ra Bắc với mục đích chiếm Thuận Hóa, rồi thấy dễ tiến luôn ra chiếm Thăng Long, không nhân danh gì cả. Nguyễn Huệ vào Thăng Long cướp kho tàng rồi rút về chỉ vì chưa nắm vững tình hình, mặc dầu cũng chiếm đất Nghệ An. Việc phù Lê chỉ là câu nói ngoài miệng sau khi diệt xong họ Trịnh và thấy tình thế chưa chín muồi để chiếm miền Bắc mà thôi. Nếu thực sự phù Lê thì Nguyễn Huệ đã không hống hách đòi quyết định việc kế lập vua Lê và đã không cướp kho, lấy đất như vậy.

Ông Trần Trọng Kim cũng dựng đứng ra con số hai chục vạn quân Thanh, không có trong một sử liệu nào, để thổi phồng tầm vóc của trận Đống Đa và ca tụng Nguyễn Huệ "đại phá quân Thanh". (Trong hịch của Tôn Sĩ Nghị có nói tới năm chục vạn, nhưng đó, theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí, chỉ là tờ truyền đơn mà mục đích là hù dọa làm mất tinh thần quân Tây Sơn. Chính Nguyễn Huệ cũng biết đây chỉ là chuyện hù dọa). Ở một điểm Trần Trọng Kim giấu cả sự kiện. Toàn bộ việc thuật lại trận Đống Đa của ông dựa theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Nhưng trong khi Hoàng Lê Nhất Thống Chí chép rằng quân Nguyễn Huệ đi sau các bức mộc bia, cứ ba mươi người đàng sau một bức, tất cả là hai mươi bức, thì Trần Trọng Kim bỏ đi câu "tất cả là hai mươi bức", vì như thế chứng tỏ quân Tây Sơn chỉ có sáu trăm người, mâu thuẫn với tầm vóc "hai chục vạn quân Thanh" mà ông gán cho trận Đống Đa.

Ông Trần Trọng Kim cũng kể công Nguyễn Huệ cứu nước khỏi tay quân Thanh. Thực ra chính Nguyễn Huệ đã là nguyên nhân đưa tới việc quân Thanh can thiệp. Vả lại ở đoạn trên chúng ta đã thấy vào giai đoạn đó nhà Thanh hoàn toàn không có ý định đánh chiếm nước ta, chính vì thế mà sau trận Đống Đa họ đã bỏ nhà Lê mà hòa với Nguyễn Huệ. Ngược lại nếu Nguyễn Huệ còn sống để mà gây chiến với nhà Thanh thì rất có thể nước ta đã tan hoang và mất về tay quân Tàu.

Nhờ Việt Nam Sử Lược mà Nguyễn Huệ được ca tụng như một đại anh hùng làm vẻ vang cho dân tộc, nhưng thực ra Nguyễn Huệ chẳng quan tâm gì đến thể diện quốc gia. Đó là một ý niệm phức tạp của giới văn học mà một người sinh ra và lớn lên trong một môi trường đặc biệt như Nguyễn Huệ không quan tâm. Ông chấp nhận sang chầu vua Thanh, lạy phục xuống đất và hôn chân vua Càn Long. Sợ nhà Thanh phản trắc hãm hại, ông cho một người giả làm mình đi thay. Nhưng dù Nguyễn Huệ thật hay Nguyễn Huệ giả thì trên danh nghĩa vẫn là vua Việt Nam lạy và hôn chân vua Trung Hoa. Nguyễn Huệ cũng thường làm những "tờ bẩm" gởi cho Phúc An Khang (người thay Tôn Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng) trong đó ông tự xưng là "tiểu phiên". Trừ trường hợp Mạc Đăng Dung, chưa có vua Việt Nam nào hạ mình đến thế.

Thái độ bênh Nguyễn Huệ của ông Trần Trọng Kim có nguyên nhân sâu xa. Gần hai thế kỷ phân tranh đã tạo ra thế tị hiềm giữa miền Nam và miền Bắc. Người miền Bắc vốn không ưa chúa Nguyễn, vua Gia Long sau khi đắc thắng lại trả thù báo oán, giết hại công thần khiến sĩ phu Bắc Hà càng ghét hơn. Các vua nhà Nguyễn không nể nang mà cũng chẳng đoái hoài gì đến miền Bắc, họ chỉ dùng bạo lực để thống trị mà thôi. Việc thi cử làm sĩ phu Bắc Hà rất phẫn nộ. Bắc Hà tự hào là đất văn học nhưng nhà Nguyễn chỉ cho Bắc Hà một số cử nhân, tiến sĩ thấp hơn miền Trung. Kể từ khi Pháp chiếm Việt Nam thì không cứ gì sĩ phu Bắc Hà mà sĩ phu cả nước trách nhà Nguyễn bất lực làm mất nước, nhưng sĩ phu Bắc Hà thì mạt sát nhà Nguyễn ra mặt. Ông Trần Trọng Kim là một sĩ phu Bắc Hà và sách của ông chủ yếu viết cho sĩ phu Bắc Hà, trong đó tâm lý thù ghét nhà Nguyễn rất mạnh. Nguyễn Huệ là kẻ thù của nhà Nguyễn, vừa là hung thủ vừa là nạn nhân của nhà Nguyễn. Kẻ thù của kẻ thù là bạn. Ca tụng Nguyễn Huệ chỉ là một cách để chống nhà Nguyễn.

Sự thù ghét nhà Nguyễn của ông Trần Trọng Kim rất rõ rệt. Trong Việt Nam Sử Lược, ông mở đầu chương nói về Tây Sơn bằng một cuộc tranh luận công khai với nhà Nguyễn về nhà Tây Sơn, ông thẳng thắn nói lý của nhà Nguyễn không phải là lý của dân tộc. Ông Hoàng Xuân Hãn còn kể rằng khi ông vâng mệnh vua Bảo Đại mời ông Trần Trọng Kim vào gặp vua Bảo Đại để lập chính phủ, ông Kim mới đầu gạt phắt đi : "Cái thằng Bảo Đại gặp nó làm gì". Lúc đó vua Bảo Đại chưa thoái vị. Trần Trọng Kim là một nhà nho, thường thường đối xử rất khiêm cung, phải thù ghét lắm ông mới gọi vua bằng thằng.

Từ 1945 trở đi khi cuộc tương tranh quốc-cộng nổ ra, Nguyễn Huệ lại được thêm một đồng minh mới, mạnh hơn nhiều lần ông Trần Trọng Kim : Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đảng cộng sản ca tụng Nguyễn Huệ đủ điều (một cuốn sách do chính quyền cộng sản xuất bản để ca tụng Nguyễn Huệ có tựa đề là "Đường Gươm Nhân Ái") và đã dồn nỗ lực đưa hình ảnh Nguyễn Huệ anh hùng áo vải vào quần chúng vì mục đích tuyên truyền. Tôn vinh Nguyễn Huệ là phủ nhận nhà Nguyễn, mà vua Bảo Đại của nhà Nguyễn lại đứng đầu phe quốc gia cho nên tôn vinh Nguyễn Huệ cũng là hạ nhục phe quốc gia. Hình ảnh "áo vải cờ đào" (cờ đào thì có nhưng áo vải thì không) cũng rất thuận lợi cho cuộc êcách mạng vô sảnê. Nguyễn Huệ cũng tiêu biểu cho những giá trị nền tảng của đảng cộng sản : bạo lực và chiến tranh. Cả Nguyễn Huệ lẫn đảng cộng sản đều đã làm khổ dân chúng và làm đất nước suy kiệt, sự chính đáng của cả hai chỉ dựa trên những chiến thắng quân sự. Các đô đốc của Nguyễn Huệ cũng thuộc "thành phần cơ bản", nghĩa là cũng không thuộc giới văn học như các cán bộ nòng cốt của đảng cộng sản. Nguyễn Huệ cũng hành động như đảng cộng sản. Cũng dựa vào một thiểu số có đội ngũ để khống chế cả nước, cũng thẳng tay tiêu diệt mọi phần tử có thể trở thành đối thủ, cũng bất chấp mọi đau khổ của dân chúng và những đổ vỡ cho đất nước, cũng tráo trở và lật lọng với cả đồng minh và đối thủ. Chừng nào Nguyễn Huệ còn là thần tượng của người Việt Nam chừng đó đảng cộng sản vẫn không thể bị phủ nhận dứt khoát, dù có bị thù ghét đến đâu đi nữa. Hình ảnh Nguyễn Huệ đã đóng góp rất nhiều cho thắng lợi của đảng cộng sản và vẫn còn giúp đảng cộng sản duy trì một chỗ đứng nào đó trong lòng người Việt Nam. Sau 1975, các lãnh tụ lớn của đảng cộng sản đều đến làng Tây Sơn trồng một cây để tỏ lòng tôn kính với Nguyễn Huệ mà họ coi gần như một thánh tổ của đảng.

Tôn thất và triều thần nhà Nguyễn đã không thể tranh cãi về Nguyễn Huệ vì nếu tranh cãi về Nguyễn Huệ thì cũng phải bàn đến vua Gia Long và những hành động không đẹp của ông. Sau Bảo Đại, ông Ngô Đình Diệm cũng tránh đề cập đến các vấn đề lịch sử vì thân thế của chính ông. Ông là bầy tôi nhà Nguyễn và thuộc dòng dõi bầy tôi nhà Nguyễn, và hơn nữa ông làm quan dưới chế độ Pháp thuộc chứ không tham gia đấu tranh giành độc lập. Ông không có thế đứng mạnh để tranh cãi về lịch sử và có lẽ cũng chẳng hiểu biết gì về lịch sử. Các tướng tá cầm quyền sau ông Diệm đều là những người không có "chỗ đứng lịch sử" vẻ vang vì trong đại bộ phận họ đã từng ở trong quân đội Pháp. Vả lại họ hoàn toàn không quan tâm đến văn hóa và lịch sử. Nói chung phe quốc gia không nhìn thấy cả một chiến dịch tâm lý chiến của phe cộng sản đằng sau việc thổi phồng và tôn sùng Nguyễn Huệ.

Còn các sử gia ? Phải tiếc rằng họ đã có đủ tài liệu, mà đôi khi họ cũng đưa ra một cách lẻ tẻ, nhưng họ đã không có can đảm đính chính một sai lầm lịch sử, mặc dầu sai lầm này đã có tác dụng rất độc hại trên số phận của dân tộc.

Người Việt chúng ta có một đặc tính là bất cứ điều gì dù sai đến đâu mà được chấp nhận trong một thời gian cũng trở thành một chân lý khó lay chuyển. Không những chấp nhận mà chúng ta còn khó chịu khi có người đặt lại vấn đề. Chúng ta cũng có tâm lý êdĩ hòa vi quíê, hễ điều gì bất luận đúng hay sai mà mọi người đã cho là đúng thì đừng nên cãi nữa, chỉ gây bất hòa vô ích. Đôi khi sự gắn bó với thành kiến còn đi đôi với thái độ bất dung, hằn học đối với những người đề nghị xét lại một thành kiến. Và như thế sự sai lầm cứ tồn tại.

Tôi không phải là sử gia cũng không phải là nhà nghiên cứu. Tôi là một người hoạt động chính trị, và là một người hoạt động chính trị rất thiếu thì giờ, do đó tôi chỉ đề cập đến những vấn đề có liên hệ đến cuộc vận động dân chủ hiện nay. Tôi đặt lại vấn đề Nguyễn Huệ bởi vì sự tôn sùng ông đã có ảnh hưởng lớn trên số phận dân tộc và vẫn còn đang ngăn cản một chuyển biến tư tưởng cần thiết. Nguyễn Huệ tiêu biểu cho những giá trị mà chúng ta cần đánh đổ : võ biền, độc đoán, hung bạo, lật lọng và trái ngược với những giá trị mà ta cần phát huy : hòa bình, bao dung, hòa giải, lương thiện. Tôn sùng Nguyễn Huệ là một tâm lý rất tai hại mà ta cần chấm dứt. Hơn thế nữa, nhân vật Nguyễn Huệ thực sự lại không phải như vậy.

Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Lê Chiêu Thống, v.v... đều là tổ tiên chúng ta cả. Chúng ta phải chấp nhận họ như là quá khứ và cội nguồn của chính chúng ta. Không ai lựa chọn tổ tiên, phủ nhận tổ tiên là phủ nhận chính mình, nhưng bóp méo lịch sử là một chuyện khác. Lịch sử vừa là tấm gương soi chân dung của một dân tộc vừa là một kho kinh nghiệm để học hỏi và quyết định những chọn lựa cho tương lai. Bóp méo lịch sử chúng ta sẽ không còn biết mình là ai và sẽ phải làm việc với những tài liệu sai. Không, tôi không có ý định làm ngược lại điều mà ông Trần Trọng Kim và đảng cộng sản đã làm, nghĩa là đả phá Nguyễn Huệ vì một dị ứng hay một mục đích chính trị. Nguyễn Huệ như thế nào chúng ta cứ chấp nhận ông như thế. Chúng ta có một nhân vật Nguyễn Huệ đã nổi loạn, gây nhiều máu lửa và tang tóc, đã chiến thắng các đối thủ, đã lên làm vua, rồi chết sớm và con cháu bị tiêu diệt. Đó là sự kiện. Nhưng thần tượng Nguyễn Huệ thiên tài quân sự, anh minh sáng suốt và nhân nghĩa chỉ là một sự xuyên tạc lịch sử có dụng ý.

Không nên nghĩ rằng các vấn đề văn hóa và lịch sử không gắn bó mật thiết với vận mệnh của một dân tộc. Qua Nguyễn Huệ chúng ta đã dung túng một số giá trị độc hại góp phần quan trọng tạo ra số phận bi đát hiện nay của đất nước.

Cách đây năm nghìn năm, sắc dân Phénicien đã là những người tiến bộ nhất. Họ đã là người đầu tiên chinh phục biển cả, chế ngự cả vùng Địa Trung Hải và lập ra cả một nền văn minh thương nghiệp. Nhưng họ thờ thần Hammon, thần chiến tranh và bạo lực. Sự hung bạo đã khiến họ tự hủy diệt và bị tiêu diệt sau đó. Tôi đã thăm di tích Carthage. Chỉ còn lại những bức tường đổ nát và những dấu vết của những tập quán ghê rợn. Thay đổi biểu tượng là thay đổi các giá trị nền tảng của xã hội, là thay đổi cách ứng xử, và cuối cùng thay đổi số phận của một dân tộc. Đối với những quốc gia đang bế tắc vì đã là nạn nhân của những giá trị độc hại đó cũng là một bắt buộc.

 

************************

 

Rước voi về dày mả tổ

 

2-tqan10

Khi đem tâm tình viết lịch sử mà tâm tình lại có trộn lẫn đam mê thì lịch sử không thể chính xác. Nhưng hậu quả khác nhau tùy theo đam mê theo hướng nào. Nếu đam mê theo chiều hướng sùng ái, như đối với Nguyễn Huệ thì hậu quả là ta đi vào con đường thủ cựu tôn thờ quá khứ. Nếu ngược lại, đam mê theo chiều hướng thù ghét ta có thể phạm vào một bất công lớn đối với một người đã nằm xuống không còn khả năng trả lời nữa, và nhất là có thể tạo ra đổ vỡ lớn giữa những người còn sống. Giữa một người đề cao Nguyễn Huệ và một người đề cao Nguyễn Ánh vẫn có thể có sự cảm thông, nhưng một người chống Nguyễn Ánh và một người đề cao Nguyễn Ánh khó có thể đối thoại với nhau.

Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh là hai trường hợp điển hình cho đam mê lịch sử theo chiều hướng bài xích.

Lê Chiêu Thống bị mọi người mạt sát vì đã cầu viện quân Thanh, cõng rắn cắn gà nhà và không có ai bênh vực. Ký ức về ông mãi mãi hoen ố. Nhưng Lê Chiêu Thống không đáng phải chịu bản án lịch sử quá nặng nề đó. Khi Nguyễn Huệ vừa diệt xong nhà Trịnh và cưới công chúa Ngọc Hân thì vua Hiển Tông nhà Lê lâm bệnh nặng rồi từ trần. Họ Lê thù họ Trịnh áp bức mình quá đáng nên quyết nhân cơ hội này lập lại cơ đồ thực sự. Thay vì lập Lê Duy Cẩn, con vua Hiển Tông, họ suy tôn con người lỗi lạc nhất của dòng họ Lê lúc đó là hoàng tôn Lê Duy Kỳ, một người xét theo gia phả đáng lẽ không được làm vua. Duy Kỳ lên ngôi đặt niên hiệu là Chiêu Thống Hoàng Đế. Nội cái tên cũng chứng tỏ cao vọng của ông.

Nhưng Chiêu Thống hoàn toàn không có vây cánh và của cải. Các cựu thần mang tiếng là cựu thần nhà Lê nhưng đều là của nhà Trịnh. Trong hơn hai thế kỷ cầm quyền của nhà Trịnh, họ không những không có liên hệ nào với nhà Lê mà còn bị cấm tuyệt đối không được giao dịch với nhà Lê. Lê Chiêu Thống hoàn toàn cô đơn. Ông vừa cố hết sức thu thập được vài bộ hạ thì dư đảng họ Trịnh đã nổi lên đem Trịnh Bồng về lập lại phủ chúa. Chiêu Thống bí mật vời Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân Nghệ An ra dẹp Trịnh Bồng. Đây cũng là một quyết định rất can đảm bởi vì nếu âm mưu bại lộ, ông chắc chắn sẽ bỏ mạng về tay phe đảng Trịnh Bồng. Nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh vốn đã là thủ hạ của họ Trịnh mà còn diệt nhà Trịnh thì chắc chắn không có lý do gì để phò Chiêu Thống. Nguyễn Hữu Chỉnh lại chuyên quyền, và Lê Chiêu Thống đành chịu. Lê Chiêu Thống chỉ lợi dụng thời kỳ hỗn loạn, họ Trịnh bị ghét, Nguyễn Hữu Chỉnh còn bị ghét hơn, để mua thời gian, chiêu nạp thêm thủ túc. Dự định chưa đi đến đâu thì Nguyễn Huệ đã sai Vũ Văn Nhậm ra giết Nguyễn Hữu Chỉnh và nắm quyền. Chiêu Thống cùng đám thủ hạ ít ỏi bỏ kinh đô trốn vào dân gian, bôn ba khắp đây đó lo việc khôi phục. Lê Chiêu Thống chỉ ở Thăng Long được hơn một năm.

Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí nói khá tỉ mỉ về những cố gắng và gian lao của Chiêu Thống trong giai đoạn này, qua đó ta có thể thấy Lê Chiêu Thống là một con người rất xông pha. Lúc Chiêu Thống đương chật vật ở Thanh Hóa thì một số cựu thần nhà Lê đem mẹ ông sang Tàu cầu cứu nhà Thanh. Quân Thanh sang, Lê Chiêu Thống về Thăng Long được mấy ngày thì Nguyễn Huệ đem quân đánh tan quân Thanh. Lê Chiêu Thống chạy trốn sang Tàu. Quần thần theo ông sang Tàu lúc đó cư xử khá liêm sỉ. Mặc dầu cô đơn họ cũng dám đương đầu với nhà Thanh. Có người chửi mắng quân Thanh, để rồi tất cả bị án đầy đi khắp nơi, sang Tây Vực, lên Mãn Châu. Riêng Lê Chiêu Thống buồn phiền mà chết.

Lê Chiêu Thống tỏ ra là một người yêu quê hương, trước khi chết dặn người nhà sau này nhớ đem xác ông về chôn tại cố quốc. Đó là một tình cảm mà trước ông không một người Việt Nam lưu vong ở Trung Quốc nào bày tỏ. Sử chép sau khi Tây Sơn bị diệt, gia nhân đào xác Lê Chiêu Thống lên để đem về Việt Nam theo lời dặn của ông thì thấy cơ thể đã tan nhưng trái tim vẫn còn tươi đỏ. Câu chuyện này chắc chắn là bịa đặt, nhưng có thể giải thích rằng gia nhân ông biết ông chết với tấm lòng tức tưởi nên tưởng tượng ra câu chuyện đó.

Lê Chiêu Thống thực sự muốn cầu cứu nhà Thanh hay là việc cầu cứu này hoàn toàn do đám tôn thất nhà Lê chủ xướng lúc vắng mặt ông ? Câu hỏi này có lẽ không bao giờ sáng tỏ, nhưng khi quân Thanh đã vào tới Thăng Long rồi thì Lê Chiêu Thống khó có chọn lựa nào khác là về Thăng Long. Nếu ông không về chắc chắn Tôn Sĩ Nghị sẽ bảo họ Lê tìm người khác và họ Lê chắc chắn cũng không vì Chiêu Thống mà bỏ cơ hội ngàn năm một thuở đó. Nhưng dù muốn hay không Lê Chiêu Thống đã về và đã trình diện Tôn Sĩ Nghị thì ông phải chịu trách nhiệm như chính ông đã gọi quân Thanh vào.

Tội cầu viện quân Thanh nặng đến mức nào tùy quan điểm của mỗi người. Điều quan trọng là nên cố gắng tìm hiểu bối cảnh thời đại đó. Miền Nam lúc đó chưa hề hội nhập vào miền Bắc, nên người miền Bắc coi miền Nam gần như một nước khác. Có lẽ anh em Tây Sơn cũng coi như thế, nên Nguyễn Nhạc đã xưng hoàng đế ở trong Nam và dùng từ "quý quốc" để xưng hô với vua Lê. Người miền Bắc coi Tây Sơn gần như một đạo quân ngoại xâm, hơn nữa còn là một đám quân cướp hung bạo, nên việc họ đi cầu viện quân Thanh chống Tây Sơn là có thể hiểu được.

Đọc tập thư từ của các giáo sĩ có mặt tại Bắc Hà lúc đó, ta có thể thấy rằng đa số dân Bắc Hà tán thành việc Chiêu Thống sang cầu viện nhà Thanh. Các giáo sĩ này đều là những người ủng hộ Tây Sơn cả. Giờ đây, sau hơn hai trăm năm lịch sử, biết bao máu và nước mắt đã đổ ra trên đất nước này, ý thức quốc gia của chúng ta đã rõ rệt hơn nhiều, việc cầu viện ngoại bang có thể lên án một cách không lưỡng lự, nhưng có lẽ không nên đem ý thức của thời nay mà xét người ngày xưa. Vả lại chính Nguyễn Du mà chúng ta tôn vinh như một trí tuệ siêu việt cũng đã cố chạy theo Chiêu Thống mà không được. Về mặt lập trường Nguyễn Du không khác Chiêu Thống.

Xét trong ba người giành nhau ngôi bá chủ ở thời đó : Chiêu Thống, Quang Trung và Gia Long, thì cả ba đều là những người có ý chí mạnh, có can đảm, có bản lãnh. Nhưng Quang Trung và Gia Long giống nhau ở chỗ họ đều là những con người thủ đoạn và sắt máu. Chiêu Thống là con người nhân hậu và tình cảm nhất. Trong cái thời đại đao binh chém giết như thế, ở vào lúc mà những bản năng tàn sát được thả lỏng như thế, một con người như Chiêu Thống kể ra cũng hiếm.

Độc giả đọc tới đây chắc chắn phải tự hỏi : "Tên Nguyễn Gia Kiểng này điên chăng, hắn ăn cái giải gì mà bênh vực tên Việt gian Lê Chiêu Thống ? Sao hắn ngu đến thế, rồi đây tên tuổi hắn sẽ bị gắn liền với Lê Chiêu Thống". Nhưng nếu làm chính trị chỉ là tính toán thiệt hơn thì cũng buồn thực. Tôi chẳng có họ hàng gì với Lê Chiêu Thống, tổ tiên tôi cũng chẳng có ai làm quan nhà Lê. Nhưng tôi thấy cần phải sửa chữa lại một bất công quá đáng đã kéo dài quá lâu với một người đã chết. Lê Chiêu Thống là người Việt Nam, tôi cũng là người Việt Nam. Hơn nữa ông là một nhân vật lịch sử và tôi cần nhìn rõ lịch sử của nước tôi. Quan hệ giữa ông ta và tôi chỉ có thế.

Tìm trong lịch sử Việt Nam tôi khám phá ra rằng việc mạt sát Lê Chiêu Thống chỉ mới gần đây thôi, đúng ra từ 1945 trở đi và có một mục đích chính trị chứ không phải hoàn toàn vô tư. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô rất gắn bó với Tây Sơn cũng không hề lên án Lê Chiêu Thống, trái lại còn bày tỏ sự cảm thương.

Sau thế chiến hai, Đảng Cộng Sản Việt Nam nắm được thế chủ động. Trước mặt họ là các đảng phái quốc gia Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đảng và Đại Việt được quân Tưởng Giới Thạch ủng hộ. Nếu Lê Chiêu Thống bị mọi người lên án vì cầu viện quân Thanh thì chính nghĩa của các đảng phái quốc gia này ở chỗ nào ? Cho nên Lê Chiêu Thống phải bị mạt sát. Sau này mạt sát Lê Chiêu Thống cũng vẫn cần vì nó đánh vào nhược điểm của phe quốc gia là dựa vào người Pháp, rồi người Mỹ. Lê Chiêu Thống trở thành một chiêu bài.

Lịch sử được uốn nắn để sử dụng cho mục đích chính trị. Các chính phủ quốc gia kế tiếp nhau chỉ gồm những người lãnh đạo rất yếu về căn bản dân tộc và cũng yếu về lý luận chính trị nên đã không nhìn thấy cái bẫy Lê Chiêu Thống quá lớn này. Đặc điểm của những người cầm đầu phe quốc gia là họ có khá nhiều học vị nhưng lại chỉ có rất ít quan tâm về chính trị và càng ít quan tâm đối với lịch sử Việt Nam. Họ, hay đúng hơn một vài trí thức có trình độ trung bình ủng hộ họ, chỉ biết phản pháo bằng cách cũng lên án Lê Chiêu Thống nhưng buộc tội đảng cộng sản bỏ tổ quốc, đem Liên Xô, Trung Quốc và chủ nghĩa cộng sản ngoại lai về đày đọa quê hương như Lê Chiêu Thống. Nhưng lập luận của phe quốc gia hời hợt và giả tạo nên đã thiếu hẳn sức thuyết phục. Kết quả là hai bên thi nhau mạt sát Lê Chiêu Thống, và hơn nữa lại cũng đồng ý với nhau rằng Lê Chiêu Thống là con người nhu nhược và hèn nhát, một điều hoàn toàn không đúng sự thực vì Lê Chiêu Thống là con người rất có đảm lược và bản lãnh, không ngại vào sinh ra tử. Lê Chiêu Thống đã là nạn nhân của sự khôn ngoan của phe cộng sản và sự nông cạn của những người cầm đầu phe quốc gia, một nạn nhân đáng thương vì con cháu nhà Lê không còn để bênh vực ông, số rất ít cựu thần nhà Lê đã thành cựu thần nhà Nguyễn.

Nhưng bây giờ thì cuộc chiến đã xong rồi. Có lẽ nên để cho người chết yên nghỉ thì hơn.

Vả lại, nếu buộc tội Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào, thì tại sao người cộng sản không ca tụng Ngô Đình Diệm đã chết vì không chịu cho Mỹ đổ bộ ? Người cộng sản nên ôn hòa hơn với Lê Chiêu Thống khi họ cũng dùng vũ khí và cố vấn Liên Xô, dùng cả quân Trung Quốc trong cuộc chiến vừa qua. Nhất là hiện nay họ cũng rất lễ độ với Trung Quốc dù Trung Quốc vẫn tiếp tục lấn chiếm. Đảng cộng sản từ trước vẫn tự coi là có chính nghĩa nhờ một lập luận quái đản : các anh có tội đem quân nước ngoài vào để chúng giết người Việt, trong khi chúng tôi có chính nghĩa vì chúng tôi tự tay giết người Việt. Vậy mà lập luận này đã có sức thuyết phục trong nhiều thập niên. Điều này chứng tỏ rằng một dân tộc hiểu sai lịch sử của mình cũng không khác một người mất trí và có thể chìm rất sâu trong sự mê muội.

Khi ông Hồ Chí Minh chết, ông là chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhưng ông chỉ mơ ước về bên kia thế giới gặp cụ Marx, cụ Lênin. Khi Lê Chiêu Thống chết, ông lưu lạc bơ vơ và bị non sông ruồng bỏ nhưng ông lại mong được tìm về đất cũ. Giữa hai tâm hồn ấy, kể ra cũng có một sự khác biệt.

Về chiều sâu, tôi nghĩ rằng khi một người đã chết thì không còn gì quan trọng nữa. Dù chết đi trong tiếng khóc thương, hay trong tiếng nguyền rủa hận thù thì cũng thế thôi, cát bụi vẫn là cát bụi. Nhưng danh dự của những người đang sống buộc họ phải công bằng với những người đã chết.

Còn một lý do nữa khiến tôi thấy cần nhắc lại trường hợp Lê Chiêu Thống, đó là để rút ra một bài học có ích. Tại sao một con người xuất chúng như Lê Chiêu Thống lại có thể làm việc đi cầu cứu quân Thanh ? Và tại sao một số đông đảo dân chúng Bắc Hà lúc đó lại tán thành hành động này ? Đó là vì tinh thần dân tộc của ta đã rách nát sau những cuộc phân tranh triền miên. Đó cũng là vì các phe phái hận thù nhau đến độ mất cả sự sáng suốt. Bài học mà ta cần phải rút ra là sự liên đới dân tộc và tinh thần trách nhiệm chỉ có thể xây dựng trong hòa bình mà thôi.

Một bài học khác là không nên dựa vào lý mà cũng đừng dựa vào thế mạnh để bắt bí nhau, đừng đẩy người đuối lý hay kém thế vào những chọn lựa tuyệt vọng.

Từ năm 1945 cho đến năm 1975, người cộng sản không những không muốn thỏa hiệp với người quốc gia để tìm một giải pháp chấp nhận được cho mọi người, mà trái lại họ còn cố đẩy người quốc gia vào chỗ càng ngày càng lệ thuộc ngoại bang hơn, và họ vui mừng khi thấy phe quốc gia dựa vào ngoại bang để họ giành độc quyền chính nghĩa. Phe quốc gia cũng có cùng một thái độ, tuy không có cùng một mức độ thành công. Kết quả ra sao cho đất nước, chúng ta đều đã thấy.

Bài học đó đang có chiều hướng lập lại một lần nữa. Vấn đề cơ bản hiện nay là dân chủ hóa. Đối lập dân chủ có lý hoàn toàn khi đòi dân chủ đa nguyên và đảng cộng sản vô lý hoàn toàn khi phủ nhận dân chủ đa nguyên. Nhưng hậu quả gần như tất nhiên của việc áp dụng dân chủ đa nguyên là đảng cộng sản sẽ mất chính quyền, cho nên đảng cộng sản coi những đòi hỏi dân chủ như một sự bắt bí. Ngược lại họ có quyền, có sức mạnh và họ sử dụng sức mạnh đó để đàn áp những nguyện vọng dân chủ, dần dần họ bị cô lập với dân chúng. Càng yếu đi họ càng phải nhượng bộ ngoại bang, quỵ luỵ với Trung Quốc dù Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải, quỵ luỵ với các thế lực tài phiệt ngoại quốc và nhượng cho họ những vùng đất có tầm quan trọng kinh tế lớn nhất. Chìa khóa của giải pháp cho đất nước là phải thỏa hiệp với nhau để tìm ra một giải pháp vẫn thực hiện được dân chủ mà không đe dọa tương lai của bất cứ ai. Trong tình hình đất nước hôm nay trái tim cần hơn lý trí. Chúng ta cần những luật sư hơn những biện lý.

 (xem tiếp Phần 2-2)

Published in Tư liệu

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

Phần Một - 2

 

Một dân tộc sáng dạ ?

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 11

Người Việt Nam ta không những chỉ ham học mà còn học giỏi. Những trường hợp tôi đã kể cũng đã một phần nào chứng minh điều đó. Nhưng chưa đủ. Ngoài những nhân vật nổi tiếng như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, ta còn vô số những trường hợp thành công rực rỡ khác.

Nước Pháp mới đặt nền đô hộ trên nước ta từ 1883, thì chỉ cần tới năm 1900 đã có những người Việt tốt nghiệp các trường lớn nhất tại Pháp. Sang tới thập niên 1920, 1930 thì đếm không xuể những người tốt nghiệp các bằng cấp lớn. Tôi cũng có thể nhìn thấy sự thông minh của người Việt ngay chung quanh tôi.

Tôi đi du học năm 1961, đó là đợt du học sang Pháp thứ hai sau mấy năm gián đoạn. Sau vụ xung đột giữa Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Hinh, rồi vụ Bình Xuyên, liên hệ giữa Việt Nam Cộng Hòa và Pháp trở nên căng thẳng và Việt Nam không còn gởi du học sinh sang Pháp nữa cho tới năm 1960. Lúc đầu chỉ những sinh viên thật xuất sắc, mỗi năm vài chục. Cho tới năm 1964 mới có phong trào ồ ạt gởi sinh viên qua Pháp, để du học cũng có mà để khỏi phải đi quân dịch cũng có, và trình độ mới sút giảm. Nhưng số sinh viên Việt Nam vẫn còn rất ít so với các nước thuộc Pháp cũ. Tổng cộng chỉ vài ngàn. Vậy mà chúng tôi áp đảo hẳn các sinh viên ngoại quốc khác. Trường khó đến đâu người Việt Nam cũng vào lọt, bằng cấp nào sinh viên Việt Nam cũng đậu, và thường đậu một cách vẽ vang.

Đi du học cùng năm với tôi có khoảng 50 người, trong đó một nửa là đi học bổng, một nửa đi tự túc. Nhóm học bổng dĩ nhiên trội hơn, nhưng tất cả đều thành công vẻ vang và mau chóng. Ngay cả những người đi sau 1964 không được gạn lọc cũng đều thành công trong việc học và sau này trong sinh hoạt nghề nghiệp.

Người Việt Nam không những chỉ sáng dạ trong trường học mà còn có khả năng hấp thụ mau chóng các kiến thức trong cuộc sống. Không phải chỉ có những sinh viên mà ngay cả những người bình dân cũng chứng tỏ một khả năng học hỏi và suy nghĩ rất lớn. Trong trại cải tạo, chúng tôi thường đánh cờ giết thì giờ, và nhiều người chẳng có trình độ học vấn nào đáng kể mà đánh cờ cao một cách lạ lùng. Có một anh trưởng ấp chỉ học hết tiểu học mà hạ tôi dài dài, làm tôi có lúc lồng lộn lên vì đánh cờ vốn là một môn khá của tôi. Trong cả năm trời đụng độ với anh ta, mặc dầu suy nghĩ đủ mọi chiêu pháp, tôi không sao dứt điểm nổi anh ta, cùng lắm là có qua có lại. Có một anh trung úy thuộc lòng tất cả mọi bộ kiếm hiệp của Kim Dung, một anh cán bộ xây dựng nông thôn chỉ nghe kể chuyện mà dần dần nhớ hết mọi chi tiết của truyện Tam Quốc. Tôi chỉ kể vài thí dụ, nhưng những thành tích tương tự như vậy có vô số trong đám hơn một ngàn tù binh trong trại. Những năm đi cải tạo cũng là những năm khiến tôi khám phá ra trí thông minh xuất chúng của người Việt.

Năm 1980, lúc đang loay hoay tìm cách vượt biên, tôi gặp Sáu Thinh. Năm 1954 anh ta đã ngoài hai mươi tuổi và đã bỏ học đi theo Việt Minh vài năm trước đó. Anh ta ra Bắc tập kết, vào đảng cộng sản, đậu kỹ sư và làm trung tá tại bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân tại Hà Nội, anh ta được ông Giáp quí mến. Vào năm 1975, anh ta mất niềm tin ở chủ nghĩa cộng sản, bắt đầu đề cao dân chủ trong các sinh hoạt đảng, rồi bị hạ tầng công tác dần dần. Sáu Thinh giúp tôi nhiều trong việc chuẩn bị. Tôi rất phục Sáu Thinh về sự thông minh của anh ta, nhưng chính anh ta lại kể cho tôi nghe một giai thoại ngộ nghĩnh.

Sau ngày chiến thắng, Sáu Thinh cùng người em, là tiểu đoàn trưởng đặc công và được nhiều huân chương anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, vinh quang về quê cũ thăm bà mẹ già ở Rạch Giá. Bà mẹ đã ngoài bảy mươi lấy ghe máy chở hai con trai anh hùng dân tộc đi thăm bà con với tất cả hãnh diện. Nửa đường bất thình lình máy hư. Hai vị anh hùng ngơ ngẩn không biết phải làm gì, bà cụ loay hoay mở bu-gi ra chùi vào quần rồi lắp lại. Máy nổ trở lại và ba mẹ con đi tiếp. Sáu Thinh nói với tôi : "Mình vừa phục vừa ngượng, không biết bà cụ học nghề máy lúc nào, ngày mình đi bà chỉ biết làm ruộng".

Trong mấy năm qua lại miền Tây Nam Phần, tôi đã nhiều lần ngạc nhiên về sự khéo léo và nhanh trí của nông dân tại đây. Họ tự sửa chữa lấy máy bơm, máy cày, máy phát điện một cách thật tài tình, có khi còn đổi cả chi tiết máy để tăng hiệu lực. Vào những năm 1979-1981, các bộ phận rời rất hiếm, hỏng bộ phận nào nông dân chỉ cần ra khu chợ sẽ có thợ tiện làm cho ngay.

Do hay mua máy tàu để vượt biên, có khi cho chính mình, có khi cho bè bạn, tôi làm quen được với một tổ thợ máy gần Ngã Ba Ông Tạ. Tổ hợp này gồm toàn bộ đội miền Bắc xuất ngũ ở lại miền Nam làm ăn, có người đào ngũ. Trước 1975, họ chỉ là những người lính xuất thân từ miền quê Bắc Việt và hoàn toàn không biết gì về máy móc. Họ đến với nghề máy chỉ vì có tư thế bộ đội, đảng viên nên không bị làm phiền phức và có thể di chuyển, chuyên chở dễ dàng những phụ tùng máy dầu lúc đó gần như là đồ quốc cấm. Mới đầu làm chung với những thợ máy miền Nam, về sau, khi những thợ máy miền Nam đã vượt biên hết, họ tự lập. Chỉ trong một thời gian ngắn ngủi họ trở thành những người thợ máy rất lành nghề, nhìn thoáng qua một bộ phận họ biết ngay là thuộc máy nào, mua được không, nếu không thì chế tạo như thế nào.

Một trong những vấn đề nan giải cho máy dầu dùng để vượt biên lúc đó là thiếu những bộ bạc sếch-măng, những vòng thép tròn nằm giữa pít-tông và xy-lanh. Bạc phải làm bằng thứ thép thật cứng mà Việt Nam không có. Lúc đó bạc nhập cảng đã cạn rồi, mua rất đắt tiền mà cũng may lắm mới có. Dùng bạc nội địa thì rất nguy hiểm vì thép không đủ cứng để có thể chịu đựng được sự ma-sát liên tục của pít-tông xấp xỉ một ngàn chuyển động trong một phút. Một tỷ lệ khá lớn các tàu vượt biên bị hư máy giữa đường với những hậu quả bi thảm là do bạc bị gẫy. Tôi thường khuyên các bạn tôi là bằng bất cứ giá nào phải kiếm cho bằng được bộ bạc tốt. Vấn đề sau đó được giải quyết một cách ổn thỏa. Một tổ hợp cơ khí, cũng của các bộ đội gốc miền Bắc, lấy nòng súng đại bác cưa ra và tiện thành bạc. Không có thép nào cứng bằng thép của nòng súng đại bác. Việc họ tìm đâu ra nòng súng lại cả là một bí mật, họ nói đó là những khẩu pháo phế thải, nhưng tôi thấy có những nòng còn mới lắm. Đám anh em này làm tôi cảm phục vô cùng khả năng học hỏi và thích nghi mau chóng của người Việt, mặc dầu không thể tán thành việc họ lấy trộm nòng đại bác ở kho quân đội ra để tiện làm bạc séc-măng.

Hơn tất cả mọi tài liệu, sách báo, chính những tiếp xúc với thực tế, với những con người đã cho tôi nhìn thấy rõ sự sáng dạ và khả năng thích nghi nhanh chóng của người Việt. Chính vì thế mà mặc dầu những khó khăn và suy thoái trầm trọng về nhiều mặt ngày hôm nay tôi vẫn giữ được niềm tin vào tương lai đất nước.

Chúng ta có những con người rất hay.

********************

Chuồng lợn và cái cày

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 12

Chỉ một thời gian ngắn sau khi người Pháp tới Việt Nam đã có những người Việt Nam đậu được những bằng cấp cao nhất và khó nhất. Chỉ một vài năm sau khi người Mỹ can thiệp đổ người đổ của vào Việt Nam là nông dân miền Nam đã biết sử dụng, sửa chữa máy cày, máy bơm. Chỉ cần một năm để biến anh bộ đội gốc nông dân thành một thợ máy lành nghề. Vài năm cũng đã đủ để các cán bộ tháng 5/1975 còn ngồi xổm trên xe hơi, mơ ước một ly cà-phê "cái nồi ngồi trên cái cốc" và một điếu thuốc thơm "có cán" biết đòi hỏi xe hơi phải có máy lạnh, biết phân biệt các loại cognac ngon nhất và biết đầu cơ trên hối suất đồng đô-la. Người Việt ta học bài rất nhanh, nhưng chúng ta còn có gì đặc sắc nữa hay không hay chỉ giản dị là những học trò giỏi ? Đó là một câu hỏi lớn !

Có lần ngồi nói chuyện tếu, tôi giảng giải cho một cán bộ miền Bắc rằng con heo và con lợn là hai con vật khác nhau, chứ không phải chỉ là cùng một con vật mà miền Bắc gọi một tên, miền Nam gọi một tên khác.

Tôi nói với anh ta rằng con lợn là một con vật chỉ nặng trung bình 50 kí-lô, hay cùng lắm là 70 kí-lô, được nuôi quanh năm bằng bèo và cám, trong những chuồng rơm bẩn thỉu và hôi hám, bố nó là một con lợn con chỉ lớn hơn cái hộp sữa Guigoz một chút, được chọn trong đàn lợn con vì là con đẹn nhất, yếu nhất không bõ bèo cám để nuôi. Ngược lại, con heo là con vật to lớn, có thể nặng tới 200 kí-lô, và chỉ tám tháng đã đạt tới trọng lượng trên 100 kí-lô. Nó được nuôi không những bằng cám, mà còn bằng thức ăn riêng của nó, có khi bằng cơm, bằng khoai, trong những chuồng bằng xi-măng sạch sẽ, có khi ngay trong nhà cùng với người, thỉnh thoảng được tắm rửa. Bố nó là một con heo to lớn, khỏe mạnh, lông rậm như chó, trông rất đẹp, được nuôi nấng rất chu đáo, mỗi khi "làm phận sự" xong được chủ cho ăn mấy trái trứng sống để lấy sức.

Dĩ nhiên là chuyện ngụy biện tếu. Nhưng quả thật cách nuôi lợn tại miền Bắc thật là lạc hậu. Nuôi lợn không hợp vệ sinh, dinh dưỡng kém, chọn giống lại rất tầm bậy. Tại miền Nam, con heo giống, còn gọi là heo nọc, là cả một tài sản được chăm sóc chu đáo. Nó được chọn một cách kỹ lưỡng, có khi cả chục đàn heo không chọn được con nào đáng làm heo nọc, người ta phải đi mua ở xa về. Con heo nọc lúc nào cũng khỏe mạnh, đẹp đẽ. Ở ngoài Bắc, con lợn giống lại là con lợn vất đi, nuôi được vài ba tháng, nhảy xong là bị đem làm thịt. Giống đã xấu, thức ăn thiếu thốn, chuồng lại dơ bẩn, lợn ở ngoài Bắc lớn không được và lại hay chết vì thiếu vệ sinh. Thực ra giống lợn ở ngoài Bắc cũng khác, màu đen, mặt bẹt, bụng cong và dù có nuôi thể nào cũng không đạt được tầm vóc của heo trong Nam được nhập cảng vào từ vài chục năm nay. Nhưng không hiểu tại sao từ ngàn năm nay, người miền Bắc không biết xét lại cách nuôi lợn. Điều đó tố cáo sự thiếu óc sáng tạo và đổi mới của người Việt.

Cái cày ở đồng quê Bắc Việt cũng là cả một kỳ quan. Phải chọn một cây thật lớn và thật chắc, cây ổi nếu có thể được. Cái cày to, tròn và rất nặng, muốn vác cày ra đồng phải khá lực lưỡng. Lưỡi cày tròn ở dưới, nhọn ở đầu, sức cản lớn, cày lại nặng, khó ăn vào đất, trâu kéo ì ạch. Con trâu khỏe lắm cũng chỉ cày được ba sào đất mỗi ngày (mỗi sào là 360 m2, ba sào tương đương với một công đất ở miền Nam). Thế mà từ đời này qua đời khác vẫn không ai nghĩ đến việc thay thế cái cày quái đản ấy, đến lúc rời làng ra tỉnh, tôi vẫn còn thấy cái cày đó. Trong khi đó tại miền Nam, cái cày được làm bằng một khúc cây cỡ bằng cổ chân, một tay xách cũng được. Lưỡi cày dẹp, bắt đất dễ dàng, trâu kéo nhẹ nhàng. Chỉ một chuyện giản dị như vậy thôi mà ta cũng không thay đổi được. Người Việt ta hễ nhìn thấy thì bắt chước mau chóng, nhưng phát minh và sáng tạo quả không phải là khả năng của ta.

Người miền Nam, do được thiên nhiên ưu đãi hơn, cuộc sống phong phú hơn và cũng vì được tiếp xúc nhiều với người nước ngoài nên có phần cởi mở và phóng khoáng hơn, nhưng nói chung vẫn là bắt chước chứ không phải tự mình tìm ra.

Trên các kinh rạch miền Tây Nam Phần, nhà nào cũng làm cầu tiêu trên sông. Thật là gớm ghiếc. Tắm trên sông, rửa chén bát trên sông, giặt quần áo trên sông, đôi khi lấy nước uống trên sông khi thiếu nước mưa, rồi cũng xả rác và phóng uế xuống sông. Trong khi đó chỉ cần đào một ngày là xong một hầm cầu, tốn kém chẳng bao nhiêu là có một cầu tiêu sạch sẽ. Nhưng đó là một nếp sống mà người ta đã quen rồi và không muốn thay đổi. Một ngày cũng là một ngày, và tại sao nhà này làm trong khi nhà khác vẫn không làm ? Nhưng điều đáng ngạc nhiên là cho tới nay mọi chính quyền đều không nghĩ đến vấn đề đơn giản này.

Năm 1956, các anh tôi học trung học đệ nhị cấp (lớp 10 trở lên) và bắt đầu theo các khóa huấn luyện quân sự. Tôi tò mò đọc sách quân sự của các anh tôi và thấy có những bài học như cách chống chiến xa, chống máy bay, v.v... Tôi hỏi các anh tôi có phải mục đích của các khóa huấn luyện này là để đào tạo ra các binh sĩ cộng sản để họ chống lại xe tăng và máy bay của phe quốc gia hay không. Lúc đó, và nhiều năm sau này chỉ có Việt Nam Cộng Hòa là có chiến xa và máy bay. Từ năm 1969 trở đi quân đội cộng sản mới bắt đầu dùng chiến xa và cũng chỉ sử dụng ở miền Trung, còn máy bay thì không bao giờ họ dùng. Thì ra đó là những bài học của quân đội Pháp, bộ tổng tham mưu quân đội miền Nam đem dịch ra để giảng dạy. Thật là bắt chước một cách ngu ngốc.

Có khi nước đến chân họ vẫn không biết thích ứng. Tháng 3/1975, sau khi mất Buôn Ma Thuột và sau cuộc triệt thoái thê thảm tại Cao Nguyên, một số công tư chức trong tình trạng hoãn dịch bị gọi ra nhập ngũ. Tôi gặp một anh bạn ở cơ quan của tôi về phép sau hai tuần huấn luyện. Tôi hỏi anh ta tập gì, anh ta trả lời rằng chưa tập vũ khí, hiện mới chỉ tập mặc quân phục tề chỉnh, xếp hàng, điểm danh, đi theo đội ngũ và thể dục cơ bản. Một tháng sau thì miền Nam đầu hàng.

Những người Việt Nam học giỏi và đậu bằng cấp cao thì rất nhiều, nhưng rất ít ai tìm ra được một ý mới, viết ra được một tác phẩm có sáng tạo, sáng chế ra được một cái gì, hay khám phá ra một định lý nào. Tôi may mắn biết một số người có phát minh thực sự, nhưng tỷ lệ của họ quá ít. Kết quả là chúng ta vẫn chỉ là những học trò. Học trò giỏi vẫn là học trò.

Chúng ta học thì giỏi thực, và khi đã học thì thường hay có thể biến hóa đôi chút, nhưng nói chung trí tuệ của ta hình như chỉ dừng ở đó. Hình như thiếu óc sáng tạo không phải là một đặc tính riêng của người Việt, mà là đặc tính chung của người Á Đông, mặc dầu căn bệnh này có phần hơi trầm trọng hơn nơi người Việt Nam. Ngày nay Nhật Bản, Cao Ly và Đài Loan đã phát triển mạnh lắm rồi. Nhật Bản và Đài Loan còn dư một số tiền lớn không biết đầu tư vào đâu. Họ nhiều phương tiện hơn cả Hoa Kỳ và Tây Âu, nhưng họ không có những phát minh lớn và cũng không có thành công nào đáng kể về nghệ thuật và tư tưởng. Họ vẫn chỉ chạy theo sau người phương Tây, dù là chạy nhanh.

Đầu thập niên 90, nước Nhật khốn đốn với Truyền Hình Siêu Phẩm [High Definition Television-HDT]. Họ cải tiến rất xuất sắc phương pháp truyền hình cổ điển theo khái niệm đồng lý [analogic] và đạt tới một hình ảnh gần như tuyệt đối trung thực về cả nét lẫn màu. Đó là một tiến bộ lớn nhưng vẫn chỉ là cải tiến cái sẵn có. Họ nghĩ là đã vượt qua được Hoa Kỳ về kỹ thuật truyền hình. Nhưng ngay sau đó, Hoa Kỳ tìm ra phương pháp truyền hình bằng số [Digital Television-DT]. Các hình ảnh được ghi nhận bằng số mã. Kết quả là máy truyền hình sắp tới của Hoa Kỳ tuy hình ảnh chưa được bằng HDT của Nhật - dù cũng đẹp hơn nhiều so với hiện nay - nhưng lại hơn Nhật về mọi mặt. Máy truyền hình của Nhật sẽ tốn 10.000 USD và chỉ là một máy truyền hình thụ động, trong khi máy truyền hình DT của Hoa Kỳ, sẽ chỉ tốn 5.000 USD và sẽ là một computer. Các hình ảnh có thể thu trên đĩa cứng như những hồ sơ [files] và có thể phát lại khi nào muốn. Máy truyền hình digital có thư viện riêng chứa phim ảnh, tài liệu riêng của mỗi gia đình và cũng có thể tham khảo, tiếp nhận phim ảnh, tài liệu từ nhiều nguồn khác. Nó cũng là một computer của gia đình để đặt hàng, mua hàng, thanh toán, v.v... Người Nhật đã mau chóng nhìn nhận sự hơn hẳn quá rõ ràng của phương pháp truyền hình mới của Mỹ và bỏ cuộc. Họ đã tốn hàng trăm tỷ USD và bị thua sút Mỹ ít nhất mười năm. Muời năm đối với một đại cường và trong thời đại này là một thảm bại.

Lịch sử thế giới của hai thế kỷ nay chủ yếu là lịch sử những cố gắng của phần còn lại của thế giới để đương đầu với ưu thế của người phương Tây và hình như có một kịch bản cố định : người phương Đông thua kém, cố hết sức bắt kịp người phương Tây, đến khi họ tưởng sắp qua mặt được người phương Tây thì phương Tây lại tìm ra một phát minh mới và lại bỏ xa họ.

Người phương Tây hơn người phương Đông vì họ có óc sáng tạo vượt trội. Điều này có thể thấy rõ nếu nhìn qua quốc tịch của những nhà bác học được giải Nobel.

So với các dân tộc châu Á khác thì người Việt Nam lại còn thiếu óc sáng tạo hơn nhiều. Đó là một nhược điểm lớn mà chúng ta phải khắc phục, và phải khắc phục khẩn cấp bằng một cố gắng liên tục và mãnh liệt. Sự thiếu óc sáng tạo của người Việt không còn là một bí mật đối với ai. Chúng ta đều biết, nhưng chúng ta chưa ý thức được hai điều. Một là chỉ có những con người tự do mới có thể có óc sáng tạo, chúng ta không thể vừa kêu gọi phải sáng tạo lại vừa theo đuổi một chế độ đầy cấm đoán. Hai là thế giới sắp rời kỷ nguyên công nghiệp để đi vào kỷ nguyên của trí tuệ trong đó óc sáng tạo là tất cả, thiếu óc sáng tạo chúng ta sẽ mãi mãi tụt hậu và chịu sự thống trị của người nước ngoài.

Và cũng cần ý thức rằng sự thiếu sáng tạo cũng là nguyên nhân của thảm kịch của chúng ta hiện nay : những người cầm quyền cứ ôm chặt lấy một chủ nghĩa đã phá sản và bị cả thế giới vứt bỏ, không khác gì những người nông dân hủ lậu khư khư giữ lấy chuồng lợn và cái cày.

Xét cho cùng thì ở thời đại nào óc sáng tạo vẫn ở trên tất cả. Thượng đế cũng đã chỉ được tôn thờ vì Người là tạo hóa, bởi vì Người sáng tạo.

********************

 

 

Hai bằng tiến sĩ

graduation cap diploma isolated on a white background

Vào năm 1956, ông Hoàng Văn Chí vượt tuyến vào Nam và cho xuất bản cuốn "Trăm hoa đưa nở trên đất Bắc" cùng với nhiều tài liệu khác mà ông đem vào. Ông đã gây được một sôi nổi lớn tại miền Nam. Chính phủ Ngô Đình Diệm khai thác triệt để các tài liệu này vì lúc đó đang phát động chiến dịch tố cộng. Các tài liệu được phổ biến rộng rãi. Tài liệu được đặc biệt chú ý là bản tham luận của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, từ đó tôi đã được đọc rất nhiều bài nói về ông. Điều làm tôi chú ý là tất cả mọi bài đều ca tụng ông Nguyễn Mạnh Tường đã đậu hai bằng tiến sĩ luật khoa và văn khoa khi mới ngoài hai mươi tuổi. Ngoài ra không thấy nói ông Tường đã đạt được một thành tích nào.

Vài năm trước khi qua đời, ông Nguyễn Mạnh Tường có dịp đi Pháp và báo chí hải ngoại lại đề cập đến ông như là một trí thức đã bị cộng sản lừa gạt và ngược đãi. Trong tất cả những bài viết về ông Tường đều có nhắc lại việc ông đậu hai bằng tiến sĩ, thêm vào đó là việc ông đã tỏ ra có khí phách khi viết bài tham luận tố giác những tội ác của vụ cải cách điền địa. Ngoài ra cũng không có gì khác.

Hồi tháng 5/1994, tôi có viết một bài tham luận về trí thức Việt Nam đăng trên báo Ngày Nay, xuất bản ở Houston, Hoa Kỳ. Bài này là một bài tham luận về văn hóa và tư tưởng. Những điều tôi viết đã không làm hài lòng một số trí thức và đã có một số bài phản ứng. Ông Phạm Nam Sách có viết một bài góp ý trên tờ Thời Luận, xuất bản tại Los Angeles, Hoa Kỳ. Bài của ông Sách lại đưa đến một bài báo khác ký tên Công Tôn Hoàng, chắc chỉ là một bút hiệu, đả kích cả ông Sách lẫn tôi. Tác giả cho biết chỉ đọc bài của ông Sách chứ không đọc bài của tôi. Tôi bị đả kích thật nặng lời hơn cả ông Sách, mặc dù những điều tác giả đả kích thực ra là do ông Sách viết chứ không phải tôi. Nhưng điều đó không quan trọng lắm.

Điều đáng để ý là cả hai bài này đều đề cập đến ông Nguyễn Mạnh Tường, và một lần nữa nhắc lại việc ông Tường đậu hai bằng tiến sĩ.

Trong tất cả bài viết về ông Tường mà tôi đã được đọc cho đến nay không có bài nào không nói đến hai bằng tiến sĩ của ông. Ngoài ra không có gì đặc biệt. Hình như việc ông đậu hai bằng tiến sĩ là quan trọng nhất trong cuộc đời ông dưới mắt nhiều người. Sự kiện đó được coi là đủ để kết luận ông là người giỏi và những điều ông nói là cao siêu. Tôi có dịp gặp ông Tường tại Paris tại nhà một người bạn. Buổi nói chuyện kéo dài khá lâu và tôi thú thực không thấy gì đặc sắc. Ông nói nhiều điều đúng, không có gì để phản đối cả, nhưng đều là những điều rất thông thường.

Tôi cũng có đọc nhiều bài nói về ông Trần Đức Thảo, và tất cả mọi bài đều nói đến việc ông đậu thạc sĩ triết học. Có một số bài còn nói đến việc ông từng tranh luận với Jean-Paul Sartre, nhưng các tác giả đều không biết ông tranh luận về cái gì và đưa ý kiến gì. Tác giả nào hình như cũng ngưỡng mộ ông về mảnh bằng thạc sĩ của ông, việc tranh luận với Sartre chỉ được nêu ra để minh họa thêm trình độ cao của ông mà thôi. Tôi chỉ đọc được một bài của ông Hoàng Khoa Khôi, một người thợ tự học và một người cách mạng mà tôi rất quí mến, tranh luận một cách không nhân nhượng với ông Thảo và tỏ ra không hề mặc cảm về cái bằng thạc sĩ của ông. Ông Thảo hình như làm luận án về hiện tượng luận, nhưng triết học trừu tượng không phải sở thích của tôi, nên tôi không đọc tác phẩm nào của ông cả. Tôi chỉ đọc một tập sách ngắn - đúng ra phải gọi là một bài dài - của ông nhan đề "Un itinéraire" [Một lộ trình], trong đó ông tóm lược diễn tiến tư tưởng của ông. Thú thực tôi thấy nó rất xoàng, phải nói thẳng là quá xoàng. Tuy nhiên đối với rất nhiều người, việc ông đậu bằng thạc sĩ là đã đủ để bảo đảm giá trị của những gì ông viết.

Tháng 7 năm 1990, tôi đi dự đám tang của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, một người mà tôi rất quí mến, tôi cũng được nghe một bài điếu văn liệt kê tất cả những bằng cấp của ông một cách rất trân trọng, mặc dầu cuộc đời đấu tranh phong phú của Nguyễn Ngọc Huy có rất nhiều điều đáng nói hơn.

Hình như đối với người Việt, bằng cấp là quan trọng nhất, và một con người trước hết được đánh giá qua những bằng cấp mà mình có. Bằng quí như thế nên tôi đã từng thấy những người "chơi bằng". Họ có đủ mọi loại bằng cấp, mặc dầu chỉ làm được có một nghề. Có những người ngoài bốn mươi tuổi vẫn còn cố đi học để lấy thêm một bằng cấp khác, không biết để làm gì. Những thì giờ đó nếu họ dùng để học hỏi mở mang kiến thức thực sự, hay để sống với vợ con, hay ngồi nghỉ ngơi và suy tư thì hay biết mấy.

Trong sinh hoạt nghề nghiệp, tôi có dịp phỏng vấn nhiều người Việt Nam để tuyển dụng. Hồ sơ ứng tuyển của họ lọt dễ dàng vòng sơ khảo của sở nhân viên để đến tay tôi vì họ có bằng cấp rất khá. Dần dần kinh nghiệm cho tôi một nhận định rất rõ ràng : người Việt thường có bằng cấp quá cao so với giá trị của họ. Không những thế, thường thường họ hiểu biết rất ít về những gì họ đã làm.

Trong ngành tin học ứng dụng vào quản trị, hoạt động chính của tôi trong những năm gần đây, các kỹ sư Việt Nam thường chỉ biết tin học và mù tịt về quản trị. Trong khi tin học chỉ là phương tiện, quản trị mới là mục đích. Đã thế họ còn diễn đạt một cách rất khó hiểu. Điều trớ trêu là phần lớn cũng biết như vậy nhưng đã giải quyết một cách khác : trong CV [lý lịch] của họ, ngoài bằng kỹ sư tin học, có khi còn có thêm bằng tốt nghiệp một trường quản trị. Họ tin rằng với một bằng về tin học và một bằng về quản trị dĩ nhiên mình phải được coi là giỏi cả về tin học lẫn quản trị. Có bằng là có tài và chúng ta yên trí.

Trong giao dịch nghề nghiệp, tôi có dịp tiếp xúc với đủ loại người và khám phá nơi người Việt mình một đặc tính : họ có thể bị lừa bởi bằng cấp của chính họ. Một khi đã có bằng cấp về một môn nào đó, họ tin chắc là họ giỏi về môn đó, mặc dầu trên thực tế họ chỉ biết rất lơ mơ. Sự đánh giá bằng cấp của người Việt thật là kỳ lạ. Đối với người Pháp mà tôi biết khá rõ, bằng cấp là chứng nhận một trình độ hiểu biết, bằng cấp nói lên khoảng một phần ba những gì họ biết, đối với người Việt Nam nó là ba lần những gì họ biết.

Người Việt Nam mình đánh giá người khác qua bằng cấp và sau cùng cũng tự đánh giá mình qua bằng cấp. Bằng cấp đối với người Việt vì vậy có một tầm quan trọng rất đặc biệt. Có thể nói người Việt Nam đi học để lấy bằng cấp chứ không phải để lấy kiến thức. Bằng cấp không những là phương tiện để lừa người khác mà còn là phương tiện để đánh lừa chính mình. Tôi đã ca tụng tính hiếu học của người Việt trong những trang trước. Ở đây, tôi phải đánh một dấu giáng trên niềm tin đó. Hiếu học là hay, nhưng học để làm gì còn quan trọng hơn. Khổ thay, phải nhìn nhận rằng nguyên nhân tính hiếu học của người Việt không lấy gì làm trong sáng lắm.

Nếu bằng cấp là hãnh diện cho kẻ có thì nó cũng là một tủi hổ cho người không có. Một anh lúc ở Việt Nam là một tư chức nhỏ, trình độ học vấn của anh ta cỡ vào khoảng giữa bậc trung học. Anh ta mơ mảnh bằng tiến sĩ, điều đó quan trọng vô cùng đối với anh, đến nỗi anh vật vã trong hơn mười lăm năm miệt mài, ban ngày đi làm lặt vặt kiếm sống, tối học đi thi lấy bằng tiến sĩ. Anh ta ghi danh vào một trường đại học không đòi hỏi bằng tú tài và cho làm luận án tiến sĩ mà không đòi hỏi bằng cao học, nghĩa là một thứ tiến sĩ đại hạ giá. Sau khi đã có bằng tiến sĩ, tôi không thấy anh ta khá hơn trước. Nhưng sự kiện có bằng tiến sĩ khiến anh ta trở nên thoải mái, tự tin, trông mặt anh ta sáng hẳn lên. Ít ra mảnh bằng đã cho anh ta hạnh phúc.

Phải giải thích thế nào óc trọng bằng cấp và ham bằng cấp của người Việt ? Nó là biểu hiện của một dân tộc thiếu óc làm chủ, một dân tộc có bản năng làm công và làm mướn. Nếu không có ý định đi xin việc làm mà nhất quyết xây dựng một cơ sở của riêng mình chắc chắn người ta không cần bằng cấp, mà chỉ cần kiến thức.

Những người Trung Hoa ở Chợ Lớn không cần bằng cấp vì họ không có ý định xin việc làm, họ làm cho chính họ. Và họ thành công hơn người Việt, và cũng giỏi hơn người Việt. Thời gian làm việc tại miền Nam trước 1975, đã cho tôi nhiều cơ hội để tiếp xúc và tìm hiểu họ. Trái với dư luận thông thường, họ không phải là những nhà triệu phú vô học, viết chữ còn run tay. Họ là những con người xuất chúng, có kiến thức rất sâu và rất rộng, có lý luận rất sắc bén và có cách trình bày rất minh bạch. Chắc chắn họ đã học hỏi rất nhiều. Có điều là họ học cho giỏi chứ không học để lấy bằng.

********************

 

Người Việt, người Nhật

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 14

Rất nhiều người Việt Nam gán cho người Nhật một câu so sánh giữa người Nhật và người Việt mà chính tôi dù quen biết khá nhiều người Nhật chưa bao giờ nghe họ nói : "Một người Việt hơn một người Nhật, nhưng ba người Việt Nam hợp lại thua ba người Nhật". Câu nói đó có vẻ như một nhận xét khiêm nhường, nhìn nhận sự thua kém về khả năng làm việc tập thể của người Việt, nhìn nhận khuyết điểm chính của người Việt là thiếu đoàn kết. Tuy vậy trong cách nói vẫn có sự thỏa mãn : "Một người Việt hơn một người Nhật", vế đầu này có vẻ được nhấn mạnh hơn vế sau.

Nếu quả thực người Nhật nào đã có nói câu đó thì nó cũng chỉ là một câu khẳng định sự hơn hẳn của dân tộc Nhật, nó phải được hiểu là : "Ngay cả nếu một người Việt Nam có hơn một người Nhật đi nữa, thì ba người Việt Nam hợp lại vẫn thua ba người Nhật". Nói một cách khác, sự thua kém của dân tộc Việt Nam so với dân tộc Nhật là tuyệt vọng, hết thuốc chữa. Còn một người Việt Nam có hơn một người Nhật hay không lại là một vấn đề khác. Tôi tin là không, theo những kinh nghiệm sống.

Lúc còn đi học và ở cư xá đại học Paris, tôi đã có dịp làm quen với nhiều bạn Nhật.

Trước hết họ là những người đáng tin. Họ hứa điều gì, họ làm hết sức để giữ lời hứa, rủi làm không xong họ khiêm tốn và thành thực nhận lỗi, không viện dẫn một lý do nào cả.

Thứ hai là họ thực sự chuyên cần, làm cái gì đều làm đến nơi đến chốn, học cái gì đều cố gắng học cho hiểu thật tường tận, không như người mình chỉ làm cho xong, học tắt, học tủ để thi đậu, bất chấp có thực sự hiểu hay không. Người Nhật hiểu biết một cách chắc chắn, vì họ học để lấy kiến thức, nhưng thi có thể thua người Việt vì người Việt học để đi thi lấy bằng. Bằng cấp của người Nhật có thể thấp hơn bằng cấp của người Việt mà sự hiểu biết của họ vẫn hơn. Tôi có được đọc một luận án của một sinh viên Nhật về xã hội Việt Nam dưới thời Tự Đức. Anh ta dày công sưu tập tài liệu, suy nghĩ chín chắn và nhận định rất chính xác. Ít có một công trình biên khảo nào của người Việt về nước Việt có giá trị như thế, nhưng luận án của anh chỉ là một luận án tiến sĩ đệ tam cấp, nghĩa là một bằng cấp tiến sĩ thấp nhất trong thứ bậc các bằng tiến sĩ, và anh ta ghi rõ như vậy trong luận án. Dầu vậy, luận án của anh ta được đánh giá cao, và được một nhà xuất bản Pháp in, được quần chúng Pháp đọc, trong khi nhiều luận án tiến sĩ quốc gia, cấp tiến sĩ cao nhất, của người Việt về nước Việt không được như vậy.

Người Nhật rất yêu nước, và vì yêu nước họ học hỏi rất kỹ về những khả năng của đất nước họ. Các bạn Nhật của tôi thường nói : "Nước Nhật chúng tôi kẹt lắm, đất hẹp, người đông, tài nguyên thiên nhiên không có, con người lại không thông minh, chúng tôi cố gắng lắm cũng không thể bằng được các nước khác". Nhờ sự lo âu thường trực đó mà họ đã xây dựng ra cường quốc số một tại châu Á, và trên nhiều địa hạt cũng số một trên thế giới. Họ không tự hào là có giang sơn gấm vóc, dân tộc tinh anh.

Nhưng trên thực tế họ rất thông minh. Tôi đã đọc trên tuần báo Newsweek, một bài so sánh hệ số thông minh [I.Q.] của các dân tộc, và thấy người Nhật đứng đầu khá xa. Tuy vậy tôi chưa hề gặp một người Nhật nào tự hào dân tộc họ là thông minh. Thì ra họ vừa thông minh vừa khiêm tốn. Sự khiêm tốn đó tôi đã thấy ngay trong các bạn Nhật của tôi.

Trong cư xá đại học tôi có một cô bạn người Nhật là Ichiko học về hội họa và điêu khắc. Thân nhau rồi, Ichiko rủ tôi về phòng và cho tôi xem các tác phẩm của cô, con mắt mỹ thuật kém cỏi của tôi cũng phải bắt buộc tôi nhìn nhận đó là những tác phẩm rất hay. Tôi rủ một người bạn Pháp mê hội họa và điêu khắc tới xem, ra về anh ta tấm tắc khen hay. Thế nhưng khi tôi bảo Ichiko nên làm triển lãm thì cô dẫy nẩy từ chối, bảo rằng mình còn dở quá. Dầu vậy, Ichiko có lý do để tin mình không dở, cô đã được giải nhất về điêu khắc trong một cuộc triển lãm của Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật.

Người Việt Nam, nhất là đám sinh viên Việt Nam tại Paris chúng tôi, thường hay chê người Nhật là kém về ngôn ngữ. Quả thật họ nói tiếng Pháp rất dở. Ông thầy dạy võ của tôi chẳng hạn, sang Pháp đã mười mấy năm mà tiếng Pháp chẳng ra đâu vào đâu cả. Ông nói những tiếng thật tức cười như "levez pieds" [nhắc chân lên], "baissez bras" [hạ tay xuống]. Nhưng khi tới thăm ông, tôi gặp ông đang đọc một cuốn sách tiếng Nhật, hỏi ra thì được biết thú tiêu khiển chính của ông là đọc sách tiếng Nhật. Nhìn cách bố trí căn phòng có thể thấy ngay là ông chuẩn bị rất chu đáo để tận hưởng thú đọc sách. Ông có cả một cái bàn thấp để ngồi xếp bằng đọc sách, trên bàn là một cái giá sách nghiêng do ông đóng lấy. Cách sắp xếp trong phòng rõ ràng là để có thể đọc sách trong những điều kiện tốt nhất.

Các bạn Nhật của tôi đều nói tiếng Pháp kém cả, nhưng bù lại họ nói rất dễ hiểu, bởi vì họ hiểu rõ những gì họ nói và khi không hiểu họ nói rõ ràng không hiểu chỗ nào. Dần dần tôi hiểu rằng họ không nói giỏi tiếng Pháp là vì họ chú trọng học lấy kiến thức và vì họ coi trọng văn hóa của họ. Là một dân tộc lớn, họ cho học tiếng mẹ đẻ là quan trọng hơn cả, họ học hỏi tiếng nước ngoài như một phương tiện để hiểu và học hỏi người khác. Người Nhật chắc chắn không phải là một dân tộc có biệt tài về hùng biện, nhưng tôi phải thú nhận họ diễn tả rõ ràng và mạch lạc hơn người Việt. Người Việt là một trong những dân tộc dở về truyền thông nhất, điều này tôi sẽ có dịp đề cập đến.

Nhưng hãy trở lại với người Việt mình. Nếu ngay cả lấy ba người Việt có khả năng hơn ba người Nhật mà kết quả cũng chỉ là để tạo ra một nhóm ba người dở hơn nhóm của ba người Nhật kia thì chắc chắn là người Việt mình không có khả năng làm việc chung. Mà đã không có khả năng làm việc chung thì không thể nói là mình hay được bởi vì khả năng quan trọng nhất, khó khăn nhất chính là khả năng làm việc chung. Nó đòi hỏi trước hết sự lương thiện, bởi vì một tập hợp của những con người chơi gian, chơi xấu, chơi gác nhau không thể kéo dài. Nó cũng đòi hỏi vô số đức tính khác : nhạy cảm, biết lắng nghe, biết truyền đạt ý kiến, có ý kiến hay, đủ bao dung để hiểu cái lý của người khác và nhất là đủ thông minh để thấy sự cần thiết của tổ chức và để thích ứng quyền lợi của mình với quyền lợi của tổ chức. Nếu con người chỉ sống và làm việc một mình thôi thì sự hay dở có lẽ không đặt ra, mình làm mình hưởng, mình làm mình biết, làm sao đánh giá được hay, dở ? Cái trí thông minh lớn nhất chính là khả năng làm việc chung. Đã không biết làm việc trong khuôn khổ một tổ chức thì không thể nói là mình thông minh.

********************

 

Một dân tộc bất khuất và tự hào ?

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 15

Ôi đẹp biết bao, biết mấy tự hào

Sài Gòn ơi ta vẫy tay chào cờ sao đang tung bay cao

Xuân Hồng

[trích bài "Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh"]

Các nhà bình luận chính trị và lịch sử của ta dù là cộng sản hay không cộng sản đều đồng ý rằng dân tộc ta rất bất khuất và giàu tự ái dân tộc. Các thế hệ Việt Nam lớn lên đều được huấn luyện để tin như vậy và tự hào về tính tự hào dân tộc của ta. Đó là một niềm tin cần thiết, và cũng có căn bản, nhưng tính bất khuất và lòng tự hào dân tộc có được thể hiện một cách thường trực hay không lại là cả một vấn đề.

Trong cuốn "Mặt Thật", Bùi Tín, một cựu đại tá phó tổng biên tập báo Nhân Dân đã ly khai với đảng cộng sản, viết về quan hệ giữa các cấp lãnh đạo đảng cộng sản và các cố vấn Trung Quốc sang Việt Nam hướng dẫn họ làm cải cách điền địa năm 1955 như sau :

[...] Mỗi lần các vị "học trò" này gặp đoàn "phái viên quý báu của Mao chủ tịch" về Thủ ti cải cở [Thổ địa cải cách, theo tiếng Bắc Kinh], họ chỉ có thái độ tiếp nhận ý kiến của chuyên gia, không dám hỏi lại, cũng không dám cãi lại ! Anh bạn của tôi làm ở văn phòng Ban Chỉ Đạo hồi ấy (năm 1954, 1956) kể lại : "Triết cố vấn", "Triệu cố vấn" và "Vương cố vấn" chuyên ngồi dựa vào ghế bành lớn, ưỡn bụng ra phía trước, có lúc gác đại cả hai chân lên bàn, tay cầm ly rượu mao đài, nhổ nước bọt ồn ào xuống đất, để phán bảo cho những người nắm vận mệnh của đất nước Việt Nam. Thật thê thảm cho đất nước này ! [...]

Những người nắm vận mệnh của đất nước Việt Nam mà Bùi Tín nói tới là các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hồ Viết Thắng, v.v... những lãnh tụ cộng sản nổi tiếng sắt đá và độc đoán. Họ không coi ý kiến của người Việt Nam ra gì cả, đến ngay sinh mệnh của người Việt Nam cũng không có một tầm quan trọng nào dưới mắt họ. Họ tàn sát thẳng tay những người không đồng ý với chủ nghĩa cộng sản. Những ai đọc những sách báo của đảng cộng sản ngày trước, và cho tới gần đây, khó có thể không ngượng vì những lời tâng bốc không một chút dè dặt đối với Trung Quốc đàn anh, Liên Xô vĩ đại, Lênin vĩ đại, Stalin vĩ đại, Mao chủ tịch vĩ đại. Họ xưng hô với khách ngoại quốc bằng Ngài, một tiếng mà họ không bao giờ dùng đối với người Việt. Sự kính nể người ngoại quốc không phải chỉ được thể hiện với các nước xã hội chủ nghĩa anh em mà ngay cả với các nước tư bản thù địch.

Trong hội đàm Paris (1968-1973), họ nhất định đòi nói chuyện với Mỹ chứ không thèm nói chuyện với phía Việt Nam Cộng Hòa. Có người nói đó là một thái độ chính trị cần có để tự xác nhận như là đại diện cho toàn dân Việt Nam và phủ nhận mọi tư cách của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng kết quả của cuộc thương thuyết có bao giờ tùy thuộc ở thái độ này hay thái độ nọ đâu, nó luôn luôn chỉ tùy thuộc vào yếu tố duy nhất là tương quan lực lượng. Chọn lựa chiến lược của Mỹ đã như thế và tương quan lực lượng đã như thế, thì dù Hà Nội có khinh miệt hay kính trọng chính quyền Sài Gòn, kết quả của cuộc thương thuyết vẫn như thế. Thái độ khinh miệt phe quốc gia của Hà Nội chẳng có ảnh hưởng cụ thể nào lên cuộc thương thuyết cả, nó chỉ nói lên một tâm lý tôn kính người ngoại quốc và coi thường đồng bào của mình. Nếu thực sự có tự ái dân tộc, họ đã phải tìm kiếm một giải pháp giữa người Việt Nam với nhau. Nhưng tâm lý của họ là tâm lý trọng ngoại.

Cái tâm lý trọng người ngoài khinh người nhà được thể hiện một cách ô nhục qua vụ xử án những người trong "Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Miền Nam Việt Nam" của Lê Quốc Túy cuối năm 1984. Năm người bị kết án tử hình là Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch và Huỳnh Vĩnh Sanh. Dù chẳng có cảm tình gì với Mặt Trận này nhưng lúc đó tôi cũng tham gia tranh đấu để các bị cáo được xét xử một cách đứng đắn. Đó chỉ là một thái độ bảo vệ công lý, thái độ này cũng được kích thích bởi tình bạn với Trần Văn Bá mà tôi quen thân từ hồi còn hoạt động với nhau trong Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy cũng tham gia đắc lực cuộc vận động này với chúng tôi.

Một sự kiện ngộ nghĩnh là một hôm tôi nhận được một thư của Tòa Đại Sứ Hà Nội tại Paris. Thư gồm một phiếu gởi có en-tête và con dấu của tòa đại sứ, kèm với một cáo trạng đối với các can phạm. Theo cáo trạng này thì Mai Văn Hạnh là người chủ chốt nguy hiểm nhất, Trần Văn Bá là một người nông nổi nhiều anh hùng tính, Lê Quốc Quân là một người hoạt động đắc lực, hai người kia là tòng phạm.

Trong buổi họp tối hôm đó, tôi đưa văn thư này cho Nguyễn Ngọc Huy xem, Nguyễn Ngọc Huy nói : "Mai Văn Hạnh có thẻ thông hành Pháp, Huỳnh Vĩnh Sanh hồi trước đã có sắc lệnh nhập tịch Pháp dù không tới lấy thông hành, hai người này có thể thoát chết, nhưng ba người kia thì nguy".

Quả đúng vậy. Mai Văn Hạnh, người được coi là chủ chốt nguy hiểm, và Huỳnh Vĩnh Sanh được ân xá, còn ba người kia - Bá, Quân và Bạch - bị đem xử bắn ngay một tuần sau đó. Hai năm sau, Mai Văn Hạnh được trả tự do và cho đi Pháp. Tội nặng hơn nhưng nhờ có quốc tịch Pháp thì thoát, tội nhẹ hơn nhưng mang quốc tịch Việt Nam thì bị bắn. Thực là một quan niệm kỳ cục về người Việt. Tự hào dân tộc ở đâu ?

Lúc còn ở Sài Gòn, năm 1981, một hôm tôi gặp một anh chuyên gia Việt kiều mà tôi quen biết từ lâu. Anh ta du học tại Pháp, học rất kém, lận đận mãi rồi bỏ qua Canada. Tôi biết quá rõ anh ta để có thể bảo đảm là anh ta không có khả năng nào đáng kể. Nhưng anh ta có xe đưa đón trọng vọng và được rất nhiều quan chức cao cấp tham khảo. Trong khi đó những kỹ sư giỏi gấp nhiều lần anh ta, tốt nghiệp từ Mỹ, từ Pháp, từ Úc, từ Canada không thiếu gì, nhưng được xếp cho ngồi đánh cờ trong các cơ quan. Họ chỉ được tuyển dụng để nhà nước kiểm soát chứ không được sử dụng. Không ai cần biết ý kiến của họ. Óc khinh thường người Việt Nam mạnh đến nỗi ngay cả những người tốt nghiệp ở nước ngoài mà phần nào đã được Việt Nam hóa cũng bị coi thường. Nếu nói là vì chúng tôi là "ngụy quân ngụy quyền cũ" nên không được trọng vọng như những "trí thức Việt kiều yêu nước" thì cũng không đúng, bởi vì các kỹ sư có thẻ đảng hẳn hoi, tốt nghiệp từ Liên Xô, Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan... cũng khá đông và nhiều người rất giỏi nhưng cũng chẳng được ưu đãi hơn chúng tôi bao nhiêu. Cũng có cả những chuyên viên tốt nghiệp từ Mỹ và Tây Âu tự nguyện về nước vì nhiệt tình với chế độ nhưng cũng không được trọng vọng như anh chuyên viên Việt kiều kia, bởi vì họ được coi là Việt Nam.

Người cộng sản không có độc quyền về đặc tính thiếu tự hào dân tộc. Tôi đã ở trong lòng chế độ Việt Nam Cộng Hòa để có thể xác nhận cái tính "trọng ngoại khinh nội" của chế độ. Tốt nghiệp ở nước ngoài là cái chìa khóa mở hầu hết các cửa, tốt nghiệp ở trong nước là cả một trở ngại lớn cho sự thăng tiến. Có phải là vì ở nước ngoài được huấn luyện kỹ hơn chăng ? Lý cớ hơn là lý do. Ở các Bộ Kinh Tế, Tài Chánh, sự nể vì người ngoại quốc nặng đến nỗi các tổng giám đốc các công ty nước ngoài không bao giờ thèm biết tên các giám đốc Việt Nam, có chuyện gì họ gõ cửa thẳng các ông bộ trưởng và họ luôn luôn được tiếp đón niềm nở. Một tổng giám đốc công ty Pháp tại Sài Gòn cho tôi hay là ông ta bắt buộc phải tuyển dụng các cấp giám đốc, phó giám đốc người Pháp chính cống từ Pháp qua dù đắt gấp bốn năm lần một người Việt Nam tài giỏi hơn bởi vì một người Pháp chính cống dễ nói chuyện với chính quyền Việt Nam hơn là một người Việt Nam". Ông ta nói với tôi như vậy giữa bữa ăn và tôi muốn độn thổ vì xấu hổ.

Sự khinh thường người Việt không phải chỉ có nơi những người cầm quyền mà còn có trong quần chúng Việt Nam. Mới đây cháu tôi tốt nghiệp ở Hòa Lan xin đi làm cho một hãng Hòa Lan có chi nhánh ở Việt Nam và bị từ chối. Ban giám đốc giải thích rằng họ không tuyển dụng cấp chỉ huy người Việt cho chi nhánh tại Việt Nam vì lý do một người Hòa Lan da trắng mắt xanh dễ điều khiển người Việt hơn một người Hòa Lan gốc Việt. Người Hòa Lan học bài nhanh thật !

Tôi quen biết một nhà bình luận thời cuộc viết nhiều bài về Việt Nam và khá nổi tiếng. Anh ta vẫn thường hỏi ý kiến tôi mỗi khi viết bài, và bù lại cũng giúp tôi một số việc. Bài của anh hay được các báo Việt Nam đăng lại và được ca tụng như là rất đúng, rất thâm thúy, ngay cả bởi những tờ báo đả kích tôi một cách nặng nề, mặc dù những điều anh ta viết không khác gì những điều tôi viết vì một lý do giản dị : phần lớn những ý kiến của anh ta là ý kiến của tôi. Những người ca tụng anh ta và đả kích tôi không biết rằng chúng tôi quen nhau. Tôi cũng không dám nói cho anh ta biết là những người ấy chống tôi. Vì ngượng, vì tự hào dân tộc.

Xem lại phim thời sự trong những ngày cuối tháng 4/1975, có một cảnh làm tôi thực sự đau lòng. Một đại tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa đến phút chót vẫn còn hiên ngang trấn giữ cửa vào Sài Gòn. Tôi thán phục sự dũng cảm của ông, nhưng ông lại nói một cách hãnh diện trước ống kính của đài truyền hình Pháp :"Tôi không sợ bởi vì tôi đã từng là trung sĩ trong quân đội Pháp". Làm đại tá quân đội Việt Nam nhưng lại hãnh diện vì đã là trung sĩ quân đội Pháp !Tôi còn có thể kể vô số những trường hợp khác mà tôi đã thấy và đã biết. Có phải vì chúng ta quá đinh ninh mình là một dân tộc bất khuất và giàu tự hào dân tộc rồi không thấy cần nuôi dưỡng tự hào dân tộc thực sự, hay vì trong thâm tâm mỗi người chúng ta không đánh giá cao chính mình, cho nên chúng ta coi thường những người giống mình ?

Khi người ta có thể khinh bỉ, mạt sát và buộc tội một cách thậm tệ một người mà mình chỉ biết qua một số dư luận thôi thì phải chăng là người ta đang mạt sát chính mình ? Điều người ta thực sự nói qua sự hung hăng vô căn cứ đó là : "Tao không cần biết mày là ai, đã thực sự nói và làm những gì, nhưng tao vẫn có thể mạt sát mày mà không sợ sai lầm, vì mày cũng là người Việt như tao, mà đã như tao thì mày chỉ có thể là lưu manh xằng bậy thôi". Một người có niềm tự hào thực sự bao giờ cũng quí trọng những người giống mình.

Nhưng thực tế là chúng ta thiếu một cách tuyệt vọng tự hào dân tộc. Chúng ta cần khẩn cấp nghĩ lại mình. Một lòng tự hào dân tộc thực sự có thể thay đổi con người chúng ta và đất nước chúng ta. Chúng ta sẽ kính trọng lẫn nhau và ngồi lại với nhau để giải quyết những bất đồng thay vì khinh miệt lẫn nhau và chỉ tìm giải quyết với người ngoại quốc, hay cầu cạnh người ngoại quốc giải quyết giùm mình những vấn đề của mình.

Mà sự thực người Việt Nam có thiếu anh tài đâu. Nguyễn Trãi đã từng viết : "Nước Việt Nam ta là một nước văn hiến... dù có lúc mạnh lúc yếu nhưng không thời nào thiếu hào kiệt".

********************

 

Yêu nước

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 16

Ta không có tự hào dân tộc, mà đã không có tự hào dân tộc thì không thể yêu nước. Làm sao có thể yêu một cái gì mà ta coi thường ? Cho nên lòng yêu nước của người Việt, mà mọi người quả quyết là mạnh, có thể chỉ là một sự hiểu lầm.

Có một lập luận mà cả hai phe cộng sản và quốc gia đều đồng ý, nhưng rất sai, là những người cộng sản đã chiến đấu dũng cảm vì lòng yêu nước chứ không phải vì chủ nghĩa cộng sản. Lập luận này tiện cho cả đôi bên. Đảng cộng sản dĩ nhiên phải nói rằng họ tranh đấu vì lòng yêu nước, có như thế họ mới tranh thủ được sự hưởng ứng của những người chưa vào đảng cộng sản, mới có thể kết tội những đối thủ của họ là phản quốc, là bán nước, mới tranh thủ được sự ủng hộ của dư luận các nước không cộng sản. Còn bên chống cộng dĩ nhiên cũng phải nói rằng đa số những người theo phe cộng sản đã chỉ theo vì lòng yêu nước mà thôi. Có như thế họ mới có thể buộc tội đảng cộng sản là đã lừa bịp những người yêu nước nhẹ dạ, là tiếm đoạt hy sinh xương máu của nhân dân vì độc lập dân tộc ; có như thế họ mới nói được chủ nghĩa cộng sản phi nhân bất nghĩa, chẳng ai theo nếu biết thực chất. Gần đây những người công sản ly khai cũng lại sử dụng lập luận này vì nó cũng tiện cho họ. Họ đã đoạn tuyệt với đảng cộng sản, đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản rồi thì tự nhiên họ phải biện minh cho hoạt động trong quá khứ của mình bằng điều mà họ nghĩ mọi người chấp nhận, nghĩa là lòng yêu nước.

Kết quả là một sự dối trá khổng lồ từ cả mọi phía. Và cứ thế cuộc tranh cãi thiếu lương thiện này tiếp tục gây ngộ nhận trong đầu óc mọi người.

Tôi đã nghiên cứu, quan sát, và tâm tình với rất nhiều người cộng sản ở mọi trình độ và đi tới kết luận quả quyết rằng đại đa số những đảng viên cộng sản đã theo đảng vì chủ nghĩa chứ không phải vì lòng yêu nước. Người cộng sản cũng yêu nước như mọi người Việt Nam khác, không kém nhưng cũng không hơn. Lòng yêu nước có thực nhưng chỉ đóng một vai trò rất thứ yếu trong chọn lựa của họ. Nó đã chỉ được dùng làm một chiêu bài, nó không phải là động cơ.

Vả lại lòng yêu nước làm sao có thể là động cơ được, nếu nó không mạnh ? Độc giả sẽ tự nhận ra nhưng tôi cần cảnh giác trước hết rằng tôi hoàn toàn không có ý định làm một cáo trạng đối với người cộng sản và đảng cộng sản. Ở đây tôi chỉ muốn nhận diện đất nước, điều tôi muốn làm sáng tỏ là lòng yêu nước rất mờ nhạt trong lòng người Việt Nam, dù là cộng sản hay không cộng sản. Đã đến lúc chấm dứt sự ngộ nhận này để đem lại cho cuộc thảo luận về đất nước sự nghiêm túc phải có.

Chúng ta cần thắng một đặc tính rất kỳ lạ của người Việt là thường đặt nền tảng quan hệ và trao đổi trên một căn bản giả dối, không ai thực sự nghĩ nhưng mọi người đều muốn người khác tin là mình nghĩ. Thí dụ các tổ chức chống cộng hải ngoại đều kêu gọi "ngồi lại với nhau" nhưng trong thâm tâm không ai thực sự muốn "ngồi lại với nhau" cả, mà chỉ muốn ngồi lên đầu nhau. Kết quả tất nhiên là rất khó đồng ý với nhau. Tôi mong độc giả lưu ý cái "dân tộc tính" này trước khi đọc những dòng kế tiếp.

Ai đã có dịp vào thăm Viện Bảo Tàng Cách Mạng đều có thể nhìn thấy lá cờ lịch sử của Phong Trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, cái nôi tình cảm của đảng cộng sản Việt Nam. Lá cờ màu đỏ này chỉ có tám chữ "Vạn Tuế Sô Nga, Sô Nga Vạn Tuế", chỉ có thế. [Chữ "Sô" viết bắt đầu bằng chữ S trên lá cờ]. Vả lại cái tên "Xô Viết Nghệ Tĩnh" cũng đã đủ nói lên bản chất của phong trào. Cái gì đã thực sự làm nức lòng người, không phải là lòng yêu nước mà là giấc mơ cộng sản, giấc mơ được giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột và chà đạp. Giấc mơ ấy đã khiến những người nông dân cùng khổ miền Nghệ Tĩnh vùng lên, chấp nhận chết chứ không chấp nhận tiếp tục cuộc sống tôi đòi. Phong Trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đã thẳng tay tàn sát những kẻ thù của giai cấp vô sản, bất luận họ có yêu nước hay không yêu nước. Nó đã bị đàn áp trong một biển máu, sau khi đã làm đổ ra một biển máu. Sự dũng cảm của những con người của Phong Trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đã rất phi thường, nhưng nó hoàn toàn không do lòng yêu nước mà đã chỉ được thúc đẩy bởi giấc mơ một cuộc sống không còn áp bức.

Tôi đã nói chuyện với vô số người cộng sản và cố gắng vượt qua cái vỏ bề ngoài của họ, tôi luôn luôn tìm thấy giấc mơ đó đằng sau cái bình phong yêu nước. Đó mới chính là lý tưởng đã khiến họ chấp nhận mọi gian khổ, nếu cần hy sinh cả tính mạng.

Tôi cũng đã quan sát và trao đổi với các trí thức cộng sản. Điều tôi có thể quả quyết là không ai lầm lẫn cả. Tất cả đều đã tán thành chủ nghĩa cộng sản, hay ít ra đã chấp nhận nó. Không có một người nào đã theo phong trào cộng sản vì tưởng rằng nó không phải là cộng sản cả.

Đảng cộng sản cũng không hề giấu mục tiêu của họ. Họ sử dụng danh nghĩa giải phóng dân tộc song song với lý tưởng cộng sản chứ không phải thay cho lý tưởng cộng sản. Lúc nào họ cũng đề cao đấu tranh giai cấp, ngay cả khi họ giải tán một cách tượng trưng Đảng Cộng Sản Đông Dương. Vả lại, ngay cả cái tên Đảng Cộng Sản Đông Dương cũng đủ để nói lên rằng yếu tố Việt Nam không hề có trong ưu tư của họ. Không thể nói là họ đã lường gạt. Sự bội ước này có thực, nhưng không phải ở chỗ họ đã đem áp dụng chủ nghĩa cộng sản, mà ở chỗ đảng cộng sản đã không thực hiện được lý tưởng công bằng xã hội mà chủ nghĩa cộng sản đã hứa hẹn, thay vào đó là một chế độ đầy rẫy bất công và tham nhũng. Cũng có những người đã thất vọng vì nhận ra chủ nghĩa cộng sản là không tưởng. Nhưng không có ai không biết ngay từ đầu rằng mục đích của mặt trận Việt Minh là để thiết lập một chế độ cộng sản cả. Nói như vậy là không thành thực.

Vả lại, năm 1976, khi, sau chiến thắng, Đảng Lao Động được đổi tên thành đảng cộng sản và chế độ cộng sản được chính thức tuyên bố, tôi hoàn toàn không thấy ai ngạc nhiên hay phẫn nộ cả. Tất cả những người đã đóng góp cho thắng lợi của đảng cộng sản đều hân hoan, hay ít ra không thất vọng. Thất vọng chỉ đến sau đó khi chế độ trở thành tham nhũng và đất nước bị suy thoái, đời sống nhân dân trở thành cơ cực.

Tôi không lên án người cộng sản là không yêu nước, tôi chỉ muốn nói là lòng yêu nước của người Việt mình nói chung là rất yếu. Trong thời kỳ Pháp thuộc, có lẽ chỉ có Việt Nam Quốc Dân Đảng và một số hệ phái Đại Việt là thực sự chỉ lấy lòng yêu nước làm nền tảng. Nhưng Việt Nam Quốc Dân Đảng đã không mạnh lên được, một phần vì thiếu tổ chức, một phần bị mọi thế lực đánh phá, nhưng lý do căn bản, theo tôi, vẫn là vì lòng yêu nước, lý tưởng duy nhất của Việt Nam Quốc Dân Đảng, không đủ mạnh trong lòng người Việt Nam để có thể động viên được sự hy sinh của nhiều người, như lý tưởng cộng sản.

Để đối đầu với đảng cộng sản, các chính quyền quốc gia đều chủ yếu do những người không yêu nước cầm đầu. Các chính quyền Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, ngoại trừ một vài nhân vật của Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng xuất hiện ngắn ngủi trong một thỏa hiệp giai đoạn, gồm toàn bộ những người đã hợp tác với chính quyền thuộc địa Pháp. Nhưng họ đã thất bại vì tham ô, kém cỏi chứ không phải vì không được coi là những người yêu nước.

Ông Ngô Đình Diệm xuất hiện đột ngột vào chính trường Việt Nam và cầm quyền. Ông cũng không phải là một người yêu nước, trái lại ông có một quá khứ dài hợp tác với người Pháp và đàn áp các phong trào yêu nước. Nhưng ông đã suýt nữa thành công. Ông thất nhân tâm vì vụng về, thiển cận chứ không phải vì bị lên án là không yêu nước. Yêu nước chưa bao giờ là một yếu tố quyết định để tranh thủ lòng người tại Việt Nam.

Người Việt Nam hoặc không yêu nước, hoặc chỉ yêu nước một cách rất tương đối. Người cộng sản yêu chủ nghĩa của họ hơn đất nước. Người Công Giáo coi trọng tôn giáo của họ hơn đất nước. Những người cầm quyền phe quốc gia đặt quyền lợi của họ trên đất nước. Nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu để giành quyền lực và ảnh hưởng cho họ hơn là cho đất nước. Quần chúng Việt Nam lo âu quyền lợi và sự yên ổn của mình hơn là cho tương lai đất nước. Tại sao và làm thế nào để khắc phục là những câu hỏi mà ta cần đặt ra. Nhưng ít nhất phải nhìn nhận sự thực đó, phải coi nó là một dữ kiện trong đầu đề của bài toán đất nước, để đừng tiếp tục cường điệu với nhau, đeo mặt nạ và nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ của lưỡi gỗ.

Lòng yêu nước của người Việt Nam không phải là không có nhưng rất mờ nhạt. Nó đã chỉ được thổi phồng lên do sự chia rẽ trầm trọng của dân tộc Việt Nam. Nó không phải là một tình yêu vì người ta chỉ nhân danh tổ quốc để giết nhau chứ có bao giờ nhân danh tổ quốc để tha thứ và nhường nhịn nhau đâu. Sự xung đột đã khiến mọi phe phái đều phải đề cao một điều duy nhất mà mọi người có thể chấp nhận, đó là lòng yêu nước. Nhưng sự xung đột này tự nó cũng là bằng cớ rằng người Việt Nam không yêu nước. Nếu thực sự yêu nước thì người Việt Nam trước hết phải thương yêu nhau đã, chứ không thể phủ nhận, mạt sát, lên án, tiêu diệt nhau một cách dễ dàng như vậy. Có thể nào tưởng tượng được một gia đình trong đó mọi người đều tha thiết yêu gia đình, nhưng lại xung đột, xâu xé nhau và sẵn sàng giết nhau hay không ?

Một bằng cớ khác chứng tỏ người Việt Nam không yêu nước lắm là có một số đông vẫn chống lại tinh thần hòa giải dân tộc. Vấn đề giản dị như thế này : khi một dân tộc đã có xung đột gay gắt thì chỉ có hai chọn lựa, một là hòa giải với nhau để quốc gia tiếp tục tồn tại và đi tới, hai là không hòa giải và chấp nhận tan vỡ.

Nhưng dầu sao thì lòng yêu nước cũng vẫn là mẫu số chung của dân tộc này để tồn tại và tiến lên. Lòng yêu nước đó chưa có ở một mức độ cần có, chúng ta phải tạo ra hay phát minh lại. Trong khi chờ đợi, không nên lợi dụng và nhảm nhí hóa nó, vì nó vẫn là hy vọng thoát nguy duy nhất của ta.

********************

 

Ils ne s'aiment pas

 

 

ours

Giáo sư Nguyễn Huy Bảo sinh năm 1908. Ông du học tại Pháp, tốt nghiệp cử nhân triết học, rồi về nước dạy học tại Huế từ trước thế chiến II. Một số đông các trí thức miền Trung là học trò của ông. Ông làm khoa trưởng Đại Học Văn Khoa Sài Gòn cho tới năm 1964, rồi rời Việt Nam làm chuyên viên cho Liên Hiệp Quốc và thực hiện nhiều công tác văn hóa giáo dục tại các nước châu Phi. Kinh nghiệm sống của ông đã giúp ông hiểu tại chỗ lý do khiến nhiều quốc gia không phát triển được. Là một người hoạt động không ngừng nghỉ, dầu tuổi đã ngoài chín mươi, tương lai của Việt Nam không còn một quan trọng nào đối với ông nữa, ông vẫn còn tham gia tích cực vào các hoạt động của nhóm Thông Luận. Ông là một người Việt Nam yêu nước thực sự và nồng nàn. Trong một buổi thuyết trình tại Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận về đề tài "Việt Nam có thể có dân chủ được không ?", ông đã phân tích những nhược điểm của người Việt Nam. Ông kể lại rằng khi ông còn trẻ vừa tới Pháp du học, một giáo sư người Pháp có kinh nghiệm nhiều về Việt Nam đã nói về người Việt Nam rằng : "Ils ne s'aiment pas" [Họ không ưa nhau]. Câu nói đó chắc là ông Nguyễn Huy Bảo đã phải kiểm chứng thấy trong cuộc đời của ông và đã phải làm ông đau lòng lắm, để đến nỗi 60 năm sau, ông vẫn còn ấm ức và nhắc lại một cách rất thất vọng.

Phải giải thích người Việt Nam không yêu nước vì họ không quí mến nhau, hay người Việt Nam không quí mến nhau vì họ không yêu nước ? Hai tình cảm đó luôn luôn đi đôi với nhau, hoặc có cả hai hoặc không có cả hai chứ không thể có một trong hai.

Ca dao ta có hai câu mà hầu như mọi người đều biết "bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" và "nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng". Thực là ai oán. Hai câu ca dao đó hình như đã xưa lắm rồi. Tôi có đọc một cuốn sách nói rằng câu "bầu ơi thương lấy bí cùng..." có từ thời Hai Bà Trưng ! Tôi không phải là một nhà nghiên cứu văn học để có thể có ý kiến về thời điểm xuất phát của những câu ca dao này, nhưng mọi người có thẩm quyền về văn học mà tôi quen biết đều xác nhận đó là những câu ca dao đã có từ rất lâu. Như thế có nghĩa là từ lâu rồi người Việt tệ bạc với nhau tới độ có những người phải đau lòng thốt ra những lời nhắn nhủ não nùng như thế.

Nguyễn Văn Thanh, người anh kết nghĩa trong tù của tôi năm nay đã 76 tuổi và sống tại Los Angeles, kể cho tôi nghe thời anh học trường Bưởi, giáo sư Đỗ Trí Lễ dạy Vật Lý, mỗi lần bực bội với học trò thường đi đi lại lại trong lớp và lẩm bẩm : "Les Annamites sont des menteurs, des voleurs et des assassins" [Người Việt Nam là bọn dối trá, trộm cắp và sát nhân]. Sau này do những liên hệ hôn phối tôi được biết về giáo sư Đỗ Trí Lễ. Ông là một nhà giáo hiền lành, đức độ. Câu ông nói không phải do ông sáng tạo ra mà ông chỉ nhắc lại, bởi vì tôi cũng đã được nghe nhiều lần ở miệng người khác. Thật khó tin là người Việt Nam có thể khinh ghét nhau đến thế được.

Người Việt Nam tìm đủ mọi lý do để ghét nhau. Người thành thị thì gọi người nông thôn một cách khinh bỉ là "bọn nhà quê" với ngụ ý nói là những người dốt nát, đần độn, ngớ ngẩn. Còn người nông thôn thì gọi người thành thị là "kẻ chợ" với hàm ý là gian trá, lật lọng. Người ta mạt sát nhau vì lý do nghề nghiệp : "Đồ hàng cá, hàng thịt !". Khi còn ở ngoài Bắc, tôi đã được nghe câu "tục ngữ" : "bạc quân xứ Huế, tệ quân xứ Nam". Xứ Huế đây là để chỉ miền Trung. Như vậy là người Trung và người Nam đều tệ bạc, chỉ có người Bắc là chung thủy thôi sao ? Nhưng vào tới trong Nam, tôi lại thấy phần đông người miền Nam coi người Bắc và người Trung là không ngay thẳng. Ra tới Huế, tôi lại có thể nhận thấy rõ ràng người Huế tự nghĩ mình có văn hóa và có chiều sâu hơn người miền Nam và miền Bắc. Tuy họ không nói trắng ra nhưng tôi có thể cảm thấy rõ ràng rằng theo họ, trừ một vài ngoại lệ, nói chung người Bắc và người Nam tuy có khác nhau nhưng đều hời hợt và phù phiếm. Thế nhưng một ông vua nhà Nguyễn (Minh Mạng hay Tự Đức) lại mạt sát xứ Huế của chính ông là "sơn bất cao thủy bất thâm, nam đa trá nữ đa dâm" [Núi không cao, sông không sâu, con trai gian trá, con gái đa dâm]. Đó là mạt sát theo thành kiến của một thời đại thôi chứ đa dâm thực ra là một tính tốt, nó chứng tỏ con người giàu sinh lực, nhạy cảm và thông minh. Như vậy rõ ràng là người Việt Nam khinh ghét nhau giữa những người khác miền với nhau và ngay cả giữa những người cùng sống một nơi. Khác biệt địa phương, cũng như mọi khác biệt, đều chỉ là những lý cớ để người Việt biểu lộ sự khinh ghét lẫn nhau đã sẵn có ở trong lòng.

Claude Renaud là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Ông là người Úc gốc Pháp, học chính trị tại Pháp, quen một cô bạn Việt Nam xinh đẹp và lịch duyệt rồi cưới nhau. Renaud là một nhân vật cao cấp tại bộ ngoại giao và ngoại thương Úc, từng làm cố vấn tòa đại sứ Úc tại Việt Nam, rồi cố vấn tòa đại sứ Úc tại Pháp. Trong ngành ngoại giao cố vấn có hàm bộ trưởng.

Claude Renaud kể cho tôi nghe một cách thú vị những gian truân của anh trong việc chinh phục người đẹp. Gia đình vợ anh không hài lòng lắm để cho con gái lấy chồng ngoại quốc, nhưng trở ngại lớn nhất là bà nội vì bà rất bảo thủ. Sau cùng sự kiên nhẫn và khôn khéo của nhà ngoại giao cự phách đã thuyết phục được bà cụ. Bà cụ đành nói : "Thôi, thà để nó lấy chồng Tây còn hơn là để nó lấy chồng Bắc Kỳ". Bà cụ là người hiền lành, không hiểu sao cụ ghét người Bắc đến thế. Có lẽ đó là một thành kiến, nhưng nó chứng tỏ người Việt Nam không ưa nhau

Yếu tố "cùng là người Việt Nam" có lẽ chỉ có một trọng lượng rất nhỏ, nên người Việt khi kết hợp với nhau thường dựa trên một mẫu số chung nào đó ngoài sự kiện cùng là người Việt. Cứ nhìn ngay những tổ chức chính trị, mà mục đích là tranh đấu cho một nước Việt Nam thống nhất và đoàn kết. Không cần phải là một nhà quan sát tinh tường cũng đủ thấy. Người ta thường kết hợp với nhau trên một mẫu số chung địa phương, hay thành phần xã hội, hay tôn giáo : người Bắc, người Nam, người Trung, cựu hải quân, cựu học viên Quốc Gia Hành Chánh, Công Giáo, Phật Giáo, Hòa Hảo v.v... Rất ít thấy những tổ chức vượt ra ngoài được những yếu tố đó.

Dĩ nhiên là cũng có. Đảng cộng sản có cả Bắc Trung Nam, nhưng họ có một mẫu số chung khác là chủ nghĩa cộng sản và họ cũng chỉ kết hợp giai cấp vô sản. Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng hiện diện tại cả Bắc Trung Nam, nhưng những hệ phái Bắc, Trung, Nam trên thực tế là những đảng riêng biệt với nhau. Một thí dụ cụ thể là năm 1967, ông Vũ Hồng Khanh, chủ tịch Việt Nam Quốc Dân Đảng miền Bắc, ra ứng cử tổng thống thì ông Nguyễn Hòa Hiệp (Việt Nam Quốc Dân Đảng miền Nam) cũng ra tranh cử. Các hệ phái Việt Nam Quốc Dân Đảng tại ba miền không phải là những chi nhánh của một đảng mà là những đảng riêng biệt, không những không liên kết với nhau mà còn chống nhau vì hệ phái nào cũng cho mình là chính thống.

Khi miền Nam đang lâm nguy trước sự tiến công của cộng sản, một kết hợp chính trị ra đời, nhóm Liên Trường, kết hợp những người có một mẫu số chung là đã từng học các trường trung học miền Nam trước đây. Biết Nguyễn Ngọc Huy cũng tham gia, dù là một cách kín đáo, tôi có lần bực bội chất vấn : "Nước sắp mất, không có lý tưởng nào để kết hợp hay sao mà lại kết hợp nhảm nhí như vậy ?". Ông Huy phân trần : "Đó là mấy thằng bạn nó làm, mình không tham gia thì kỳ quá !".

Chính cá nhân tôi cũng đã từng được kiểm chứng cái tính ghét nhau của người Việt. Tôi có viết một số bài báo, trình bày quan điểm chính trị của tôi. Quan điểm đó không được sự tán thành của một số người. Điều đó không hề làm tôi buồn lòng, trái lại về một khía cạnh nào đó tôi còn vui lòng vì sự kiện nhiều người không đồng ý với mình chứng tỏ ý kiến của mình là mới. Tôi quan niệm đưa ra mười ý mới trong đó có chín ý sai và một ý đúng vẫn còn hơn là nói mười điều đúng cả mười nhưng chỉ là những ý cũ. Vậy thì khi người ta đả kích tôi, tôi không buồn. Nhưng sao những lời lẽ lại có thể hằn học và nặng nề đến thế ! "Bọn", "tên", "chúng", "phản bội", "cơ hội chủ nghĩa", "đón gió trở cờ", "phải vạch mặt chỉ tên", "phải có thái độ", v.v...

Xét cho cùng không phải người ta phản đối những điều tôi viết ra, bởi vì họ bịa đặt ra những điều tôi không hề viết hay nói, cắt xén những câu viết hay câu nói làm đổi hẳn ý nghĩa rồi dựa vào đó mà lên án. Lý do thực sự là họ có nhu cầu cần phải thóa mạ và đả phá một ai đó.

Phần lớn những người viết bài đả kích tôi đều không biết tôi là ai cả vì lý do giản dị là tôi chẳng làm được gì đáng để được biết tới và cũng không thuộc một gia đình lớn nào để họ có thể lục lọi nguồn gốc, tôi chỉ là đứa con của những ruộng đồng không tên không tuổi. Dầu vậy họ có thể viết tôi là "đồ mất gốc, dòng dõi bán nước, một câu Kiều và một chữ Bình Ngô Đại Cáo không biết". Có người còn quả quyết tôi là cộng sản nằm vùng, có bài còn tả tôi là người điên, mặt mũi láo liên, chân đi hai hàng !

Rồi một số người biết tôi rất rõ cũng làm ngơ trước những xuyên tạc mà họ biết chắc chắn là sai, dù phần lớn có cảm tình với tôi. Tôi tự hỏi tại sao ? Câu trả lời của tôi là tuy không diễn tả ra được nhưng trong bản năng của họ, họ đều nghĩ rằng sự độc ác của người Việt trong cách đối xử với nhau là một chuyện thường, chẳng có gì đáng ngạc nhiên.

********************

 

Đôi bạn

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 18

Cái bản năng thù ghét nhau trong con người Việt Nam mạnh đến nỗi nó có thể bùng nổ một cách rất bất ngờ, ngay cả giữa những người thân quen.

Ông A và ông B là hai nhân vật có học thức và được nhiều người biết. Câu chuyện giữa họ mà tôi kể lại sau đây cũng đã được phơi bày trên nhiều tờ báo hải ngoại. Họ cũng là hai người bạn thân. Họ có tất cả mọi lý do để thân nhau. Họ là đồng nghiệp, cả hai đều giữ cùng một chức vụ dân cử quan trọng dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, và hơn thế nữa đều là những người có uy tín nhất ; cả hai đều là những nhà nghị luận có tên tuổi ; cả hai đều chống cộng ; cả hai đều đối lập với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Trước nguy cơ sụp đổ chắc chắn của Việt Nam Cộng Hòa, cả hai đều đồng ý là phải lật đổ Nguyễn Văn Thiệu mới có hy vọng cứu nguy. Họ cùng nhau âm mưu, rồi cùng bị bắt và bị giam với nhau. Trốn khỏi Việt Nam sau ngày 30/4/1975, cả hai đều là những khuôn mặt lớn trong cộng đồng, đều nỗ lực hoạt động cho mục tiêu chấm dứt chế độ cộng sản. Lập trường của họ giống nhau, đường lối của họ cũng giống nhau. Khi nhóm Thông Luận chúng tôi đề xướng lập trường dân chủ đa nguyên và hòa giải và hòa hợp dân tộc, cả hai ông đều là những người đả kích và lên án chúng tôi gay gắt nhất. Sau đó, và hình như vào cùng một thời điểm, cả hai ông đều hiểu chúng tôi và ác cảm biến thành thiện cảm. Họ đều là những trí thức lớn mà tôi quí trọng.

Năm 1993, ông A làm một cuộc thuyết trình và sau đó công bố bài thuyết trình trên nhiều tờ báo Việt ngữ tại hải ngoại. Trong bài thuyết trình này ông chấp nhận đường lối hòa giải và hòa hợp dân tộc trong một số điều kiện. Những điều kiện này được ông trình bày một cách khá rõ rệt, nó chứng tỏ lập trường chống cộng của ông vẫn không thay đổi, nghĩa là vẫn mãnh liệt như trước. Điều mà ông trình bày chỉ là một chiến lược để sớm chấm dứt chế độ cộng sản và thiết lập dân chủ mà thôi. Chỉ có một điều sơ suất là ông đã trích dẫn sai lời tuyên bố của Võ Văn Kiệt, ông nói ông Kiệt chấp nhận "hòa giải dân tộc" trong khi thực ra ông Kiệt chỉ kêu gọi "hòa hợp dân tộc", hiểu theo nghĩa đoàn kết dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản mà thôi. Có lẽ vì lúc viết, ông A không có bản văn trong tay chứ không phải ông bênh vực Võ Văn Kiệt. Lập trường chống cộng của ông được phát biểu rất rõ rệt.

Nhưng chỉ cần như thế cũng đủ để ông B phản ứng bằng một bài báo gay gắt, lên án ông A là cơ hội chủ nghĩa, đón gió trở cờ, phản bội lý tưởng của mình trước đây. Không những thế, ông B còn vạch những chi tiết trong liên hệ riêng tư để chứng tỏ ông A là người không ra gì. Rõ ràng là đánh thẳng tay, đánh cho chết luôn.

Dĩ nhiên ông A không để yên. Ông trả đũa bằng một bài báo rất độc. Bài báo tuy không xuyên tạc lập trường và cuộc đời của ông B nhưng dùng những lý luận rất công phu để chứng tỏ ông B là một con người thiếu tế nhị, vi phạm những qui luật sơ đẳng nhất của đạo đức. Rõ ràng cũng là đánh lại thẳng tay, đánh cho chết luôn.

Bình thường ra, ông B có quyền buồn phiền về sự thay đổi lập trường - nếu ông nghĩ là có - của ông A. Ông có thể phản bác lại, đó là quyền của ông và hơn thế nữa, đó là phản ứng tự nhiên của một người đấu tranh chính trị. Nhưng tại sao ông có thể phản ứng một cách cạn tàu ráo máng như thế ? Ngược lại, nếu ông B đã lỡ viết ra một bài như thế, thì ông A hoặc có thể bỏ qua, hoặc có thể biện minh, nhưng sao lại ra tay tàn nhẫn như vậy ?

Nhưng chúng ta không bình thường. Người Việt Nam chúng ta trong tiềm thức không ưa nhau, chúng ta có sẵn một bản năng tiêu diệt lẫn nhau, chỉ đợi cơ hội là bùng phát.

Anh em Thông Luận chúng tôi, và cá nhân tôi, đã là đối tượng của những đả kích rất gay gắt, xuyên tạc và mạ lỵ. Nhưng chúng tôi hằng bảo nhau là phải coi chừng cái tâm lý thù ghét nhau và phải đè bẹp nó, không cho nó cơ hội cất cái đầu xấu xa của nó lên. Chúng tôi đã im lặng trước mọi công kích, chúng tôi chỉ tiếp tục tranh đấu cho lập trường của mình mà thôi. Tưởng như thế là yên thân, không ngờ chúng tôi lại bị nhiều người buộc tội vì chính sự chịu đựng đó.

Tôi nói chuyện với cô Thụy Giao, chủ bút báo Xây Dựng tại San José, và cô Thụy Giao lên án chúng tôi : "Các anh khinh người quá, người ta đả kích các anh, các anh không thèm trả lời, như thế là các anh coi mọi người là đồ bỏ !".

Tôi trả lời : "Chúng tôi có trả lời đấy chứ, chúng tôi đọc những bài đả kích và rút kinh nghiệm để trình bày rõ lập trường của chúng tôi, giải đáp những chất vấn đã nêu ra".

Mà thực tế là như thế.

Thực ra chúng tôi cũng muốn trả lời một cách trực tiếp, nhưng những bài đả kích gay gắt và hằn học quá, rõ ràng các tác giả không muốn đối thoại.

Làm thế nào để khỏi bị lên án? Có lẽ không có cách nào cả vì người Việt chúng ta mang sẵn cái bản năng buộc tội và kết án lẫn nhau ở trong lòng. Chúng ta cần cảnh giác coi chừng chính mình.

********************

 

Phương pháp và gắn bó

 

phuongphap

Năm 1964, nước Pháp lấy quyết định công nhận và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Hoa Lục Địa. Quyết định này có nghĩa là họ chấp nhận điều kiện của Bắc Kinh, thôi không nhìn nhận Đài Loan là đại diện chính thức của Trung Hoa nữa và cũng không nhìn nhận Đài Loan là một quốc gia mà chỉ là một phần của nước Trung Hoa do Bắc Kinh đại diện.

Trong cuộc họp báo công bố quyết định này, tướng De Gaulle, tổng thống Pháp lúc đó, nói về nước Trung Hoa như sau : "Trung Hoa, quốc gia vĩ đại với lịch sử dài hàng ngàn năm, nơi mà từ thế hệ này qua thế hệ khác sự khéo léo của con người đã bù đắp lại sự thiếu sót về phương pháp và gắn bó..." [La Chine, pays immense à l'histoire millénaire où depuis des générations l'industrie des hommes a compensé le défaut de méthode et de cohésion...].

Hơn ba mươi năm đã trôi qua kể từ ngày tôi ngồi trước máy truyền hình theo dõi cuộc họp báo của tướng De Gaulle nên có thể tôi không nhắc lại được đúng những lời của tướng De Gaulle, nhưng ông đã nói gần gần như thế. Tôi đã cố viết lại câu nói tiếng Pháp của ông vì sự hiện diện của hai danh từ quan trọng : méthode [method trong tiếng Anh] và cohésion [cohesion]. Dịch hai tiếng này không phải dễ.

Phải dịch cohésion là gì ? Nó là một tình trạng của một toàn bộ, trong đó mọi thành tố phù hợp với nhau, bổ túc cho nhau, hỗ trợ cho nhau để tạo ra một tổng thể chung bền vững. Tạm dịch là gắn bó. Tiếng Việt ta không có từ ngữ để diễn tả khái niệm này bởi vì người Việt ta không có ý niệm cohésion. Vì không có giác quan về sự gắn bó [cohésion] nên người Việt ta không thể kết hợp với nhau để làm những công trình lớn, gồm nhiều phần và đòi hỏi sự đóng góp của nhiều người với nhiều tài năng khác nhau.

Méthode thì ta có tiếng phương pháp. Từ ngữ này không thấy trong văn học và tài liệu của ta trước thế kỷ 20. Có lẽ là ta đã dùng lại một chữ mà người Trung Hoa mới sáng chế ra gần đây để chỉ một khái niệm du nhập từ phương Tây. Tướng De Gaulle có lẽ cũng nghĩ là người Trung Hoa không có phương pháp. Trước đây, theo sự hiểu biết hạn hẹp của tôi, người Trung Hoa chỉ có chữ "phương" để chỉ một phương hướng (phương Đông, phương Tây), cũng có những chữ "phương" có nghĩa khác, thí dụ là thơm hay đầy đặn. Ngoài ra người Trung Hoa còn có còn chữ "pháp" để chỉ qui luật, phép tắc. Thí dụ như Tôn Tử binh pháp có nghĩa là qui luật dùng binh của Tôn Tử.

Chữ "phương pháp" được người mình hiểu là cách làm, nhưng như vậy không đúng với nội dung của từ méthode. Méthode có nghĩa đó thực nhưng trong khoa học tổ chức còn có nghĩa phong phú hơn nhiều, và nghĩa này thì tôi thấy tuyệt đại đa số người Việt không biết đến. Vì thế mặc dầu đã có danh từ phương pháp nhưng thật ra ta vẫn chưa có phương pháp.

Phương pháp trong khoa học tổ chức bao gồm một cố gắng phân tích một công trình, tìm ra những yêu cầu về khả năng, phương tiện, vật liệu, thời hạn, kiểm điểm những gì mình đã có và những gì cần phải thụ đắc, chia công trình hay dự án ra làm những thành phần, quyết định sử dụng kỹ thuật nào cho mỗi phần, quyết định ai làm gì và làm như thế nào, vào lúc nào, theo dõi diễn tiến của dự án như thế nào, lấy những tiêu chuẩn nào để kiểm tra sự tiến hành nghiêm túc. Và điều quan trọng hơn hết là phương pháp phải được mọi người có trách nhiệm trong dự án hiểu biết và áp dụng. Phương pháp phải duy nhất trong dự án. Không thể có nhiều phương pháp trong một dự án bởi vì phương pháp cũng là ngôn ngữ chung cho cả dự án. Mọi người phải nói cùng một thứ tiếng. Mỗi từ ngữ phải có ý nghĩa rõ rệt của nó và phải có cùng một nghĩa đối với mọi người.

Trong sinh hoạt nghề nghiệp của tôi, từ kỹ sư, dự án trưởng, đến giám đốc kỹ thuật, tôi đã tham gia vào nhiều dự án thuộc khá nhiều ngành. Bất cứ một dự án nào người ta cũng có thể chọn lựa giữa nhiều phương pháp.

Các công ty lớn trước khi bắt đầu thực hiện một công trình dành rất nhiều thì giờ cho phương pháp. Họ hội họp rất nhiều và thảo luận rất kỹ càng để yên trí mọi người hiểu rõ phương pháp đã được chọn lựa, và biết chắc mình phải làm gì và làm như thế nào.

Ngay cả các tài liệu thông tin nội bộ cũng có mẫu rõ ràng. Dự án càng mới, kỹ thuật càng hiện đại thì càng cần nhiều thì giờ cho phương pháp. Tôi từng tham dự vào một dự án chỉ kéo dài một năm mà trong đó có hai tháng hội họp để chỉ bàn về phương pháp và sau đó trong các buổi họp hàng tuần phương pháp luôn luôn được nhắc lại.

Nghe tướng De Gaulle nói về người Trung Hoa như vậy tôi nghĩ thầm nếu người Trung Hoa không những khéo léo mà còn có cả phương pháp và sự gắn bó thì họ đâu đến nỗi thoái hóa như ngày hôm nay.

Trong "Việt Nam Sử Lược", Trần Trọng Kim nhận định : "Nước ta về văn hóa, tư tưởng, nếp sống đều bắt chước theo người Tàu, nhưng cái gì cũng sau người Tàu một bước". Nhiều người còn chua chát nhận định văn hóa, tư tưởng Việt Nam chỉ là một cóp nhặt của văn hóa, tư tưởng Tàu, và người Việt chỉ là một ấn bản mờ nhạt của người Tàu.

Nhận xét này tuy hơi tàn nhẫn nhưng không phải là sai. Người Việt Nam còn thiếu phương pháp hơn người Tàu nhiều, như tôi có thể nhận thấy ngay trong các tiệm ăn Tàu nhỏ. Người hầu bàn tính tiền rất chính xác mà không cần nhớ hay đọc lại phiếu đặt hàng. Họ xếp một chồng đĩa nhựa nhỏ ở góc bàn ăn, mỗi đĩa theo màu sắc là một món có giá nhất định. Chỉ cần đếm đĩa là họ tính tiền được ngay. Trong bữa ăn so sánh số đĩa trên bàn với phiếu đặt hàng họ biết còn thiếu những món gì. Giản dị và hiệu quả.

Sự thiếu sót về gắn bó của người Việt có thể nhận thấy rõ ràng trong các cơ quan chính quyền, các công ty, nhất là các công ty quốc doanh, và các hội đoàn. Tôi chưa được thấy một đơn vị nào mà mọi người làm việc nhịp nhàng với nhau. Tôi chưa thấy một người lãnh đạo nào hiểu rằng vai trò của người lãnh đạo trước hết là tạo ra và giữ gìn sự gắn bó của đơn vị. Cơ quan này phá đám cơ quan kia, trong cùng một cơ quan đơn vị này bất chấp đơn vị kia cần gì và làm gì. Có khi cùng một đơn vị mà ở hai phòng khác nhau hai người đang làm cùng một việc, trong khi có những việc rất cần làm mà không ai làm.

Lý do của sự thiếu đồng bộ là vì người Việt Nam không ưa nhau như đã nói trong phần trước, nhưng cũng vì ý niệm tìm kiếm đồng thuận hình như vắng bóng trong đầu óc người Việt. Chúng ta chỉ biết áp đặt và khi không thể áp đặt thì chúng ta bất lực. Một thí dụ đã kéo dài hai mươi năm qua tại hải ngoại là những cố gắng để kết hợp các tổ chức, trong tinh thần rất cẩu thả nhưng được diễn tả một cách rất kêu là "gạt bỏ mọi dị đồng chính kiến". Nhưng như thế nào là gạt bỏ dị đồng chính kiến ? Gạt bỏ chính kiến của ai ? Hay gạt bỏ mọi chính kiến ? Nếu vậy thì "ngồi lại với nhau" để làm cái gì ? Nhưng dĩ nhiên là không ai chịu gạt bỏ chính kiến của mình cả. Và dĩ nhiên giấc mơ kết hợp chỉ là hoang tưởng. Làm thế nào để kết hợp những tổ chức không theo đuổi cùng một mục đích, không sử dụng cùng một phương tiện, và nhất là không bao giờ chấp nhận ai hơn mình ?

Khi tôi tới Paris hồi cuối năm 1982, một số thân hữu rủ tôi lập một tổ chức, tổ chức đó sau này được gọi là nhóm Thông Luận, rồi Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Tôi đã đề nghị là hãy dành hai năm để chỉ thảo luận với nhau mà thôi, và sẽ chỉ thành lập một tổ chức khi đã đồng ý với nhau trên tất cả những vấn đề cần được đặt ra, trên tầm quan trọng của mỗi vấn đề, và trên hướng giải quyết của những vấn đề đó. Và sự đồng ý đó phải được ghi nhận trên giấy trắng mực đen. Kết quả của hai năm làm việc đó là tập tài liệu "Cơ Sở Tư Tưởng". Sau khi tập tài liệu thành hình, chúng tôi ngừng gặp nhau một thời gian để mọi người suy nghĩ một mình và quyết định đi tới hay không đi tới. Chính nhờ thế mà sau này dù bị nhiều vu cáo, đánh phá, chúng tôi vẫn gắn bó với nhau. Trong khi đó tôi đã quan sát nhiều tổ chức tan rã bởi vì sau một thời gian hoạt động mọi người khám phá ra rằng thực ra mình không đồng ý với nhau như đã quá lạc quan mà tin tưởng lúc ban đầu.

Thiếu gắn bó cũng là một hậu quả tự nhiên của thiếu phương pháp. Mỗi người hiểu một cách, mỗi người làm một cách, làm sao có thể hoạt động được với nhau ? Một kỹ sư Việt Nam tốt nghiệp sau năm, sáu năm miệt mài ở đại học, có khi tốt nghiệp xong còn bỏ thì giờ học thêm hai ba bằng cấp khác, nhưng lại không chịu bỏ ra một hai tuần lễ để đọc một quyển sách về phương pháp trong ngành của mình, hay ngay cả một cuốn sách về phương pháp làm việc trong mọi ngành : cách cư xử với đồng đội, cách giao thiệp với cấp trên, cách điều khiển một đơn vị. Có người vào làm trong một công ty mà sau hai ba năm vẫn chưa thèm đọc sơ đồ tổ chức của công ty.

Sự thiếu phương pháp của người Việt không những chỉ thể hiện trong công việc mà còn cả trong đời sống hằng ngày. Tôi rất ít gặp những người Việt Nam giữ một cuốn nhật ký, hay đặt ra những mục tiêu mình phải đạt tới trong tháng, trong năm để có thể nhìn lại mình, kiểm điểm và rút kinh nghiệm, trong khi đó là điều mà đại đa số người phương Tây đều làm. Phương pháp làm việc của chúng ta là cứ đến đâu hay đến đó.

Chọn người bạn đường, vợ hay chồng, có lẽ là vấn đề quan trọng nhất của một đời người, quan trọng hơn danh vọng, bằng cấp và tài sản bởi vì nó quyết định cuộc đời ta sẽ sung sướng hay đau khổ. Các cụ thường nói : "Trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng". Tuy vậy đã có bao nhiêu thanh niên nam nữ, đặt vấn đề hôn nhân một cách nghiêm túc và giải quyết một cách đứng đắn ? Lấy vợ chồng ẩu, rồi sống cuộc sống hôn nhân cũng ẩu. Hầu như tất cả trai gái Việt Nam trước khi lấy vợ lấy chồng đều không chịu đọc một cuốn sách nào về đời sống gia đình, về tâm lý bạn trai bạn gái, liên hệ tình cảm và tình dục giữa vợ chồng, về những niềm vui và ràng buộc của lứa đôi, mặc dầu đó là một vấn đề rất phức tạp. Thế rồi bực bội, cãi cọ, gia đình không có hạnh phúc, hay không có hạnh phúc như có thể có. Điều ngộ nghĩnh nhất là các lớp huấn luyện chuẩn bị cho hôn nhân thường diễn ra trong các chùa hay các nhà thờ do các linh mục và đại đức hướng dẫn, trong khi trên nguyên tắc họ là những người ít có thẩm quyền nhất để bàn về đời sống vợ chồng.

Có rất đông người có tới sáu bảy con (số con thường là một sự tình cờ không có chủ đích trước) mà không hề học hỏi bao giờ về tâm lý trẻ thơ và cách giáo dục con cái. Rồi ngạc nhiên là con cái mỗi đứa một tính và kết luận "cha mẹ sinh con, trời sinh tính".

Cái may mắn nhất của tôi khi được đi du học không phải là những kiến thức (tôi đã có thể tự học trong sách) mà là được nhìn, được sống, làm quen và làm việc với những người thuộc các dân tộc tiến bộ. Kết luận của tôi rất rõ ràng và đau đớn : so với họ, người Việt Nam mình thiếu phương pháp một cách thê thảm.

********************

 

Phá vỡ định luật 8

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 20

Tôi có một người bạn rất say mê Kinh Dịch và thuộc lòng tất cả các quẻ bát quái. Anh ta giải thích cho tôi rằng con số 8 là một con số kỳ diệu. Nó là một kết hợp chắc và mạnh nhất.

Là một nhà khoa học, anh ta càng phục quẻ bát quái vì nó có một kiểm chứng khoa học. Các nguyên tử mà vòng ngoài có 8 điện tử [électrons] là những nguyên tử chắc nhất. Anh ta thán phục người Trung Hoa từ đời nhà Chu đã khám phá ra những nguyên lý kỳ diệu. Anh ta tin là vào đời nhà Chu, nước Tàu đã tiến tới một trình độ văn minh rất cao siêu mà về nhiều mặt thế giới hiện nay chưa bắt kịp.

Để thuyết phục tôi, anh ta dẫn chứng những kinh nghiệm tổ chức. Các buổi họp 8 người là tốt nhất, các tổ chức khoảng 8 người là những tổ chức hiệu lực nhất. Điều này người ta có thể quan sát được. Nhiều tổ chức lúc đầu khi mới thành lập với một số thành viên dưới 10 người thì lành mạnh và hiệu lực lắm, sau khi bành trướng ra thì lủng củng, chia rẽ, rồi tan rã.

Tuy nhiên, điều anh bạn giải thích một cách huyền bí khoa học tổ chức có thể giải thích một cách kỹ thuật.

Khi hai người thảo luận với nhau thì rất giản dị, người nọ nói người kia tiếp thu và ngược lại, chỉ có hai luồng giao cảm từ người nọ đến người kia và ngược lại.

Nhưng khi ba người A, B, C trao đổi với nhau thì có tới 12 luồng giao cảm : hai giữa A và B, hai giữa A và C, hai giữa B và C, hai giữa A và nhóm hợp thành bởi B và C, hai giữa B và nhóm hợp thành bởi A và C, và sau cùng hai luồng giao cảm giữa C và nhóm hợp thành bởi A và B. Bằng ấy luồng giao cảm qua lại trong một phối hợp giữa ba người mà thôi. Số luồng giao cảm tăng lên một cách rất nhanh chóng với số người tham dự. Bạn đọc nào thích toán hãy thử làm tính sẽ thấy nếu có năm người số lượng giao cảm qua lại là hơn một ngàn. Khoa học tổ chức kết luận một cách quả quyết là không thể chờ đợi một kết luận thông minh nào ở những buổi họp có quá 5 người bình đẳng với nhau về mọi mặt.

Trong thực tế cũng có những buổi họp có rất đông người mà vẫn có kết quả tốt nhưng đó là những buổi làm việc rất đặc biệt. Đó thực ra là những buổi họp có tính thông tin, trong đó một người, hay một vài người, thuyết trình và thông báo những quyết định cho cử tọa, phần còn lại chỉ ghi nhận. Cũng có những buổi họp tuy trên lý thuyết là thảo luận nhưng trong đó một người hay một vài người có vai trò vượt trội hơn những người khác, những luồng giao cảm ít ỏi liên hệ tới họ mạnh hơn hẳn và lấn át những luồng giao cảm khác, giản dị hóa sự trao đổi và giúp cho buổi họp đạt kết quả.

Vì trong thực tế không thể có 8 người thực sự bình đẳng với nhau về mọi mặt nên con số 5 lý thuyết của khoa học tổ chức có thể nâng lên 8.

Xem như thế cái định luật 8 của anh bạn tôi không có gì là huyền bí và không chứng tỏ sự hiểu biết sâu xa của Kinh Dịch về sự mầu nhiệm của tạo hóa. Nó chỉ là một vấn đề cụ thể của tổ chức và phương pháp.

Nếu trong những điều kiện tuyệt đối khách quan, 5 người là con số tối đa để có thể làm việc với nhau, thì trong những điều kiện bình thường và tự nhiên trong cuộc sống, 8 là con số trung bình. Trong những điều kiện tự nhiên luôn luôn có một hay một vài nhân vật nổi hơn phần còn lại và tạo ra quanh họ những liên hệ mạnh hơn hẳn và giữ cho tập thể được gắn bó.

Cũng có thể là vì một mục đích, một mục tiêu chung đủ rõ rệt đối với mọi người, mà những luồng giao cảm giữa các thành phần bớt đi phần quan trọng so với những luồng giao cảm của mọi người với những người có trách nhiệm thực hiện mục tiêu, với điều kiện là những người có trách nhiệm được chỉ định theo một thể thức chấp nhận được cho tất cả mọi người. Đó là cái tại sao của các nền dân chủ. Đó là lối thoát ra khỏi cái giới hạn khe khắt của định luật 8. Một lối thoát khác là kỷ luật sắt và khủng bố.

Người Việt Nam ta vì dành quá ít suy nghĩ và tìm tòi cho phương pháp mà thiếu hẳn khả năng làm việc có tổ chức. Do đó hoặc là chúng ta làm cho một tổ chức có sẵn và chịu sự lãnh đạo một cách thụ động, hoặc chúng ta lập ra một tổ chức rồi tổ chức tan rã sau khi đã tăng trưởng quá mức giới hạn.

Vì không biết tới phương pháp, nhiều khi ta không ý thức được sự cần thiết và nghiêm chỉnh của phương pháp. Tôi đã dự không biết bao nhiêu buổi họp, trong đó nhiều người nói một cách chắc nịch : "Phải làm như thế này...". Chỉ cần nghe họ phát biểu, tôi cũng có thể nhận ngay ra rằng họ không biết gì về phương pháp cả, hay chỉ nghe nói tới một cách rất lơ mơ. Nhưng họ cứ phát biểu vung vít, nói một cách rất quả quyết. Đôi khi có những người nói đúng, chứng tỏ có kinh nghiệm làm việc tập thể, nhưng tiếng nói của họ chìm đắm trong vô số phát ngôn bừa bãi khác, và cử tọa không đủ hiểu biết để phân biệt cái đúng với cái sai. Kết quả của những buổi "ngồi lại với nhau" như thế chẳng có gì khó dự đoán. Người ta không làm được gì và chỉ chia tay nhau với kết luận hậm hực rằng anh này, anh kia nói bậy không biết gì cả. Nhưng người ta không chịu nhìn nhận rằng chính mình cũng không biết gì cả và chỉ nói khơi khơi. Đã không biết thể nào là đúng thì làm sao biết được mình sai ?

Tôi cũng đã chứng kiến không biết bao nhiêu cố gắng để kết hợp hàng chục đoàn thể với nguyên tắc đặt ra là bình đẳng tuyệt đối giữa các thành viên, một nguyên tắc được coi là đứng đắn, rồi đi đến đề nghị lãnh đạo luân phiên, một nguyên tắc cũng được coi là rất công bình. Mỗi lần như thế tôi biết trước chắc chắn là họ sẽ mất thì giờ vô ích. Không những vô ích mà còn rất có hại vì sau khi đã kết hợp với nhau và thất bại người ta còn đổ lỗi cho nhau.

Thiếu phương pháp làm việc chung là nhược điểm trầm trọng của người Việt, là lý do tại sao chúng ta thua kém các dân tộc khác mà trình độ hiểu biết có thể không hơn ta. Nó giải thích tại sao ba người Việt thua ba người Nhật ngay cả nếu mỗi người Việt không thua mỗi người Nhật.

Phương pháp có thể học được một cách tương đối dễ dàng rồi theo thực tế mà nhuần nhuyễn. Nhưng chúng ta không những không có phương pháp mà còn không chịu học hỏi phương pháp bởi vì học hỏi về phương pháp là một học hỏi thực dụng không đem lại hai bằng tiến sĩ. Cuối cùng chúng ta không có cả ý thức về phương pháp. Yêu cầu cấp bách của chúng ta là phải phá vỡ định luật 8. Nó chỉ huyền bí vì chúng ta không biết những qui luật thông thường của sinh hoạt tập thể. Phá vỡ nó không khó lắm vì môn tâm lý xã hội còn dễ hơn cả nhiều môn mà chúng ta đã học một cách thành công. Nhưng chừng nào nó vẫn còn đó như một chân lý huyền bí thì định luật 8 vẫn là cái cũi giam hãm chúng ta trong sự chia rẽ, đố kỵ và thua kém.

********************

 

Hợp tan

 

 

hoptan

La Quán Trung mở đầu truyện Tam Quốc bằng câu : "Phàm việc lớn trong thiên hạ cứ hợp rồi lại tan, tan rồi lại hợp". Hợp tan là một triết lý trong tư tưởng Á Đông. Có người nói nó là một lẽ tự nhiên của tạo hóa, bởi vì có âm thì có dương, có cùng thì có thông, có tuần thì có hoàn như Kinh Dịch đã nói.

Nhưng tại sao cứ hợp rồi lại tan ? Hợp thì dễ hiểu vì hợp quần gây sức mạnh, con người tìm sức mạnh và sự thành công trong hợp quần. Nhưng tại sao hợp rồi lại tan ? Có phải thực sự là lẽ trời không ? Hay ta quen đổ cho ông Trời những gì ta không giải thích được. Ông Trời có sức mạnh vô biên mà cũng có xương sống đủ vững chắc để nhận tất cả những gì mà ta chất lên lưng ông.

Xin thưa là không, chẳng có lý do mầu nhiệm nào cả. Sự nhiệm mầu có chăng là ở chỗ sau quá nhiều hợp tan người Á Đông, và nhất là người Việt Nam, vẫn chưa ý thức được sự cần thiết của phương pháp và tổ chức. Khoa học xã hội khẳng định mỗi kết hợp là một sinh vật riêng, một sinh vật phức tạp, khác với những cá nhân cấu tạo ra nó. Sức khỏe của sinh vật phức tạp đó là đồng thuận giữa các thành viên. Đồng thuận mạnh, tập thể mạnh. Đồng thuận yếu, tập thể yếu. Đồng thuận mất, tập thể tan. Không có gì là huyền bí cả.

Cứ lấy thí dụ một kết hợp lỏng lẻo nhất trong mọi kết hợp : những người đi cùng một chuyến xe lửa. Họ cũng phải có đồng thuận. Họ phải đồng ý với nhau trên khá nhiều mặt : cùng một mục đích là đi từ điểm này tới điểm nọ trên một lộ trình, đồng ý rằng xe lửa là phương tiện tốt nhất, đồng ý rằng ai lên trước thì được chỗ ngồi, ai tới sau không được xô người khác để chiếm chỗ, đồng ý rằng đi xe phải mua vé, v.v... Khi xe lửa tới nơi, đồng thuận không còn nữa và tập thể tan.

Lẽ hợp tan ngày xưa có thể giải thích như thế này : gặp thời loạn lạc ước nguyện của mọi người là có hòa bình để được sinh sống yên ổn. Tái lập hòa bình và kỷ cương là đồng thuận. Đồng thuận này đủ mạnh để động viên mọi người quanh một con người may mắn được nhìn như là hy vọng. Hòa bình thiết lập được rồi, một thời kỳ thịnh trị mở ra vì đồng thuận kế tiếp của mọi người là cố gắng để mưu tìm sự sung túc. Sau một thời gian, khi sự sung túc đã tạm thời đạt được, đồng thuận yếu dần đi, những xung khắc quyền lợi ngày càng gia tăng rồi loạn lạc và tan rã. Các anh quân, minh chúa có thể làm cho đồng thuận mạnh thêm và kéo dài các triều đại, nhưng nếu không có những thay đổi cơ bản trong chiều sâu của xã hội thì lẽ hợp tan là điều dĩ nhiên.

Một tập thể là một sinh vật rất phức tạp cần được quản lý một cách rất có phương pháp. Tập thể càng lớn, đồng thuận càng khó quản lý. Chín người mười ý. Nếu không cẩn thận, tập thể có thể tan vì chính sự lớn mạnh của mình.

Tôi sang Paris năm 1961, lúc đó có một Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Pháp do một số sinh viên thân miền Nam lãnh đạo. Nói chung họ là những người tốt, ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm do lý trí hơn là do tình cảm. Chế độ Ngô Đình Diệm không được lòng người nên tổng hội này yếu. Khi chính phủ Ngô Đình Diệm đổ, có một cố gắng lớn để thành lập một tổng hội sinh viên khác. Lúc đó sinh viên Việt Nam đã đông hơn và các hoạt động thành lập tổng hội sinh viên diễn ra rất sôi nổi. Có rất nhiều nhóm ra đời giành nhau vai trò lãnh đạo tổng hội, nhóm nào cũng có nhiều người giỏi với tổ chức có qui củ. Nhưng rồi họ dần dần lủng củng và yếu đi trước khi tổng hội sinh viên được thành lập.

Tôi chỉ theo dõi một cách bàng quan những hoạt động đó. Lúc đó chúng tôi có một nhóm bạn bè nhỏ, đa số những sinh viên học để thi vào các "trường lớn" [grandes écoles]. Nước Pháp có hai hệ thống giáo dục đại học song song, một hệ thống đại học bình thường đào tạo cử nhân, tiến sĩ và một hệ thống riêng của các trường lớn. Chúng tôi chẳng có tổ chức gì cả, chỉ chơi với nhau trên tinh thần bạn bè. Ít ai có ý thức chính trị, nhưng bù lại chúng tôi đều có thiện chí và đều biết điều, và vì tất cả đều khá sáng dạ nên cái gì chưa biết cũng có thể học hỏi nhanh chóng và sau đó biết lý luận để phân biệt phải trái.

Các nhóm tranh nhau tổng hội cuối cùng đều suy yếu và tan rã đi, chính tổng hội cũng sắp tan rã, cuối cùng chúng tôi không giành mà được đẩy ra nắm ban chấp hành tổng hội. Từ đó chúng tôi đặt ra một nếp sinh hoạt lành mạnh cho tổng hội, khiến tổng hội sống vững mãi cho đến nay. Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris tới nay đã gần bốn mươi tuổi, và là tổ chức không cộng sản lâu đời nhất tại hải ngoại. Sự thành công trong việc làm sống lại một tổng hội sinh viên sắp chết và cho nó một nội lực để có thể kéo dài khiến chúng tôi được rất nhiều người khen là xuất sắc. Nhưng lý do không phải như thế. Chúng tôi đã thành công và đứng vững chỉ vì chúng tôi không phức tạp, chúng tôi không đặt ra những cơ chế rườm rà như những nhóm khác nên đã tránh được những mâu thuẫn nội bộ. Khi nắm được ban chấp hành, chúng tôi đã chẳng câu nệ chủ tịch, tổng thư ký, ủy viên ; chúng tôi còn không phân biệt cả người trong ban chấp hành và người ngoài ban chấp hành. Cứ cùng một nhóm bạn bè, cùng đồng ý ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa, còn việc thì cứ ai làm được là làm. Lối làm việc giản dị đó mà thành công hơn hẳn vì chúng tôi có những đồng thuận rõ ràng và gắn bó với nhau. Không phải là chúng tôi đã không gặp những vấn đề nan giải. Chẳng hạn như khi các tướng tá tỏ ra tham nhũng và vô tư cách, chúng tôi nhận xét là không thể duy trì đồng thuận ủng hộ chính quyền Sài Gòn nữa. Chúng tôi bèn họp nhau lại thảo luận trong nhiều "đêm không ngủ" và cùng đi tới kết luận ủng hộ chính thể cộng hòa chứ không ủng hộ chính phủ Sài Gòn. Tổng hội lại đứng được. Bí quyết thành công của chúng tôi có lẽ là vô tình chúng tôi đã làm việc có phương pháp : không ai bịa đặt ra vấn đề, phân tích rõ các vấn đề đặt ra, giản dị hóa tối đa, rồi tìm giải pháp dễ thực hiện nhất. Các tổ chức khác đã tan vì họ quá phức tạp. Họ đặt ra những cơ chế và những chức vụ không cần thiết, họ đặt ra những vấn đề mà họ không giải quyết được. Họ nghĩ là họ có tổ chức hơn chúng tôi và ngạc nhiên tại sao họ tan rã trong khi chúng tôi vẫn sống mạnh.

Gần đây, năm 1993, một tổ chức thanh niên sinh viên Việt Nam tại Pháp có tổ chức rất thành công một ngày gặp gỡ và thảo luận. Các trao đổi đã diễn ra ở một trình độ rất cao, mọi người đều thỏa mãn, uy tín của tổ chức đó lên rất cao. Tuy nhiên thực tế hơi khác.

Việc chuẩn bị và tổ chức ngày hội thảo đó đã rất phức tạp và đã gây ra những xích mích đáng tiếc trầm trọng trong nội bộ. Sau đó ban chấp hành tan rã. Họ đã làm một công việc quá sức họ. Quá sức có nghĩa là họ đã làm một công việc khó khăn hơn mức độ mà sự đồng thuận của họ cho phép. Đây là một trường hợp điển hình. Tôi có thói quen hễ nghe tin một tổ chức nào vừa làm xong một công tác lớn được mọi người ca tụng là lại lo thầm rằng tổ chức đó sắp có vấn đề.

Sau khi tan rã, người ta giận ghét nhau, gán cho nhau vô số tính xấu : lưu manh, gian dối, vô trách nhiệm, vô tư cách, v.v... Người ta giải thích bằng những lý do đạo đức một sự kiện chỉ giản dị là hậu quả của sự thiếu hiểu biết phương pháp làm việc tập thể.

Người Việt Nam chúng ta không làm việc chung được với nhau bởi vì chúng ta không ý thức được rằng đồng thuận là sức khỏe của mọi kết hợp và một tổ chức muốn sống phải giữ được đồng thuận. Giữ đồng thuận đòi hỏi mọi người hy sinh ý kiến riêng của mình. Chúng ta không quan tâm giữ gìn đồng thuận mà chỉ đòi thực hiện cho bằng được ý kiến của riêng mình. Chúng ta thiếu giác quan đồng thuận.

Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi kể tội quân Minh bằng một câu rất lạ : "chấp nhất kỷ chi kiến, giá họa ư tha nhân" [chỉ biết có ý kiến của riêng mình, luôn luôn cáo buộc người khác]. Tôi có cảm tưởng Nguyễn Trãi kể tội đồng bào của chính ông. Câu trên Trần Trọng Kim dịch là "cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người". Câu dịch thật là sai ý của tác giả. Quân Minh sang nước ta để cướp bóc, có chính nghĩa nào đâu để có thể "cậy mình là phải" ? Bản dịch đã không lột được một ý chắc đã dằn vặt tác giả nhiều lắm trong cuộc vận động kết hợp để giải phóng đất nước, và làm ông nhức nhối đến nỗi ông viết một câu lạc lõng vào một bài lên án quân xâm lược.

********************

 

Anh hùng nước Nam

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 22

Hồi còn ở tiểu học, tôi có làm một bài luận với đầu đề : "Trong những anh hùng nước Nam, em thích vị nào nhất ? Hãy nói tại sao ?". Bài luận này rất phổ thông, hình như người nào học tiểu học chương trình Việt cũng đã gặp. Chỉ sau khi đảng cộng sản nắm chính quyền, câu hỏi mới không đặt ra nữa, vì lúc đó người anh hùng vĩ đại nhất từ xưa đến nay của Việt Nam dĩ nhiên bắt buộc phải là chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tôi chọn vua Quang Trung, tức Nguyễn Huệ. Lý do là vì ông ấy giỏi võ và đánh thắng năm mươi vạn quân Thanh tại trận Đống Đa. Trong lớp tôi có tới gần một nửa cũng chọn Nguyễn Huệ. Phần còn lại chọn Trần Hưng Đạo, Đinh Tiên Hoàng, một vài đứa chọn Ngô Quyền, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Lê Lai, Trần Quốc Toản, Lý Thường Kiệt.

Sau khi du học Pháp về tôi hỏi một số giáo viên tiểu học về bài luận. Họ cho biết năm nào cũng ra đề tài này và Nguyễn Huệ luôn luôn về nhất khá xa, kế tiếp là Trần Hưng Đạo, Đinh Tiên Hoàng. Thỉnh thoảng có Nguyễn Trãi, Ngô Quyền, Trần Bình Trọng, Nguyễn Công Trứ.

Nói chung ba ngôi vị đầu vẫn thế, ở đoạn cuối bảng danh dự đã bắt đầu xuất hiện những nhân vật mới có thành tích về văn hóa. Nhưng mẫu số chung giữa các vị anh hùng này vẫn không đổi : tất cả đều là võ tướng. Nguyễn Trãi tuy xuất thân là nho sinh nhưng đã cầm quân đi đánh giặc và làm quân sư (ở đây xin chú thích chữ "quân sư" thường được hiểu trong ngôn ngữ dân gian là người bày mưu kế nhưng thực ra nó có nghĩa là tư lệnh, các quân sư được ra lệnh cho các tướng). Nguyễn Công Trứ tuy có sự nghiệp văn chương lớn, nhưng cũng là võ tướng, cầm quân đánh dẹp khắp nơi, từng là Bình Tây Đại Tướng, ông được coi là người văn võ kiêm toàn.

Tuyệt đối không thấy Nguyễn Du, Lê Quí Đôn, Chu Văn An, Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Phan Huy Chú. Như thế anh hùng của Việt Nam bắt buộc phải là võ tướng, và hơn thế nữa phải thắng trận. Trần Bình Trọng, Lê Lai là những võ tướng được tôn vinh vì lòng can đảm, nhưng dần dần lọt sổ. Trường hợp Nguyễn Trãi có điều đáng nói. Ông giúp Lê Lợi, cầm quân đánh giặc giành lại được độc lập cho nước ta, nhưng gặp nạn ở cuối đời, bị tru di tam tộc, về sau mới được Lê Thánh Tông phục hồi danh dự. Sự oan nghiệt đó có lẽ đã không khiến ông xuất hiện một cách lộng lẫy dưới con mắt của trẻ thơ.

Trẻ thơ là tấm gương soi tâm hồn của một dân tộc. Từ những bài luận của học sinh tiểu học, phải suy ra rằng người Việt Nam có tâm lý tôn thờ bạo lực rất mạnh. Bạo lực càng nhiều, công đức càng cao.

Nguyễn Huệ xuất thân là tướng cướp, nhờ liên hệ với quân Thượng và quân gốc Chiêm Thành và đám cướp biển người Tàu mà mạnh dần lên, rồi nhờ tài dùng binh mà lên làm vua. Ông là người đặc biệt hung tợn và hiếu sát. Sự nghiệp của ông là những trận đánh khốc liệt, trong đó người Việt Nam tàn sát lẫn nhau ; chỉ có hai ngoại lệ là một trận đánh thắng quân Xiêm và một trận Đống Đa, trong đó ông phá tan quân Thanh. Trong một chương sau tôi sẽ trở lại với nhân vật Nguyễn Huệ và trận Đống Đa. Ở  đây tôi chỉ xin đưa một nhận định tạm thời. Nếu nhìn một cùách bình tĩnh thì công lao của Nguyễn Huệ thực ra không thấm tháp gì so với những tàn phá và chết chóc mà ông đã gây ra cho đất nước. Việc ông được tôn sùng quá đáng tố giác một tâm lý kính sợ bạo lực của người Việt Nam ; việc người ta tô vẽ cho ông những đức tính mà ông hoàn toàn không có như giỏi trị nước an dân, có lòng nhân ái, v.v... chứng tỏ rằng ta tôn sùng bạo lực tới độ ta sẵn sàng làm đẹp nó.

Hình như ta còn cho rằng chỉ có những chiến công mới là đáng kể, những gì đạt được phải đạt bằng bạo lực mới là hay. Chu Văn An đã viết ra nhiều sách, Lê Quí Đôn có công làm ra bộ tự điển bách khoa đầu tiên, Lê Văn Hưu mở đầu cho khoa sử ở nước ta, Ngô Sĩ Liên là người đầu tiên biết nhận định lịch sử một cách chính xác, có thể coi như nhà lý luận chính trị đầu tiên của nước ta, Phan Huy Chú là tác giả công trình biên khảo lớn nhất. Tuy vậy, tất cả đều không phải là những anh hùng dân tộc. Nguyễn Du chỉ được biết tới như một nhà thơ lớn.

Không những người cộng sản, mà cả những người chống cộng, đều nghĩ rằng thành tích to lớn nhất và cũng là nền tảng của sự chính đáng của đảng cộng sản là đã đánh Pháp, đánh Mỹ, đánh phe quốc gia. Nhưng nếu không đánh thì sao ? Nếu biết vận dụng trí tuệ để tranh đấu bất bạo động chắc chắn chúng ta cũng đã được độc lập và thống nhất không muộn hơn, mà lại không phải trải qua những đổ vỡ trầm trọng. Ta tôn thờ bạo lực ngay cả khi bạo lực có hại.

Người cộng sản không có độc quyền tôn thờ bạo lực. Việt Nam Quốc Dân Đảng dù không có một hy vọng mảy may nào thắng được người Pháp bằng bạo lực vẫn chủ trương dùng con đường bạo lực ngay từ đầu. Quyết định khởi nghĩa năm 1930 chỉ là một quyết định tự sát.

Sự hấp dẫn của bạo lực đối với chúng ta quá mạnh. Mạnh đến nỗi ta không những chấp nhận mà còn mơ ước bạo lực. Khi không có bạo lực, ta phải cố bịa đặt để tưởng tượng rằng mình có bạo lực.

Các tổ chức chống cộng hải ngoại trước đây đều đồng thanh chủ trương phải giải phóng quê hương bằng bạo lực, dù hoàn toàn không có phương tiện của bạo lực.

Ông Võ Đại Tôn có lực lượng gì đâu, ông chỉ cùng với hai ba người qua biên giới Lào chụp ảnh để gây ấn tượng trong cộng đồng người tị nạn. Ông Hoàng Cơ Minh lập một doanh trại ở Thái Lan rồi bảo đó là chiến khu quốc nội.

Trách họ là bịp bợm có thể đúng nhưng quả là quá dễ và, theo tôi, không công bình. Họ phải làm như thế để tranh thủ sự ủng hộ. Giả thử nếu ông Võ Đại Tôn không tạo cái ảo tưởng là có bạo lực thì ông cũng không khác nhiều người hoạt động khác. Nếu ông Hoàng Cơ Minh không lập "chiến khu" thì liệu ông có được sự ủng hộ mạnh mẽ đến thế không ?

Sự thực ra cũng không thể trách họ là bịp bợm. Tôi sang Pháp lúc ông Hoàng Cơ Minh đang nổi như cồn. Tôi đã nói chuyện với rất nhiều người, và không ai, kể cả những người ủng hộ ông, tin là ông có chiến khu thực sự cả. Vậy làm sao có thể nói là đã bị lừa gạt ? Nói như vậy là không thành thực. Sở dĩ người ta ủng hộ ông là vì ông đã có công tạo ra một ảo tưởng bạo lực, và ảo tưởng đó là giấc mơ của đa số người tị nạn thời đó. Họ đóng góp cho ông Hoàng Cơ Minh vì ông cho phép họ nuôi dưỡng giấc mơ đó. Họ đóng góp cho ông để ông diễn tuồng kháng chiến võ trang cho họ xem.

Ông Võ Đại Tôn đã phải trải qua mười năm tù tội. Ông Hoàng Cơ Minh đã thiệt mạng. Nhiều người khác đang mòn mỏi trong các nhà tù. Họ là những nạn nhân đáng thương của tâm lý tôn sùng bạo lực của người Việt Nam.

Tôi không bao giờ tán thành bạo lực, và hoàn toàn không tán thành đường lối đấu tranh của họ. Nhưng đối với họ tôi luôn luôn có một tình cảm bùi ngùi, thương xót. Điều đáng trách là tâm lý tôn sùng bạo lực của con người Việt Nam.

Nhóm Thông Luận đã bị phản đối dữ dội vì chủ trương từ bỏ bạo lực, và do đó đụng chạm tới một sự sùng ái lâu đời.

Một dân tộc không nhiều thì ít cũng xứng đáng với số phận của mình. Sở dĩ ngày hôm nay đất nước chúng ta kiệt quệ như thế này cũng vì cái tâm lý tôn sùng bạo lực ấy. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm. Chúng ta tôn sùng bạo lực và ngạc nhiên thấy mình là nạn nhân của bạo lực.

********************

 

Thằng nào đây ?

 

 

Business Communication Duplicate model

Đầu năm 1974, tôi đang làm chuyên viên tại Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín. Một đồng nghiệp ở phòng bên xông vào phòng tôi, với nét mặt lầm lì, ném một tài liệu xuống ngay trước mặt tôi và nói một cách sừng sộ :

- Đọc đi !

Tôi tưởng có chuyện gì nghiêm trọng nên đọc ngay trong khi anh bạn đứng đợi. Nhưng không, đó là một bài lăng nhăng, không tập trung vào một đề tài nào cả và cũng chẳng ra câu cú gì cả. Rất nhiều thì, mà, là, tại, v.v... nhưng rất ít ý và văn phạm. Tôi càng đọc càng bực bội. Trong câu cuối cùng mà tôi đọc, tác giả chê sự câu nệ bằng cấp bằng một câu : "Thấy thằng nhỏ nó làm việc được thì lại không cho nó làm, bắt nó có bằng tú tài mà nó có bằng tú tài rồi thì nó có làm giỏi không ?". Đến đây sức chịu đựng của tôi đã vượt quá giới hạn, tôi giận dữ hỏi gằn :

- Thằng nào đây ? Bớp tai cho nó mấy cái !

Anh bạn phá ra cười :

- Tổng thống đấy !

Thì ra đó là một bài nói chuyện của ông Nguyễn Văn Thiệu, trong một buổi hội nghị công chức cao cấp. Tổng thống ăn nói như vậy thì cán bộ học hỏi được cái gì ? Điều bi đát là ông Thiệu không phải là người ăn nói dở so với những cấp lãnh đạo Việt Nam khác. Những bài nói chuyện của ông nếu chép lại thì thấy là chẳng ra đâu vào đâu cả, nhưng nếu nghe ông nói trực tiếp cũng có thể hiểu ông định nói gì, đó là điều ít khi xảy ra đối với những người lãnh đạo chính quyền, chính đảng hay hiệp hội khác, những người trên nguyên tắc phải có khả năng truyền thông cao. Tôi đã nghe khá nhiều bài thuyết trình, đọc nhiều bài báo mà chẳng hiểu tác giả định nói cái gì. Các tác giả sắp xếp lộn xộn thứ tự của các ý kiến (khi họ có ý kiến, một điều tương đối hiếm), ôm đồm quá nhiều ý trong một câu, dùng từ ngữ sai và bất chấp văn phạm. Đã thế khả năng tiếp thu của thính giả hay độc giả còn kém hơn họ (vì ít ra họ còn dám nói và dám viết). Kết quả của sự trao đổi không có gì khó dự đoán. Điều ai cũng có thể nhận thấy trong những buổi hội thảo của người Việt Nam là cử tọa chờ cho diễn giả nói xong, đến phần "quí vị nào có câu hỏi..." một vài người xin phát biểu để nói (rất dài) ý kiến đã soạn sẵn của mình, dù không liên hệ gì tới những điều diễn giả vừa nói.

Phần dẫn nhập dài dòng này là để cảnh giác về một thiếu sót trầm trọng, bi đát, kinh khủng của người Việt : chúng ta không biết truyền thông. Chúng ta viết cẩu thả, nói lộn xộn, đọc sơ qua, nghe lõm bõm, cho nên chúng ta không hiểu được nhau, rồi cãi cọ với nhau, thù nhau, đánh phá nhau, và giết nhau. Người Việt Nam không ý thức được hai điều tối quan trọng. Điều thứ nhất liên quan đến cá nhân : khả năng truyền thông là khả năng quan trọng nhất trong mọi khả năng của một con người để thành công. Điều thứ hai liên quan đến xã hội : một khả năng truyền thông tối thiểu là yếu tố không thể thiếu cho hòa bình giữa những con người.

Cách đây hơn mười năm, lúc đó tôi làm việc cho một công ty dịch vụ tin học, tôi được nha thương mại thông báo là một công ty dịch vụ chứng khoán lớn đang cần một số kỹ sư tin học để thực hiện một dự án tin học lớn. Việc đầu tiên là phải tìm một kỹ sư dự án trưởng biết rành các kỹ thuật tin học sử dụng trong dự án và am tường các nghiệp vụ chứng khoán.

Chỉ có một kỹ sư đáp ứng hai đòi hỏi đó. Anh ta tốt nghiệp một trường kỹ sư khá danh tiếng, có mười năm kinh nghiệm trong ngành tin học, thông thạo các kỹ thuật tin học sử dụng trong dự án và lại đã từng tham gia vào việc thực hiện một dự án lớn về chứng khoán kùéo dài hơn một năm. Quả là một con người lý tưởng cho hoàn cùảnh, một con chim lạ, như người Pháp nói "un oiseau rare". Anh giám đốc thương mại phấn khởi vô cùng : "May quá, thế thì thắng lợi chắc chắn rồi !". Nhưng tôi không chắc chắn như anh ta bởi vì tôi nhìn thấy một mối nguy lớn mà anh ta không biết : anh kỹ sư đó là người Việt Nam, và kinh nghiệm đã dạy cho tôi rằng người Việt truyền thông một cách rất luộm thuộm. Tôi lại không biết rõ anh kỹ sư này vì anh thuộc một công ty nhỏ mà chúng tôi vừa mới sát nhập nên tôi không theo dõi anh trong dịp tuyển dụng. Từ ngày anh ấy hết công tác và về đây chờ đợi công tác khác, tôi cũng bận rộn nên chỉ chào hỏi và nói chuyện qua loa.

Mối lo của tôi được kiểm chứng hoàn toàn. Tôi mời anh lên, hỏi anh về dự án chứng khoán mà anh ta đã làm qua. Một sự im lặng nặng nề và tuyệt đối kéo dài gần mười phút. Tôi bối rối và hoảng hốt vì chính sự im lặng đó. Anh không có gì để nói cả ! Vì hai lý do.

Lý do thứ nhất, anh ta không hiểu rõ dự án đã làm và không nhớ. Người Việt Nam mình có một khả năng kỳ dị là có thể làm rất lâu trong một công việc mà mình không thích và không hiểu. Cái gì cấm anh nếu không thích ngành chứng khoán thì bỏ đi làm một việc khác ? Với bằng cấp của mình, anh có thể tìm việc khác một cách dễ dàng. Người Việt Nam kiên nhẫn và cần cù, điều đó đúng, nhưng sự cần cù đó lại thường đi đôi với sự thụ động.

Lý do thứ hai, anh hoàn toàn không biết diễn đạt như phần lớn người Việt Nam khác. Dù có hiểu và nhớ, anh cũng không thể trình bày được. Tôi phải khuyến khích, hối thúc, đặt những câu hỏi ngắn, nói chung phải cạy mồm anh ra, mới được một số câu trả lời vụn vặt, nghèo nàn. Chỉ sang phần kỹ thuật trong tin học là thấy anh ta có vẻ thoải mái, mặc dầu cũng không lấy gì làm xuất sắc, bởi vì tuy anh ta biết nhiều nhưng lại không trình bày được một cách mạch lạc.

Cuối cùng tôi kết luận rằng anh không phù hợp với công tác, vì đây là một công tác đòi hỏi khả năng lãnh đạo, thì anh ta phản đối. Anh ta nói anh ta là kỹ sư, có mười năm kinh nghiệm thì dĩ nhiên anh xứng đáng giữ một vai trò quan trọng, nhiều người không có bằng cấp bằng anh ta mà chỉ năm năm đã có thể làm dự án trưởng. Tôi cố gắng giải thích rằng bằng cấp và thời gian kinh nghiệm của anh khá vững, nhưng công tác này đòi hỏi một sự hiểu biết tường tận về nghiệp vụ chứng khoán và một khả năng truyền thông rất cao vì phải tiếp xúc với rất nhiều người, tham dự và điều khiển nhiều phiên họp. Tôi cũng khuyến khích anh ta nên chú ý tới nội dung của các dự án hơn là khía cạnh kỹ thuật, và nhất là nên cải tiến khả năng ăn nói. Anh vẫn khăng khăng biện luận rằng đã có bằng cấp ấy và thời gian kinh nghiệm ấy là đương nhiên anh ta phải phù hợp với công tác. Về sau chúng tôi không làm việc với nhau nữa. Một lần một người quen thuật lại cho tôi nghe anh ấy nói tôi là người "không tử tế với người Việt".

Một giám đốc của một công ty khách hàng biết rõ tôi vì là bạn học cùng lớp một lần gọi điện thoại cho hãng tôi một job trong nha điện toán của anh. Nhưng anh ta lại nói thêm : "Nhưng mày đừng gởi cho tao một đồng hương của mày nghe ! Người Việt của mày giỏi về kỹ thuật nhưng về truyền thông thì lại dở quá, mà job này đòi hỏi rất nhiều liên lạc".

Tại sao chúng ta dở về truyền thông như vậy ? Bởi vì con người Việt Nam không được giáo dục về truyền thông, mà hơn thế nữa lại được khuyến khích để đừng biết truyền thông. Xã hội ta là một xã hội phân chia đẳng cấp, trên nói dưới nghe, không có thảo luận. Liên hệ trong xã hội ta là một tương quan lực lượng chứ không phải là một liên hệ trao đổi. Người có lý là người có quyền. Khả năng truyền thông bị coi là một tật xấu cần phải bỏ. Đứa trẻ hay nói bị mắng là lắm mồm, thiếu hạnh kiểm. Cấp dưới dám bàn cãi về quyết định của cấp trên bị coi là cứng đầu và bị trù dập.

Cách truyền đạt tư tưởng trực tiếp và sáng sủa bị coi là tầm thường, không sâu sắc. Khi Trịnh Kiểm hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm là có nên bỏ vua Lê để lên làm vua hay không thì Nguyễn Bỉnh Khiêm nói bóng nói gió : "Năm nay mất mùa nên đem hạt giống cũ gieo lại thì hơn". Cũng thế, khi Nguyễn Hoàng lâm nguy tới vấn kế Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm thay vì khuyên Nguyễn Hoàng nên vào Nam lập nghiệp lại cũng nói bóng gió : "Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân". Cách nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là hay, là thâm thúy.

Cái vòng luẩn quẩn là chúng ta truyền thông rất dở, rồi vì không chịu nhìn nhận nhược điểm của mình chúng ta đồng ý coi truyền thông là xấu. Kết quả là chúng ta không hiểu nhau. Trong trường hợp tốt nhất, mạnh ai nấy làm theo ý mình, công việc chung mâu thuẫn và thiếu gắn bó. Trong trường hợp tệ nhất, chúng ta gán cho nhau những ý đồ đen tối, rồi xung khắc và thù địch nhau. Tôi đã chứng kiến hàng trăm, hàng ngàn cuộc cãi vã gay go trong đó thực ra người ta đồng ý với nhau, nhưng chống đối nhau kịch liệt chỉ vì không hiểu nhau, người nói đã nói dở người nghe lại không chịu nghe.

Và tôi cũng tin rằng nếu người Việt biết truyền thông, nghĩa là biết diễn đạt và biết nghe nhau, họ đã khám phá ra rằng người trước mặt mình cũng có những lý tưởng và mục tiêu gần giống mình và đã không giết nhau trong suốt ba mươi năm sau thế chiến thứ hai.

********************

 

Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 24

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi !

Mẹ hiền ru những câu xa vời.

Tiếng nước tôi, tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi...

Phạm Duy [Tình ca]

Một lý do quan trọng khác khiến chúng ta kém về truyền thông là chúng ta khinh thường tiếng Việt. Mà đã khinh thường tiếng mẹ đẻ thì hậu quả tất nhiên là kém về truyền thông, vì tiếng mẹ đẻ dù thế nào đi nữa cũng vẫn là ngôn ngữ mà một con người có thể sử dụng hay nhất. Nó là những tiếng đầu đời đã nhào nặn ra ý niệm, tình cảm, tâm hồn của con người. Một người dù có học và sử dụng một ngoại ngữ nhiều thế nào đi nữa vẫn không thể diễn tả tư tưởng và tình cảm của mình một cách trung thành và tế nhị bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Đó vẫn chỉ là một ngôn ngữ mượn mà thôi. Những người trẻ trưởng thành tại hải ngoại có khả năng truyền thông hơn hẳn cha anh vì được huấn luyện một cách khác, được khuyến khích phát biểu ; nhưng cũng vì tiếng Anh, tiếng Pháp được hấp thụ từ mẫu giáo và gần như là tiếng mẹ đẻ của họ. Họ không vướng một tiếng mẹ đẻ đã bị gạt bỏ.

Sự khinh thường tiếng Việt là một truyền thống của người Việt Nam. "Nôm na là cha mách qué", tiếng Việt là tiếng không cao thượng. Những văn bản quan trọng phải viết bằng chữ Nho. Người Việt ta khi cần nói một điều trịnh trọng, trang nhã rất thường hay xổ Nho : "Thưa anh dĩ hòa vi quí, mình chẳng nên đôi co với họ làm gì, biết họ như vậy rồi mình cứ kính nhi viễn chi là hơn". Không biết bao nhiêu lần rồi tôi đã nghe những câu nói tương tự như vậy, ngay cả tại hải ngoại này, ở cửa miệng hay ở ngòi bút của những người có học thức và sử dụng tiếng Việt một cách nhuần nhuyễn hơn hẳn mức trung bình.

Chắc vì coi tiếng Việt là thứ tiếng tầm thường, thấp kém nên khi viết và nói người ta không cần một thận trọng nào, bất chấp cả văn phạm lẫn chính tả. Trái lại khi phải viết một văn bản bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, người ta đắn đo từng câu, từng chữ, viết đi viết lại nhiều lần, tìm hỏi người này người kia viết như thế có đúng không, có hay không, v.v... Sự yên trí rằng viết tiếng Việt thì thế nào cũng được thể hiện ngay cả trong những tài liệu quan trọng. Trong bản cương lĩnh của "Phong Trào Yểm Trợ Dân Chủ và Tái Thiết Việt Nam" của cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu dài khoảng ba trang đánh máy, tôi đếm được gần một trăm lỗi chính tả và văn phạm. Đó là văn kiện căn bản của một nhân vật đã từng cầm vận mệnh của đất nước và có lẽ còn muốn cầm tiếp. Cẩu thả đến thế là cùng. Chung quanh ông Thiệu chắc chắn là có những người biết tiếng Việt nhưng ông Thiệu đã không thấy cần phải hỏi ý kiến họ. Viết tiếng Việt mà, thế nào chả được. Giả sử phải viết một bản tuyên ngôn bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh chắc ông Thiệu sẽ thận trọng hơn nhiều.

Tôi không trách riêng ông Thiệu, bởi vì đại đa số người Việt đều xử sự như thế, kể cả những người không biết một ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng Việt. Năm 1974, tôi nhận dạy kinh tế cho một trường đại học tại Sài Gòn. Trước khi bắt đầu, tôi hỏi một số giáo sư dạy kinh tế cho tôi xem những bài đã được chấm đậu những năm trước. Mục đích của sự tham khảo này chỉ là để xem trình độ tiếp thu của sinh viên về môn kinh tế như thế nào. Nhưng tôi lại khám phá ra một sự kiện khác, kinh khủng hơn nhiều. Các sinh viên ở năm cuối cùng, sắp tốt nghiệp, hoàn toàn không biết viết tiếng Việt. Họ viết những câu rất dài và luộm thuộm, sai văn phạm, sai chính tả, sai cả nghĩa của từ ngữ. Bực bội quá tôi phải dọa các sinh viên là sẽ không chấm những bài viết sai tiếng Việt. Rồi tôi đặt ra một qui luật, có thể là hơi quá đáng : mỗi bài sẽ được chấm trên 20 điểm, 10 điểm trên ngữ pháp, 10 điểm về nội dung, nhưng nếu bài không đủ 5 điểm về ngữ pháp thì sẽ không được chấm phần nội dung nữa. Biện pháp quá khích đó có lẽ đã có tác dụng làm các sinh viên coi trọng Việt văn hơn.

Trong các đơn xin việc tại Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín hay những đơn khiếu nại tại Bộ Kinh Tế, tôi gặp vô số đơn "Thưa ông..., nguyên tôi là...". Tại sao lại "nguyên" ? Chưa kể "xin cứu xét cho chúng tôi được dễ dãi, v.v…". Đơn thường do những người tốt nghiệp đại học viết. Ngay cả những bài nghị luận chính trị trên báo chí, nhiều khi cũng không thể tìm ra chủ từ, động từ, túc từ. Ngay những nhà văn cũng không ngần ngại viết "xử dụng", "giòng sông", "dỗi dãi", "yên tỉnh", "đấu tranh dành tự do dân chủ". Một biểu ngữ lớn trong cuộc mít-tinh lớn : "Cương quyết xiết chặc hàng ngũ...". Những lỗi chính tả, và ngay cả văn phạm, nhiều khi cũng có thể bỏ qua được, điều khó chịu nhất là nhiều khi đọc đi đọc lại vẫn không biết tác giả định nói gì. Đành phải đoán mò.

Viết đã ẩu, đọc lại càng ẩu hơn. Anh em Thông Luận chúng tôi đã là đối tượng của vô số bài đả kích vì lập trường Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc. Chúng tôi đã mất rất nhiều thì giờ để giải thích thế nào là hòa giải dân tộc, thế nào là hòa hợp dân tộc, tại sao lại phải hòa giải trước, hòa hợp sau v.v... Vậy mà trên 90% những bài đả kích chúng tôi vẫn nói chúng tôi là nhóm chủ trương "hòa hợp hòa giải", nhiều bài còn nói chúng tôi chủ trương "hòa hợp hòa giải dân tộc với cộng sản" ! Đọc ẩu trước khi lên án đã là tệ, có người còn không đọc. Một vị ở Canada viết cho chúng tôi một bài với tựa đề "trả lời lập trường hòa hợp hòa giải của Thông Luận" vạch ra thái độ "ngây thơ ấu trĩ" của chúng tôi. Một câu làm cho chúng tôi sửng sốt : vị này cho biết chưa hề đọc Thông Luận bao giờ, mà chỉ được biết tới lập trường của chúng tôi qua những bài đả kích.

Cái vòng luẩn quẩn là người Việt viết luộm thuộm khó hiểu, người đọc kỹ cũng không thể hiểu, nhưng người đọc không cần đọc kỹ mà vẫn trả lời một cách cũng hồ đồ, cũng luộm thuộm khó hiểu không kém. Phải nhìn nhận một sự thực đau lòng : chúng ta là một dân tộc không biết đọc, không biết viết, và không biết nói.

Tiếng Việt là phương tiện trao đổi giữa chúng ta. Phương tiện ấy mà hư hỏng thì chúng ta không hiểu được nhau như khi nói chuyện qua một đường điện thoại đầy nhiễu xạ. Tiếng mẹ đẻ nếu không phải là ngôn ngữ duy nhất thì cũng vẫn là ngôn ngữ dễ sử dụng nhất cho mỗi người, vì nó hợp với tâm hồn và bản tính. Đã không thạo tiếng Việt thì dù có học một ngôn ngữ khác công phu tới đâu chúng ta vẫn chỉ là những người truyền đạt kém cỏi.

Mà tiếng Việt có khó gì đâu, nó phù hợp với cách suy nghĩ của ta. Chỉ cần lưu ý một chút chúng ta sẽ có thể truyền đạt và lãnh hội mọi thông điệp một cách dễ dàng. Lý do căn bản có lẽ là vì ta không yêu nước đầy đủ để có thể quí trọng những tài sản của đất nước. Hay vì chúng ta thiếu tự hào dân tộc cho nên không nhìn những di sản của đất nước một cách trân trọng.

Tiếng Việt tuy không khó nhưng cũng không dễ. Nó có khả năng chuyên chở mọi thông điệp, mọi ý niệm, dù là văn hóa, nghệ thuật, chính trị, kinh tế, triết học, khoa học, kỹ thuật. Nó có thể và phải được coi là nhịp cầu nối người Việt chúng ta với nhau, cho phép chúng ta trao đổi với nhau, hiểu nhau, chỉ bảo cho nhau, để quí trọng nhau và cùng nhau xây dựng một tương lai Việt Nam chung.

Nếu tiếng Việt ta chưa hoàn chỉnh thì ta cần cải thiện và phong phú nó - thêm vào một số âm, chấp nhận thêm một số từ đa âm, chế ra một số tiếng mới cho những ý niệm mới - rồi tiếp tục phát huy nó. Ngôn ngữ là một cố gắng sáng tạo không ngừng. Tiếng Pháp được coi là một ngôn ngữ hoàn chỉnh và người Pháp cũng có tiếng là dân tộc hoạt bát nhất thế giới, nhưng họ luôn luôn mài dũa ngôn ngữ của họ. Hồi làm tham vấn cho công ty xe hơi Renault của Pháp, tôi được chứng kiến một biện pháp bảo vệ ngôn ngữ rất gay gắt. Ông chủ tịch tổng giám đốc Raymond Lévy, mặc dầu đang điên đầu với tình trạng thua lỗ trầm trọng, vẫn còn đủ tỉnh táo để nhận xét rằng các văn kiện nội bộ không được soạn thảo một cách lưu loát và sáng sủa. Ông cho rằng đó là một trong những nguyên nhân đưa đến thua lỗ. Ông ra một thông cáo cho tất cả các cấp lãnh đạo, cho biết rằng từ nay ông dành quyền trả lại người gởi mà không nêu lý do tất cả những văn thư không được soạn thảo bằng một tiếng Pháp tuyệt đối hoàn chỉnh. Không phải là ông không biết lo những vấn đề khác, ông cố gắng lắm, bằng cớ là xe hơi Renault nổi tiếng là loại xe kém phẩm chất nhất, sau năm năm dưới quyền lãnh đạo của ông đã trở thành những chiếc xe nổi tiếng là tốt và bền bậc nhất châu Âu. Hãng Renault từ một hãng xe hơi lỗ nặng nhất châu Âu trở thành một hãng có lời, và gần đây đã sát nhập hãng Nissan một thời lừng lẫy của Nhật.

********************

 

Máu chảy ruột mềm

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 25

Người Việt Nam không thông minh hơn ai, có sáng dạ thực nhưng là sáng dạ để bắt chước chứ không phải để phát minh. Người Việt có tâm lý tồi kém, không làm việc tập thể được. Người Việt hiếu học nhưng hiếu học để lấy bằng cấp chứ không phải để lấy kiến thức. Người Việt thiếu tự hào dân tộc và lại đố kyï, ghen ghét nhau. Người Việt tôn thờ bạo lực và ác độc đối với nhau. Người Việt không có óc phương pháp. Người Việt không biết truyền thông, không biết đọc, không biết viết, v.v...

Độc giả đọc tới đây có thể bực bội và phẫn nộ như đang phải đọc một cáo trạng đối với dân tộc mình, có thể tự hỏi "phải chăng mình đang đọc một cuốn sách đáng lẽ phải có tựa đề là Người Việt tồi dở ?". Nhưng kể tội và bêu xấu người Việt để làm gì, và để bêu xấu ai, khi chính tác giả là người Việt và nhận mình mãi mãi là người Việt ? Đó cũng là việc làm dễ dàng quá vì nếu muốn tìm những cái xấu của người Việt thì có khó gì đâu, tác giả chỉ cần nhận xét chính mình. Đó là việc tôi đã làm, những nhược điểm của người Việt một phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, tôi có thể tìm thấy ở chính mình.

Hơn nữa, những tật xấu và nhược điểm đó không phải là của riêng dân tộc Việt Nam, mà dân tộc nào cũng có. Điều đáng tiếc là ở người Việt chúng mạnh mẽ, rõ rệt và áp đảo quá đáng. Chúng đè nặng lên chúng ta, có thể nói là đè bẹp chúng ta, và giam giữ chúng ta trong cảnh tang tóc, bần cùng, lạc hậu. Xét lại mình chính là để tiến lên. Phải nhìn vào chân dung của mình ngay cả nếu nó không được đẹp. Nếu cuốn sách nhỏ này đã dành nhiều trang để phân tích người Việt, thì cũng vì con người là vốn liếng quí báu nhất của chúng ta. Nếu nó đã được viết ra thì cũng vì tác giả còn hy vọng. Hy vọng ấy chính là con người Việt Nam. Con người Việt Nam, dù mang nhiều khuyết tật nhưng nói chung vẫn là con người có trí thông minh và có tâm hồn.

Vào khoảng năm 1980, tôi tới thăm một người bạn trong một hẻm đường Cách Mạng Tháng 8, đang ngồi hàn huyên trước hiên nhà, tôi thình lình được biết một câu chuyện. Một câu chuyện tương tự như rất nhiều câu chuyện khác mà tôi đã được biết, nhưng nó đã ghi vào ký ức tôi vì sự nhỏ bé và tầm thường của nó. Chính vì thế mà nó có tính tiêu biểu cao.

Tiếng khóc nỉ non không biết từ bao giờ, nhưng tôi chợt nghe được và chú ý khi bà cụ rống lên nức nở : "Mày đụ cho nó đã cái lồn mày, rồi mày đẻ con mày để cho tao nuôi, gạo đâu tao nuôi". Bà cụ gầy ốm, lem luốc, da mặt nhăn nheo, mỗi vết nhăn như đánh dấu một sự đau khổ. Bên cạnh bà cụ là hai đứa cháu gái khoảng bốn tuổi và mười tuổi rách rưới, xanh xao. Đứa nhỏ xíu sụt sùi khóc, đứa lớn im lặng ngơ ngác. Câu chuyện giữa chúng tôi bỗng nhiên trở thành vô nghĩa hoàn toàn dù chúng tôi đang nói về quê hương đất nước. Vợ bạn tôi nhận ra sự im lặng khổ tâm của chúng tôi và chị lại gần rồi kể cho chúng tôi nghe sự tình. Bà cụ này hiền lành, chất phác, từ trước vẫn nghèo lắm, tối ngày đi xin cơm thừa bán lại cho người ta nuôi heo. Lúc khá nhất bà nuôi được một con heo. Con gái bà lấy chồng làm lính Việt Nam Cộng Hòa, đạp xích-lô từ sau 30/4/1975, hiện đang bệnh về nằm nhà mẹ. Người con gái theo bạn hàng gồng gánh, khuân vác và giúp người ta bán gạo lậu. Hồi đó buôn bán gạo là buôn lậu vì nhà nước cấm. Lâu lâu chị mới về một lần. Nghe nói gạo vừa mới bị bắt nên lâu nay không có tiền đem về cho mẹ nuôi con. Dạo này cơm thừa không còn nữa, bà cụ có một thùng thuốc lá đem bán ở chỗ con hẻm nhỏ đổ ra hẻm lớn, nơi chúng tôi đang ngồi. Ngoài thuốc lá bán lẻ từng điếu, bà cụ còn bán vài cái kẹo, một ít vé số. Trên tủ thuốc lá là một ngọn đèn dầu nhỏ để khách châm thuốc hút. Dạo này phải ăn vào vốn, và bây giờ thì gia tài hết sạch. Tôi nhìn vào tủ thuốc và có thể kiểm chứng điều đó. Thùng thuốc vốn đã nhỏ lại rỗng tuếch, chỉ còn vài gói thuốc lá nội hóa Đà Lạt nhợt nhạt vì phơi nắng khá lâu rồi. Tôi thấy lạ là trước một cảnh thương tâm như vậy chị vợ bạn tôi có vẻ rất bình tĩnh. Chị bình tĩnh vì một lý do khác mà tôi hiểu ngay sau đó. Một người đàn bà ăn mặc xuềnh xoàng tiến lại gần, ngồi xuống cái ghế thấp bên cạnh bà cụ, không biết nói gì với bà cụ và đưa cho bà cụ một bao bằng giấy. Tôi có thể hiểu dễ dàng đó là một bao gạo, đủ để ba bà cháu ăn vài bữa. Người đàn bà này cũng móc trong túi đưa cho bà cụ một vài tờ giấy bạc. Thì ra chị bạn tôi yên trí là thế nào cũng có người tới giúp bà cụ, chị hiểu rằng hàng xóm sẽ không bỏ rơi ba bà cháu. Một lát nữa chị bạn tôi cũng vào nhà trong rồi trở ra tới chỗ bà cụ. Chị quay lưng lại phía chúng tôi nhưng tôi cũng hiểu là chị đưa tiền cho bà cụ. Nhìn cử chỉ từ chối ngượng ngùng của bà cụ, tôi hiểu là chị đã giúp cho bà cụ số tiền đủ để tiếp tục bán thuốc lá. Tiếng khóc nỉ non và lời than của bà cụ là một thông điệp gởi đến hàng xóm : "tôi đang gặp hoạn nạn". Thông điệp ấy đã đến nơi và đã được hồi âm. Máu chảy ruột mềm.

Câu chuyện cũng có một happy end. Sau đó tôi được biết người con gái cũng về đem cho bà cụ ít tiền. Cuộc sống nghèo nàn của ba bà cháu lại tiếp tục. Kể lại câu chuyện trên đây, có lúc tôi đã định viết tắt một chữ trong lời nói của bà cụ. Nhưng rồi tôi thôi, tôi nghĩ câu nói ân tình đó nên được nhắc lại một cách trung thực như thế.

Những cảnh đùm bọc như thế, tôi đã được thấy nhiều lần. Đủ nhiều khiến tôi tin rằng người Việt Nam ta dù thiếu nhiều đức tính nhưng không thiếu lòng hảo tâm, ít nhất với những người quen biết.

Nhưng lòng hảo tâm của người Việt Nam cũng còn có thể mở rộng cho cả những người mình không quen biết.

Tôi đã thấy tận mắt từ thời thơ ấu. Nạn đói năm 1945 xảy ra vào lúc tôi chưa đầy ba tuổi, nhưng những hình ảnh cực mạnh đã in vào đầu tôi và còn theo tôi suốt đời. Nhà tôi tuy không giàu có theo tiêu chuẩn bình thường nhưng vào thời đó và ở vùng đó là một gia đình khá giả. Mẹ tôi tuy cũng phải chân lấm tay bùn quanh năm nhưng gia đình tôi có ruộng, có vườn, có ao và dư gạo ăn. Quân đội Nhật lúc bấy giờ dữ lắm, nhà nào có gạo là bị tịch thu, cho người đói ăn là một hành động có thể có hậu quả hiểm nghèo. Mẹ tôi phải giấu gạo, nhưng đêm nào cũng nấu cháo và dưới ánh đuốc bập bùng hàng đoàn người nối đuôi nhau trước cổng để được húp mỗi người một gáo cháo. Có những người đói đến nỗi kiệt sức mà chết. Ngay cổng vào nhà tôi có một căn nhà mà người trong nhà gọi là nhà xác. Hình như đêm nào cũng có người chết vì ngày nào cũng thấy bó chiếu chôn người. Tôi có nhiều anh và chị nuôi, một số là con cái của những người đã chết đói. Không ai bắt mẹ tôi phải làm cái việc tốn kém và nguy hiểm đó, ngoại trừ tình người và tình đồng bào. Và mẹ tôi cũng không phải là người duy nhất trong vùng làm việc đó.

Sau năm 1975, và sau khi đi cải tạo về, tôi còn được biết một câu chuyện về tình người đặc biệt trong sáng khác. Và lần này câu chuyện cũng liên hệ trực tiếp tới gia đình tôi.

Mẹ tôi có một người em gái. Dì tôi góa chồng năm 1946 khi chú tôi, một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, bị Việt Minh thủ tiêu để lại hai con trai sáu tuổi và hai tuổi. Lúc đó dì tôi còn rất trẻ, mới 25 tuổi. Trước hiệp định Genève, dì tôi có một quan hệ tình ái. Một bé gái ra chào đời đúng lúc cha nó vào Nam. Gia đình tôi lúc đó ở Hà Nội, rồi từ Hà Nội di cư vào Nam, nên hoàn toàn không biết chuyện này. Vào Nam, chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc với dì tôi. Cho đến năm 1979.

Trong vụ cải cách điền địa tại Bắc Việt năm 1955, ông Bùi Tín nói con số nạn nhân chỉ vào khoảng 20.000 người. Một số đảng viên cộng sản khác mà tôi quen biết sau này, và cũng thành thực không kém Bùi Tín, lại nói rằng số nạn nhân có thể trên 100.000 người. Có thể là 50.000 người chăng ? Ai biết được con số chính xác ? Có một thống kê nào đâu ! Nhưng tôi biết rõ ràng là có ít nhất ba nạn nhân không được kể là nạn nhân.

Dì tôi bị đem đấu tố là địa chủ gian ác vì có mười mẫu ruộng (tức ba héc-ta rưỡi). Bà bị trói, bị đánh đập, bị xỉ vả là con đĩ, là gian ác. Rồi bị đuổi khỏi nhà, bà làm một cái lều bên đường và đi xin ăn, nhưng ít ai dám cho. Đứa con trai nhỏ chết đói xong thì bà cũng chết. Đứa con trai lớn, Nhuệ, em họ tôi, là một thiếu niên ngỗ nghịch và táo bạo. Nó ăn trộm, ăn cướp nuôi em gái nhỏ, lang bạt tới Hải Phòng thì bị bắt rồi chết trong tù. Đứa em gái nhỏ, lúc đó mới bốn tuổi, lang thang sắp chết đói thì gặp bà Năm.

Bà Năm quê ở Bến Tre. Vào đầu thập niên 1940 bà là một thiếu nữ trung lưu có nhan sắc. Khi tôi gặp bà vào năm 1980, bà đã 60 tuổi nhưng những nét thanh tú trên mặt bà cũng chứng tỏ rằng hồi thanh xuân bà đẹp vô cùng. Nhan sắc của bà lọt mắt một ông đốc phủ sứ, sau này nổi tiếng là một nhân sĩ có đạo đức lớn tại miền Nam, và ông ta nhất định bắt bà làm vợ bé. Phẫn uất quá, bà Năm trốn đi theo đảng cộng sản. Bà được kết nạp vào đảng cộng sản, lấy chồng đảng viên cộng sản rồi ra Bắc tập kết năm 1954. Cả hai vợ chồng làm việc tại cảng Hải Phòng. Đầu năm 1957, một tai nạn khủng khiếp xảy ra, ông chồng bị chết ngay tức khắc còn bà Năm bị dây cáp cắt đứt một chân. Lúc đó họ đã có hai con trai. Bà Năm ở bệnh viện ra thì gặp em bé lang thang, bà bèn nhận nó làm con nuôi. Như thế đã là tuyệt vời, nhưng điều tuyệt vời hơn nữa là sau đó. Em tôi lúc đó còn quá bé để có thể nói cha mẹ nó là ai, quê hương nó ở đâu, nhưng bà Năm nhờ dò hỏi biết nó có một thằng anh chết trong tù, và bà chống nạng đi khắp các cơ quan điều tra. Bà tìm về được tới làng của dì tôi, hỏi được tên bố mẹ và cả ngày sinh gần đúng. Tuy bà có thể làm khai sinh cho nó là con bà nhưng bà đã làm lại khai sinh chính xác cho nó. Nhờ là liệt sĩ có công với cách mạng, bà đã che chở được cho đứa con địa chủ gian ác này. Bà bảo vệ nó như cọp cái giữ con, không ai có thể đụng tới con gái bà.

Năm 1979, bà vào Nam và tìm được gia đình tôi. Bà thành người bạn của gia đình tôi. Bà dẫn đứa con gái nay đã có chồng vào nhận họ hàng của nó. Bà hay đến dùng cơm, kể lại quá khứ của mình. Bà Năm rất tin tưởng vào chủ nghĩa cộng sản như một chủ nghĩa quảng đại và trong sáng.

Bà chống đối gay gắt chính quyền cộng sản nhưng vì một lý do khác hẳn với lý do của những người chống cộng. Bà nói : "Chúng nó phản bội lý tưởng cộng sản". Mẹ tôi, dù ghét cay ghét đắng cả đảng cộng sản lẫn chủ nghĩa cộng sản, vẫn rất quí trọng bà, hai bà có thể nói chuyện cả ngày mà không biết chán. Bà Năm đặc biệt thích tôi, bà hay bắt tôi ngồi nghe bà kể chuyện và bà còn đọc cho tôi nghe một truyện dài bằng thơ lục bát mà bà làm để kể đời mình và tâm sự mình.

Bà hay nói : "Bây giờ bác nuôi con Hà như vậy là đã làm tròn bổn phận, bác đem trả lại cho gia đình cháu đấy !".

Có lần tôi gắt lên với bà : "Bác đừng nói như thế, nó chẳng là con của ai khác cả, nó chỉ là con của bác, của một mình bác thôi". Đôi mắt bà Năm ứa lệ.

Từ lâu nay tôi không còn được tin bà Năm nữa. Những dòng trên đây xin được tặng bà Năm để bày tỏ lòng kính mến và biết ơn sâu xa đối với một người phụ nữ đã cho phép tôi, trong bao nhiêu thất vọng, vẫn còn tự hào được làm người Việt.

Published in Tư liệu

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

Phần Một - 1

 

Đất nước và con người

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 1

 

*******************

Sơn hà gấm vóc

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 2

 

Tôi còn nhớ một bài thơ học thuộc lòng lúc ở lớp Nhất tiểu học, không biết của tác giả nào :

     Trên dải đất chạy ven bờ biển cả

     Dưới trời Đông Nam Á rạng màu xanh

     Một giống người nhỏ bé nhưng tinh anh

     Đã xây đắp một sơn hà gấm vóc...

Trong trí óc non yếu của tôi, nước Việt Nam ta rộng rãi và phì nhiêu, người Tàu chen chúc nhau phải di dân sang nước ta lập nghiệp. Đất nước ta, theo những bài học đầu đời của tôi và được nuôi dưỡng cho đến tuổi thanh niên, đầy tài nguyên phong phú. Nước ta đầy hứa hẹn và có một tương lai vô cùng xán lạn.

Ý nghĩ đất nước ta có tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú là ý nghĩ rất lan tràn. Tôi đã gặp không biết bao nhiêu người quả quyết như vậy. Sau 30/4/1975, trong trại cải tạo, tôi được nghe rất nhiều sĩ quan, công chức của miền Nam cũ lên án đế quốc Mỹ là đã tới Việt Nam để cướp bóc tài nguyên. Một anh cựu trung úy và tốt nghiệp văn khoa còn phát biểu rằng sở dĩ đế quốc Mỹ lập căn cứ Khe Sanh là vì ở đấy có một mỏ uranium lớn. Một công chức khác nói rằng Mỹ đến Việt Nam, hất Pháp ra là vì những giếng dầu khổng lồ của Việt Nam. Có anh còn nói các giếng dầu của Việt Nam, so với các giếng dầu ở Trung Đông như con voi so với con tem. Anh ta không giải thích tại sao Mỹ lại rút lui, bỏ rơi những giếng dầu khổng lồ đó.

Dĩ nhiên họ phát biểu vì hoàn cảnh. Họ thua trận, họ vào tù, họ phải mạt sát chế độ Việt Nam Cộng Hòa và đế quốc Mỹ để mong được khoan hồng. Nhưng những điều họ nói về tài nguyên đất nước là thành thực. Họ tin như thế. Tôi hỏi anh sĩ quan đã nói về mỏ uranium ở Khe Sanh thì anh ta không có một dữ kiện nào cụ thể cả, nhưng anh ta tin như thế và tin chắc như đinh đóng cột.

Không hiểu vì lý do nào mà hầu hết mọi người Việt Nam đều có niềm tin sai lầm rằng đất nước Việt Nam bao la, tài nguyên của Việt Nam vô tận. Cuốn Địa Lý Kinh Tế Việt Nam (Văn Trai, chủ nhiệm bộ môn Địa Lý Kinh Tế Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh, xuất bản lần thứ 4 năm 1990) khẳng định : "Các tài nguyên quặng mỏ ở nước ta có nhiều loại trữ lượng lớn, chất lượng cao, dễ khai thác, bảo đảm phát triển công nghiệp trong nước lâu dài và mạnh mẽ, đồng thời còn có thể xuất khẩu nữa". Niềm tin ở tài nguyên to lớn của đất nước rất thường gặp trong nhiều bài viết, bài nói và tác phẩm của các tác giả thuộc mọi khuynh hướng chính trị. Niềm tin này tạo ra một sự yên tâm tai hại. Hình như mọi người Việt Nam đều tin rằng đất nước mình thế nào rồi cũng sẽ phú cường, do đó mà mất đi sự lo lắng cần thiết để giữ gìn đất nước và xây dựng tương lai. Và cũng vì thế mà có tâm lý phá hoại và vô trách nhiệm.

Sự yên tâm này không những chỉ tai hại mà còn làm chết người. Đó là tâm lý ngự trị trong đầu óc những người lãnh đạo đảng cộng sản. Năm 1945 họ thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến, họ đập phá tất cả các thành phố, đường bộ, đường sắt. Trong chiến tranh họ không bao giờ lưỡng lự khi phá hoại bất cứ một công trình nào. Một bài "tình ca yêu nước" của người cộng sản có hai câu :

     Em đi phá lộ Đông Dương,

     Anh về đánh bốt Mỹ Lương, Đông Hà.

(Đánh bốt có nghĩa là đánh đồn. Trẻ em thường hát sai thành đánh đốt).

Thơ mộng quá ! Còn ông Hồ Chí Minh ? Ông phát biểu quyết tâm chinh phục miền Nam như sau : "Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không thể nào thay đổi". Ghê gớm không ! Sẵn sàng chấp nhận chiến tranh đến sông cạn, núi mòn, không lý gì đến sự tàn phá mà đất nước có thể phải chịu đựng. Một lần khác ông tuyên bố rằng đế quốc Mỹ có thể gia tăng ném bom tại Bắc Việt, có thể phá hoại đường sá, hay tiêu hủy nhiều thành phố nhưng sẽ không bao giờ làm cho đảng cộng sản Việt Nam nhụt ý chí đấu tranh.

Độc giả đừng vội nghĩ rằng tôi đang chống cộng và kể tội người cộng sản. Tôi nghĩ rằng trong thâm tâm không nhiều thì ít ai cũng yêu nước, và người cộng sản cũng thế. Có lẽ sai lầm cơ bản là chúng ta không đánh giá đúng tiềm năng của đất nước và mức độ chịu đựng tối đa của nó. Chúng ta nghĩ rằng nước ta có tiềm năng vô tận và vì thế có bị đập phá cũng không sao.

Nếu ngược lại ta ý thức rằng đất nước ta nhỏ bé chật hẹp, tài nguyên của ta ít ỏi, có lẽ ta sẽ hành xử rất khác. Ta sẽ quí từng con đường nhỏ, từng cây cầu, từng dãy phố, từng căn nhà. Chúng ta sẽ tránh được những phí phạm và những cuộc chiến tranh làm chết hàng triệu người và tàn phá đất nước.

Mà sự thực ta có gì đâu ?

Mỏ quan trọng nhất trong đất liền của ta là than đá anthracite với trữ lượng 6 tỷ tấn. Sản lượng hàng năm là 8 triệu tấn, nếu khai thác tối đa có thể đạt tới 20 triệu tấn. Có nên khai thác tối đa hay không lại là một vấn đề khác. Nhưng ngay cả như thế sản lượng than đá của ta cũng chỉ bằng ba phần ngàn sản lượng hàng năm của thế giới, thua xa Cao Ly (77 triệu tấn), Ba Lan (150 triệu tấn), Đức (77 triệu tấn), Anh (93 triệu tấn). Đó chỉ là để kể một vài nước có diện tích tương đương hay nhỏ hơn nước ta. Và tất cả những nước này còn nhiều tài nguyên phong phú khác mà ta không có.

Mỏ sắt của ta, được kể như một tài nguyên lớn, chỉ có trữ lượng tổng cộng 540 triệu tấn - nghĩa là rất khiêm nhường, tương đương với sáu tháng sản xuất trên thế giới -, đã thế lại phân tán ra trên 200 mỏ, cho nên không thể khai thác qui mô được.

Các mỏ khác của ta đều không đáng kể. Thí dụ như nickel, một trong những tài nguyên được coi là quan trọng của ta chỉ có một trữ lượng tổng cộng cho các mỏ là 3 triệu tấn, nhưng phần lớn lại pha lẫn trong chrome, ở Cô Định (Thanh Hóa), tương đương với một năm sản xuất của hòn đảo nhỏ xíu Nouvelle Calédonie.

Ngoài ra ta có hai mỏ khác có triển vọng khá là mỏ chrome ở Thanh Hóa (trữ lượng 21 triệu tấn) và mỏ apathite ở Lào Cai (trữ lượng công nghiệp 135 triệu tấn).

Từ vài năm gần đây, Việt Nam trông đợi rất nhiều vào dầu khí. Nhưng đây cũng chỉ có thể là một hy vọng rất khiêm nhường. Trữ lượng của ta, theo những ước đoán lạc quan, không bao nhiêu, chỉ vào khoảng 400 triệu tấn (thế giới : 400 tỷ tấn). Sản lượng dầu lửa hợp lý của ta sau này chỉ có thể đạt tới mức tối đa 15 triệu tấn mỗi năm, nghĩa là tương đương với một tuần lễ sản xuất của Mỹ, hoặc Nga, hoặc Saudi Arabia, trừ khi ta áp dụng chính sách ăn xổi ở thì, khai thác cho hết thực nhanh chóng và bất chấp tương lai. Trong trường hợp này những đầu tư thiết bị vào dầu lửa sẽ thành vô dụng sau một thời gian ngắn. Mặt khác, nhu cầu năng lượng của ta sẽ tăng lên mau chóng (ít ra ta phải hy vọng như vậy) cùng với đà phát triển, và các mỏ dầu chỉ giúp ta giảm nhẹ hóa đơn dầu nhập cảng mà thôi.

Khí đốt, hy vọng mới của Việt Nam cũng vậy, với một trữ lượng 100 tỷ mét khối (hy vọng rằng ta còn tìm được thêm), 1% của trữ lượng trong vùng và 7 phần mười ngàn (7/10.000) trữ lượng thế giới, ta cũng chỉ có thể hy vọng bớt đi phần khí đốt phải mua vào mà thôi.

Nếu cần một con số nói lên sự nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên của ta thì đó là con số 13. Hiện nay, năm 2000 chúng ta đứng hàng thứ 13 trên thế giới về dân số với 78 triệu người, nếu không kiểm soát được đà gia tăng thì đến đầu thế kỷ 21 chúng ta sẽ qua mặt Đức (80 triệu dân) để lên hàng thứ 12, nhưng ta không đứng trong số 13 nước đầu, mà cũng không đứng trong số 30 nước đầu, về một tài nguyên nào cả.

Tài nguyên đã giới hạn như thế hiện nay chúng ta lại rất nghèo, rất lạc hậu, rất thua kém. Liệu chúng ta có một tương lai nào không ? Và nếu muốn có thì phải làm thế nào ? Hãy khoan trả lời những câu hỏi đó. Nhưng ngay tại đây ta có thể nói rằng ý thức được hoàn cảnh khó khăn của mình tự nó cũng đã là một hành trang quí báu, bởi vì nó cho ta một cách ứng xử đúng đắn, nó đem lại cho ta một thái độ lo lắng và thận trọng trong việc dựng nước, nó giúp ta ý thức được sự cần thiết của cố gắng.

 

********************

 

Rất đượm hương và rộn tiếng chim

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 3

 

Không biết ông Tố Hữu có phải là nhà thơ theo đúng nghĩa của một nhà thơ không. Nhưng ông có tài làm thơ, hiểu theo nghĩa những câu ngắn có vần ở cuối, và tài làm thơ đã góp phần quyết định đưa ông lên gần tới tột đỉnh của danh vọng và quyền lực. Ông biết dùng những hình ảnh rất đẹp và giản dị ngay cả khi để diễn tả những tình cảm giả tạo với những mục đích rất thực tiễn. Như khi ông dùng hình ảnh đứa bé tập nói để ca tụng Stalin, hay khi ông dùng hình ảnh một người con ân cần nắm tay cha để nịnh Hồ Chí Minh. Bài thơ "Từ ấy" của ông được người cộng sản ca tụng như một bài thơ hay. Nó bắt đầu như sau :

     Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

     Mặt trời chân lý chiếu qua tim

         Hồn tôi là một vườn xanh lá
     Rất đượm hương và rộn tiếng chim.

Qua những câu thơ này, ông Tố Hữu muốn diễn tả nỗi hân hoan của ông khi tìm ra chân lý Mác-Lênin và dấn thân tranh đấu trong Đảng Cộng Sản Việt Nam. Còn gì đẹp bằng màu xanh của lá và tiếng hót của chim ?

Ông Tố Hữu đã tranh đấu và đã thành công. Lý tưởng của ông đã đạt được. Con đường thắng lợi của đảng ông đã đi qua hàng triệu xác chết. Để đi đến kết quả nào ?

Trong mùa hè 1992, một người bạn Pháp, sau chuyến đi công tác một tháng tại Việt Nam, kể cho tôi nghe là anh ta thường thức dậy sớm vì sai biệt giờ giấc. Anh ta nói khu anh ta ở không có chợ vì nằm ngoài thành phố và buổi sáng im lặng một cách lạ thường vì hoàn toàn không có một tiếng chim.

Anh ta có nhiều chuyện quan trọng hơn để nói cho tôi nghe và tôi cũng có nhiều chuyện để hỏi anh ta ; những số liệu, những cuộc gặp gỡ, những nhân vật đã tiếp xúc, nhận định, cảm tưởng v.v... Và tôi không lưu ý tới chi tiết này.

Ít lâu sau, lại một người bạn khác, hay đi về Việt Nam, kể cho tôi nghe chuyện qua bắc Mỹ Thuận. Tôi thình lình nhớ tới những quán bán chim nướng và hỏi anh ta có ăn chim nướng ở đó không. Anh ta trả lời rằng có, nhưng đó chỉ là gà con mới nở được đem chiên thay cho chim chứ chim không còn nữa. Tôi bắt đầu lưu ý tới đàn chim Việt Nam.

Trong mùa hè 1993, nhiều anh em trong nhóm Thông Luận về thăm nhà. Tôi dặn mọi người để ý xem Việt Nam còn nhiều chim không. Họ đều thuật lại như nhau, và điều họ nói làm tôi sửng sốt : Việt Nam không còn chim ! Chỉ có một người bạn đi từ Nam ra Bắc mới thấy một con chim ở Vịnh Hạ Long, anh ta vội vã lấy máy hình ra chụp ảnh con chim ấy đem về cho tôi.

Cà Mau trước đây có một rừng cò lớn, có rất nhiều loại cò, nhiều đến nỗi có những người chuyên đi vào rừng lượm trứng cò và mỗi ngày lượm được cả rổ đem ra chợ bán. Tôi dặn một người bạn nhớ viếng khu rừng cò đó và anh ta cho tôi hay khu rừng cò chỉ còn rất ít cò, ít một cách không đáng kể.

Thế là cuộc cách mạng của ông Tố Hữu thành công và Việt Nam hết chim.

Còn màu xanh của lá ?

Những người qua lại Việt Nam đều đồng ý. Rừng bị phá hoại thẳng tay. Cho tới năm 1993, hàng ngàn công ty thi nhau đốn cây lấy gỗ xuất khẩu. Hàng trăm ngàn gia đình sống bằng nghề phá rừng lấy củi đem bán cho hàng triệu gia đình cần chất đốt. Chỉ tới giữa năm 1993, nhà nước mới ra lệnh cấm xuất cảng gỗ, và mới bắt đầu có một cố gắng rất hình thức để trồng lại rừng, nhưng rừng vẫn tiếp tục bị phá nhanh chóng. Nhà nước cộng sản cũng không giấu giếm việc này, và nhiều báo chí đã lên tiếng báo động. Nhưng còn gì để báo động ? Những con số đã thực kinh khủng : 3/4 rừng Việt Nam đã bị phá, chỉ riêng trong 20 năm từ 1975 đến 1995, kể từ ngày đất nước thống nhất hơn một nửa diện tích rừng trên toàn quốc bị phá hủy. Mùa hè 1999, tôi lại được đọc một nguồn tin của nhà nước theo đó thì khoảng 1/3 diện tích rừng đã bị phá từ năm năm qua. Rừng Việt Nam còn lại bao nhiêu có lẽ không ai biết được một cách chính xác, nhưng tôi nghĩ sự thực có lẽ còn bi đát hơn các con số.

Báo chí thế giới đã nói tới rất nhiều, và chính quyền còn nói nhiều hơn, về những tàn phá gây ra cho rừng vì những thảm bom B52 và nhất là chất độc màu da cam của Mỹ. Điều đó đúng, và rừng cây Việt Nam đã bị thiệt hại rất nhiều. Nhưng không thấm vào đâu so với những tàn phá của 25 năm quản lý đất nước bất chấp môi sinh !

Người ta cứ tưởng đất nước Việt Nam vô tận, thiên nhiên Việt Nam vô tận nên cứ thẳng tay tàn phá.

Vô lý nhất là việc cho phép xuất cảng gỗ cho tới vài năm gần đây, cũng vô lý và đần độn như việc xuất khẩu kim loại phế thải trước đây với giá rẻ mạt, rồi bây giờ phải mua lại với giá đắt gấp mấy chục lần. Việt Nam chưa bao giờ dư gỗ cả. Chúng ta có gỗ để xuất khẩu chỉ vì chúng ta quá nghèo. Không cần nói tới miền Bắc và miền Trung, nơi cuộc sống nông thôn chỉ là một sự đày đọa và ở đó chẳng làm gì có chuyện sắm bàn ghế, giường gỗ, tủ gỗ. Tôi đã đi qua các tỉnh miền Tây Nam phần trù phú, ở đó hầu như tất cả các căn nhà đồng quê đều dựng lên bằng tre, và mỗi gia đình chỉ có một hai chiếc giường bằng gỗ ; bàn ghế hầu như không có. Khi mức sống đã tăng lên, và phải hy vọng là mức sống sẽ tăng lên, chúng ta sẽ phải nhập cảng một số lượng gỗ lớn.

Đất nước ta đã chật hẹp, đã không có tài nguyên thiên nhiên, còn bị phá hủy và trở thành cằn cỗi. Không còn rừng xanh và bặt tiếng chim !

Ngày xưa, Nguyễn Trãi kể tội quân Minh tàn phá nước ta : "Tàn hại cả côn trùng thảo mộc" Quân Minh không phải là người Việt Nam và vì thế có thể không quí trọng thiên nhiên Việt Nam. Ngày nay chính người Việt Nam tàn phá đất nước Việt Nam.

Khi đất nước Việt Nam đã bị tàn phá đến nỗi không còn sinh sống được nữa thì cũng không còn gì để nói và làm nữa.

Tôi đã có dịp ghé thăm nước Tunisie. Quốc gia bé nhỏ này đang bị thiên nhiên tiêu diệt từ từ. Sa mạc ngày càng lấn lên từ miền Nam, nước Tunisie đã nhỏ lại càng nhỏ lại. Sự thiếu thốn thảo mộc đang làm thay đổi cả thời tiết. Mưa đổ ào xuống trong vòng 10 ngày mỗi năm, rồi sau đó là hạn hán. Những con sông trung bình chỉ có nước một hai ngày mỗi năm, những ngày còn lại chúng để trơ lòng sông nứt nẻ. Cả một cố gắng vĩ đại và tuyệt vọng được tung ra để trồng cây ngăn chặn sự gậm nhấm của sa mạc. Nhưng đó là một thiên tai. Ở Việt Nam tai họa do con người và do người Việt Nam. Tuy vậy Tunisie vẫn còn chim, mắt tôi đã nhìn thấy nhiều đàn chim.

Việt Nam không còn chim.

-------------------------

Chú thích cho lần tái bản (2004)

Một cách không ngờ, đoạn văn trên đây đã gây khá nhiều chú ý và bàn cãi. Một giáo sư đại học Hà Nội nhắn qua phê bình tác giả Tổ Quốc Ăn Năn là quá khích. Ông bảo đảm nhận định Việt Nam không còn chim là sai, bằng cớ là ngay tại làng ông, bên cạnh Hồ Tây, đã có một đôi chim đến làm tổ và ông đã quay phim. Nhiều người mới về thăm Việt Nam cũng thuật lại đã nhìn thấy chim, dù rất ít. Trong một bài viết gần đây về Tổ Quốc Ăn Năn, Nguyễn Vũ Bình báo tin mừng : cân bằng sinh thái đã phần nào được phục hồi, đã có những đàn chim năm, bảy con.

Bỏ qua sự kiện những nhận xét trên đây đã được một số người sử dụng để bài xích cuốn sách, tác giả phân vân giữa hai cảm nghĩ : một niềm vui và một sự lo âu. Vui vì môi trường đã khá hơn, nhưng lo âu vì ưu tư về môi trường của người Việt chúng ta còn ít quá. Chúng ta dễ tính quá. Không thể hài lòng với vài đàn chim năm, bảy con. Chúng ta cần vài trăm triệu chim trên đất nước.

Chúng ta cần chim lắm. Chim cần cho môi trường nhưng cũng cần cho con người. Tiếng chim làm cho cuộc đời vui, tâm hồn sạch ra và dịu lại. Cánh chim bay là hình ảnh thôi thúc của tự do, của sự vượt thoát. Chim khiến con người trở thành hiền hòa và cao thượng.

******************

Sơn xuyên chi cương vực ký thù

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 4

 

Nguyễn Trãi (1380-1442) mở đầu bài Bình Ngô Đại Cáo như sau :

     Nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân,

     Điếu phạt vi sư mạc tiên khử bạo.

     Duy ngã Đại Việt chi quốc,

     Thực vi văn hiến chi bang,

     Sơn xuyên chi cương vực ký thù,

     Bắc Nam chi phong tục diệc dị.

Trong Việt Nam Sử Lược, học giả Trần Trọng Kim cung cấp một bản dịch mà nhiều người nói là của cụ Bùi Kỷ : "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác".

Bình Ngô Đại Cáo là một áng văn bất hủ, lời lẽ hùng tráng mà ý kiến cũng rất sâu sắc. Được sáng tác vào năm 1427 khi nước ta vừa giành lại được độc lập từ tay quân Minh, Bình Ngô Đại Cáo có giá trị của một bản tuyên ngôn độc lập. Nó xác nhận văn tài xuất chúng và ý thức chính trị phi thường của Nguyễn Trãi, một trong những anh hùng kiệt xuất nhất trong suốt dòng lịch sử của nước ta.

Hầu hết mọi người Việt Nam đều chỉ biết đến Bình Ngô Đại Cáo qua bản dịch của Trần Trọng Kim (hay Bùi Kỷ ?). Bản dịch đó cũng là một tuyệt tác. Tuy nhiên, phù hợp với văn phong của thời các cụ Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ, nó chú trọng đến lời văn và âm hưởng nhiều hơn là ý, và dịch giả đã bỏ qua một chi tiết có tầm quan trọng rất lớn trong sự tồn tại của đất nước ta mà Nguyễn Trãi có thể đã muốn nêu ra. "Sơn xuyên chi cương vực ký thù" được dịch là "Sơn hà cương vực đã chia" thay vì "núi sông bờ cõi riêng biệt" hay "lãnh thổ có núi ngăn chia". Cụm từ "sơn xuyên", có nghĩa là núi sông nhưng cũng có thể có nghĩa là cách núi. Nguyễn Trãi có thể đã muốn nhấn mạnh sự kiện Việt Nam và Trung Quốc cách nhau một dãy núi. Câu mở đầu của Bình Ngô Đại Cáo có thể dịch sát nghĩa hơn như sau :

"Chính trị chủ yếu mưu tìm hòa bình, chiến tranh chỉ là để khử trừ bạo ngược. Nước Việt Nam là một nước văn hiến, lãnh thổ ta và Trung Quốc có núi ngăn chia, phong tục Bắc Nam cũng khác nhau...".

Mặc dù Nguyễn Trãi chủ ý nói thế nào đi nữa thì "vách núi" cũng vẫn là một yếu tố rất quan trọng của nước ta. Chính nhờ núi mà nước ta còn đến ngày nay. Dọc theo biên giới Trung Quốc là cả một vùng núi non dày đặc, dày gần một trăm cây số. Dọc theo biên giới Lào là dãy Trường Sơn. Hai dãy núi này kết hợp với nhau làm một tường thành kiên cố che chở và cô lập các đồng bằng miền Bắc và miền Trung nước ta. Chính nhờ núi mà Trung Quốc đã không thể thôn tính và đồng hóa nước ta, và cũng nhờ núi mà nước Lào đã không bị Việt hóa.

Trước đây khi nước ta chưa thực sự hình thành, thế lực còn đơn sơ đến độ một đạo quân nhỏ cũng đủ để chinh phục, Trung Quốc đã đặt được sự thống trị lên quận Giao Chỉ, nhưng số người Tàu đủ mạo hiểm để vượt núi qua nước ta lập nghiệp đã rất giới hạn. Vì thế mà một ngàn năm Bắc thuộc đã không thể biến Việt Nam thành một vùng hoàn toàn hội nhập vào Trung Quốc. Khi người Việt Nam trở thành đông đảo với thời gian và giềng mối xã hội trở thành gắn bó, ta đã đuổi được quan cai trị người Tàu rồi bảo vệ được nền độc lập. Từ khi giành hẳn được độc lập, năm 939, ta chỉ bị rơi vào ách Bắc thuộc hai mươi năm, từ 1407 đến 1427, trong một bối cảnh suy đồi đặc biệt. Cuộc chiến tranh giải phóng do Lê Lợi cầm đầu đã rất vẻ vang, nhưng khách quan mà nói lực lượng Trung Quốc xa hậu cứ và khi phải đương đầu với cuộc chiến tranh giải phóng Trung Quốc đã không chứng tỏ một quyết tâm đặc biệt nào để duy trì nền thống trị.

Các đạo quân xâm lăng phải vượt qua những đường mòn chật hẹp dài cả trăm cây số nên vận tải lương thực rất khó khăn, và làm mồi ngon cho các cuộc phục kích. Muốn xâm nhập nước ta, quân Trung Quốc thường phải đi đường biển đổ bộ xuống vùng Nghệ An, rất xa địa điểm xuất phát xét theo phương tiện di chuyển ngày xưa, hay cửa Bạch Đằng, tuy gần hơn nhưng vẫn còn phải đi một chặng đường hiểm trở để tiến về Hà Nội.

Nhờ thường xuyên đánh thắng quân xâm lăng phương Bắc, chúng ta hay tự hào về sức sống mãnh liệt của dân tộc, mà ít khi chịu khiêm tốn để nhìn nhận rằng sự tồn tại của nước ta chỉ được bảo đùảm nhờ vách núi dày đặc và hiểm trở. Nhiều nhà lý luận nặng đầu óc dân tộc đã biện bạch rằng dân ta đứng vững được nhờ có một nếp sống riêng, một nền văn hóa dân tộc cao, một tinh thần dân tộc cao và một tinh thần chiến đấu đặc biệt kiên cường.

Những yếu tố đó đều đúng nhưng chỉ đúng một phần mà thôi. Ta đã phóng đại và huênh hoang quá đáng.

Thực ra tinh thần dân tộc của ta không lấy gì làm mạnh và khả năng chiến đấu của ta tuy khá nhưng không thể nói là phi thường.

Về văn hóa, ta đã bắt chước người Tàu một cách mê mải và vô điều kiện. Nếu văn hóa của ta vẫn còn khác văn hóa Tàu thì cũng chỉ vì ta bắt chước chưa xong mà thôi. Văn hóa ta khác văn hóa Trung Hoa không phải ở chỗ ta thực sự khác mà là ở chỗ ta chưa bằng. Sự khác biệt ở trình độ nhiều hơn là ở bản chất.

Sau này khi lệ thuộc người Pháp, chúng ta cũng đã mê mải chạy theo văn hóa Pháp. Nhiều người còn muốn quên hẳn gốc gác Việt Nam.

Những người "vong bản" này không hẳn là những người "phản quốc", ngay cả "phản quốc" hiểu theo nghĩa cộng sản. Năm 1980, tôi có dịp nghe một bài nói chuyện của ông Phạm Văn Đồng, lúc đó là chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ông Phạm Văn Đồng là một trong những người lãnh đạo chủ chốt của cuộc chiến tranh cam go chống Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ. Ông Đồng là người đã giữ chức vụ thủ tướng lâu nhất tại Việt Nam, trong gần 40 năm. Trong các lãnh tụ cộng sản, ông là người được các đảng viên kính trọng nhất sau ông Hồ Chí Minh. Ông được coi là lãnh tụ cộng sản kỳ cựu có văn hóa cao. Điều đặc biệt là ông Phạm Văn Đồng, mặc dầu đảm nhiệm chức vụ chính trị quan trọng đã tỏ ra đặc biệt ưu tư tới tiếng Việt. Ông viết một loạt bài dưới đề tựa "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt".

Và tôi đã nghe ông Đồng nói những gì ? Bài nói chuyện của ông có ít nhất 20% là tiếng Pháp. Ông chêm tiếng Pháp bất cứ lúc nào ông có thể chêm được. Có khi ông nói cả những câu hoàn toàn bằng tiếng Pháp mà hầu hết cử tọa không hiểu. Tôi hỏi một người bạn đảng viên khá cao cấp đã nhiều lần nghe ông Đồng thuyết trình, anh ta cho hay ông Đồng lúc nào cũng nói như vậy vì "ông ấy học giỏi và quen miệng nói tiếng Pháp". Thực ra bác sĩ Đặng Văn Hồ (mà tôi gọi bằng chú do một liên hệ gia đình gián tiếp), bạn học của ông Đồng, cho tôi hay ông Đồng chưa học hết trung học bản xứ và đã từng nói với bác sĩ Đặng Văn Hồ rằng : "Mày đậu tú tài thì học tiếp, tao không có tú tài thì đi làm cách mạng". Như thế vốn liếng tiếng Pháp của ông Đồng tuy có thực nhưng không nặng đến nỗi sau hơn một nửa thế kỷ đấu tranh chống Pháp ông vẫn còn phải chêm tiếng Pháp luôn miệng như vậy. Tôi học và sử dụng tiếng Pháp nhiều hơn hẳn ông Đồng, tôi cũng sinh sống tại đất Pháp lâu năm, nhưng không có nhu cầu phải pha thêm tiếng Pháp trong khi viết và nói tới mức độ như ông Đồng. Ông Đồng chêm tiếng Pháp vì ông thích tiếng Pháp, cho rằng nói "tiếng Tây" là sang. Và ông nghĩ như vậy, bởi vì những người chung quanh ông cũng nghĩ như vậy. Người Việt Nam rất vọng ngoại về mặt văn hóa.

Đã nói tới người cộng sản thì cũng phải nói đến người quốc gia. Ông Nguyễn Văn Thiệu tuy vốn liếng tiếng Pháp chẳng hơn gì ông Đồng là mấy nhưng cũng luôn miệng nói tiếng Pháp. Trong biên lai mà ông ký cho tướng Trần Văn Đôn để nhận một triệu đồng tiền thưởng của tình báo Mỹ sau cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, ông viết "Bon pour 1.000.000 piastres". Một biên lai giữa người Việt với nhau lại viết bằng tiếng Pháp. Như thế mới sang. Trong thời gian làm việc tại Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín và Bộ Kinh Tế, tôi đã được đọc nhiều hồ sơ. Hồ sơ nào hầu như cũng pha tiếng Pháp, có hồ sơ hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Đó là sau khi Pháp đã ra đi gần 20 năm !

Sức chiến đấu kiên cường của ta cũng cần xét lại. Quả thật ta đã có những chiến công hiển hách, nhưng cũng có những lúc mà sức chiến đấu của ta kể như không có. Bảy người lính Pháp đã có thể vào chiếm tỉnh Ninh Bình, bắt quan quân Việt Nam quì gối hạ khí giới. Vài trăm lính Pháp đã có thể hạ được Thăng Long, đánh tan nhiều ngàn quân Việt Nam, một lần bắt sống Nguyễn Tri Phương, một lần buộc Hoàng Diệu phải tuẫn tiết.

Hồ Quí Ly chuẩn bị một đạo quân đông đảo và hùng hậu để đương đầu với quân Minh. Nhưng chỉ một đạo quân nhỏ của Trương Phụ đã đánh tan được toàn bộ quân nhà Hồ và bắt sống Hồ Quí Ly trong một thời gian chớp nhoáng.

Vậy phải giải thích thế nào những chiến công của ta ? Quan sát kỹ ta thấy người Việt Nam có tâm lý sợ và phục tùng uy quyền. Khi có những cấp chỉ huy cứng cỏi, họ chiến đấu có hiệu lực. Nhưng không nên vội đồng hóa tâm lý sợ và phục tùng cấp trên với ý chí sẵn sàng chiến đấu và chấp nhận hy sinh vì đất nước. Trong một đoạn khác tôi sẽ trở lại vấn đề này.

Tôi nói văn hóa đặc thù của ta không có bao nhiêu, tinh thần dân tộc và khả năng chiến đấu của ta chỉ giới hạn hoàn toàn không phải nhằm mục tiêu hạ nhục dân tộc ta. Để làm gì ?

Tôi chỉ muốn lưu ý rằng khả năng tự vệ của dân tộc ta thực ra chỉ vừa phải, chúng ta đã tồn tại được chủ yếu là nhờ có núi làm biên giới thiên nhiên. Ngày nay, trong thế giới hiện đại này, núi không còn là mộc che thân của ta nữa và biển lại là cửa vào xâm nhập lý tưởng ; sự xâm nhập không còn bằng quân sự mà bằng văn hóa, kinh tế, thương mại, sách báo, phim ảnh, âm nhạc, radio, tivi, internet, quần áo, và cả thực phẩm, đồ chơi. Ta phải hết sức lo lắng để giữ nước vì bài toán giữ nước đã thay đổi hoàn toàn. Chúng ta không còn trông vào núi được nữa. Muốn giữ nước từ đây ta phải có khả năng tự vệ thực sự, tinh thần dân tộc thực sự, lòng yêu nước thực sự.

Làm thế nào để có những yếu tố đó phải là ưu tư của mọi người quan tâm tới đất nước.

 

********************


Nước non nghìn dặm

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 5

 

Người Việt Nam nào hình như cũng biết câu ca dao "Nước non nghìn dặm ra điê. Cụm từ nước non nghìn dặm cũng đã là đầu đề của nhiều tác phẩm, và được dùng trong vô số bài hát, bài thơ. Nó đã làm cho nhiều người nghĩ đất nước ta rộng rãi, bao la.

Sự thực thì chúng ta rất thiếu đất. Với 78 triệu người (năm 2000) trên một diện tích 330.000 km2, nghĩa là 237 người trên một kilômét vuông, chúng ta là một trong những nước có mật độ cao nhất, gần gấp đôi Trung Quốc (120 người / km2) và xấp xỉ bằng Ấn Độ (270 người / km2), hai nước được coi là có nạn nhân mãn trầm trọng.

Nhưng không phải chỉ có thế. Tình trạng thiếu đất thật ra còn trầm trọng hơn nhiều. Nếu núi đã giúp ta giữ nước, thì núi và đồi cũng đã chiếm mất của ta ba phần tư lãnh thổ. Tại miền Bắc và Bắc Trung Bộ, đồi và núi chiếm hơn 80% lãnh thổ. Tỷ lệ đất đai canh tác được của ta không tới 25%. Nếu trừ đi thành phố, nhà cửa, đường sá, sông ngòi thì diện tích còn lại để trồng lúa tối đa của ta không quá 7 triệu héc-ta.

Nói đến thiếu đất người ta nghĩ ngay đến hạn chế sinh đẻ. Chính quyền hiện nay theo đuổi một chính sách hạn chế sinh đẻ vừa rời rạc vừa hung bạo.

Trong truyện ngắn nổi tiếng "Tướng về hưu", nhà văn Nguyễn Huy Thiệp kể chuyện một vị tướng cộng sản về hưu đã phải bỏ ra đi tìm lại đơn vị cũ của mình để rồi thiệt mạng vì không thể chịu đựng được cảnh cô con dâu, một bác sĩ sản khoa, đem những thai nhi đã bị phá về nhà làm thức ăn nuôi chó béc-giê kỹ nghệ.

Trong cuộc Hội Luận Dân Chủ Đa Nguyên tháng 10/1990, nhà nghiên cứu Đinh Trọng Hiếu, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Pháp, vừa từ Việt Nam sang sau một chuyến nghiên cứu dài ba tháng về đời sống nông thôn, đã lên diễn đàn mô tả lại cảnh mà ông đã nhìn thấy, cảnh ba bốn phụ nữ bị bắt buộc phá thai trong các trạm y tế : họ nằm trần truồng bên nhau, dạng cẳng cố trục xuất thai nhi ra, sau khi đã nhận thuốc phá thai. Vì thiếu phương tiện, việc phá thai được phối hợp giữa thuốc và các biện pháp tay chân. Đinh Trọng Hiếu vừa kể vừa khóc.

Đọc báo trong nước, người ta cũng vẫn thường gặp những bài nói về các cán bộ, đảng viên bị phê bình, hay có khi bị kỷ luật vì có tới ba con.

Nhưng mặc dầu vậy, dân số nước ta vẫn tiếp tục gia tăng xấp xỉ 2%, tức khoảng một triệu rưỡi người, mỗi năm. Các biện pháp hạn chế dân số dã man đã chỉ làm xuống cấp con người chứ không ngăn chặn được nạn nhân mãn. Có lẽ vì con người trở thành rẻ rúng mà chính quyền không còn quan tâm tới sức khỏe. Sách báo không thấy đăng (hay có đăng mà tôi không đọc được ?) tỷ lệ người chết hàng năm. Tôi tìm được một cuốn sách địa lý trung học [Địa lý lớp 9 - Nguyễn Trọng Điều, Nhà xuất bản Giáo Dục, 1989] hai con số : tỷ lệ người chết là 6,3 phần ngàn năm 1979 và 6,95 phần ngàn năm 1986. Như thế có nghĩa là trong vòng 7 năm tỷ lệ người chết đã tăng lên 10%. Năm 1986 là năm bắt đầu chính sách mở cửa theo qui luật kinh tế thị trường. Từ đó hệ thống y tế của nước ta bị bỏ rơi và xuống cấp không ngừng. Hiện nay, năm 2000, y tế của ta có thể nói là đã sụp đổ hoàn toàn. Theo thống kê của nhà nước, số trẻ em chết trước khi được một tuổi đã tăng 10% trong năm 1998.

Hạn chế đà gia tăng dân số chắc chắn phải là ưu tư lớn của bất cứ một chính quyền Việt Nam nào. Nhưng trước hết phải nhìn vấn đề một cách đúng đắn, phải nhận định rằng vấn đề sinh đẻ nhiều trước hết là một vấn đề văn hóa, xã hội và nhân sinh quan chứ không phải là một vấn đề thuần túy kinh tế, và do đó không thể giải quyết bằng những quyết định hành chánh, duy ý chí.

Chính quyền cộng sản đã có một thái độ thiếu lương thiện trên vấn đề này. Trước năm 1975, đảng cộng sản hoàn toàn không đặt ra vấn đề hạn chế sinh đẻ. Lúc đi cải tạo sau ngày 30/4/1975, tôi còn được nghe một bài học tập lên án gay gắt "ngụy quyền Sài Gòn" là đã tiếp tay cho chính sách diệt chủng bằng cách hạn chế sinh đẻ. Chỉ sau Đại hội IV, năm 1976, vấn đề mới đặt ra. Và sau đó những dụng cụ và thuốc ngừa thai mới được khuyến khích, cùng với những quyết định hành chánh rất thô bạo.

Cũng cần phải phân biệt hai vấn đề hạn chế sinh đẻ và giải quyết tình trạng dân số cao. Có lẽ tất cả vấn đề là ở chỗ đó.

Nếu chỉ hạn chế sự gia tăng dân số mà thôi thì phải nói rằng đó là một cố gắng vô ích ngay cả nếu thực hiện được. Bởi vì ngay bây giờ với 78 triệu dân, chúng ta đã tuyệt vọng rồi nếu vẫn cứ là một nước nông nghiệp. Tỷ lệ đất canh tác của ta hiện nay là 10 người một héc-ta. Với tỷ lệ này thì dù có tăng năng suất tối đa và dù có luôn luôn mưa thuận gió hòa, chúng ta vẫn sẽ là một nước nghèo khổ.

Vấn đề thực sự để giải quyết nạn đất hẹp người đông là phải thay đổi chức năng của đất nước từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp. Trong dài hạn, nông nghiệp của Việt Nam chỉ có thể đảm bảo đời sống xứng đáng cho khoảng 10 triệu người, trong khi chúng ta sắp có 100 triệu dân. Phần còn lại phải chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Cuộc chuyển hóa này sẽ phải được coi là cố gắng vĩ đại nhất từ ngày lập quốc và sẽ chỉ có thể giải quyết bằng một cố gắng liên tục trong nhiều thập niên. Ngay từ bây giờ những người làm chính sách phải luôn luôn có trong đầu viễn ảnh này.

Cho tới nay, chính quyền cộng sản luôn luôn có một chính sách cư trú mâu thuẫn. Đại hội IV của đảng cộng sản (năm 1976) chủ trương tiến lên "sản xuất công nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa" nhưng đồng thời đảng lại thi hành chính sách đuổi dân ra khỏi thành phố, đưa dân về nông thôn hay đi các vùng kinh tế mới. Cho đến ngay bây giờ chuyển hộ khẩu về miền quê vẫn là chuyện dễ dàng, ngược lại chuyển hộ khẩu từ nông thôn ra thành phố vẫn là chuyện đội đá vá trời.

Nông thôn Việt Nam từ lâu đã dư người rồi và càng ngày càng dư người hơn nữa. Thêm người ở nông thôn chỉ có tác dụng chuyển sự nghèo khổ từ thành thị về nông thôn, cho khuất mắt các vị lãnh đạo, chứ không giải quyết được gì cả. Không những không giải quyết được gì cả mà còn làm giảm năng suất nông nghiệp. Đông người quá thì không thể cơ giới hóa và còn phải hạ thấp mức cơ giới hóa để sử dụng lao động dư thừa, mà đã không cơ giới hóa thì năng suất dĩ nhiên là thấp. Năng suất trung bình của ngành trồng lúa chỉ là 3,5 tấn hàng năm cho một héc-ta trong khi ruộng đất Việt Nam có thể đạt năng suất 6 tấn.

********************


Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình

 

Tổ Quốc Ăn Năn 6

Trong cuộc chuyển hóa vĩ đại từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp và dịch vụ chúng ta gặp một trở ngại lớn : khí hậu. Chúng ta là một nước nhiệt đới, gần như nóng quanh năm, nhất là ở miền Nam. Sự phá hủy cây rừng từ nhiều năm nay, và vẫn chưa chấm dứt hẳn dù rừng không còn bao nhiêu, lại càng cho khí hậu thêm phần gay gắt khó chịu.

Khí hậu nóng làm cho con người uể oải, thiếu quyết tâm và mất kiên nhẫn. Các nước phát triển mạnh thường không phải là những nước nhiệt đới. Singapore là một ngoại lệ, nhưng Singapore không phải là một quốc gia theo đúng nghĩa của nó, mà là một thành phố và một hải cảng. Vả lại, đó là một đảo, được biển bao quanh và nhờ vậy gió biển cũng làm dịu bớt khí hậu, như tại Mã Lai. Có nhiều nhà nghiên cứu khẳng định phát triển là đặc tính của các nước hàn đới và ôn đới. Bắc Mỹ phát triển hơn hẳn Nam Mỹ, Bắc Âu vượt hẳn Nam Âu. Các nước châu Á phát triển mạnh cũng thế : Nhật, Triều Tiên, Hương Cảng, Đài Loan và có lẽ sau này Hoa Lục, cũng đều là những nước lạnh, hoặc ít ra không nóng.

Có những nhà nghiên cứu xã hội lớn, như Max Weber và Alain Peyrefitte, không tin như vậy và giải thích bằng lý do văn hóa. Bắc Mỹ và Bắc Âu, theo họ, phát triển được nhờ tư tưởng Tin Lành phóng khoáng, trong khi Nam Mỹ và Nam Âu không phát triển vì ảnh hưởng giáo điều thủ cựu của Công Giáo. Phân tích này có phần đúng, nhưng cũng có thể giải thích rằng tại vì miền Bắc Âu lạnh, mà con người có chiều sâu, phát triển óc phê phán và sáng tạo rồi chấp nhận Tin Lành.

Dầu sao thì khí hậu nóng cũng vẫn là một trở ngại lớn.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng đồng ý các vùng bờ biển phát triển mạnh hơn các vùng lục địa. Biển là kho tàng hải sản vô tận, là sự nới rộng của bờ cõi, và, quan trọng hơn hết, là khả năng giao thông vận tải quan trọng và quí giá vô cùng.

Khi vừa mới tốt nghiệp kỹ sư, tôi làm việc cho hãng Pechiney, công ty đứng hàng thứ nhì thế giới và thứ nhất tại châu Âu vào đầu thập niên 1970 về kỹ nghệ nhôm. Pechiney nhập cảng quặng nhôm từ Úc và châu Phi. Nhà máy luyện nhôm nơi tôi làm việc nằm ở trung tâm nước Pháp, cách cảng Marseille chừng 400 km. Chi phí chuyên chở bằng đường biển từ Úc tới Marseille gần 20.000 km, nhẹ hơn chi phí chuyên chở 400 km đường sắt từ Marseille đến nhà máy.

Ưu thế bờ biển - lục địa quan trọng không kém ưu thế lạnh - nóng. Người ta có thể quan sát rằng từ hai mươi năm nay tại Trung Quốc, vùng duyên hải đã phát triển vượt hẳn vùng lục địa. Ưu thế của bờ biển càng rõ nét trong trường hợp Trung Quốc nếu người ta nhớ lại rằng trong thập niên 1950 Mao Trạch Đông đã cho thi hành kế hoạch "đệ tam tuyến", chuyển hết kỹ nghệ vào lục địa để phòng ngừa một cuộc đổ bộ của Hoa Kỳ. Kế hoạch này đã biến Trùng Khánh thành thành phố đông dân nhất Trung Quốc, nó đã làm phá sản các vùng bờ biển.

Biển cũng làm cho khí hậu nóng bớt đi rất nhiều sự gay gắt. Nhờ biển và gió biển, khí hậu nước ta dễ chịu hơn nhiều so với khí hậu ở cùng vĩ độ tại Lào và Thái Lan. Trừ một vài tháng đặc biệt, ở vài nơi và trong vài năm khác thường, hàn thử biểu ít vượt quá 35º C. Nhiệt độ trung bình những tháng nóng nhất của nước ta chỉ là 28 hoặc 29º C, nghĩa là một nhiệt độ tuy không thoải mái nhưng vẫn còn chịu đựng được.

Chúng ta có rất nhiều bờ biển và biển của ta rất tốt. Bờ biển của ta dài 3.200 km, còn dài hơn cả chiều dài thực sự của nước ta. Cả nước ta là một dải bờ biển, điểm sâu nhất trong đất liền tại miền Bắc là 600 km, trung bình bề dày của đất nước ta là 150 km, tại Đồng Hới (Quảng Bình) bề dày này chỉ có 50 km.

Dọc theo bờ biển, chúng ta có khả năng thiết lập vô số hải cảng tốt. Hiện nay ta mới chỉ sử dụng một phần rất nhỏ của khả năng này với các hải cảng : Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn. Tiềm năng hải cảng hứa hẹn một tương lai xán lạn cho kỹ nghệ đóng tàu, bảo trì và sửa chữa tàu và chuyên chở hàng hải. Những ngành này cho tới nay ta hoàn toàn không khai thác. Tuy có nhiều cảng thiên nhiên nước sâu, nhưng nói chung bờ biển nước ta lại rất soải và có cát mịn, do đó chúng ta có nhiều bãi biển thiên nhiên tuyệt vời. Đó là những tiềm năng du lịch nếu được khai thác sẽ đem lại một nguồn lợi rất lớn vì bờ biển của ta giữ nhiệt độ quanh năm trên 25º C. Chúng ta là cửa mở ra Thái Bình Dương của cả bán đảo Trung-Ấn. Người ta có thể làm việc và kiếm tiền ở Thái Lan, Lào, Vân Nam, nhưng người ta bắt buộc phải nghỉ ngơi và tiêu xài tại bờ biển Việt Nam. Kỹ nghệ du lịch của nước ta, nếu được phát triển đầy đủ, trong trung hạn có khả năng thu hút vài chục triệu du khách mỗi năm, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người trong ngành du lịch cũng như trong các ngành liên hệ.

Vùng biển thuộc lãnh hải Việt Nam có khả năng cung cấp hai triệu tấn cá mỗi năm. Bờ biển dài và thuận lợi của Việt Nam cho phép đánh bắt thêm dễ dàng một trọng lượng cá tương đương trên biển cả. Ngư nghiệp và công nghiệp thực phẩm do nguồn hải sản cho phép ta nuôi sống một số người tương đương với nông nghiệp.

Bờ biển miền Nam còn cho ta một tiềm năng nuôi tôm cá rất quan trọng mà ta hiện chỉ khai thác được một phần rất nhỏ.

Ngoài ra, vùng Đồng Tháp thuộc đồng bằng Nam Bộ, với nguồn nước và nguồn cùá to lớn của sông Mê Kông, còn là một tài nguyên lớn lao nuôi cá nước ngọt mà ta hầu như chưa khai thác.

Biển là tài sản quí báu nhất của non sông hoa gấm, có khả năng cao hơn nhiều so với nông nghiệp. Nhưng không phải ta chỉ có biển tốt mà ta còn có một vị trí vô cùng thuận lợi. Chúng ta là đường ra biển của Cam-bốt, Lào, Thái Lan và miền Tây-Nam Trung Quốc, chúng ta nằm sát các trục giao thông hàng hải quan trọng và ở ngay trung tâm của một vùng phát triển mạnh.

Chức năng hiển nhiên của ta do biển đem lại là chức năng của một nước du lịch, công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Nguồn lợi chính mà biển đem lại là nguồn lợi của giao thương với thế giới. Nhưng muốn phát huy chức năng đó, điều bắt buộc tự nhiên là ta phải hội nhập với thế giới, có một chế độ chấp nhận được cho cả thế giới. Nghĩa là dân chủ.

********************


Nước non nghìn dặm (II)

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 7

Cái cảm giác nước non nghìn dặm là có thực, và có ba lý do khiến cho người Việt, ngay cả khi có số liệu rõ ràng trong tay, vẫn có cảm giác đất nước xa xôi, bao la.

Lý do thứ nhất là vì nước ta dài thực, dài 2.500 km từ Bắc tới Nam, chiều dài đó khiến cho các miền của đất nước khác nhau về địa hình, địa chất, về khí hậu và cả về con người. Chúng ta chỉ có một điểm giống nhau lớn và cũng là một điều may : chúng ta nói cùng một ngôn ngữ thuần nhất. Toàn bộ 85% dân số được gọi là người Kinh sử dụng tiếng Việt, và càng ngày số người của 15% còn lại thuộc các sắc tộc ít người sử dụng được tiếng Việt càng thành đa số.

Ngay từ miền Thượng Du Bắc Việt xuống đồng bằng sông Hồng kế cận nhau mà con người và cách sinh sống đã rất khác biệt rồi. Vào đến miền Trung với những cánh đồng dài, hẹp và khô cằn, khí hậu và con người lại khác, ngay cả giọng nói nhiều khi cũng khó hiểu đối với người miền Bắc hay miền Nam. Giữa miền Trung và miền Cao Nguyên Trung Phần, mà hiện nay được gọi bằng danh xưng khó hiểu là Tây Nguyên, sự khác biệt trước đây còn lớn hơn cả giữa đồng bằng sông Hồng và miền Thượng Du Bắc Việt. Vào đất miền Nam mưa nắng hai mùa, với những cánh đồng thẳng cánh cò bay, thì cảnh trí lại càng khác, và con người cũng khác.

Lý do thứ hai là người Việt Nam ta, do truyền thống nông nghiệp, do chiến tranh và do chính sách kiểm soát cư trú và hạn chế đi lại của chính quyền, không hay di chuyển. Đối với một người ở Thái Bình, Huế và Sài Gòn cũng xa xôi như Paris. Sự thiếu di chuyển không những làm cho nhận thức hạn hẹp và lệ thuộc vào thành kiến, mà còn tạo ra một tâm lý từ chối tìm hiểu đất nước mình. Nước non nghìn dặm cũng là nước non rất xa xôi, không liên hệ gì đến tôi ngoại trừ việc các quan chức bắt tôi phải đóng thuế và bắt con tôi đi lính !

Lý do thứ ba là sự coi thường môn địa lý của trí thức Việt Nam. Trí thức Việt Nam chủ yếu học để thi lấy bằng chứ không phải lấy kiến thức nên chỉ chú trọng học những môn cần cho thi cử. Địa lý không phải là một trong những môn đó.

Ở trung học, không có môn học nào chán bằng môn địa lý. Thầy cũng dốt, học trò cũng dốt, sách lại dở. Trong các kỳ thi, môn địa lý chỉ có một hệ số không đáng kể. Những người điều khiển đất nước, bất luận chế độ nào, và ngay cả các chuyên viên về kế hoạch cũng chỉ có một sự hiểu biết rất đại khái và mơ hồ về địa lý của đất nước.

Không nói gì xa xôi, ngay tại Sài Gòn cũng rất ít người biết rằng vào mùa thu cả một miền Đồng Tháp biến thành một biển nước ngọt mênh mang, sâu tới sáu mét, tàu biển cỡ trung bình chạy dễ dàng. Cũng rất ít người Sài Gòn biết rằng nông thôn miền Tây Nam Phần có một quan hệ nam nữ tự do vào bậc nhất thế giới. Ở đây rất ít đàn ông nào chỉ có một vợ - con số trung bình là ba - và cũng khó kiếm ra một người đàn bà nào chỉ có một đời chồng. Người ta hỏi nhau một cách tự nhiên : "Xin lỗi thím Tư, thím Tư là vợ cưới hay vợ dắt". Cưới hay dắt không quan trọng lắm. Con trai tới tuổi thanh niên gặp bạn gái vừa ý có thể dắt về nhà ở chung với cha mẹ. Sau một thời gian, nếu không hạp, bà mẹ chồng có thể dắt cô con dâu về trả lại cho cha mẹ. Trai gái làm quen nhau dễ dàng, luyến ái dễ dàng và chia tay nhau cũng rất dễ dàng.

Trong khi ở mọi nước phát triển môn địa lý được coi là tối quan trọng thì tại Việt Nam nó lại bị coi thường quá đáng. Sự thiếu hiểu biết về địa lý đất nước cũng là một trở ngại lớn cho những nhận thức. Chính vì không hiểu địa lý nước ta mà cho tới nay nhiều người vẫn tự hào rằng ta đã giữ được nước vì ta oai hùng chứ không phải vì nhờ lãnh thổ có núi ngăn chia. Chính vì thiếu kiến thức địa lý mà cho tới nay, trong những đề nghị về phát triển kinh tế, người ta chỉ thấy những chính sách chung cho cả một nước, như thể là tỉnh Hòa Bình có thể phát triển theo cùng một mô thức với Minh Hải. Tôi còn được đọc một đề nghị phát triển cho cả nước và cho suốt thế kỷ 21 !

Có thể kiến thức địa lý có trong đầu óc những người làm kế hoạch và những chuyên viên nhưng nó chưa hiện diện đủ mạnh để ảnh hưởng đến cách suy nghĩ.

Xin nêu hai thí dụ.

Nếu có phản xạ của nhà địa lý thì không thể có một đồng thuận kỳ quặc là cả nhà cầm quyền lẫn các chuyên gia mỗi khi có dịp đều bày tỏ quan điểm lo âu về một hiểm họa "rời bỏ nông thôn" [exode rural] của dân chúng. Thế rồi các chuyên gia lên tiếng báo động, và nhà cầm quyền khuyến khích hay bắt buộc dân chúng di dân về miền quê. Đó là vì chúng ta nhắc lại những gì đã được các chuyên gia viết ra cho các nước châu Mỹ La Tinh hay Pháp và một số nước tương tự, nơi mà nhiều khu đất mầu mỡ phì nhiêu bị nông dân rời bỏ. Không làm gì có một mối nguy như thế tại nước ta. Trái lại chúng ta cần một exode rural. Hiện nay hơn sáu mươi triệu người Việt Nam sống nhờ nông nghiệp trong khi ruộng đất của chúng ta chỉ đủ cho từ năm tới mười triệu người. Ta cũng không còn rừng để phá. Rừng của ta đã bị phá quá nhiều rồi, và vong hồn rừng đang báo oán chúng ta : lũ lụt đã trở thành thông lệ hàng năm tại miền Trung, kế tiếp là hạn hán vì không còn rừng để giữ nước nữa. Nông thôn của ta quá dư người, mà đông người quá thì không thể dùng những phương pháp canh tác hiện đại được và năng suất sẽ thấp mãi mãi. Chức năng của chúng ta là chức năng của một nước ngư nghiệp, hàng hải, công nghiệp và dịch vụ. Cần tổ chức cho nông dân rời nông thôn. Đi đâu và làm gì là một vấn đề khác sẽ được bàn tới trong một phần sau. Nhưng ngay từ bây giờ không nên ngăn cản người dân rời nông thôn. Trong giả thuyết xấu nhất ta cũng có thể nói như thế này : hiện nay với sáu mươi triệu người ở nông thôn chúng ta không đủ gạo ăn (ta có xuất cảng gạo nhưng bù lại một tỷ lệ quan trọng dân chúng lại thiếu đói), nếu chỉ có năm triệu người tại nông thôn thôi ta sẽ có năng suất cao, sản xuất dư gạo cho một trăm triệu người và còn có thể dư thừa để xuất khẩu.

Một thí dụ thứ hai về sự thiếu ý thức địa lý có thể tìm thấy trong nhĩều dự đoán dài hạn. Mọi người hình như đều lo âu về sự nghèo khó tại miền Trung. Đó là một lo âu chính đáng, nhưng là một vấn đề tương đối ngắn hạn. Trong cuộc chuyển hóa bắt buộc từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp và dịch vụ, với hai ngành phụ là nông nghiệp và ngư nghiệp, bản đồ kinh tế của ta sẽ dần dần thay đổi, và trong vài thập niên nữa sẽ thay đổi hẳn (với điều kiện là nước ta vẫn còn tồn tại, một điều không hoàn toàn chắc chắn, trái với sự yên tâm chắc nịch của đại đa số người Việt !). Các tỉnh miền Trung nhờ bờ biển sẽ là những vùng phát triển mạnh nhất, trong khi vùng đồng bằng sông Hồng và miền Tây Nam Phần, nghĩa là những vùng nông nghiệp còn lại, sẽ tụt hậu vì giới hạn tự nhiên của nghề nông và vì tình trạng đất hẹp người đông.

********************


Mưu sự tại nhân...

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 8

Độc giả đọc tới đây có thể rút ra một kết luận tương đối bi quan. Chúng ta đất hẹp, người đông, thiên nhiên bị tàn phá, lại đang rất nghèo nàn lạc hậu. Lợi thế của chúng ta là biển và vị trí thì lại hầu như hoàn toàn chưa được khai thác và dân ta còn phải học hỏi nhiều mới có thể sử dụng được. Như thế có lẽ tương lai của ta mờ mịt lắm. Tôi xin cảnh giác trước độc giả về hai điều mâu thuẫn với nhau. Điều thứ nhất là độc giả sẽ còn phải chờ đợi ở những phần sau nhiều yếu tố tiêu cực hơn nữa, việc kiểm kê những điểm yếu của nước ta mới chỉ bắt đầu mà thôi. Điều thứ hai là, ngược lại, tất cả những nhược điểm vừa kể về địa lý thiên nhiên thực ra không quan trọng lắm và không đáng khiến ta phải quá bi quan, nhất là địa lý của chúng ta cũng không đến nỗi quá bất lợi.

Xin dẫn chứng một câu chuyện có thực mà tôi đã sống.

Trại học tập cải tạo của chúng tôi ngoài các sĩ quan công chức của chế độ cũ ra còn có cả một số thường phạm. Điều đó chứng tỏ là chúng tôi là tù chứ chẳng phải là "cải tạo viên" gì cả. Số tù thường phạm gồm đủ loại : móc túi, đánh bài, buôn lậu, ăn trộm, ăn cướp và một số cán bộ cộng sản bị phạt tù vì những lý do ngoài chính trị, thí dụ như một anh dược sĩ bán thuốc nhà nước cho chợ trời, một anh đại đội trưởng bắn chết người.

Trong số những thường phạm có Nguyễn Văn Khánh, một thành phần bất hảo rất nguy hiểm bị giam chung với tôi. Khánh là cháu ngoại Sáu Cường, võ sĩ khét tiếng miền Nam hồi thập niên 1930 đã từng thi đấu nhiều lần và chưa hề thua ai bao giờ. Mẹ Khánh cũng là một cao thủ võ lâm với cuộc sống rất phóng đãng. Khánh nói với tôi : "Ông thầy biết không, mẹ tôi đã qua tất cả mọi binh chủng". Ý Khánh muốn nói mẹ nó đã chung chạ với rất nhiều người, trong đó có những quân nhân thuộc mọi binh chủng của quân đội miền Nam. Khánh cũng như các anh em của nó đều mang họ mẹ vì không biết cha là ai. Khánh vạm vỡ, khỏe mạnh và lúc nào cũng sẵn sàng ẩu đả, lại sẵn có máu con nhà võ nên chẳng sợ ai cả. Lúc đó Khánh mới 20 tuổi mà thành tích đã ghê gớm, không biết bao nhiêu lần vào tù ra khám dưới chế độ cũ, và chỉ sáu tháng dưới chế độ cộng sản Khánh đã là bộ mặt rất quen thuộc đối với công an tỉnh Cà Mau. Tất cả là những tội trạng giống nhau : trộm cướp, đánh lộn, đưa dẫn và làm tiền gái bán dâm. Khánh không biết đọc, không biết viết, không biết gì cả, lại rất lười biếng và chỉ có một trí thông minh dưới mức trung bình. Khánh bị bắt trong một đợt càn quét tệ đoan xã hội và bị đưa đi cải tạo vô hạn định. Vì là thành phần bất hảo gan lì, Khánh bị quyện cả hai chân. Lúc vào tù, Khánh chỉ có một bộ quần áo, và dĩ nhiên không có người thăm nuôi. Mẹ Khánh không biết đã lưu lạc nơi nào, các anh em Khánh hoặc đang sống lang thang vô gia cư, hoặc cũng đang ở tù với một tội trạng tương tự như Khánh. Nói chung, Khánh đang ở trong một hiện tại bi đát, không có một tương lai nào và cũng không có ai ưa Khánh để có thể dìu dắt, giúp đỡ. Trong một đêm giao thừa Khánh nói với tôi : "Cuộc đời tôi tàn rồi !".

Đêm hôm đó, từ chiếc radio của người công an gác đêm vọng ra lời chúc Tết của chủ tịch Tôn Đức Thắng. Cả nước biết ông Tôn Đức Thắng đã xấp xỉ chín mươi tuổi và đã yếu lắm. Tôi hỏi Khánh :

- Mày nói đời mày tàn rồi, thế nếu đổi cuộc đời mày lấy cuộc đời của chủ tịch Tôn Đức Thắng mày có chịu không ?

Khánh giẫy nẩy lên :

- Đâu được ! Ông nói giỡn sao, ông ấy sắp chết đến nơi rồi.

Cả hai chúng tôi đều phá ra cười.

Thì ra, cũng như hầu hết mọi người, Khánh quá chú tâm đến những thành công và danh vọng để quên rằng thực ra điều quí giá nhất trong một đời người là sức khỏe và tuổi trẻ. Còn sức khỏe và còn trẻ là còn hy vọng. Đối với một đất nước, điều quan trọng nhất là con người, còn con người là còn tất cả dù tình trạng hiện tại ra sao. Bởi vì con người có thể làm ra tất cả.

Nước Pháp không xa Hòa Lan. Tôi có nhiều người bạn ở đó, và có cả một nghĩa tử. Năm nào tôi cũng qua Hòa Lan nhiều lần. Đường đi lại dễ dàng, chỉ cần vài giờ lái xe. Từ cửa nhà tôi tới cửa nhà Đặng Minh Kỷ, phối trí viên của nhóm Thông Luận Hòa Lan, chỉ có 500 cây số.

Nước Hòa Lan chỉ rộng bằng một phần mười diện tích của Việt Nam, với một dân số 15 triệu. Hòa Lan có mật độ dân số cao vào bậc nhất thế giới, gần gấp hai lần Việt Nam, gấp bốn lần nước Pháp. Ngoài một mỏ khí đốt ở miền Bắc, tại Groningen, Hòa Lan không có một tài nguyên nào đáng kể cả. Đất của Hòa Lan thấp hơn mức nước biển nên ngập lụt là một đe dọa thường trực. Tên của nước Hòa Lan là Nederland, có nghĩa là "đất thấp". Đất hẹp và bất lợi, người đông, tài nguyên thiên nhiên ít ỏi, nhưng Hòa Lan là một thiên đàng hạ giới, do chính con người tạo ra. Người Hòa Lan thường tự hào : "Thượng Đế đã tạo ra thế giới, nhưng chính chúng tôi đã làm ra đất nước này". Hoàn toàn đúng.

Dù nhỏ bé về cả đất đai lẫn dân số, nhưng Hòa Lan là một cường quốc kinh tế. Vào lúc tôi viết những dòng này, tổng sản lượng quốc gia của Hòa Lan trên 300 tỷ USD, gần 15 lần tổng sản lượng của Việt Nam với 78 triệu dân, gấp rưỡi tổng sản lượng gộp lại của tất cả lục địa châu Phi với trên 600 triệu dân.

Hòa Lan có mặt một cách tích cực trên mọi thị trường thế giới. Trên thềm thế kỷ 21, ngoại thương của Hòa Lan cao hơn hẳn ngoại thương của Trung Quốc ngay cả sau hơn hai thập niên theo đuổi chủ trương "giàu có là vinh quang", gấp năm lần ngoại thương của Ấn Độ và lúc nào cũng xuất siêu. Các công ty lớn của Hòa Lan như Philips, Royal Dutch, Unilever có chi nhánh trên khắp các lục địa và tại tất cả các quốc gia phát triển. Nông phẩm của Hòa Lan, nhất là sữa và thịt, tràn ngập các thị trường châu Âu.

Đất nước Hòa Lan đẹp đẽ với những xa lộ tuyệt vời chạy qua những cánh đồng xanh tốt, với những đàn bò béo mập và những cây xanh rất thẩm mỹ. Hòa Lan chưa phải trải qua một cuộc cách mạng nào, nhưng Hòa Lan là một nước dân chủ và tự do nhất thế giới. Không ở đâu con người được quí trọng như ở Hòa Lan và có lẽ cũng không ở đâu cái thú làm dân lại có thể lớn hơn ở Hòa Lan.

Tôi ưa sang Hòa Lan vì những người bạn quí ở đó, nhưng cũng vì tôi ngưỡng mộ vô cùng đất nước và con người Hòa Lan. Người Hòa Lan đã làm cho tôi hiểu một cách âm thầm và chắc chắn rằng mưu sự tại nhân mà thành sự cũng tại nhân. Tôi cám ơn sâu xa và thành thực Hòa Lan đã cho tôi hy vọng và niềm tin, nhờ đó mặc dầu những khó khăn và trở ngại ngày hôm nay tôi không bao giờ mất niềm tin rằng vẫn còn có thể có một nước Việt Nam tương lai xứng đáng để những người Việt hôm nay đầu tư cố gắng và để cho các thế hệ ngày mai có thể yêu mến và tự hào.

********************

 

Một dân tộc tinh anh ?

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 9

Trong cuốn sách "Việt Nam Sử Lược" quen thuộc với mọi người, Trần Trọng Kim viết về người Việt Nam như sau :

"Về đàng trí tuệ và tính tình thì người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức : lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.

Tâm địa nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma tin quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn".

Trần Trọng Kim, xuất thân là một giáo viên, được gởi đi học và tốt nghiệp Trường Thuộc Địa [Ecole Coloniale] tại Pháp. Trường Thuộc Địa Pháp vào đầu thế kỷ này là một trường có trình độ trung học, có mục đích khai mở nền văn minh Pháp nói riêng và phương Tây nói chung cho những trí thức Việt Nam đầu tiên để họ về nước phục vụ cho chính quyền thuộc địa. Năm 1911, ông Hồ Chí Minh, lúc đó làm bồi tàu và mới tới Pháp, cũng có làm đơn với lời lẽ thống thiết viện cớ có cha đậu tiến sĩ Hán học để xin vào trường này, nhưng bị từ chối.

Tuy vốn liếng khoa bảng không có bao nhiêu (nhưng vào thời đó trình độ của Trường Thuộc Địa cũng đã là cao lắm rồi), nhưng ông Trần Trọng Kim đã dày công học hỏi và nhờ trí tuệ xuất sắc ông trở thành một học giả lớn. Ngoài kiến thức uyên bác, Trần Trọng Kim còn là một người liêm khiết, lương thiện. Ông có uy tín rất lớn trong thời đại của ông. Năm 1945, khi Nhật đảo chánh Pháp, trả độc lập trên nguyên tắc cho Việt Nam, ông Trần Trọng Kim, lúc đó đã về hưu, được vua Bảo Đại mời ra làm thủ tướng theo ý của người Nhật. Sự kiện ông được chỉ định làm thủ tướng là một ngạc nhiên cho rất nhiều người. Phần đông giới theo dõi thời cuộc lúc đó chờ đợi ông Ngô Đình Diệm, một cựu thượng thư, có uy tín, có tham vọng chính trị và nhất là đã giao dịch với Nhật từ lâu. Ông Diệm đã tham gia từ 1941 tổ chức Việt Nam Phục Quốc Hội của hoàng thân Cường Để do Nhật đỡ đầu. Người ngạc nhiên nhất chính là ông Ngô Đình Diệm. Thực ra ngay từ khi đổ bộ vào Việt Nam, Nhật cũng đã có ý định dùng Trần Trọng Kim như một lá bài thay thế cho Ngô Đình Diệm, có lẽ vì họ nghĩ Ngô Đình Diệm là một chính khách sắc bén hơn và có thể đòi hỏi họ nhiều hơn là Trần Trọng Kim. Tuy vậy ông Trần Trọng Kim cũng đã dần dần đòi hỏi được nơi người Nhật tất cả những nhượng bộ cần thiết. Nếu người Nhật coi Trần Trọng Kim là người không đáng lo ngại thì người Pháp sau này lại lo ngại Trần Trọng Kim và làm áp lực để Bảo Đại chọn Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng năm 1948 thay vì Trần Trọng Kim. Sau đó Trần Trọng Kim qua Phnom Penh sống với người con gái, ông mất vài năm sau đó, khi vừa trở về Việt Nam.

Trần Trọng Kim tóm lược cuộc đời chính trị của ông trong thiên hồi ký ngắn "Một cơn gió bụi". Có lẽ những ai có ý định viết hồi ký đều nên đọc cuốn sách nhỏ này trước đã. Đó thực sự là một cuốn hồi ký. Nó được viết một cách thực thà, lương thiện, rành mạch, điều ít thấy trong các cuốn hồi ký khác. Hồi ký là một loại sách đặc biệt. Nó có tác dụng chính, và có thể nói là duy nhất, là ghi chép các sự kiện để làm chứng cho một giai đoạn. Đòi hỏi duy nhất của nó là phải trung thực, phải có giá trị của một tài liệu. Người Việt Nam, nhất là các tướng tá quân đội miền Nam cũ, hay dùng hồi ký để bóp méo sự thật, tán dương hay chạy tội cho mình, bôi nhọ người khác. Những hồi ký như vậy không thể dùng làm tài liệu.

Trần Trọng Kim được mọi người kính trọng, người ta kính trọng kiến thức của ông và người ta còn kính trọng hơn nơi ông nhân cách của một trí thức chân chính. Nếu không phải Trần Trọng Kim mà một người khác viết ra những dòng trên, thì chắc chắn sẽ bị cả một loạt bài đả kích và mạt sát thậm tệ vì đã dám coi thường người Việt. Nhưng vì là do Trần Trọng Kim viết ra nên không ai cãi lại, và hầu hết nhìn nhận là đúng. Tôi cũng có đọc trong nhiều cuốn sách cũ của các học giả Pháp một nhận định tương tự như vậy về người Việt, không biết có một sự tham khảo nào không. Điều chắc chắn là Trần Trọng Kim chỉ viết những điều ông tin là đúng.

Nói chung, Trần Trọng Kim nhận định người Việt Nam có cấu tạo cơ thể tốt, có trí óc tương đối tốt, siêng năng, hiếu học, biết trọng đạo đức, nhưng tâm lý thì rất dở. Ông không nói người Việt Nam nói chung có yêu nước hay không, đó cũng là một điều lạ trong cuốn sách sử.

Tôi đã đề cập phần trước tới nước Hòa Lan như là một kỳ quan của thế giới. Quan sát kỹ người Hòa Lan, thành thực tôi không thấy họ thông minh hơn người Việt, hay có hơn cũng không hơn bao nhiêu. Họ cũng không chăm chỉ hơn người Việt Nam, hay có hơn cũng không hơn bao nhiêu. Vậy mà họ đã tạo nên được quốc gia đáng phục nhất thế giới. Tôi làm việc với người Pháp và cũng đi tới một nhận định tương tự. Riêng người Anh thì phải nói tuy họ có nét độc đáo riêng, nhưng trí tuệ của họ cũng chỉ xấp xỉ như người Hòa Lan và người Pháp, ngoài ra họ lười biếng hơn hẳn người Việt Nam.

Vậy mà tại sao các quốc gia đó giàu mạnh đến thế, trong khi nước ta nghèo nàn lạc hậu và tang tóc đến thế ?

Khi một máy vi tính hoạt động dở thì chỉ có hai giải thích : một là cái hardware [phần vật liệu hay phần cứng] của nó dở, hai là cái software [phần trí liệu hay phần mềm] của nó dở. Chất liệu, nghĩa là cấu tạo cơ thể và trí óc, của người Việt Nam tốt. Vậy thì phải chăng cái software, nghĩa là cái văn hóa và tâm lý, của người Việt Nam tồi dở ? Tôi tin như thế. Một người bạn tôi sau hơn một thập niên làm cố vấn cho các chính phủ châu Phi đã chỉ rút ra được một kết luận rõ nét : các nước đó không vươn lên được vì trở ngại văn hóa và tâm lý.

Đọc những bài đóng góp gần đây của các tác giả Việt Nam về vấn đề phát triển đất nước, phần đông có giá trị, nhiều bài rất xuất sắc, tôi ít thấy đề cập đến yếu tố tâm lý (hay văn hóa cũng thế vì tâm lý và văn hóa rất gần nhau), trong khi đó tất cả các nhà bác học có thẩm quyền ở tầm vóc thế giới về vấn đề phát triển đều coi yếu tố tâm lý là yếu tố cốt lõi. Nhiều tác giả còn gọi phát triển là một cấu trúc tâm lý [structure mentale].

Tâm lý của một dân tộc, nhiều người thích dùng cụm từ hồn tính dân tộc, một phần do điều kiện thiên nhiên tạo thành, nhưng một phần lớn là do các giá trị đã được nhìn nhận từ lâu đời và đã tạo ra một nếp sống. Các giá trị ấy hình thành có khi do sự khám phá trong cuộc sống của dân tộc, có khi được du nhập và hấp thụ, được kiểm chứng và xét lại theo kinh nghiệm lịch sử. Lịch sử vì thế đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành tâm lý dân tộc. Lịch sử là trí nhớ tập thể của dân tộc, một nguồn tài liệu và gợi ý. Lịch sử cũng là tấm gương để một dân tộc nhận diện được mình, hiểu mình, biết mình nên làm gì và có thể làm gì. Muốn như thế, lịch sử phải chính xác và cũng phải được phân tích và khai thác một cách sáng suốt và khách quan.

Nhưng một mặt lịch sử của ta không chính xác, và, mặt khác, chúng ta rút ra từ lịch sử những kết luận và những bài học sai lầm.

******************

 

Một dân tộc hiếu học ?

 

 

Tổ Quốc Ăn Năn 10

Người Việt Nam rất hiếu học. Tính hiếu học của người Việt là có thực. Điều này mọi người đều đồng ý và chính tôi cũng có thể kiểm chứng trong những môi trường mà tôi đã sống và những người mà tôi đã biết, ngay cả trong gia đình tôi.

Tại trung học Trần Lục, nơi tôi theo học từ đệ thất (lớp 6 bây giờ) tới đệ Tứ (lớp 9), các học sinh phần lớn là di cư từ ngoài Bắc vào, chính trường Trần Lục cũng là một trường di chuyển từ Phát Diệm vào. Trường do các linh mục Phát Diệm thành lập và mang tên linh mục Trần Lục, còn gọi là cha Sáu, một tu sĩ có đức hạnh và rất tha thiết với văn hóa Việt Nam. Ông Trần Lục có làm một tập thơ, mà tôi không nhớ tên, giáo huấn về đạo đức. Ông cũng xây dựng một nhà thờ lớn theo kiến trúc cổ truyền Việt Nam được coi là rất thành công về nghệ thuật. Nhìn trên ảnh, nhà thờ này giống như một ngôi chùa. Tôi vào học trường Trần Lục vì một lý do tình cờ. Anh em tôi sau tiểu học định thi vào trường Chu Văn An, trường mà mẹ tôi vẫn ca tụng là hay và mơ ước chúng tôi sẽ học tại đấy. Nhưng năm đó, bà có ý định mua một căn nhà trong một ngõ hẻm gần Tân Định nên chúng tôi thi vào Trần Lục để đi học cho gần. Về sau tuy việc mua nhà này không thành chúng tôi vẫn tiếp tục học ở đó.

Lúc đó là những năm 1955-1956, các học sinh trừ một hai ngoại lệ, đều rất nghèo, gia đình họ vốn đã không giàu có lại mất hết của cải trong đợt di cư nên càng nghèo. Đã thế, trường Trần Lục lại là một thứ trường tầm gửi, một thứ trường không có trường, phải học nhờ trường tiểu học Đồ Chiểu. Giải pháp tìm ra là học buổi trưa. Trường tiểu học Đồ Chiểu học sớm đi một chút buổi sáng và trễ một chút buổi chiều. Trường Đồ Chiểu tan học buổi sáng, vào lúc 10g30, trường Trần Lục học từ 10g30 đến 14g30, rồi trường Đồ Chiểu lấy lại trường sau đó. Học buổi trưa là cả một cực hình dưới trời nóng gay gắt. Cả thầy lẫn trò đều mệt mỏi, học sinh phần lớn đều không có tiền mua sách, có khi còn thiếu cả tiền mua vở và bút. Một cây bút chì, một quyển vở đều quí báu cả. Hầu hết các gia đình chúng tôi đều ở trong những căn nhà lụp xụp, nhiều nhà không có điện, tối phải thắp sáng bằng đèn dầu, vừa học vừa đập muỗi. Những buổi tập thể dục mặc quần xà lỏn để lộ đùi ra thì thấy đứa nào cũng đầy dấu muỗi chích. Vậy mà cả trường đều học hành chăm chỉ và đều giỏi cả.

Trong khu tôi ở cũng có nhiều học sinh, họ không sáng dạ lắm nhưng học chăm chỉ một cách kỳ lạ, họ học tới khuya, nhiều người uống thuốc Maxiton cho đỡ buồn ngủ. Tờ mờ sáng họ đã thức dậy, học to tiếng để chống buồn ngủ, tiếng họ học đánh thức anh em tôi dậy. Có những anh đã bắt đầu luyện thi tú tài khi tôi mới lên trung học, đến khi tôi đậu xong tú tài họ vẫn rớt dài dài, nhưng vẫn tiếp tục học. Có chí thì nên, khi tôi ở Pháp về, sau 12 năm vắng mặt, phần lớn đều đã tốt nghiệp đại học làm giáo sư, luật sư, dược sĩ. Điều không may cho họ là trong thời gian 12 năm ấy xã hội miền Nam đã đổi mới, những nghề trí óc không còn vinh hiển nữa và họ không sung túc bao nhiêu sau những cố gắng thật phi thường. Người khá nhất trong bọn họ là một anh thi mãi không đậu tú tài đi làm bánh mì, sau trở thành chủ. Những lần đi ăn nhậu với nhau anh ta đều trả tiền.

Tôi học xong đệ tứ thì bỏ trường Trần Lục đi làm ban ngày, buổi tối theo học lớp Khuyến Học Bổ Túc của Hội Bình Dân Giáo Dục và lại gặp một loại người khác. Họ là công chức, quân nhân, muốn lấy thêm một mảnh bằng để thăng tiến, là những người đã đi làm, và phần lớn đã có gia đình, muốn có thêm học vấn, hay những học sinh nghèo ban ngày phải đi làm kiếm tiền. Ở hàng đầu là các cô phần lớn đã đi làm, có người đã có chồng con. Trong một lớp bên cạnh có ông Cao Văn Viên, sau này là đại tướng tổng tham mưu trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ học say mê, miệt mài mặc dầu học rất khó khăn.

Lớp học của tôi sau này có nhiều người khá thành công. Trương Văn Vân sau học khoa học rồi tình nguyện đi sĩ quan Đà Lạt, làm tiểu đoàn phó binh chủng Dù, vợ Vân là Thúy, do tôi giới thiệu, làm dược sư, con một thương gia giàu có, học trò cũ của tôi lúc tôi đi dạy kèm để kiếm tiền. Vân đi học tập cải tạo 12 năm sau ngày 30/4/1975. Vân và Thúy hiện định cư ở Seattle, Hoa Kỳ. Nguyễn Thiện Tường sau làm luật sư. Tường thi rớt tú tài 1, tôi phải dành cả mùa hè năm đó để kèm Tường. Chúng tôi hẹn nhau ở mái hiên sau của Thư Viện Quốc Gia, bên cạnh trường Petrus Ký và Chu Văn An, nơi có một số bàn ghế vứt bỏ. Tôi đem theo tiểu thuyết để đọc, Tường ngồi học bên cạnh, có gì bí thì hỏi tôi. Anh của Tường là Nguyễn Thiệu Hùng cũng là một gương hiếu học. Anh đậu tú tài trước chúng tôi và đi dạy trung học vừa học văn khoa. Không những thế, anh còn làm thơ và làm thơ hay. Tập thơ "Bốn Mươi Bài Thơ" của Hùng (bút hiệu Mai Trung Tĩnh) làm chung với Lê Đức Vượng (bút hiệu Vương Đức Lệ) được giải nhất Thơ Văn Toàn Quốc năm 1960. Nguyễn Thiệu Hùng và Lê Đức Vượng gần đây tham gia nhóm Diễn Đàn Tự Do với Đoàn Viết Hoạt và bị bắt. Tháng 7-1993, Hùng bị kết án bốn năm tù, Vượng bị năm năm. Ra trước tòa, Vượng chỉ xin chính quyền trả lại cho anh tập thơ hai mươi ngàn bài mà anh đã sáng tác trong gần hai mươi năm qua, nhưng chính quyền trả lời là tập thơ đã thất lạc.

Trịnh Văn Thi sau này tốt nghiệp cử nhân luật, làm thiếu tá cảnh sát, không biết bây giờ ở đâu. Đinh Văn Hoạt cũng tốt nghiệp cử nhân khoa học, vừa làm giáo sư vừa dạy võ Việt Nam.

Một hôm đi ăn tiệm ở Paris, ông chủ nhận ra tôi, rồi tự giới thiệu là Nguyễn Văn Ngọ, học lớp bên cạnh, cùng với ông Cao Văn Viên. Ông ta sau này cũng đậu cử nhân luật, làm tham vụ ngoại giao và ở nước ngoài nên thoát nạn ngày 30/4/1975. Chính ông Viên, sau khi đậu tú tài và làm tướng vẫn tiếp tục học và đậu cử nhân văn chương.

Mỗi lần hồi tưởng lại thời gian ấy, tôi vẫn cảm thấy một sự cảm phục xâu xa và một niềm hãnh diện vô cùng về tính hiếu học của người Việt. Tôi còn nhớ mãi đôi mắt quầng thâm của chị bạn ngồi bàn trên tôi. Có lẽ chị đã thức đêm nhiều lắm để học.

Tôi vẫn tin tính hiếu học là hy vọng lớn nhất của dân tộc ta để vươn lên.

Published in Tư liệu
mardi, 17 janvier 2017 11:19

TQĂN - Trang bìa

Nghĩ lại đất nước trên ngưỡng cữa

một thế kỷ và thiên niên kỷ mới

 

 

Nguyễn Gia Kiểng 

TỔ QUỐC ĂN NĂN

tqan7

tqan2tqan3 (2)

 

 

Paris, 2001

ISBN 2-907857-05-3

© Nguyen Gia Kieng, 2001

All rights reserved - Tous droits réservés

Tác giả giữ bản quyền

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 


                              Tặng Hồ Quì, Hiền, Hòa

Tặng Quốc Phái

Tặng Lê Văn Đằng, Vũ Tiến Đạt

Lần in thứ hai tặng :

Phạm Quế Dương

Nguyễn Vũ Bình

Phạm Hồng Sơn

Lê Chí Quang

Đặng Phúc Lai   

Published in Tư liệu
mardi, 17 janvier 2017 08:58

TQĂN - Lời đầu

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

 

Tôi sang Pháp du học năm 1961, lúc 19 tuổi. Là đứa con của đồng quê Việt Nam, tôi được nuôi dưỡng lúc ban đầu bằng hình ảnh cánh đồng, lũy tre, bờ ruộng, con cò, bằng những câu ca dao : bầu ơi thương lấy bí cùng... ta về ta tắm ao ta, v.v... Lớn lên một chút nữa, bằng những bài học quốc văn giáo khoa thư, truyện Phạm Công Cúc Hoa, truyện Lưu Bình - Dương Lễ, truyện Tấm Cám, truyện Phù Đổng Thiên Vương, truyện Thạch Sanh - Lý Thông. Khi chớm có nhận thức, bằng những trang sữ oai hùng của dân tộc : Ngô Quyền phá quân Nam Hán, Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm, Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên, Lê Lợi bình quân Minh, Quang Trung đại thắng quân Thanh ; bằng những gương tuẫn quốc của Trần Bình Trọng, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu. Vinh dự nhất là sự hy sinh dũng liệt của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Vinh dự vì trong trang sữ này gia đình tôi có góp phần hy sinh. Trí tuệ của tôi cũng được phần đào tạo bằng thơ văn Nguyễn Công Trứ, bằng Truyện Kiều, bằng tư tưởng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, bằng Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, bằng Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo, bằng nhiều thơ văn ái quốc, kể cả những bài thơ của Đằng Phương – mà sau này tôi được biết là Nguyễn Ngọc Huy.

contrau1

Con trâu và trẻ thơ trên ruộng đồng - Hình ảnh yên bình và thơ mộng của thôn quê Việt Nam  

Tất cả cái vốn liếng tinh thần và văn hóa đó khiến tôi mang một niềm tự hào dân tộc khi vừa tới Pháp. Trong thâm tâm, tôi tin rằng Việt Nam hơn Pháp, cũng như tôi đã tin Việt Nam hơn Trung Hoa. Nước Pháp chẳng qua chỉ có một nền văn minh vật chất, nhưng thua xa Việt Nam về văn hóa, tâm linh và sự thâm thúy. Nói chung Việt Nam hơn Pháp vì phương Đông hơn phương Tây. Phương Đông là nền văn minh lâu đời về tư tưởng, đạo đức và văn hóa, phương Tây chẳng qua chỉ hơn nhất thời về khoa học và kỹ nghệ. Phương Đông có chiều sâu trong khi phương Tây chỉ có bề rộng. Phương Đông có bề trong, phương Tây chỉ có bề ngoài ; phương Đông có hồn trong khi phương Tây chỉ có xác. Tôi còn nhớ đã nhiều lần tranh luận gay go với những bạn học người Pháp cũng đầy tự hào dân tộc như tôi.

Sau một vài năm tôi thạo tiếng Pháp. Tôi ham đọc sách nên kiến thức về lịch sữ, chính trị, văn hóa Pháp còn có phần trội hơn cả nhiều bạn Pháp. Tôi tin là mình đã hiểu rõ nước Pháp nói riêng và phương Tây nói chung.

Tất cả dần dần thay đổi với thời gian. Càng sống với người Pháp, càng làm việc với họ và lại có dịp qua lại thường xuyên các nước Châu Âu tôi càng khám phá ra rằng tôi chưa hiểu họ. Dần dần niềm tự hào dân tộc giảm đi, nhường chỗ cho một sự hoang mang và sau cùng là một sự chua xót và thẹn thùng về sự thua kém của đất nước Việt Nam và con người Việt Nam. Tôi cũng dần dần có dịp tiếp xúc với người Mỹ và qua lại nước Mỹ. Có một nỗi đau càng ngày càng lớn trong tâm hồn tôi, nó đến một cách chậm chạp, lặng lẽ. Nhưng mãnh liệt.

Tôi nhận ra người Châu Âu rất nhân bản, thâm thúy, đầy óc sáng tạo, nền văn minh của họ hơn hẳn nền văn minh của đất nước ta, văn hóa của họ vượt hẳn văn hóa của nước ta cả về lượng lẫn phẩm.

Tôi tự hào về trống đồng, về thành Cổ Loa, về chùa Hương, về chùa Phổ Minh, về các lăng tẩm ở Huế để rồi phải xấu hổ trước công trình nghệ thuật nhiều gấp bội, cổ kính hơn nhiều lần, vĩ đại hơn nhiều lần và tinh xảo hơn nhiều lần mà tôi gặp được mỗi khi dừng chân ở bất cứ một địa điểm nào tại các nước châu Âu. Thì ra tôi đã giống như một con ếch ngồi đáy giếng.

Ngũ thập tri thiên mệnh. Năm mươi tuổi biết mệnh trời. Năm nay tôi đã ngoài 50 tuổi, không biết tôi đã "tri thiên mệnh" chưa, nhưng tôi đã khám phá ra một điều : đó là cái gì dù lạ lùng đến đâu cũng đều có một giải thích giản dị. Các nước phương Tây vượt trội bởi vì văn hóa của họ lành mạnh, tâm lý của họ đúng đắn. Nước Việt Nam đau khổ và nghèo nàn bởi vì văn hóa Việt Nam thui chột và tâm lý người Việt Nam bệnh hoạn. Điều đó dĩ nhiên chẳng có gì mới đối với bạn đọc và cũng chẳng có gì mới đối với tôi, chúng ta đã biết từ khá lâu rồi. Có điều cái "biết" bây giờ khác với cái biết của trước kia. Giữa hai sự hiểu biết đó có một khoảng cách, đó là kinh nghiệm. Kinh nghiệm là gì nếu không phải là sự khám phá lại những chân lý đơn giản và có ích ?

Nhưng kinh nghiệm không phải chỉ đem lại cho tôi sự chấp nhận thua kém, và niềm đau của sự thua kém đó. Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì để nói và cuốn sách này không có lý do gì để đến với độc giả. Kinh nghiệm đó còn giúp tôi khám phá ra rằng Việt Nam có thể tiến lên, tiến xa và tiến cao. Với điều kiện là phải nghĩ lại mình.

Đó là lý do ra đời của cuốn sách khiêm nhường này.

Xét lại mình là một thao dượt có khi rất đau nhức, nhưng phải nhìn chân dung mình ngay cả khi nó không đẹp. Tôi xin lỗi các độc giả mà những trang sau có thể làm phiền lòng. Khi một sự thực làm phiền lòng thì đó là một bằng chứng rằng sự thực đó cần được nói ra. Cuốn sách nhỏ bé này, nếu là một phân tích không nhân nhượng về nước Việt và người Việt thì cũng không phải là một cuốn sách tiêu cực, nó muốn được là một cuốn sách của hy vọng và niềm tin. Và tác giả thực sự hy vọng.

Sẽ có nhiều độc giả nhận xét rằng cuốn sách này có nhiều thiếu sót. Thiếu sót chắc chắn là có và có nhiều, nhưng có hai loại : những điều thực sự tác giả không nhìn thấy và những điều tác giả thấy mà không nêu ra. Quan niệm của tôi là không nhắc lại những gì mình nghĩ là đa số đã đồng ý để chỉ tập trung thảo luận về những gì mà nhiều người chưa đồng ý và nhất là những gì mà đa số không chấp nhận. Tôi nghĩ nên cố gắng để nói ra những điều mới, và nếu trong mười điều mới nói ra có tới chín điều sai và chỉ một điều đúng thì cũng còn có ích hơn là nói mười điều đúng cả mười nhưng đều là những điều đã biết. Khi không chấp nhận một ý kiến, người ta hay cho rằng ý kiến đó là sai, là dở. Nhiều độc giả sẽ thấy nhiều điều nói ra trong những trang sau là sai và đánh giá tác giả là dở. Tôi chấp nhận sự kiện đó. Tôi cho rằng nói ra những điều mình nghĩ là đúng dù biết rằng sẽ có nhiều người cho là sai và đánh giá thấp mình là một thái độ khiêm tốn. Đó là cách khiêm tốn của tôi.

Cuốn sách này để tặng ba người : Hồ Quì, vợ tôi, Hiền con trai tôi và Hòa con gái tôi.

Hồ Quì thực ra là đồng tác giả cuốn sách này. Hồ Quì đã thảo luận với tôi về mọi ý kiến trong cuốn sách này, đã đọc lại, sữa chữa và góp ý. Điều còn quan trọng hơn nữa là Hồ Quì đã cho tôi niềm vui trong lúc viết. Không những thế, tôi còn được vui vẻ chấp nhận một ngân sách thua lỗ. Với kinh nghiệm của những cuốn sách chính trị đứng đắn đã phát hành, cả hai chúng tôi đều không có một ảo tưởng nào về tương lai tài chánh của cuốn sách.

Còn về Hiền và Hòa thì đây chỉ là một sự công bằng. Cuốn sách này là của chúng. Tôi không có may mắn được dành toàn thời gian cho hoạt động và nghiên cứu chính trị. Tôi có hoạt động nghề nghiệp và hơn thế nữa có hoạt động nghề nghiệp rất vất vả. Cuốn sách này đã được viết và sữa chữa trong thời gian mà bố mẹ chúng đáng lẽ phải dành cho chúng.

Cuốn sách này cũng để tặng nhóm Thông Luận vì lý do cũng rất hiển nhiên. Thông Luận là tổ chức chính trị duy nhất mà tôi tham gia từ 1982 tới nay. Đó là gia đình thứ hai của tôi. Tôi đã may mắn gặp được ở đó một số đông đảo các trí thức và chuyên gia hàng đầu, nặng tình với đất nước. Sinh hoạt của Thông Luận, đối với tôi và đối với mọi người trong anh em chúng tôi, đã là cả một cuộc mạo hiểm của trí tuệ. Tôi đã học hỏi được rất nhiều điều ở đó và có thể nói cuốn sách này xuất phát từ đó. Nói như thế không có nghĩa là mọi người trong nhóm Thông Luận đều đồng ý với những gì tôi viết ra, mà chỉ có nghĩa là nếu không có Thông Luận nội dung cuốn sách sẽ khác đi nhiều. Anh em Thông Luận chúng tôi đồng ý với nhau về mục tiêu tranh đấu cho một thể chế dân chủ đa nguyên, trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, bằng những phương pháp bất bạo động ; nhưng trong nhiều điểm khác chúng tôi khác nhau. Thông Luận chủ xướng đa nguyên và trước hết chúng tôi áp dụng chủ nghĩa đa nguyên trong nội bộ của mình. Kể từ đầu năm 2000, nhóm Thông Luận đã có danh xưng chính thức là Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, nhưng vì cuốn sách này đã được bắt đầu viết từ vài năm trước nên trong nhiều đoạn cụm từ "nhóm Thông Luận" đã được dùng thay vì Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên.

Cuốn sách này cũng để tặng ba người đã mất. Lê Văn Đằng, Vũ Tiến Đạt và Nguyễn Hoàng Quốc Phái. Đằng và Đạt là bạn, Quốc Phái là con gái đầu lòng của tôi.

Sáng thứ bảy 4/6/1994 khi bảy người chúng tôi trong Ban Thường Trực của Thông Luận họp mặt trong phòng họp riêng của tôi, chúng tôi uống cà-phê, ăn sáng và thảo luận rất thoải mái. Ngoài việc giải quyết một số vấn đề thông thường của tổ chức Thông Luận, chúng tôi bàn kế hoạch ủng hộ Đoàn Viết Hoạt, đang chịu một hoàn cảnh giam cầm nghiệt ngã. Chúng tôi đều đồng ý rằng điều cấp bách nhất là làm thế nào để Đoàn Viết Hoạt đừng chết. Chúng tôi không hề nghĩ rằng một lát nữa một trong bảy người chúng tôi sẽ chết. Phiên họp vừa hết, Đằng muốn thêm một lời kết luận. Đang phát biểu, Đằng thình lình ngừng lại, ngất xỉu và chết ngay sau đó.

Đằng cùng tuổi với tôi, đậu tú tài cùng một năm với tôi và đi du học cùng một chuyến máy bay với tôi, rồi cùng về nước phục vụ trong cùng khoảng thời gian với tôi. Từ ngày gặp nhau chúng tôi vừa là chí hữu vừa là anh em. Đằng không phải chỉ là người bạn mà còn là một phần của con người và trí tuệ của tôi. Đằng mồ côi cha từ năm ba tuổi, rồi mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm sáu tuổi, sống nhờ sự nuôi dưỡng và thương yêu của các anh chị rất nghèo. Lúc mới tới Pháp, Đằng không có cả áo lạnh, phải lấy dầu cù-là thoa khắp cả người chống rét. Đằng xuất sắc về toán, đậu thủ khoa kỳ thi tuyển vào Đại Học Sư Phạm ban toán, nhưng khi được học bổng đi Pháp lại chọn học kinh tế tài chánh và cũng thành công mỹ mãn. Về Sài Gòn làm cố vấn tổng trưởng tài chánh, Đằng vẫn cố dành thì giờ để đi dạy đại học. Cuộc đời của Đằng chỉ có cố gắng và phấn đấu. Đằng không những là chuyên gia kinh tế xuất sắc - nhiều người, trong đó có tôi, coi Đằng là chuyên gia kinh tế tài chánh lỗi lạc nhất của Việt Nam - mà còn rất đam mê chính trị. ƠŒ bên ngoài Đằng có vẻ là một người trầm mặc, ôn hòa, nhưng trong nội bộ tổ chức Thông Luận chúng tôi, Đằng luôn luôn biểu quyết cho những lập trường táo bạo nhất. Có lẽ đó là cái bản chất của đứa con của đất miền Trung sỏi đá, nơi con người luôn luôn phải cứng cỏi và bướng bỉnh với thiên nhiên để sống. Mối tình thân giữa chúng tôi đã bắt đầu từ đời trước. Thân phụ chúng tôi đều là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, cha của Đằng bị cộng sản giết chết, cha tôi may mắn thoát nạn. Cái gia phả chính trị đó đã gắn bó chặt chẽ chúng tôi với nhau. Tôi đã học hỏi ở Đằng rất nhiều, đến nỗi giờ này tôi không thể phân biệt được trong những kiến thức và nhận thức của tôi cái gì là của tôi, cái gì là của Đằng.

Tối hôm Đằng chết, khi đi thăm xác Đằng về, vợ tôi ngồi khóc và nói với tôi : "Rồi anh sẽ ra sao đây ? Anh sẽ chẳng bao giờ tìm được một người bạn như thế nữa".

Ngày 4/11/1961, ngày tôi rời Việt Nam đi du học để gặp Đằng trong chuyến máy bay và kết nghĩa anh em, cũng là ngày tôi nhìn Vũ Tiến Đạt lần cuối. Đạt ra tiễn tôi tại phi trường hôm đó. Đạt cũng đậu tú tài năm đó nhưng không đi du học. Tôi quen Đạt không lâu trước đó, nhưng Đạt để lại trong tôi một ấn tượng cực mạnh. Tôi có một nhóm bạn cùng lứa tuổi họp nhau để bàn chuyện đất nước. Hoạt động chính trị duy nhất của chúng tôi là vận động cho liên danh Hồ Nhật Tân - Nguyễn Thế Truyền trong cuộc tranh cữ tổng thống với Ngô Đình Diệm năm 1961. Rồi một hôm một người bạn đem Đạt tới. Đạt không giống ai. Hắn có bản năng và lối phát biểu mạnh mẽ một cách lạ lùng. Hắn đã đọc và thuộc vô số lý thuyết và phương pháp hoạt động chính trị. Hắn quả quyết một cách đáng sợ. Đạt không giấu ai ý định của hắn là muốn làm tổng thống Việt Nam sau này. Đấy là một cao vọng quá lớn và có thể là kềnh càng với một thanh niên 18 tuổi, nhưng Đạt trả giá cho tham vọng ấy một cách sòng phẳng. Hắn cố gắng vượt bực và cư xữ một cách hùng tráng. Đậu xong luật, Đạt đi lính, hắn nói không dám đi lính là hèn, và hơn thế nữa hắn cho rằng đi sĩ quan cũng không phải là can đảm vì không nguy hiểm lắm. Hắn đi lính từ binh nhì, vào các đơn vị tác chiến, lên đại úy, rồi thi đậu khóa tuyển lựa tham vụ ngoại giao đầu năm 1975. Việc chuyển sang ngoại giao chắc chắn nằm trong kế hoạch trau dồi bản lãnh của hắn. Điều tiếc nhất trong đời tôi là trong suốt thời gian ở Việt Nam sau khi từ Pháp về tôi đã không gặp được hắn, hắn ít về Sài Gòn và về trong những lúc tôi bận chuyện khác. Hắn cũng chỉ về chớp nhoáng rồi lại đi ngay. Mãi sau này tôi mới biết rằng hắn đã về bộ ngoại giao từ đầu năm 1975, nhưng lúc đó tình hình Việt Nam đã bắt đầu biến chuyển nhanh chóng khiến tôi không còn thì giờ và tâm trí để tìm gặp các bạn cũ nữa.

Trong trại cải tạo, sau ngày 30-4-1975, Đạt hiên ngang thách thức, hắn không nhận tội, không xin khoan hồng, lúc nào cũng dõng dạc đòi một điều duy nhất : được cư xữ như một tù binh theo công ước quốc tế. Hắn cũng kêu gọi đồng đội đừng ngã lòng, phải giữ lấy khí phách và danh dự. Có lẽ hắn tự coi là một tổng thống và phải cư xữ xứng đáng như một tổng thống. Một hôm hắn bị bắn chết trong lúc đi lao động, người ta bảo hắn định vượt trại. Điều này không ai kiểm chứng được.

Lúc đó tôi cũng đang ở tù.

Khi ở tù ra, sau hơn ba năm, tôi đã khóc rất nhiều trên mộ Quốc Phái, con gái duy nhất của tôi, chết trong lúc cả cha mẹ nó đang bị giam giữ. Lúc đó Quốc Phái mới được sáu tháng. Tôi tự hỏi tại sao tôi có thể khóc lâu như thế và tôi hiểu rằng tôi sẽ khóc cho đứa bé này ngay cả nếu nó không phải là con tôi. Tôi khóc cho một đứa bé gái duy nhất, xinh đẹp của một kỹ sư và một bác sĩ, một đứa bé mà cuộc đời đã hứa cho tất cả, nhưng đã chết như một đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ và được chôn cất sơ sài trong một nghĩa trang tiều tụy. Tôi khóc cho nạn nhân vô tội nhất của cuộc chiến này. Tôi chợt hiểu rằng tôi không thể bỏ cuộc. Nếu tôi không vì đất nước quyết định hồi hương thì Quốc Phái đã sinh ra ở Paris, sẽ lớn lên trong tình yêu và hạnh phúc, sẽ thành công mỹ mãn. Tôi cần một thắng lợi để làm quà tặng và xin lỗi Quốc Phái. Và thắng lợi đó phải thực quảng đại, xứng đáng với Quốc Phái và xứng đáng với nỗi đau không bao giờ nguôi trong tôi.

Trong thứ tự những người được đề tặng, độc giả có thể hỏi tại sao tôi không để những người đã chết trước những người còn sống ? Lý do là vì mặc dầu những tình cảm vô cùng tha thiết và vô cùng sâu đậm với người đã khuất, sự sống vẫn phải đi trước. Cuốn sách này muốn được là cuốn sách của hy vọng, viết cho những con người của đất nước hôm nay và ngày mai.

Cảm tạ

Tôi phải cám ơn trước hết toàn bộ các chí hữu trong gia đình Thông Luận, nơi kiến thức và nhận thức của tôi đã hình thành nhờ những cuộc thảo luận và trao đổi và cũng đã một phần nào được thữ nghiệm qua hành động.

Một lòng biết ơn xâu xa xin được gởi tới những bậc thầy đã uốn nắn cách suy nghĩ của tôi. Các giáo sư Vũ Khắc Khoan, Lê Ngọc Huỳnh, Nguyễn Xuân Kỳ, hiện nay không còn nữa. Một lời tưởng nhớ cũng xin được gởi đến cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, một người bạn thân và một người anh lớn đã chỉ dạy cho tôi rất nhiều khi mới hoạt động chính trị, rất tiếc là ông đã mất trước khi chúng tôi có thể sát cánh với nhau trong cùng một tổ chức.

Dĩ nhiên tôi không thể không nhắc tới thân phụ tôi, người thầy đầu tiên của tôi, đã tạo ra tôi cả xác lẫn hồn và mẹ tôi, người đã cho tôi bài học quí giá nhất : đấu tranh chính trị trước hết là bằng trái tim.

Đoàn Xuân Kiên, Võ Xuân Minh và Diệp Tường Bảo đã đọc lại và góp ý.

Lời cảm tạ sau cùng nhưng đặc biệt nhất xin dành cho Nguyễn Văn Huy, người đã thúc giục tôi viết cuốn sách này. Huy là tiến sĩ về dân tộc học và giảng dạy về môn dân tộc học vùng Đông Nam Á tại Đại Học Paris 7. Huy rất say mê khảo cứu lịch sử Việt Nam và đã góp ý với tôi trong nhiều nhận định. Dù không chia sẻ hoàn toàn những gì tôi viết, Huy đã tình nguyện đọc lại, sữa chữa và thay tôi lo phần việc in ấn cuốn sách này.

Nguyễn Gia Kiểng

 ******************


Ghi chú về tài liệu tham khảo và bố cục

Cuốn sách này là một cuốn sách để thảo luận ý kiến, với mục đích chỉ đề xướng ra mà không kết thúc các cuộc thảo luận. Vì thế tác giả, do thời giờ eo hẹp, đã tự cho phép bỏ qua phần chú thích sau mỗi chương. Sự thiếu sót này là do điều kiện biên soạn cuốn sách : tác giả, vì không thể dành một khoảng thời gian liên tục để viết, đã phải lập trước một bố cục, sau đó viết dần dần từng chương một trong vòng bốn năm, trung bình mỗi ngày một vài giờ, đôi khi trên xe lữa hoặc máy bay. Cách viết như vậy không cho phép ghi chú tỉ mỉ những tài liệu trích dẫn. Bù lại, những trích dẫn quan trọng đã được ghi ngay trong các bài viết, như độc giả có thể nhận xét.

Vì là một cuốn sách ý kiến, và hơn nữa ý kiến cá nhân, nên việc liệt kê tài liệu lại càng khó. Tác giả viết với kiến thức và suy tư cá nhân của mình cho nên nếu muốn liệt kê hết các tài liệu đã ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên cuốn sách thì có lẽ phải liệt kê hết tủ sách của mình. Điều này không phải chỉ khó mà còn không thể làm được vì, một mặt, có những tài liệu, như báo chí, tác giả đã tự ý hủy bỏ vì không có chỗ lưu giữ và, mặt khác, có những biến cố đã khiến tác giả nhiều lần mất tất cả hay gần hết tủ sách.

Trong những trích dẫn về Khổng Giáo, tác giả sữ dụng bản Luận Ngữ do Nguyễn Hiến Lê biên soạn và nhà xuất bản Văn Nghệ (Nam Cali, Mỹ) phát hành, có đối chiếu với các bản nghiên cứu Luận Ngữ bằng tiếng Pháp của Bùi Đức Tín (Pierre Gastine) và Anne Cheng. Ở đây xin lưu ý độc giả là tác giả không đồng ý với phần lớn những giải thích về Khổng Giáo và Khổng Tữ trong các tác phẩm này. Theo tác giả, Luận Ngữ và Khổng Tữ cần được hiểu theo bối cảnh xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu Chiến Quốc trong khi các tác phẩm nói trên thường vô tình giải thích theo những quan niệm về Nho Giáo được hình thành rất lâu sau giai đoạn này.

Phần lớn các số liệu về thế giới được lấy từ những nguồn tài liệu được cập nhật hóa hàng năm sau đây :

- Encyclopaedia Universalis (Encyclopaedia Universalis, Paris),

- Etat du Monde (Edition de la Découverte, Paris),

- Bilan Economique et Social (của nhật báo Le Monde, Pháp),

- The World Almanac (Houghton, Miftline Company, Hoa Kỳ),

- The World Bank Annual Report (do Ngân Hàng Thế Giới phát hành hàng năm).

Tổ Quốc Ăn Năn là một cuốn sách để thảo luận về ý kiến nên tác giả đã ít dùng những tài liệu thống kê. Các số liệu được đưa ra thường là những con số có ý nghĩa quan trọng đặc biệt vì thế độc giả có thể tin là chúng đã được kiểm chứng một cách thận trọng.

Về bố cục, cuốn sách này gồm năm phần. Mỗi phần gồm một số chương, trong cùng một chủ đề. Độc giả ít thời giờ có thể đọc từng chương một cách độc lập với nhau, nhưng cách đọc đúng nhất vẫn là đọc theo thứ tự của cuốn sách vì trong mỗi chương tác giả coi như độc giả đã nắm được ý của phần trước. Tuy được viết thành những chương ngắn nhưng Tổ Quốc Ăn Năn không phải là một tuyển tập những bài nghị luận mà là một cuốn sách.

Phần một : Đất nước và con người, gồm 24 chương, mỗi chương bàn về một khía cạnh của địa lý Việt Nam và con người Việt Nam, mục đích là để nhận diện những điểm mạnh và yếu của chúng ta. Như tinh thần đã được trình bày trong lời đầu, nó sẽ không nhắc lại những gì mà mọi người đều đã biết, đã đồng ý và tác giả cũng không thấy có gì đặc biệt cần nói thêm. Phần này chỉ tập trung nói lên những gì không ổn và cần được xét lại trong cách mà người Việt Nam nhìn dân tộc và đất nước mình.

Phần hai : Đoạn đường đã qua, gồm 19 chương về lịch sữ, chắc chắn sẽ gây nhiều thảo luận. Tác giả không có tham vọng viết lại lịch sữ mà chỉ đặt lại một số vấn đề lịch sữ. Có quá nhiều nhận định về lịch sữ mà chỉ cần suy nghĩ bình tĩnh một chút ta có thể thấy ngay là sai nhưng vẫn cứ tiếp tục được coi là đúng và có ảnh hưởng rất lớn trên cách suy nghĩ và phát biểu của người Việt Nam. Tại sao chúng ta có thể sai lầm về lịch sữ của mình đến như vậy còn chờ đợi một giải thích, nhưng chính sự kiện chúng ta hiểu sai lịch sữ của mình lại có thể giải thích những thảm kịch mà chúng ta đã phải gánh chịu. Nhận định của tác giả là người Việt Nam chúng ta nói chung viết sữ một cách không đứng đắn và cũng đọc sữ một cách không đứng đắn, do đó mà chúng ta không biết chúng ta là ai, từ đâu đến đây và sẽ phải làm gì. Nếu phần này gây ra tranh luận và, do đó, một ý thức xét lại lịch sữ thì mục đích của nó đã đạt được.

Phần ba : Vì đâu nên nỗi ?, gồm 17 chương về các vấn đề tâm lý và văn hóa Việt Nam. Những bài đầu cố gắng đưa ra một nhận định về di sản văn hóa nước ta với một khẳng định rằng chúng ta chỉ có thể vươn lên nhờ tiếng Việt và bằng tiếng Việt. Văn hóa Việt Nam đã là văn hóa Khổng Mạnh trong gần hai ngàn năm và cũng sẽ còn là văn hóa Khổng Mạnh trong nhiều thập niên sắp tới dù thanh niên Việt Nam có du học phương Tây, chương trình CNN có được truyền đi hàng giờ, các tiệm ăn Mac Donald có mọc lên khắp nơi và mỗi gia đình đều có Internet. Bởi vậy cần tìm hiểu Khổng Giáo và cách mà chúng ta đã tiếp thu Khổng Giáo để hiểu chúng ta là ai và tại sao chúng ta lại là chúng ta ngày nay. Tác giả biết rằng phần này sẽ gây sóng gió, nhưng là một sóng gió cần thiết, nếu chúng ta không muốn ngủ yên trong sự thua kém.

Phần bốn : Vài hành trang cho tương lai, gồm 15 chương, có mục đích đề nghị một số kiến thức và nhận thức cơ bản để nghĩ lại và làm lại nước Việt. Tác giả sẽ trình bày các vấn đề về phát triển kinh tế, quản lý kinh tế tài chính, các ý niệm nền tảng về quốc gia dân tộc, về dân chủ và về chế độ chính trị. Độc giả có thể coi phần này như những đề nghị, dù thực ra tác giả chỉ đã cố gắng để trình bày một cách thực khách quan những kiến thức rất cơ bản nhưng tiếc thay vẫn chưa được nắm vững trong các cuộc thảo luận về đất nước, ngay cả trên những diễn đàn được coi hoặc tự coi là có trình độ cao. Ai cũng có quyền có lập trường riêng của mình nhưng tác giả không tin là có êquyền hiểu lầmê và êquyền lý luận saiê trên những sự kiện đã rõ rệt. Tác giả tin rằng nếu mọi người dân chủ nắm vững những khái niệm cơ bản này thì các cuộc thảo luận sẽ dễ dàng và tình hình đất nước có thể khai thông nhanh chóng. Sự hiểu biết cũng là một dụng cụ và một vũ khí. Phần này vì vậy là một hành trang đề nghị cho tương lai.

Phần thứ năm : Vươn mình lớn dậy, cũng là phần kết, mở đầu bằng một cái nhìn thoáng qua một lục địa rất xa xôi là châu Phi để thấy thảm kịch của sự thiếu vắng một cố gắng cần thiết nhưng lại không được ý thức và do đó không được thực hiện ; tiếp theo là chương Tổ quốc ăn năn, cũng là tên của cuốn sách, đặt lại tương quan giữa người Việt Nam và nước Việt Nam ; sau cùng là bài Gởi vào giấc mộng nhắn ra cuộc đời trong đó tác giả mạn phép nói chuyện riêng với một số độc giả đặc biệt.

Published in Tư liệu
Trang 2 đến 2