Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Ngày 01/06/2019, tại diễn đàn Đối thoại An ninh Shangri-La, Singapore, Bộ trưởng Quân lực Pháp, bà Florence Parly phát biểu : "Nước Pháp sẽ tiếp tục tuần tra Biển Đông tối thiểu hai lần trong năm". Tuyên bố này còn nhằm khẳng định vị thế của nước Pháp trong "sân chơi các cường quốc hàng hải".

sieucuong1

Hàng không mẫu hạm Pháp Charles de Gaulle. Ảnh chụp ngày 24/04/2019,Wikimedia Commons by by Maj. Joshua Smith.

Thế nào là một "cường quốc hàng hải" ? Khái niệm này có từ bao giờ và có những thay đổi ra sao theo dòng lịch sử ?

Thương mại : Nền tảng định hình "sức mạnh hàng hải" ?

Đây cũng là những câu hỏi mà nhà sử học Trường Hải Quân Pháp, bà Isabelle Delumeau tìm cách giải thích trên tờ Diplomatie (Đối Ngoại). Theo chuyên gia này, khái niệm về "cường quốc hàng hải" đã được Thucydides – nhà sử học và là cha đẻ ngành khoa học lịch sử thời Hy Lạp cổ đại – đề cập đến lần đầu tiên ngay từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên.

Ông nói rằng tính ưu việt của thành Athens thời ấy nằm ở chính điểm này. Và rất lâu sau đó, nước Anh cũng dựa vào chính nguyên tắc trên để khẳng định ưu thế của mình, nên mới có điệp khúc nổi tiếng Britannia rules the waves (tạm dịch là Nước Anh làm chủ đại dương).

Việc được đánh giá là cường quốc hàng hải có một tầm quan trọng rất lớn và cũng không phải là điều dễ dàng, đòi hỏi phải xem xét lại lịch sử hàng hải từ hàng thế kỷ qua. Do đó, theo nhà sử học Delumeau, câu hỏi đầu tiên cần được giải đáp : "Nên hiểu thế nào về cường quốc hàng hải ?".

Bởi vì, đây là cả một tiến trình đan xen rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi công đoạn có tầm quan trọng của nó và chính mối quan hệ tương tác đã sản sinh ra một sức mạnh mà chỉ có một nhóm nhỏ các quốc gia có được.

Nền tảng cội nguồn của tiến trình này là thương mại, một hoạt động mang tính sống còn đối với những xã hội nằm sâu trong những vùng lãnh thổ cằn cỗi. Để phát triển giao thương, các thương nhân buộc phải liên kết với chính quyền đến mức hình thành một hiện tượng cộng sinh, vốn dĩ là nét đặc thù về cơ cấu Nhà nước tại "Cộng hòa Venezia" (697 – 1797). Nhất là ở Hà Lan vào thế kỷ 17 và 18, người ta không thể nào phân biệt được ranh giới giữa lợi ích Nhà nước và lợi ích của các cổ đông tập đoàn thương mại Đông Ấn Hà Lan VOC (*) đầy quyền lực lúc bấy giờ.

Mục tiêu của mối liên kết này là gì ?

Rất đơn giản. Chỉ nhằm tạo thành một thế độc quyền trải rộng ra cả ngoài biển khơi, hình thành một thị trường mà từ đó người ta có thể độc chiếm quyền kiểm soát việc tiếp cận. Và dĩ nhiên, mối liên kết này còn để bảo vệ các tham vọng của giới thương nhân và đẩy lùi mọi sự thèm muốn của đối thủ cạnh tranh. Đây chính là lúc cần có hạm đội tầu chiến. Vai trò của họ là thăm dò các thị trường mới – nếu cần thiết thì xâm chiếm – và thứ đến là loại trừ các đối thủ bằng vũ lực.

Nói một cách khác, thương thuyền và chiến thuyền có một mối quan hệ chặt chẽ, vừa bổ sung cho nhau vừa ràng buộc lẫn nhau. Thế nhưng, chỉ có vài nước sớm cảm nhận được một định mệnh như vậy. Tác giả liệt kê một số ví dụ điển hình : Nhờ các đời vua Công giáo của Tây Ban Nha nên mới có cuộc thám hiểm của Christophe Colombe. Tại Anh có nữ hoàng Elizabeth I. Còn tại Châu Á, có hoàng đế Minh Thành Tổ, đời vua thứ ba của triều đại nhà Minh, người ra chỉ dụ cho phép thái giám Trịnh Hòa tiến hành 7 cuộc thám hiểm Ấn Độ Dương trong suốt 1/3 đầu thế kỷ XV.

Sức mạnh hải quân : thế mạnh của Châu Âu ?

Nếu như ví dụ về Trung Quốc là một trường hợp cá biệt, sức mạnh hải quân là một hiện tượng mang đậm đặc tính Châu Âu. "Một quốc gia hùng cường trước hết bởi vì đó là một cường quốc hàng hải", đó là suy nghĩ được coi là tất yếu trong suốt thế kỷ XIX.

Khái niệm này đã được đô đốc người Mỹ Alfred Mahan phát triển thành lý thuyết. Những bài viết và phát biểu hội thảo của ông có tác động mạnh đến việc định hướng chính sách của các nước Châu Âu, cũng như Mỹ và Nhật Bản. Nguyên tắc đơn giản như sau : Để có được một vị thế quan trọng trên trường quốc tế, cần phải có một hạm đội tầu chiến hùng hậu, phương tiện quan trọng để thực hiện bành trướng ra biển khơi, công cụ để xâm chiếm thuộc địa và bảo đảm vị trí độc quyền.

Những tư duy này tạo cơ sở cho việc thu hẹp định nghĩa về "cường quốc hải quân", tập trung nhiều hơn vào khía cạnh chiến lược, xoay quanh sự đối kháng giữa "cường quốc lục địa" và "cường quốc trên biển" và người ta thường kết luận là "cường quốc trên biển" thắng thế. Đây cũng chính là bài học người ta rút ra được từ hai cuộc thế chiến và cũng chính dựa vào mô hình này mà các nhà nghiên cứu địa chính trị lý thuyết hóa cuộc chiến tranh lạnh.

Với phe phương Tây, cần phải có khả năng làm chủ biển cả và vây hãm kẻ thù trên lục địa trong vùng lãnh thổ của họ. Ở phía bên kia, Liên Xô và các đồng minh lại coi lực lượng hải quân có khả năng triển khai sức mạnh quân sự tầm xa và nhất là hàng không mẫu hạm như là vũ khí của phe đế quốc, nên phải phòng thủ.

Cường quốc hải quân thời "toàn cầu hóa"

Rồi chiến tranh lạnh kết thúc. Nhưng lối suy nghĩ về cân bằng quyền lực trên thế giới không hề biến mất, mà dường như còn được phục hồi. Những quốc gia nào từng nếm mùi thực dân như Ấn Độ hay Trung Quốc giờ lại xem hải quân như là một thứ vũ khí bảo đảm nền độc lập đất nước, nhằm tránh cho tấn bi kịch thế kỷ XIX tái diễn. Và thế là khi tìm cách tránh các ý đồ của những cường quốc hải quân thù địch, bản thân họ lại trở thành một cường quốc hải quân.

Nhưng trong lối tư duy này, điều mới mẻ nhưng cũng đầy nghịch lý, chính là vị trí của kinh tế. Trung Quốc hay Ấn Độ phát triển mạnh đã mang lại một cái nhìn hiện đại về khái niệm "cường quốc hải quân" trong một nghĩa rộng hơn. Nếu như hiện tượng toàn cầu hóa giúp cho hàng hóa được lưu thông thuận lợi hơn, thì nó cũng làm thay đổi cả cách nhìn "cường quốc hải quân" : Kinh tế thịnh vượng chưa hẳn là hải quân hùng mạnh.

Bởi vì không gian hàng hải đã được tự do hóa và hội nhập khu vực hơn. Việc tự do lướt sóng và mức độ an toàn cao tại các vùng biển, bất chấp một số hoạt động cướp biển vẫn tồn tại, đã làm tan rã mối quan hệ cộng sinh tồn tại xưa kia giữa các đội chiến thuyền và thương thuyền, nền tảng để các nước dựa vào nhằm khẳng định sức mạnh hải quân của mình.

Từ những quan sát này, bà Isabelle Delumeau lưu ý chớ vội xem Trung Quốc như là một "cường quốc hải quân" chỉ vì dự án "chuỗi ngọc" của nước này như nhiều nhà phân tích nhận định. Bởi vì người ta có lẽ vẫn còn duy trì lối diễn giải địa chính trị kiểu xưa, vốn dĩ cần phải được xem xét lại.

Và nhất là trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng có thái độ hung hăng ở Biển Đông, nước Pháp cũng như Mỹ đã đề ra một sách lược cho vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương. Một báo cáo của Quốc hội Pháp hồi tháng 4/2019 còn đề xuất "Châu Âu hóa" các chiến dịch tuần tra ở Biển Đông, nghĩa là kêu gọi một sự hợp tác, liên kết, lập cơ chế quản lý chung. Trong trường hợp này, làm sao định nghĩa "Thế nào là một cường quốc hải quân ?".

Minh Anh

Nguồn : RFI, 11/06/2019

Published in Diễn đàn

Biển Đông : Mỹ gửi thêm phi cơ quân sự đến Úc (RFI, 25/01/2017)

bd1

Mỹ sẽ điều động máy bay cánh quạt lên thẳng MV-22 Osprey tới Darwin, Úc - REUTERS/Timothy Kelly

Vào lúc Nhà Trắng tuyên bố quan điểm cứng rắn trên vấn đề Biển Đông, quân đội Mỹ ngày hôm nay 25/01/2017 cho biết sẽ điều thêm máy bay quân sự đến đồn trú tại căn cứ Darwin, miền bắc nước Úc để tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ sát vùng Biển Đông đang tranh chấp.

Theo hãng tin Reuters, phát ngôn viên lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ Chris Logan xác nhận rằng trong năm nay, Mỹ sẽ tăng viện cho lực lượng của mình tại Darwin năm chiếc trực thăng Super Cobra AH-1W và nhất là bốn chiếc máy bay cánh quạt lên thẳng MV-22 Osprey cho phép mở rộng phạm vi can thiệp của lực lượng Mỹ trong khu vực.

Về quân số, lực lượng đồn trú tại Darwin trước mắt vẫn giữ nguyên ở mức 1.250 lính thủy quân lục chiến. Theo kế hoạch, từ nay đến năm 2020, sẽ có tổng cộng 2.500 lính Mỹ luân phiên đặt căn cứ tại Darwin.

Quyết định cắm lực lượng tinh nhuệ Mỹ tại căn cứ Darwin miền bắc Úc, nhìn ra Biển Đông nằm trong chiến lược xoay trục qua Châu Á của cựu tổng thống Mỹ Barack Obama, trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng hung hăng, quyết đoán trên Biển Đông.

Sự hiện diện của cả ngàn lính thủy quân lục chiến Mỹ tại Darwin tạo lợi thế hiển nhiên cho quân đội Mỹ, có thể triển khai nhanh chóng lực lượng ra Biển Đông khi cần thiết.

Washington và Canberra hiện đang đàm phán về khả năng cho oanh tạc cơ tầm xa B-1 của Mỹ đặt căn cứ ở Darwin, một động thái đã gây nên phản ứng quan ngại từ bộ Ngoại Giao Trung Quốc.

Thông tin về quyết định tăng cường máy bay quân sự đến Darwin được đưa ra đúng vào lúc chính quyền mới tại Hoa Kỳ của tổng thống Donald Trump đã có những tuyên bố cứng rắn nhắm vào các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông.

Động thái này như khẳng định thêm giả thuyết theo đó dù rút Mỹ ra khỏi hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương - TPP, nhưng trên bình diện an ninh, chính quyền Donald Trump sẽ tiếp tục tăng cường sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại Châu Á-Thái Bình Dương.

Trong chiều hướng đó, ngay vào tuần tới, tân bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ James Mattis sẽ dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên của mình cho Châu Á, với chuyến thăm Nhật Bản và Hàn Quốc, hai đồng minh thân thiết nhất của Mỹ trong vùng.

Trọng Nghĩa

******************

Nhật chống Trung Quốc ở Đông Nam Á như thế nào ? (RFI, 25/01/2017)

bd2

Thủ tướng Nhật Shinzo Abe và tổng thống Rodrigo Duterte trong chuyến thăm Philippines ngày 13/01/2017. REUTERS/Lean Daval Jr.

Mối quan hệ bấp bênh giữa Hoa Kỳ và Philippines đã mang lại cho Tokyo một cơ hội để thực hiện vai trò lãnh đạo ở khu vực Đông Nam Á.

RFI giới thiệu bài viết "Nhật Bản dự tính chống lại Trung Quốc ở Đông Nam Á như thế nào ?" của chuyên gia chính trị Jeremy Maxie thuộc tổ chức nghiên cứu Strategika Group Asia Pacific. Bài viết được đăng trên trang The Diplomat vào ngày 24/01/2017.

Để tìm cách biến rủi ro địa chính trị và bất ổn chính trị thành một cơ hội chiến lược để chứng minh vai trò lãnh đạo của Nhật Bản trong khu vực, thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã khởi đầu năm 2017 với một chuyến đi hai ngày tới Philippines. Điều đáng chú ý là thủ tướng Nhật Shinzo Abe đã thông báo một gói viện trợ 5 năm trị giá 1.000 tỷ yen (8,66 tỷ đô la), bao gồm viện trợ cho cả hai khu vực nhà nước và tư nhân với mục tiêu giúp Philippines phát triển cơ sở hạ tầng.

Đây là gói viện trợ lớn nhất của Nhật Bản cho một quốc gia, trong khi trước đây gói viện trợ của Nhật dành cho Miến Điện chỉ trị giá 800 tỷ yen (7,7 tỷ đô la). Điều này báo hiệu là trọng tâm của chiến lược cạnh tranh của Nhật Bản với Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á đã chuyển sang Philippines.

Hai nhà lãnh đạo Nhật Bản và Philippines cũng đã ký 5 hiệp định song phương, bao gồm khoản trợ cấp 5,2 triệu đô la trang bị tàu tuần tra tốc độ cao cho lực lượng tuần duyên của Philippines, và một thỏa thuận hợp tác giữa lực lượng tuần duyên của Philippines và Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Shinzo Abe cũng cam kết sẽ hợp tác với Manila trong cuộc chiến chống nạn buôn bán ma túy bất hợp pháp ở Philippines.

Chuyến thăm của thủ tướng Abe được xem là để đáp lại chuyến đi của tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đến Tokyo vào tháng 10/2016. Nhân chuyến thăm của tổng thống Duterte, Tokyo cũng đã cho Manila vay 48 triệu đô la kèm theo một thỏa thuận theo đó các công ty của Nhật như Toyota và Mitsubishi cam kết đầu tư 1,85 tỷ đô la vào Philippines. Ngoài ra, tập đoàn thương mại Marubeni cũng tuyên bố sẽ đầu tư 17,2 tỷ đô la vào Philippines trong dài hạn.

Không nêu đích danh Trung Quốc, nhưng hai nhà lãnh đạo Abe và Duterte đã đưa ra một tuyên bố chung công nhận hai quốc gia ven biển đều quan tâm tới việc duy trì tự do hàng hải ở Biển Đông và áp dụng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) để giải quyết tranh chấp chủ quyền trên biển.

Nói cho chính xác là thủ tướng Abe đã có chiến lược xích lại gần tổng thống Philippines nổi tiếng "đồng bóng" để tiến tới một quan hệ đối tác chiến lược mật thiết hơn với Manila, nhằm tạo thế cân bằng với một nước Trung Quốc đang trỗi dậy, quyết đoán, thách thức nguyên trạng trong khu vực và đang gây bất ổn về an ninh tại vùng này.

Nhìn từ Tokyo, việc Trung Quốc quân sự hóa biển Hoa Đông và Biển Đông đe dọa trực tiếp tới toàn vẹn lãnh thổ của Nhật và các tuyến thông thương trên biển (SLOC), yếu tố quan trọng sống còn cho nền kinh tế của Nhật.

Tokyo cũng tìm cách bảo vệ ảnh hưởng chính trị của mình đối với Manila cũng như bảo vệ mạng lưới quan hệ tài chính và thương mại đã có từ lâu nay để chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc. Các nhân tố địa chính trị và địa kinh tế được củng cố bằng việc thủ tướng Abe tới thăm Úc, Indonesia và Việt Nam. Đây đều là những mối quan hệ quan trọng trong chiến lược khu vực của Nhật Bản.

Mặc dù Nhật Bản vẫn là đối tác thương mại lớn nhất và nước cấp nhiều vốn đầu tư nhất cho Philippines, nhưng Trung Quốc đã bắt đầu thâm nhập đáng kể vào thị trường Philippines. Khi tổng thống Duterte đến thăm Bắc Kinh vào tháng 10/2016, ông được chào đón với lời hứa được Bắc Kinh cho vay vốn ưu đãi 9 tỷ đô la và một bản thỏa thuận trị giá 13,5 tỷ đô la.

Tokyo không đủ khả năng để chi cho Manila nhiều tiền hơn Bắc Kinh. Tuy nhiên, Nhật lại có lợi thế là một nhà đầu tư dài hạn có nhiều cam kết và khả năng viện trợ, đầu tư. Điều này đã được thực tế kiểm chứng. Mặc dù vậy, vào tháng 12/2016, Manila đã chọn hợp tác với Ngân Hàng Đầu Tư Hạ Tầng Châu Á (AIIB) do Trung Quốc khởi xướng, vì việc kiểm soát rủi ro của ngân hàng này ít nghiêm ngặt hơn so với Ngân Hàng Phát Triển Châu Á (ADB) có trụ sở tại Manila.

Một lo ngại khác của Tokyo là nhà lãnh đạo dân túy Philippines có lập trường đối đầu với Washington. Duterte đã giảm bớt hợp tác quốc phòng, hạn chế tập trận chung với quân đội Hoa Kỳ, đề nghị Trung Quốc và Nga trở thành nhà cung cấp vũ khí thay thế, và làm dấy lên những nghi ngại bấp bênh về cam kết thực hiện Hiệp Định Tăng Cường Hợp Tác Quốc phòng (EDCA) ký kết vào năm 2014 với Hoa Kỳ.

Mặc dù ít có khả năng Manila bãi bỏ Hiệp Ước Quốc Phòng ký với Hoa Kỳ năm 1951 để liên minh với Trung Quốc và Nga, nhưng một trong những mục đích đằng sau chuyến thăm của thủ tướng Nhật là thúc giục tổng thống Duterte làm rõ ý định của Manila và củng cố những mối ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Philippines.

Hiện không ai rõ tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump - người đã tuyên bố sẽ thực hiện một đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc và đòi hỏi các đồng minh của Hoa Kỳ cũng làm như vậy - liệu có hợp tác với người đồng nhiệm Philippines để "xua đuổi Trung Quốc" và nỗ lực để phục hồi mối quan hệ song phương Washington - Manila hay không. Mặc dù Trump không tính tới chuyện gây áp lực để Duterte hạn chế cuộc chiến chống ma túy đẫm máu tại Philippines, nhưng việc yêu cầu Philippines tăng cường "chia sẻ gánh nặng" có lẽ đã không phải là một khởi đầu tốt đẹp.

Ngược lại, rất có thể Manila lại yêu cầu Washington làm nhiều hơn nữa cho Philippines để tìm cách duy trì một trạng thái cân bằng đa phương với các cường quốc. Nhưng kể cả nếu điều này xảy ra thì Mỹ và Philippines cũng khó có thể khôi phục lại tình đoàn kết như dưới thời cựu tổng thống Benigno Aquino III.

Việc Tokyo thúc đẩy Duterte hướng tới một chính sách đối ngoại "độc lập" hơn - nhằm buộc các đối tác địa chính trị phải nhượng bộ về kinh tế và tài chính ở mức tối đa sẽ mang lại cả cơ hội và rủi ro cho Nhật Bản. Trong khi đó, sự gia tăng tiềm năng mở rộng vốn và thương mại của Trung Quốc có thể sẽ phá vỡ mạng lưới thương mại và đầu tư lâu dài của Nhật Bản tại Philippines và làm suy yếu ảnh hưởng chính trị của Nhật Bản đối với Manila. Thêm vào đó, chiến lược của tổng thống Duterte rời xa Hoa Kỳ và xích lại gần hơn với Trung Quốc có nguy cơ phá hoại sự hợp tác an ninh mới được thiết lập giữa Hoa Kỳ, Nhật Bản và Philippines.

Tuy nhiên, điểm tích cực là thủ tướng Abe sẽ có cơ hội biện minh với các chính trị gia trong nước để tăng nguồn tài chính nhà nước hỗ trợ cho Philippines, đồng thời gây được áp lực buộc các doanh nghiệp của Nhật tăng gấp đôi đầu tư vào Philippines. Điều quan trọng hơn là sự rạn nứt trong hiện tại và tương lai không chắc chắn của quan hệ Mỹ-Philippines mang tới cho Tokyo cơ hội để thực hiện vai trò lãnh đạo, với nỗ lực không ngừng để phát triển các liên minh an ninh với Mỹ ở Châu Á thành một hệ thống đa phương hơn và với nhiều trao đổi thông tin hơn.

Nếu chính quyền của tổng thống Trump tập trung vào đối nội và rút lui khỏi việc duy trì trật tự dựa trên nguyên tắc tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, thì Nhật Bản sẽ phải "tự lực cánh sinh", đảm nhận vai trò lãnh đạo và chia sẻ gánh nặng ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, nếu không có sự lãnh đạo và cam kết mang tính quyết định của Hoa Kỳ, thì các đồng minh và đối tác của Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương sẽ bị hạn chế khi phải một mình hoặc hợp tác với nhau để đối đầu với một nước Trung Quốc đang trỗi dậy và đầy quyết đoán.

Thùy Dương

******************

Chính quyền Trump tỏ thái độ cứng rắn với Trung Quốc (RFI, 25/01/2017)

bd3

Tổng thống Mỹ Donald Trump. REUTERS/Kevin Lamarque

Khi tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ bảo vệ các "lợi ích quốc tế" ở Biển Đông và trao đổi thương mại phải là một "con đường hai chiều", chính quyền của tân tổng thống Donald Trump muốn tỏ thái độ cứng rắn đối với Trung Quốc trên cả hai hồ sơ này.

Đúng là với quyết định rút Hoa Kỳ ra khỏi hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, ông Donald Trump đã mở đường cho Trung Quốc khẳng định vai trò của một lãnh đạo về kinh tế tại khu vực Châu Á, đặc biệt là tạo thuận lợi cho dự án tự do mậu dịch do Bắc Kinh đề xướng là Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực RECEP.

Nhưng thật ra, theo nhận định của hãng tin AP hôm nay, 25/01/2017, việc bác bỏ hiệp định TPP chỉ là bước đầu tiên trong một kế hoạch đầy tham vọng của chính quyền Trump nhằm sắp xếp lại trao đổi mậu dịch với Châu Á. Trước hết, ông Donald Trump đã hứa là sẽ tiếp tục thương lượng hiệp định mậu dịch song phương với từng nước tham gia TPP. Một kinh tế gia được AP trích dẫn cho rằng những hiệp định song phương này cũng có thể tạo ra nhiều cơ hội cho việc thúc đẩy tự do mậu dịch.

Tân tổng thống Mỹ cũng đã hứa sẽ đánh thuế 45% vào hàng Trung Quốc nhập vào thị trường Hoa Kỳ và sẽ khuyến khích các công ty Mỹ chuyển cơ sở sản xuất về Hoa Kỳ. Theo AP, những biện pháp nói trên có thể sẽ làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc, vốn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước láng giềng.

Vào tuần trước, Phòng Thương Mại Mỹ ở Trung Quốc cho biết là Bắc Kinh đang chuẩn bị trả đũa trong trường hợp chính quyền Trump thi hành các biện pháp hạn chế nhập khẩu. Theo Phòng Thương Mại Mỹ, chính quyền Trung Quốc chưa gì đã tỏ thái độ cứng rắn bằng cách áp dụng một mức thuế cao bất thường trong một vụ chống phá giá vào tháng Giêng năm nay, nhắm vào một hóa chất của Mỹ sử dụng trong thức ăn cho gia cầm.

Về hồ sơ Biển Đông, ngay cả trước khi chính thức nhậm chức, tân ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson đã tuyên bố là Hoa Kỳ phải có biện pháp để buộc Bắc Kinh dừng xây các đảo nhân tạo ở vùng biển này và phải ngăn cản Trung Quốc tiếp cận các đảo đó. Ngay lập tức, báo chí Trung Quốc dọa là xung đột quân sự với Mỹ sẽ nổ ra nếu Washington có hành động như thế. Chính quyền Bắc Kinh lúc đó phản ứng chừng mực hơn, có lẽ vì muốn chờ xem chính quyền Trump sẽ chính thức tỏ thái độ như thế nào.

Ngày 23/01/2017, trong một cuộc họp báo, phát ngôn viên Nhà Trắng Sean Spicer đã tuyên bố là chính quyền Trump sẽ "bảo vệ các lợi ích quốc tế" ở vùng Biển Đông đang xảy ra tranh chấp giữa Trung Quốc với các nuớc láng giềng. Ngay ngày hôm sau, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh đã thẳng thừng tuyên bố Trung Quốc có chủ quyền "không thể tranh cãi được" trên các đảo ở Biển Đông và các vùng biển xung quanh, và Bắc Kinh sẽ "kiên quyết" bảo vệ quyền và lợi ích của Trung Quốc ở vùng biển này.

Tuy nhiên, theo nhận định của bà Bonnie Glaser, chuyên gia thuộc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược CSIS ở Washington, cả hai ông Tillerson và Spicer đều đã cố cho Trung Quốc thấy là chính quyền Trump sẽ có lập trường cứng rắn hơn trên vấn đề Biển Đông, nhưng thật ra tân nội các Mỹ chưa vạch ra một chính sách rõ ràng. Theo bà Glaser, chính quyền mới của Hoa Kỳ cần phải gửi các tín hiệu " rõ ràng và nhất quán" đến Trung Quốc.

Thanh Phương

Published in Châu Á