Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

45 năm, từ làn sóng người Việt tị nạn đến Mỹ đầu tiên vào năm 1975, đến nay cộng đồng gốc Việt tại Mỹ được xem đã khá ổn định với nhiều thành công cá nhân và trong mỗi gia đình. Trải qua nhiều đời tổng thống, bất luận đảng phái nào, người gốc Việt đã từng bước hội nhập rồi thăng tiến trên đất nước thứ hai của mình. Đọc lại câu chuyện lịch sử để thấy không phải một sớm một chiều hay chỉ riêng với một đời tổng thống nào mới giúp họ tạo dựng nên cuộc sống hiện nay mà đó là cả quá trình trong suốt gần nửa thế kỷ qua. 

vuet1

Đài tưởng niệm những người lính Việt Nam và Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam tại khu phố Little Saigon, ở Westminster, California

Năm 1975, Sài Gòn bị thất thủ. Làn sóng người tị nạn Việt Nam đầu tiên đã di tản với nhiều phương tiện riêng hay do chính phủ Hoa Kỳ giúp đỡ. Khi con số người di tản vượt rất xa kế hoạch đón khoảng 18 ngàn người Việt mà Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ dự tính ban đầu, Tổng thống Gerald Ford của đảng Cộng hòa đã cho phép có thể nhận đến 200 ngàn người. 

Chiến dịch Gió Lốc (Operation Frequent Wind) đã đưa người di tản rời khỏi Việt Nam bằng trực thăng do Thủy Quân Lục Chiến Mỹ thực hiện cùng làn sóng tự di tản ra các tàu trên biển rồi đến đảo Guam và Phi Luật Tân. Người di tản sau đó được đưa sang các căn cứ quân sự trên đất Mỹ như Camp Pendleton tại California, Fort Chaffee tại Arkansas, Eglin Base tại Florida và Indiantown Gap tại Pensylvynia cuối cùng ước tính vào khoảng hơn 130 ngàn người. Đây là nhóm người Việt tị nạn đầu tiên đến Mỹ sau chiến tranh. 

Trong khi nhiều người vẫn còn ở đảo Guam thì Quốc Hội Hoa Kỳ khóa 94 do đảng Dân chủ chiếm đa số tại lưỡng viện đã họp bàn việc cứu trợ người tị nạn Đông Dương, phần lớn là người Việt Nam. Dân biểu Peter Rodino của đảng Dân chủ là người đề xướng Đạo Luât Hỗ Trợ Người Di Cư và Tị Nạn Đông Dương (Indochina Migration and Refugee Assistance Act - Dự Luật H.R.6755) tại Hạ Viện, nhằm giúp người tị nạn tái thiết và ổn định bước đầu đời sống mới. Dự luật được các dân biểu Dân chủ như Edward Kennedy và Liz Holtzman vận động sự ủng hộ trong khi một số dân biểu Cộng hòa bảo thủ chống đối vì cho rằng người tị nạn Việt Nam vào Mỹ quá nhiều sẽ không hội nhập được vào văn hóa nước Mỹ và phá hỏng hệ giá trị nước Mỹ, thậm chí còn có đề nghị cho định cư tại các vùng lãnh thổ của Mỹ. Tuy nhiên cuối cùng dự luật cũng được Quốc Hội thông qua và Tổng thống Ford ký sắc lịnh vào ngày 23 tháng 5 năm 1975. 

Năm 1979, trước làn sóng vượt biển ồ ạt của thuyền nhân Việt Nam, nước Mỹ đã mệt mỏi trong nỗi ám ảnh về cuộc chiến Việt Nam, theo như thăm dò của CBS/New York Times đã có đến 62% dân Mỹ không còn muốn nhận thêm người tị nạn Việt Nam. Bất chấp điều này, Tổng thống Jimmy Carter thuộc đảng Dân chủ vẫn gia tăng gấp đôi số người tị nạn được nhận mỗi tháng, cho phép người tị nạn Việt Nam được nhận ồ ạt vào Mỹ. Một lần nữa, Đạo Luật Người Tị Nạn (Refugee Act of 1980 - Public Law 96-212, S. 643  & H.R 2816) do Thượng nghị sĩ Edward Kennedy của Dân chủ khởi xướng, cho phép gia tăng số người tị nạn được nhận vào Mỹ và giúp đỡ họ tái thiết đời sống mới. 

Đi xa hơn, chương trình OPD (Orderly Departure Program) cho phép người Việt nhập cảnh cũng ra đời vào thời điểm này, giúp cho người Việt được sang Mỹ cùng một số quốc gia khác theo con đường chính thức và an toàn hơn. Chương trình này đã được Phó Tổng thống Walter Mondale của đảng Dân chủ họp bàn cùng Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) và nhiều quốc gia khác tại Geneva, Thụy Sĩ vào tháng 7 năm 1979. 

Cao Ủy đã thay mặt Hoa Kỳ cùng các quốc gia để thương lượng với Hà Nội nhằm bảo trợ và xúc tiến chương trình. Sáu tháng sau, tháng 1 năm 1980, văn phòng ODP được thiết lập tại Bangkok, Thái lan để bắt đầu nhận và giải quyết hồ sơ bảo lãnh. Mỗi hai tuần, các nhân viên văn phòng OPD Bangkok đã bay sang Sài Gòn để thực hiện các cuộc phỏng vấn. Văn phòng ODP đã phối hợp với Ủy Ban Di Cư Liên Chính Phủ ICM (Intergovernmental Committee of Migration) để lo việc  khám sức khoẻ tại Bịnh Viện Chợ Rẫy và thủ tục sang các trại chuyển tiếp hay trực tiếp sang Mỹ cho những người được chấp thuận.

Văn phòng ước tính đã nhận và giải quyết hồ sơ của khoảng 700.000 người Việt Nam, bao gồm nhóm đoàn tụ gia đình, con lai, cựu nhân viên chính phủ và các hãng Mỹ cùng những tù nhân chính trị qua chương trình HO về sau. Theo số liệu từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, loại trừ các hồ sơ không đủ điều kiện và man khai hay định cư tại các quốc gia khác, đã có hơn 558.000 người Việt các diện đã được cho phép nhập cảnh vào Hoa Kỳ cho đến năm 1997.

Ở đây có thể nói thêm riêng về chương trình con lai và H.O (Humanitarian Operation) dành cho những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa bị tù sau 1975. Năm 1987, Thượng nghị sĩ John McCain thuộc đảng Cộng hòa đã trình dự luật Amerasian Home Act (S.1601 -100th Congress, 1987-1988) cho phép những người con lai Mỹ được phép định cư tại Hoa Kỳ. Tháng 5 năm 1987, Thượng nghị sĩ Edward Kennedy của đảng Dân chủ, đã trình nghị quyết 205 (S.Res. 205 -100th Congress, 1987-1988) yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do các tù nhân chính trị bị giam giữ, theo sau là nghị quyết 212 (H.Res.212) của dân biểu Robert Dornan thuộc đảng Cộng hòa tại Hạ Viện, được 58 dân biểu đồng bảo trợ (29 Cộng hòa và 29 Dân chủ).

Môt số dân biểu Hạ Viện sau đó cũng tiếp tục đưa các dự luật yêu cầu chính phủ thúc đẩy việc buộc Hà Nội trả tự do cho các tù nhân chính trị và cho phép họ định cư sang Hoa Kỳ.  Năm 1991, cũng chính Thượng nghị sĩ Edward đã trình nghị quyết 51 (S.Res. 51 -102th Congress, 1991-1992)  với sự đồng bảo trợ của 6 Thượng nghị sĩ cả Dân chủ và Cộng hòa, yêu cầu Việt Nam cho phép những người ở tù trên ba năm cùng gia đình họ được định cư tại Hoa Kỳ qua, mở đầu cho chương trình H.O từ năm 1991. Có thể ghi công cho chính Thượng nghị sĩ Edward Kennedy (Dân chủ), tức em trai Tổng thống Kennedy, là người đã đóng góp rất nhiều để những cựu tù chính trị cùng gia đình được sang Mỹ qua các nghị quyết nói trên.

Bên cạnh đó cũng nhắc thêm là, Thượng nghị sĩ John McCain đã tiếp tục đưa ra tu chính sửa đổi, cho phép các gia đình HO được sang thẳng Hoa Kỳ mà không phải sang Phi Luật Tân để học Anh ngữ trong sáu tháng, đồng thời chấp thuận con cái độc thân trên 21 tuổi của các gia đình HO và ODP được đi theo cha mẹ theo diện nhân đạo, hay cho phép những người Việt từng làm việc với chính phủ Mỹ  và hãng Mỹ được phép định cư (McCain Amendment, H.R 3540).

Các dự luật của lập pháp Hoa Kỳ liên quan đến cộng đồng Việt Nam trên đất Mỹ được nhắc đã không thể đầy đủ hết nhưng đó là những dự luật chính yếu và các nhà lập pháp kể trên đã đóng vai trò rất quan trọng và trực tiếp can dự đến hành trình này. Các dự luật này có thể tìm tại kho lưu trữ hồ sơ của Quốc Hội tại congress.gov/bill cho những ai muốn tìm hiểu cặn kẽ hơn. 

Điều quan trọng là khi đọc lại dăm sự kiện lịch sử để hiểu hơn về hành trình người Việt có mặt trên đất nước Hoa Kỳ và có được như ngày hôm nay ra sao, nó sẽ ít nhiều giúp cho một số người nhìn câu chuyện thời cuộc và tương lai với cái nhìn công tâm và xác thực hơn trong bối cảnh chính trị Hoa Kỳ sau 45 năm.  

Nhã Duy

(17/04/2020)

Published in Diễn đàn

Dr. Anthony Fauci, người góp phần tạo nên sự vĩ đại cho nước Mỹ

Tháng 9 năm 2014, bịnh nhân đầu tiên trên đất Mỹ bị nhiễm trong trận dịch Ebola là Nina Phạm, một y tá gốc Việt 26 tuổi làm việc tại một bịnh viện thuộc thành phố Dallas, Texas. Nina bị lây nhiễm khi chăm sóc cho Thomas Duncan, một bịnh nhân đã nhiễm Ebola đến từ Liberia bên Châu Phi. Nina Phạm vô tình trở thành tâm điểm của truyền thông và thu hút sự quan tâm trên khắp nước Mỹ lúc bấy giờ.

fauci1

Nữ y tá Nina Phạm là một trong hai y tá được Bác sĩ Anthony Fauci chữa khỏi bệnh sau khi bị nhiễm Ebola virus

Theo đề nghị từ bác sĩ Anthony Fauci, Giám đốc Viện Dị ứng và bịnh truyền nhiễm quốc gia (National Institute of Allergy and Infectious Diseases - NIAID) và là người đang nằm trong ban đặc nhiệm chống coronavirus tại Mỹ hiện nay, Nina Phạm được chuyển tới Khoa Nghiên cứu lâm sàng đặc biệt tại Rockville, Maryland trực thuộc NIAID. Đây là một chuyên khoa đặc biệt với các dụng cụ, phương tiện nghiên cứu tân tiến hàng đầu thế giới trong vấn đề kiểm soát bịnh truyền nhiễm và nguy cơ vũ khí vi trùng sinh học, có khoảng 60 khoa học gia, bác sĩ và chuyên viên y tế làm việc.

Chính bác sĩ Fauci là vị bác sĩ đã tham gia nhóm chữa trị trực tiếp cho Nina, cũng như là người đứng ra trả lời các cuộc họp báo về tình trạng sức khỏe của Nina cho đến khi cô xuất viện. Hình ảnh Bác sĩ Fauci ôm Nina Phạm trong ngày xuất viện là một hình ảnh mang cảm xúc cho nhiều người. Nó gợi sự liên tưởng đến vòng tay độ lượng của một nước Mỹ và thế giới đã từng dang tay đón người tị nạn Việt Nam ngày nào.

Sinh năm 1940 tại Brooklyn, New York trong một gia đình di dân gốc Ý, có cha là một dược sĩ, bác sĩ Fauci theo học các trường công giáo ở cả hai bậc trung học và đại học, chú trọng ngành học cổ điển, từ thần học, lịch sử cổ đại, xã hội học đến tiếng Hy Lạp, La Tinh và tiếng Pháp. Dù vậy bác sĩ Fauci đã đi theo con đường y khoa, mà theo ông kể là đã nằm trong máu mình từ rất sớm. Sau khi tốt nghiệp đầu khóa tại Đại học y khoa Cornell, ông về làm việc cho Viện Y tế quốc gia (National Institutes of Health - NIH) từ năm 1968 đến nay. 

Ngoại trừ một đôi năm ông về lại Cornell trong vai trò một y sĩ trưởng và nghiên cứu hậu tiến sĩ, ông đã làm việc với NIH và đứng đầu cơ quan NIAID từ năm 1984 đến bây giờ. Là một nhà khoa học về y tế cộng đồng, y học lâm sàng, miễn dịch và dịch tễ học, với vô số bằng tưởng lục, huân chương cao quý quốc gia và quốc tế cho đóng góp của mình, Bác sĩ Fauci đã nhiều lần từ chối chức vụ lãnh đạo Viện Y tế quốc gia để chỉ chuyên tâm nghiên cứu và dẫn dắt cơ quan NIAID phòng chống dịch bịnh truyền nhiễm. Từ sốt rét, kiết lỵ, tiêu chảy, các bịnh đường hô hấp, hen suyển... cho đến HIV, SARS, cúm H1N1, MERS, Ebola rồi Covid-19 hiện nay. Và trên hết là những nghiên cứu liên quan đến chiến lược phòng thủ trước nguy cơ vũ khí sinh học, nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và sự an nguy cho người dân Mỹ cùng thế giới tự do nói chung. 

Điểm lại tinh thần và quá trình phụng vụ quốc gia của bác sĩ Fauci trong hơn 50 năm qua để thấy vai trò của ông trong cuộc chiến chống dịch bịnh hiện nay quan trọng đến mức nào. Di chuyển như con thoi để họp bàn cùng nhóm đặc nhiệm chống dịch của phủ tổng thống, giải trình với các nhà lập pháp, làm việc với các chuyên gia y tế, rồi trả lời phỏng vấn để đưa thông tin dịch bịnh xác thực đến đại chúng, theo dõi các cuộc họp báo trong những ngày qua thì người dân cũng thấy giọng ông đã bị khàn đi rất nhiều. Ở tuổi 79, độ tuổi lẽ ra đã về hưu từ rất lâu và mang nhiều rủi ro cao nếu bị lây nhiễm virus, các tin tức cho biết ông chỉ ngủ vài tiếng mỗi ngày hiện nay, còn dành hết thời gian và tâm sức cho cuộc chiến chống dịch bịnh. 

Với cung cách điều hành quốc gia hiện nay, cơ hội cho giới chức chuyên gia y tế Hoa Kỳ có thể công bố minh bạch về thực trạng và nguy cơ dịch bịnh bị giới hạn rất nhiều, nước Mỹ lại cần những người như Bác sĩ Fauci hơn bao giờ hết. Bởi từ giữa tháng Hai, khi những người đứng đầu của cơ quan CDC (Centers for Disease Control and Prevention - Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh) cảnh báo tình hình có thể tệ hại hơn thì đã bị Bạch Ốc chặn lại, không cho phép phát biểu về dịch bịnh với truyền thông hay trước công chúng vì e ngại sẽ tạo ra sự xáo trộn cho thị trường chứng khoán và kinh tế nói chung. 

Chỉ có ông là người can trực, thẳng thắn phát biểu về tình trạng dịch bịnh, những rủi ro cùng các biện pháp ngăn chặn, tiêu diệt nó ra sao. Bằng một thái độ nghiêm túc, chính xác của một nhà khoa học và tâm thức của một lương y luôn đặt sinh mạng người dân lên hàng đầu. Một cách nhã nhặn, trí thức nhưng không e dè, né tránh trước bất cứ áp lực chính trị nào. 

Người ta ngỡ rằng câu nói của bác sĩ Fauci, "Khi bạn đối diện trong sự đan chéo của chính trị, chính sách và y học, điều mà tôi dựa vào một cách rất hiệu quả là hãy nhất quán, hãy hoàn toàn thành thật và đừng nói với người khác những gì mà bạn nghĩ là họ có thể muốn nghe" là để diễn đạt tình cảnh hay ngụ ý điều gì đó trong vai trò hiện nay. Nhưng không, đó là trả lời phỏng vấn của ông trên đài truyền hình C-PAN hồi năm 2015 và xem ra ứng nghiệm hơn bao giờ hết.

Dù đã làm việc qua nhiều đời tổng thống, có lẽ chưa bao giờ nguyên tắc sống và làm việc vừa kể cũng như tinh thần phụng vụ quốc gia của ông lại bị thách đố nhiều như trong giai đoạn hiện nay. Ông bị dăm nhóm truyền thông cánh hữu tấn công, chỉ trích rồi bị những kẻ cực đoan đe dọa. Bởi lời nói và thái độ của ông vô tình đi ngược lại sự ngoa ngôn của những kẻ đặt quyền lợi chính trị lên trên sinh mạng của người dân. Liệu người dân nghĩ gì khi một mẫu mực đáng kính của nước Mỹ đang phải đối diện với sự hăm dọa, nguy hiểm như vậy ? Có phải nó tương tự việc một nền tảng cùng những giá trị lâu đời của nước Mỹ đang bị tấn công nặng nề ? 

Nhắc lại câu chuyện về bác sĩ Fauci hiện nay vì có những tranh luận đó đây về "sự vĩ đại" của nước Mỹ với lắm điều ngộ nhận. Dù không phải lúc để phân định rạch ròi giữa khi nước Mỹ và thế giới đang gặp cơn khổ nạn và những người dân đang nằm xuống hàng giờ khắp thế giới. Nhưng để thấy một điều rằng, những người can trực và hy sinh cho quốc gia như bác sĩ Anthony Fauci mới đích thực là những người đã góp phần tạo nên giá trị và sự vĩ đại của nước Mỹ mà người dân nhìn tới và cần bảo vệ. 

Nhã Duy

06/04/2020

Published in Diễn đàn