Nuôi tôm trên sông Mê Kông có thể mang lại lợi ích kinh tế trong ngắn hạn nhưng cuối cùng lại không bền vững.
Một mảnh ruộng canh tác lúa tại Trà Vinh sẽ trở thành ao nuôi tôm sau mùa gặt – Ảnh Quinn Goranson
Ở vùng đồng bằng miền Nam Việt Nam, nơi sông Mê Kông chảy vào Biển Đông, người dân lo sợ rằng nguồn nước của họ sắp chết. Họ nhìn thấy bờ sông phình lên và sụp đổ ; muối xâm nhập cao hơn và xa hơn bao giờ hết. Sông Mê Kông đang chìm dần.
Sông Mê Kông trải dài 4.350 km, chảy từ sông băng Tây Tạng qua sáu quốc gia và cuối cùng qua Việt Nam ra biển. Tên của dòng sông xuất phát từ Mae Nam Khong, một cụm từ tiếng Thái và tiếng Lào có nghĩa là "Nước mẹ". Điều này là phù hợp vì nó mang lại nguồn tài nguyên quan trọng cho hơn 70 triệu người trên khắp lục địa Đông Nam Á. Bờ sông Mê Kông trong lịch sử đã tạo điều kiện hoàn hảo cho sản xuất lúa gạo, được các tỉnh đồng bằng phía Nam được trìu mến gọi là "vựa lúa" của Việt Nam.
Giờ đây, biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường do sự phát triển của con người gây ra là mối đe dọa hiện hữu đối với sông Mê Kông. Xâm nhập mặn vào sông nước ngọt, mực nước biển dâng cao, sụt lún đất, khai thác cát, dòng chảy cơ bản thấp hơn và xây đập ở thượng nguồn đều góp phần làm giảm năng suất nông nghiệp trong những năm gần đây. Năm 2020, nông dân trồng lúa ở các tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi xâm nhập mặn dự kiến sẽ mất ít nhất 30% sản lượng thu hoạch do thiếu nước ngọt.
Gần đây, các tổ chức quốc tế và các chương trình của chính phủ đã khuyến khích đa dạng hóa nông nghiệp nhằm hướng tới khả năng phục hồi kinh tế và khí hậu tốt hơn. Đối với nhiều người, điều này là việc duy trì các cánh đồng lúa truyền thống vào mùa mưa, khi sông Mê Kông có thể cung cấp đủ nước ngọt để duy trì mùa màng, sau đó chuyển sang nuôi tôm vào mùa khô. Sau khi cho thấy thành công ban đầu, mô hình cụ thể này đang được chào hàng như một "chiến thắng" chuyển thể từ sách giáo khoa ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Thật không may, người ta ít chú ý đến các tác động tiêu cực đến môi trường của quá trình chuyển đổi hàng loạt sang nuôi tôm, một động thái cuối cùng không bền vững.
Một dòng sông cổ xoay vòng từ người ban sự sống đến trách nhiệm
Trong hơn một thế kỷ, đồng bằng sông Cửu Long là không gian tranh chấp toàn cầu, với việc các chính phủ tại Việt Nam và các cường quốc bên ngoài coi đây vừa là một nguồn tài nguyên đáng mơ ước vừa là một chiến trường. Quan điểm của thực dân Pháp ưu tiên "làm chủ thiên nhiên" thông qua các công trình thủy lợi rộng rãi và việc Mỹ sử dụng mạnh tay các loại thuốc diệt cỏ có arsenic và dioxin trong Chiến tranh Việt Nam đã khiến Đồng bằng sông Cửu Long dễ bị tổn thương nghiêm trọng về môi trường, điều mà rất ít cường quốc quốc tế chịu trách nhiệm.
Cùng với sự quản lý yếu kém hiện nay, tình trạng tham nhũng của chính phủ và những lỗi phát triển, sông Mê Kông không được trang bị đầy đủ để thích ứng. Diện mạo của đồng bằng đã thay đổi đáng kể qua nhiều thế kỷ, trong thời gian đó nó đã chứng kiến quá trình đô thị hóa nhanh chóng, thâm canh nông nghiệp và tàn phá môi trường tàn khốc. Mới đây, Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu trước Quốc hội rằng mối lo ngại lớn nhất ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là sụt lún đất, lở đất, hạn hán và xâm nhập mặn.
Đất sụt lún là do nén của đất giảm sụt do sức nặng của cơ sở hạ tầng và/hoặc tác động gây mất ổn định của việc cạn kiệt nguồn nước ngầm. Điều này cản trở việc thoát nước, dẫn đến lũ lụt và xói mòn gia tăng. Xâm nhập mặn do ô nhiễm nguồn nước ngọt vì nước mặn có thể chảy ngược lên thượng nguồn. Hiện tượng tự nhiên này đã gây ra một vấn đề nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long, một vấn đề đang trở nên trầm trọng hơn do khai thác cát trái phép và cản trở việc xả sông từ các đập thượng nguồn, kết hợp với mực nước biển dâng ở hạ lưu và nước dâng do bão dữ dội.
Biến đổi khí hậu hay suy thoái môi trường ?
Có một sự tương phản thú vị ở đây. Ở miền Bắc, nơi cố chính quyền trung ương và trong nhiều diễn đàn quốc tế, mối đe dọa lớn nhất đối với hệ sinh thái sông Mê Kông là biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, ở miền Nam, và những nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất do môi trường thay đổi, vấn đề là suy thoái môi trường do các hoạt động phát triển và khai thác như khai thác cát trái phép và đánh bắt cá không được kiểm soát gây ra.
Khi nói đến biến đổi khí hậu, Việt Nam có thể coi mình là nạn nhân thụ động. Việt Nam chỉ đóng góp 0,8% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu, tuy nhiên vẫn phải gánh chịu cả những quyết định và lượng phát thải hiện tại cũng như trong quá khứ của Bắc bán cầu (và nước láng giềng Trung Quốc). Ngược lại, suy thoái môi trường đề cập đến việc Việt Nam tích cực lạm dụng hệ sinh thái thông qua khai thác không kiểm soát, đầu vào gây ô nhiễm và phát triển nhanh chóng, không bền vững khi chính phủ ưu tiên tăng trưởng kinh tế và đạt được vị thế quốc gia có thu nhập trung bình vào năm 2030 về vấn đề môi trường.
Mặc dù Việt Nam đã cam kết giảm khí carbon vào năm 2050 nhưng lượng khí thải lớn nhất của lại do ngành năng lượng sinh ra. Nhiều nhà hoạt động môi trường và lãnh đạo dân sự, chỉ trích những ưu tiên mâu thuẫn của Việt Nam, gần đây đã bị bắt và bỏ tù vì tội trốn thuế. Trong khi sự chú ý ngày càng tăng của Việt Nam đối với việc giảm thiểu và thích ứng với khí hậu trên phạm vi quốc tế phản ánh nhận thức sâu sắc về cái giá kinh tế của việc khai thác tài nguyên không bền vững, thì những người lên tiếng lo ngại về ngành năng lượng nặng của Việt Nam phụ thuộc vào than (49,7%) có lý do chính đáng để lo sợ bị bắt giữ.
Điều này phản ảnh bầu không khí căng thẳng quanh các vấn đề về giáo dục môi trường và tính minh bạch ở Việt Nam, từ đó làm ảnh hưởng đến các chính sách chuyển đổi nông nghiệp và khí hậu. Điều này sẽ đảm bảo gây thêm thiệt hại cho hệ sinh thái đồng thời khiến việc thích ứng lâu dài trở nên khó khăn hơn.
Trong khi bối cảnh tài trợ ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn manh mún, đặc biệt liên quan đến các vấn đề nông nghiệp, nông dân và các viện nghiên cứu như Đại học Cần Thơ đang nhận được hỗ trợ từ Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc và viện trợ song phương từ các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và Hà Lan. Phần lớn nguồn tài trợ này hỗ trợ việc áp dụng các mô hình sinh kế mới trên toàn vùng đồng bằng, bao gồm mô hình luân canh lúa tôm (PRRC).
Mô hình PRRC cho thấy nông dân trồng và thu hoạch lúa trong mùa mưa, khi sông Mê Kông dồi dào nước ngọt và chuyển đổi sang các loại cây trồng không bị ảnh hưởng xấu bởi nước mặn vào mùa khô, khi xâm nhập mặn xâm nhập vào đồng bằng. Tôm là loài nuôi trồng thủy sản phổ biến nhất vì chúng có thể sống sót ở độ mặn lên tới 45 gram/lít.
Năm 2020, khi nước mặn xâm nhập vào đất liền tới 40 km và kéo dài nhiều tháng so với dự kiến trong mùa khô, 240.000 ha lúa đã bị phá hủy. Kể từ thảm họa này, một số nông dân đã chuyển sang nuôi tôm độc quyền, vì 45% đất nông nghiệp ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện có độ mặn trên 4 g/l, mức chịu đựng trung bình trên của cây lúa.
Chính phủ Việt Nam đã khuyến khích quá trình chuyển đổi này và nghiên cứu ban đầu đã mô tả những mô hình này là những thành công về khí hậu. Một tỉnh ven sông, Bạc Liêu, đang đặt mục tiêu tăng sản lượng tôm xuất khẩu lên 1,3 tỷ USD chỉ riêng vào năm 2025, đưa ngành này đóng góp 95% tổng doanh thu xuất khẩu vào thời điểm đó. Các báo cáo cho thấy trung bình, thông qua việc mở rộng công nghiệp và xuất khẩu nhanh chóng, nông dân PRRC đạt được lợi nhuận hàng năm cao hơn 65% so với nông dân trồng lúa truyền thống.
Các nghiên cứu về những quá trình chuyển đổi này chỉ tập trung vào các động lực kinh tế và khả năng thích ứng thay vì các tác động môi trường lâu dài.
Cái giá thực sự của quá trình chuyển đổi nông nghiệp sinh lợi
Nuôi tôm không chỉ tốn nhiều tài nguyên hơn trồng lúa ; mà cũng tạo ra lượng khí thải nhà kính nhiều hơn đáng kể, ở mức 13 kg CO2e/kg so với 0,9 kg CO2e khi trồng lúa gạo. Nhiều nông dân vẫn đang sử dụng hệ thống sục khí bánh guồng cường độ năng lượng cao, hiệu suất thấp để quản lý chất lượng nước hồ nuôi tôm, thường đưa nhiều mầm bệnh vào không khí hơn là phân phối oxy và chất dinh dưỡng. Ở các trang trại phi hữu cơ lớn hơn, hóa chất và kháng sinh được sử dụng để ngăn ngừa bệnh tật và tăng năng suất, gây ô nhiễm nước ngầm và dòng chảy, làm ô nhiễm các hồ nuôi trồng thủy sản hữu cơ và hệ sinh thái xung quanh. Nông dân PRRC đã bắt đầu nhận thấy tác động lâu dài của các hồ nuôi tôm đối với chất lượng đất, vì biến đổi khí hậu hạn chế khả năng xả muối của sông Mê Kông, khiến đất kém màu mỡ.
Cuối cùng, khi tình trạng xâm nhập mặn trở nên trầm trọng hơn do mực nước biển dâng cao và sụt lún đất liên tục, độ mặn sẽ vượt quá mức có thể chấp nhận được ngay cả đối với những loài tôm này. Quan sát này đã khuyến khích việc khai thác nước ngầm để làm loãng độ mặn của ao nuôi tôm. Sự suy giảm tầng chứa nước đã góp phần gây ra tình trạng sụt lún đất ở đồng bằng sông Cửu Long trong hàng chục năm nay, đẩy nhanh tốc độ lún của đồng bằng lên mức chưa từng thấy ở mức 18 cm trong 25 năm qua. Điều này kéo dài một vòng tuần hoàn tiêu cực trong đó xâm nhập mặn khuyến khích đa dạng hóa nông nghiệp sang nuôi tôm, làm cạn kiệt tầng ngậm nước bên dưới đồng bằng. Điều này càng góp phần gây ra tình trạng sụt lún đất, một trong những nguyên nhân ban đầu dẫn đến xâm nhập mặn.
Phà chở du khách tham quan đảo Cồn Chim tại Trà Vinh – Ảnh Quinn Goranson
Tiến về phía trước : Đặt nhu cầu của hệ sinh thái làm trung tâm
Cần có những nghiên cứu sâu hơn để hiểu rõ hơn về tác động lên hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long. Hiện tại, các chính sách thích ứng với khí hậu được đề xuất nhằm khuyến khích chuyển đổi mạnh mẽ nền nông nghiệp sang các mô hình như PRRC, tuy mang lại nhiều lợi nhuận hơn nhưng lại không bền vững về mặt môi trường về lâu dài. Mặc dù khó khăn nhưng điều quan trọng là chính quyền trong nước và cộng đồng quốc tế phải thừa nhận sự bất hòa giữa các ưu tiên kép. Trước những mối đe dọa hiện hữu đối với vựa lúa Mê Kông, sự dao động giữa các ưu tiên thịnh vượng kinh tế và sự tồn tại của môi trường, cần phải khám phá các giải pháp thay thế chính sách cho nền nông nghiệp bền vững hơn.
Một số điểm sáng trong phát triển nông nghiệp đến từ việc Trường Đại học Trà Vinh nghiên cứu công nghệ làm ướt và sấy luân phiên, cho phép sản xuất lúa truyền thống sử dụng ít nước hơn 20%. Tương tự như vậy, trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, các công ty như Rynan Technologies đang phát triển các giải pháp cải tiến về cung cấp chất dinh dưỡng và cường độ năng lượng với Thiết bị hấp phụ xoay áp suất.
Thông qua thực thi chính sách, nghiên cứu và phát triển cũng như đầu tư vào các sáng kiến trong nước, Việt Nam có thể đạt được các mục tiêu đồng thời là tăng trưởng kinh tế và ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời đa dạng hóa và thâm canh ngành nông nghiệp. Nhưng phải nhớ rằng nước sông Mê Kông là sợi dây quan trọng gắn kết mọi sự sống dọc theo dòng sông : sự tôn trọng và khiêm nhường trước một nguồn sinh lực to lớn như vậy sẽ hướng dẫn mọi mục tiêu.
Quinn Goranson
Nguyên tác : Vietnam’s Climate Solutions Are Decimating the Mekong Delta, The Diplomat, 09/02/2023
Anh Khoa biên dịch
Nguồn : VNTB, 13/02/2024
"Nước đi về đâu : mùa khô Mekong năm 2024" là chủ đề của hội thảo được diễn ra hôm 25/01/2024, tại Stimson Center ở Washington DC.
Bản đồ vùng nước nổi dọc theo hạ lưu sông Mekong ở Campuchia và Việt Nam - Stimson Center
Nhiều chuyên gia và nhà hoạt động môi trường hàng đầu về sông Mekong có mặt tại hội thảo, đưa ra nhiều phân tích liên quan đến diễn biến lưu lượng nước trên sông Mekong, lượng nước mưa, hoạt động của các đập thủy điện, hiện tượng El Nino, sự phình to của hồ Tonlesap trong các năm gần đây… nhằm dự đoán về tình hình sông Mekong trong năm tới.
Thủy điện ở thượng nguồn
Tiến sĩ Brian Eyler, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á và Chương trình Giám sát các đập sông Mekong, đã chỉ ra ảnh hưởng của các đập thủy điện thượng nguồn đến dòng chính của sông Mekong. Khu vực này, ngoài các đập của Trung Quốc còn có nhiều đập của Lào và Thái Lan.
Hiện một vài khu vực của dòng sông Mekong, mực nước đã xuống thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các năm qua, theo Tiến sĩ Brian Eyler.
Trong mùa khô, một số đập như Tiểu Loan của Trung Quốc đang xả nước và nó chiếm 23% lượng nước có thể sử dụng được cho khu vực sông Mekong. Việc xả lũ của đập Tiểu Loan khiến làm dâng nước ở một số khu vực của Thái Lan. Tiến sĩ Brian Eyler cho biết có thể thấy mỗi lần đập Tiểu Loan xả nước, lượng nước này kết hợp với lượng nước tích dồn khác, có thể làm tăng dòng chảy của dòng sông. Điều đó ảnh hưởng đến hệ sinh thái và đời sống xã hội ở lưu vực sông Mekong.
Ông Alan Basist, chủ tịch của tổ chức "Eyes on Earth" (tạm dịch là "Quan sát trái đất") đã trình bày một bức tranh chung về nhiệt độ và lượng mưa hàng tháng của khu vực. Căn cứ trên số liệu các năm trước, ông dự đoán lượng nước vùng hạ lưu sông Mekong có được trong đầu mùa mưa năm nay sẽ thấp hơn mức trung bình các năm qua.
Đồng bằng sông Cửu Long dường như sẽ chịu ảnh hưởng từ một nguồn khác là hồ Tonlesap ở Campuchia. Đó là nhận định của ông Alan.
Ông Alan nói rằng so sánh với 30 năm trước thì có thể thấy xu hướng biến đổi khí hậu đã khá rõ ràng.
Trong năm năm qua, các đập ở hạ nguồn có xu hướng chung là khá khan hiếm nước.
Các đập thủy điện Trung Quốc ở thượng nguồn cũng có dấu hiệu giảm lượng nước như vậy. Đập Tiểu Loan và Nọa Trát Độ của Trung Quốc khá là khan hiếm nước, trong khi hai đập này chiếm 50% lượng nước của tất cả các đập thủy điện thượng nguồn. Ông Alan cho rằng các nước hạ lưu cần theo dõi mức độ tích lũy nước của các hồ này.
Do đó, có một câu hỏi được đặt ra là liệu các đập lớn ở thượng nguồn Mekong có đang thực hiện đúng chức năng của nó hay không. Vị chủ tịch của "Eyes on Earth" còn nói các dòng chảy tự nhiên của Mekong bị bóp méo nên tác động xấu đến khu vực. Trong năm 2022, đôi khi tháng 2, tháng 3 nước lại nhiều hơn mức cần thiết, gây ngập lụt tiêu cực, nhưng đôi khi nước lại thiếu, không đủ phục vụ nhu cầu. Trong năm 2023, tháng 4 và 5 thì nước cũng thấp hơn dòng chảy thông thường, cũng có thể một phần do hạn hán.
Ngoài các đập thượng nguồn thì các đập còn lại ảnh hưởng thế nào đến mực nước sông Mekong ? Ông Alan lấy một ví dụ ở khu vực thượng nguồn Lào, các đập đã thay đổi dòng chảy của dòng sông Mekong. Năm 2023 hạ lưu Mekong đã không thấy lũ mặc dù có mưa. Những vùng trước đây có mùa nước nổi thì năm 2023 không còn nữa.
Biển hồ Tonlesap
Ông Alan Basist nhấn mạnh tầm quan trọng của dòng chảy ngược từ sông Mekong vào hồ Tonlesap ở Campuchia đối với vùng hạ lưu. Vào cuối mùa mưa, tức là khoảng cuối tháng 10, 11 và 12, sông Mekong chảy ngược vào hồ Tonlesap. Theo ông Alan, khi mực nước sông Mekong cao hơn hồ Tonlesap, nước sông khi đó có lúc thậm chí cao hơn mực nước biển. Khi đó sẽ có dòng chảy ngược vào hồ Tonlesap. Trong hàng ngàn năm, điều đó tạo ra môi trường cho canh tác, nuôi trồng thủy sản. Khi dòng chảy ngược này không còn, nó sẽ có tác động lớn đến an ninh lương thực, xã hội.
Ông Alan cho biết trong năm 2023, đến tháng 11 thì dòng chảy ngược không còn nữa mà nước từ Tonlesap đổ ra lưu vực xung quanh. Ngoài ra, mùa mưa làm hồ Tonlesap phình to hơn. Lượng nước cung cấp cho dòng chảy ngược năm 2022 vào hồ Tonlesap chủ yếu từ các nhánh sông. Mực nước xung quanh hồ cao hơn hồ và chảy vào hồ làm hồ Tonlesap phình to ra. Đây là sự phình to lành mạnh, có ích cho nghề cá, xã hội, môi sinh.
Bà Chea Seila, Điều phối viên dự án của Chương trình "USAID Wonders of the Mekong" cho biết hơn 30% ngành đánh bắt cá ở Campuchia là đánh cá di cư. Một số rối loạn của dòng chảy Mekong đã ảnh hưởng đến đường di cư của cá. Cá đã thay đổi hướng di cư của chúng. Điều này ảnh hưởng lớn đến an sinh xã hội và môi trường trong khu vực.
Tiến sĩ Brian cho biết hiện tượng biến đổi khí hậu còn tác động tới các loài chim trong khu vực. Các loài chim có thể mất tổ mà phải di cư sang vùng khác. Sự biến động của môi trường tự nhiên trở thành cú sốc đối với một số loài chim.
El Nino và xâm nhập mặn
Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy, Chuyên gia tư vấn của tổ chức ISET International, nói về ảnh hưởng của xu hướng Elnino tới khí hậu trong khu vực năm 2024. Ông dự báo nhiệt độ tăng 1,9 độ C, thấp hơn so với năm 2015 và 2016 (2,5 độ C.) Xu hướng Elnino sẽ gần giống như 2018 và 2019. Hiện tượng El Nino sẽ dừng lại vào khoảng tháng 3/2024 và có thể chuyển thành hiện tượng Elso, sau đó là La Nina. Chúng sẽ gây ra mưa lớn ở khu vực thượng lưu và hạ lưu Mekong. Nếu có hạn hán thì chỉ ngắn chứ không kéo dài.
Tiến sĩ Huy cho biết từ tháng 11/2023 đến tháng 1/2024 lượng mưa theo tháng đã giảm mạnh ở Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu. Nó tạo ra khô hạn ở hạ lưu Mekong ở Việt Nam. Do đó, sẽ có hạn hán ngắn hạn trong vùng. Đồng thời, có thể sẽ có xâm nhập mặn vào khoảng tháng 2 và sẽ tiếp tục vào tháng 3.
Nguồn : RFA, 27/01/2024
Việt Nam đứng thứ 12 trong 20 nước có tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới
An Tôn, VOA, 18/12/2023
Việt Nam, Trung Quốc và một loạt nước Châu Á nằm trong số 20 nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới trong vòng 10 năm trở lại đây, theo số liệu được yahoo!finance và BusinessNews đăng tải hôm 16/12.
Năm 2024, Việt Nam nằm trong nhóm 20 nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới.
Theo hai trang này, số liệu được sử dụng có nguồn là Qũy Tiền tệ Quốc tế (IMF). Các nhà phân tích xem xét mức tăng trưởng của Tổng Sản phẩm Quốc nội thực (GDP thực) dựa vào dữ liệu gần đây nhất là của năm 2022 và đi ngược lại 10 năm, từ đó tính ra mức tăng trưởng trung bình trong 10 năm qua, yahoo !finance và BusinessNews cho biết.
Với mức tăng trưởng GDP thực trung bình là 6,1% trong một thập niên trở lại đây, Việt Nam nằm trong số các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, yahoo !finance và BusinessNews đưa ra đánh giá.
Hai trang này viết rằng ngành nông nghiệp của Việt Nam là trụ cột quan trọng của nền kinh tế, vừa đóng góp cho GDP vừa tạo công ăn việc làm.
Điều được yahoo!finance và BusinessNews đúc kết cũng trùng với một phát biểu của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Phùng Đức Tiến, được Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) trích dẫn lại hồi tháng 7 năm nay, khẳng định vai trò của ngành nông nghiệp không chỉ dừng ở mức một "trụ đỡ" mà chính là "động lực tăng trưởng quan trọng đối với nền kinh tế đất nước".
Kim ngạch xuất khẩu ngành nông nghiệp của Việt Nam lần đầu đạt tới 53,22 tỷ đô la vào năm 2022, tăng 9,3% so với năm 2021, theo TTXVN.
Giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản kể trên mang lại thặng dư thương mại là 8,5 tỷ đô la, chiếm hơn 75% tổng giá trị xuất siêu của nền kinh tế Việt Nam.
Trong số đó, có 8 sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 2 tỷ đô la, bao gồm cả cà phê, cao su, gạo, rau quả, điều, tôm, cá tra, sản phẩm gỗ. Bên cạnh đó là 7 mặt hàng có kim ngạch hơn 3 tỷ đô la, các số liệu được TTXVN dẫn lại cho hay.
Riêng về gạo, Việt Nam đã xuất khẩu gần 7,3 triệu tấn với giá trị là 3,54 tỷ đô la trong năm 2022, tăng gần 7% về giá trị so với năm 2021, là kim ngạch xuất khẩu gạo cao nhất từ trước tới nay do giá tăng cao. Giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam ở mức 485 đô la/tấn, cao nhất thế giới, hơn Ấn Độ, Thái Lan.
TTXVN viết rằng tư duy của các doanh nghiệp xuất khẩu nông, lâm, thủy sản Việt Nam đã thay đổi, "từ chỗ tập trung vào sản lượng chuyển sang quan tâm tới chất lượng, tăng giá trị sản phẩm, hướng tới thị trường cấp cao hơn để doanh nghiệp và người nông dân cùng có lợi".
Số liệu của Việt Nam cho thấy Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất cho hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam với kim ngạch là 13,3 tỷ đô la, tương đương 25% thị phần, tiếp đến là Trung Quốc với hơn 10 tỷ đô la (18,9% thị phần) ; Nhật Bản với 4,2 tỷ đô la (7,9% thị phần) ; Hàn Quốc với 2,5 tỷ đô la (4,7% thị phần).
Ở cấp độ châu lục, Châu Á chiếm 44,7% thị phần, Châu Mỹ 27,4%, Châu Âu 11,3%, Châu Đại Dương 1,7% và Châu Phi1,7%, TTXVN cho biết.
Về việc làm trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản, Tổng cục Thống kê của Việt Nam công bố dữ liệu cho thấy trong quý IV năm 2022, có 14,1 triệu người làm việc trong ngành này, so với gần 20 triệu người trong ngành dịch vụ và gần 17 triệu người trong ngành công nghiệp.
Theo yahoo !finance và BusinessNews, 5 nước đứng đầu danh sách 20 nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong 10 năm là Guyana (Nam Mỹ) ở vị trí số 1 với mức tăng GDP trung bình là gần 15%, Ireland (Châu Âu) số 2 với hơn 9%, tiếp đến là Ethiopia (Châu Phi) với 8,43%, Tajikistan (Trung Á) với hơn 7% và Côte d’Ivoire (Tây Phi) với hơn 6,8%.
Bangladesh và Trung Quốc đứng cao hơn Việt Nam trong bảng xếp hạng, lần lượt ở các vị trí số 7 và 10, trong khi Ấn Độ và Campuchia lần lượt đứng thứ 15 và 18, thấp hơn Việt Nam về tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 1 thập niên trở lại đây.
An Tôn
Nguồn : VOA, 18/12/2023
*****************************
Nạn thất nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long luôn duy trì mức cao nhất Việt Nam
An Tôn, VOA, 18/12/2023
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long vốn được xem là nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển kinh tế, nhưng ít nhất từ đầu năm đến nay, nơi này luôn có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất Việt Nam, báo chí trong nước đưa tin.
Theo thống kê hiện có hơn 1 triệu lao động mất việc làm
Gần đây nhất, các trang tin của Tuổi Trẻ và Nhà Đầu Tư hôm 12/12 trích lời tiến sỹ Vũ Thành Tự Anh nói trong hội nghị công bố Báo cáo Kinh tế Thường niên Đồng bằng sông Cửu Long 2023 rằng tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm của Đồng bằng sông Cửu Long "vẫn cao nhất nước", vì thế thu nhập bình quân của Đồng bằng sông Cửu Long luôn thấp hơn bình quân cả nước.
Ông Tự Anh, thuộc Trường Chính sách công và Quản lý, Đại học Fulbright Việt Nam, là trưởng nhóm nghiên cứu soạn ra bản báo cáo được Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố hôm 12/12 ở thành phố Cần Thơ, Tuổi Trẻ, Nhà Đầu Tư và một số tờ báo trong nước cho biết.
Theo tìm hiểu của VOA, kể từ đầu năm nay, báo chí Việt Nam đã nhiều lần đưa tin, dẫn số liệu của Tổng cục Thống kê, nói rằng tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trong đất nước luôn thuộc về Đồng bằng sông Cửu Long trong các quý.
Tỷ lệ này của vùng đạt mức 2,64% vào quý 1 năm nay, đồng nghĩa với gần 220.000 người thất nghiệp ; sang quý 2, tỷ lệ này tăng lên thành 3,01% ; và quý 3 là 2,87%.
Bản báo cáo về kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long mới được công bố nêu ra thực tế rằng vùng này có lượng người lao động di dân đến các khu vực khác thuộc hàng cao của cả nước. Phần lớn người trong độ tuổi lao động từ 18-35 hiện nay của vùng đều tập trung tại các địa phương phát triển công nghiệp như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai... theo bản báo cáo.
Tuy nhiên, tiến sĩ Tự Anh lưu ý rằng ngay cả khi có tình trạng di dân rồi, lực lượng lao động còn lại "vẫn thất nghiệp cao, vẫn thiếu việc làm" ở Đồng bằng sông Cửu Long và điều đó có nghĩa là "đang thiếu cơ hội nội sinh của nền kinh tế" ở khu vực này.
"Đây là điều đáng suy nghĩ đối với các nhà làm chính sách", ông Tự Anh nhắc nhở.
Bản báo cáo cũng chỉ ra một nguyên nhân nữa khiến tình trạng thất nghiệp ở khu vực này luôn ở mức cao là tỷ lệ doanh nghiệp/nghìn dân của Đồng bằng sông Cửu Long "chỉ bằng 40% cả nước".
Cũng tường thuật về bản báo cáo, báo Nhân Dân của Đảng cộng sản Việt Nam viết rằng "vòng xoáy đi xuống" về nguồn nhân lực ở Đồng bằng sông Cửu Long "vẫn đang tiếp diễn".
Tờ báo này trích nội dung bản báo cáo nêu ra thực trạng là "chất lượng lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo của vùng tuy có cải thiện song vẫn luôn là một quan ngại lớn".
Đi vào cụ thể, báo cáo cho hay trong năm 2022, tỷ lệ này tại Đồng bằng sông Cửu Long chỉ đạt 15%, thấp hơn cả Tây Nguyên (17%) và thấp hơn nhiều so với cả nước (26%). "Số lượng và chất lượng lao động thấp đã làm suy giảm đáng kể tính cạnh tranh của vùng", báo cáo nhấn mạnh.
Theo bản báo cáo, hai thập niên trước, Đồng bằng sông Cửu Long còn đóng góp khoảng 16% GDP của Việt Nam nhưng nay tỷ trọng này chỉ còn 12%. Điều này cho thấy Đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước nhiều thách thức nghiêm trọng mà nếu không được giải quyết thỏa đáng sẽ có nguy cơ "đẩy vùng đất trù phú và giàu tiềm năng này ra bên lề hành trình phát triển của đất nước", bản báo cáo phát đi tín hiệu cảnh báo.
Có 6 nhóm nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các thách thức hiện nay ở Đồng bằng sông Cửu Long, bản báo cáo đúc kết, đó là điều kiện tự nhiên ; công nghệ ; vốn nhân lực ; kết cấu hạ tầng ; môi trường đầu tư-kinh doanh ; và cơ chế quản trị-hợp tác-liên kết vùng.
Bản báo cáo nhấn mạnh rằng nút thắt thể chế đang làm cản trở phát triển kinh tế vùng trong hiện tại và nếu không được điều chỉnh, cả trong dài hạn, vùng này sẽ khó phát triển nhanh và bền vững.
An Tôn
Nguồn : VOA, 18/12/2023
Mekong là con sông huyết mạch trọng yếu ở khu vực Đông Nam Á. Đây là con sông dài nhất Đông Nam Á, với chiều dài xấp xỉ 4.800 km. Sông Mekong khởi nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, chảy qua sáu quốc gia (bao gồm Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam) và đổ ra Biển Đông. Tiểu vùng sông Mekong mở rộng là khu vực kinh tế tự nhiên bao quanh sông Mekong, có diện tích 2,6 triệu km2 với dân số khoảng 339 triệu người. Tổng diện tích lưu vực sông Mekong là 795.000 km2, là nơi sinh sống của khoảng 60 triệu người, sinh kế của 80% trong số họ phụ thuộc vào dòng sông này. Được coi là một trong những lưu vực sông đa dạng sinh học nhất trên thế giới, lưu vực sông Mekong cũng là một trong những khu vực đất canh tác màu mỡ nhất.
Reuters
Mực nước sông Mekong thời gian gần đây đã xuống thấp tới mức chưa từng có trong lịch sử, khiến kinh tế và nông nghiệp các nước hạ lưu chịu tác động nghiêm trọng. Năm 2019, một đợt hạn hán kéo dài ở miền Nam Trung Quốc và lục địa Đông Nam Á đã khiến mực nước ở sông Mekong hạ xuống mức thấp nhất trong 30 năm qua.
Năm 2019 và 2020, đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long, mực nước đã giảm xuống mức thấp nhất trong 100 năm trở lại đây. Lượng nước chảy vào đồng bằng ít đi trong khi mực nước biển lại dâng cao, làm tăng độ mặn của đất trồng trọt. Do đó, diện tích dành cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp.
Mực nước thấp là vấn đề nguy hiểm đối với các quốc gia thuộc khu vực hạ lưu như Việt Nam và Campuchia. Mực nước thấp tác động tiêu cực đến các khu vực phát triển nông nghiệp, đặc biệt là các vùng trồng lúa. Hậu quả là năng suất lúa gạo của đồng bằng sông Cửu Long đã suy giảm rất lớn. Trong khi đó, Đồng bằng Sông Cửu Long là "vựa lúa" lớn nhất và quan trọng nhất của Việt Nam, 17,3 triệu dân của vùng đồng bằng sông Cửu Long sản xuất hơn một nửa số gạo của Việt Nam ; gần 90% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đến từ vùng này.
Ủy hội sông Mekong (Mekong River Commission - MRC) ngày 7/8/2020 công bố một bản báo cáo, trong đó nêu rõ tình trạng khô cạn và hạn hán trên sông Mekong trong năm có liên quan đến lưu lượng xả nước ở mức thấp của các con đập thủy lợi và sự vận hành của các nhà máy thủy điện trên sông Mekong.
Do các đặc điểm trên, khu vực này đang ở trong tình trạng rất dễ bị tổn thương. Các con đập mà Trung Quốc, Lào và Campuchia đang xây dựng ở thượng nguồn đã chặn nước, giữ lại phù sa và cản trở sự di chuyển của cá. Các quốc gia hạ lưu theo truyền thống lấy khoảng 40% lượng nước của họ từ phần sông của Trung Quốc trong mùa khô và 18% trong mùa mưa, nhưng tỷ lệ đó đã giảm mạnh do các con đập ở thượng nguồn.
Sau năm 2020, lượng phù sa đổ vào đồng bằng sông Cửu Long ước tính chỉ còn khoảng 1/3 của năm 2007. Theo một nghiên cứu năm 2018, các con đập cũng ngăn chặn sự di cư của cá và dự kiến sẽ gây ra sự sụt giảm thu nhập từ nghề cá ở các quốc gia phía Nam Trung Quốc lên tới 22,6 tỷ USD trong vòng 24 năm.
Một cô gái đi trên một con kênh cạn nước do hạn hán ở Long Phú, Sóc Trăng vào tháng 3/2016. AFP
Mới đây, Campuchia đã quyết định cho đào một con kênh mang tên Phù Nam Techno.
Con kênh này dự kiến sẽ là tuyến đường thủy nối thủ đô Phnom Penh với tỉnh Kampot, qua sông Bassac. Tỉnh Kampot nằm ở phía nam Campuchia, có một mặt giáp với tỉnh Kiên Giang của Việt Nam, và một mặt giáp với vịnh Thái Lan. Dự án này sẽ vận chuyển hàng hóa đến và đi từ cảng Phnom Penh ra biển mà không cần phải trung chuyển qua Việt Nam.
Hôm 17/10, tại thủ đô Phnom Penh của Campuchia, Ủy ban liên bộ Campuchia do Phó thủ tướng Sun Chanthol đứng đầu đã ký kết thỏa thuận với đại diện Tổng công ty Cầu đường Trung Quốc (CRBC) về dự thảo khung xây dựng kênh đào nối ra biển Phù Nam Techo.
Thỏa thuận này sẽ cho phép CRBC tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về tất cả các khía cạnh của dự án trong vòng tám tháng. Dự án kênh đào Phù Nam Techo ước tính sẽ tiêu tốn khoảng 1,7 tỷ USD và mất bốn năm để hoàn thành.
Campuchia cũng thông báo rõ ràng là các nghiên cứu thực hiện dự án kênh đào này sẽ do các công ty Trung Quốc thực hiện.
Theo nhận định ban đầu của các chuyên gia, việc Campuchia xây dựng kênh đào Phù Nam Techno này ra biển sẽ làm giảm lưu lượng nước trên dòng sông Hậu, điều này sẽ tác động đến đồng bằng sông Cửu Long, khu vực đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn…
Brian Eyler - Một chuyên gia về Mekong và cũng là tác giả của cuốn sách "Những ngày cuối cùng của một dòng Mekong hùng vĩ", đã nhận xét về tác động của kênh đào Phù nam Techno như "một chiếc đinh cuối cùng đóng vào cỗ quan tài đồng bằng sông Cửu Long".
Kênh Phù Nam, Funan Techo Canal. Nguồn : Mekong River Commission. (Ảnh và chú thích : Kỹ sư Phạm Phan Long.)
Theo đánh giá sơ bộ, dự án sẽ gây tác động xuyên biên giới đến tài nguyên nước, môi trường, thủy sản, đa dạng sinh học, giao thông thuỷ, nông nghiệp, sinh kế, kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Lo lắng trước những hậu quả tồi tệ cho dòng Mekong và đồng bằng sông Cửu Long, nhiều nhà trí thức hải ngoại đã lên tiếng mạnh mẽ, yêu cầu Chính phủ Việt Nam cần có hành động cần thiết để cứu vãn tình thế.
"Với những hậu quả đã hiện rõ trước mắt nếu như giới chức Việt Nam vẫn tiếp tục thái độ bàng quang, duy trì các chính sách nông nghiệp, thủy lợi duy ý chí và lạc hậu, không cho người nông dân quyền tự quyết về việc "nuôi con gì, trồng cây gì" như hiện tại thì ngay khi "Đế chế Phù Nam" hoàn thành, người ta sẽ tận mắt chứng kiến sự tàn lụi của một vùng châu thổ giàu có đồng bằng sông Cửu Long chỉ trong vài năm tới. đồng bằng sông Cửu Long đang gánh vác trách nhiệm an ninh lương thực, đảm bảo diện tích trồng lúa lớn. Người dân không có quyền trên thửa ruộng của họ và ngay cả việc bán sản phẩm lúa gạo cũng phải thông qua các công ty lương thực nhà nước hoặc các chủ vựa là người nhà của giới chức chính quyền".
Mới đây, Học viện Ngoại giao đã tổ chức một Diễn đàn về Mekong tại Thành phố Hồ Chí Minh. Diễn đàn này được cho là : "bên cạnh nỗ lực của kênh ngoại giao chính thức, các ý tưởng, sáng kiến, giải pháp của giới chuyên gia, học giả sẽ góp phần hỗ trợ thực hiện các mục tiêu này. Hợp tác liên cơ chế, hành động tập thể, chia sẻ kiến thức và phối hợp chính sách là chìa khóa để thúc đẩy hợp tác hướng tới tương lai bền vững của tiểu vùng Mekong…".
Thêm nữa, báo chí cũng cho biết : Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã giao Bộ Tài nguyên và môi trường, Ủy ban sông Mekong Việt Nam phối hợp với các bộ, ngành và địa phương thu thập thông tin chi tiết về dự án, triển khai đánh giá tác động xuyên biên giới của dự án kênh đào Phù Nam Techno tới vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
Chính quyền Việt Nam thời gian qua đã bất lực trước việc Lào xây các con đập trên cả dòng chính và dòng nhánh sông Mekong. Và giờ đây chính phủ Việt Nam cũng sẽ bất lực trước dự án kênh đào này của Campuchia. Tuy nhiên điều đáng nói là không phải là Việt Nam không thể cứu vãn, mà chính vì chính sách bất nhất của chính phủ Việt Nam cùng với các nhóm lợi ích "tranh thủ lợi dụng" đã khiến Việt Nam tuyệt vọng trong vấn đề này như vậy.
Từ khi Lào quyết định xây một loạt đập thủy điện trên dòng chính Mekong, nổi bật trong đó là các đập Xayaburi, Donsahong… Đã nhiều nhà khoa học trong nước và thế giới cùng lên tiếng, yêu cầu Lào phải tôn trọng quy trình "Thủ tục Thông báo, Tham vấn trước và Thỏa thuận" (Procedures for Notification, Prior Consultation and Agreement - PNPCA) được quy định rõ ràng trong Hiệp định Mekong 1995 mà Lào là một thành viên ký kết. Thế nhưng báo chí trong nước luôn giữ im lặng khi nhắc tới Lào, do Ban Tuyên giáo Trung ương có chỉ đạo là không được làm ảnh hưởng tới tình bạn với Lào. Trong khi Lào sẵn sàng phớt lờ lợi ích của hơn 20 triệu dân đồng bằng sông Cửu Long khi bất chấp mọi ngăn cản để xây dựng các con đập thủy điện, và các công ty xây dựng các con đập này đều từ Trung Quốc.
Thêm nữa, mặc dù một số ban ngành ra sức kêu gọi can thiệp vào các dự án xây đập hoặc kênh đào Phù Nam Techno, nhưng Việt Nam thực sự không đủ sức mạnh và uy tín khiến Lào và Campuchia phải đắn đo khi thực hiện các dự án này, đơn giản là vì Việt Nam luôn tiếp tay cho các dự án này của Lào và Campuchia. Chính Việt Nam đã phớt lờ các quy định PNPCA của Hiệp định Mekong 1995 và lợi ích của hàng triệu người dân đồng bằng sông Cửu Long thì cớ gì mà yêu cầu họ cân nhắc.
Năm 2019, dư luận Việt Nam bàng hoàng khi một tập đoàn lớn thuộc loại doanh nghiệp nhà nước lớn nhất nhì Việt Nam lại tham gia một dự án thủy điện trên dòng Mekong của Lào.
Đây cũng không phải là trường hợp duy nhất. Đầu năm nay, dư luận lại rúng động khi một tập đoàn tư nhân Việt Nam đã bí mật tham gia một dự án xây đập Sekong A tại Lào. Brian Eyler đã nhận xét : "Tôi gọi dự án này là một hồi chuông báo tử cho nghề cá trên sông Mekong. Và theo nhiều cách, Việt Nam đang tự bắn vào chân mình bằng cách xây dựng con đập này ở Lào".
Nhiều tổ chức quốc tế đã kêu gọi Việt Nam dừng các dự án này lại, nhưng các nhóm lợi ích cứ phớt lờ tất cả.
Và như mọi khi, các thông tin thực tế về tác hại của các dự án này sẽ không bao giờ tìm thấy trên báo chí Việt Nam.
Một mặt, một số ban ngành ở Việt Nam tìm cách can thiệp vào các dự án đập thủy điện ở Lào, tuy nhiên, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) vẫn vô tư mua điện từ các dự án đập thủy điện đã tham gia vào việc bức tử đồng bằng sông Cửu Long.
Không chỉ "trống đánh xuôi kèn thổi ngược" trong hoạt động chính sách, nhiều nhóm lợi ích còn ngang nhiên lợi dụng tình trạng khó khăn, đã vẽ ra các dự án ma để trục lợi. Đơn cử như trường hợp đập Xayaburi. Bất lực khi không yêu cầu được Lào ngừng dự án. Theo quy định của Luật pháp quốc tế về sử dụng các nguồn nước, cũng như quy định tại Hiệp định Mekong 1995, Lào có nghĩa vụ phải thực hiện một báo cáo Đánh giá tác động môi trường (Environmental Impact Assessment - EIA) trước khi thực hiện dự án xây đập. Tuy nhiên, Lào chỉ thực hiện EIA một cách qua loa, và chỉ đánh giá tác động môi trường cách đập Xayaburi chưa đầy 3 km, trong khi đồng bằng sông Cửu Long mới là nơi bị tác động nhiều nhất thì lại không được đánh giá.
Ủy ban Sông Mekong Việt Nam cùng với Bộ Tài nguyên và môi trường Việt Nam đã đề nghị với Chính phủ Việt Nam thuê một bên nước ngoài thực hiện EIA với kinh phí gần năm triệu USD. Phía Ủy ban Sông Mekong Việt Nam và Bộ Tài nguyên và môi trường khẳng định đây là nghiên cứu quan trọng để xác định tác động đến môi trường của đồng bằng sông Cửu Long trước các dự án thủy điện của Lào.
Thế nhưng, kết quả đánh giá thì hỡi ôi. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Ngọc Trân đã nêu rõ vấn đề này : "Trong hai lần phản biện của mình, tôi đã chỉ rõ năm điểm yếu cơ bản của nghiên cứu của Tập đpàn Đan Mạch DHI (phương pháp luận, mô hình hóa, số liệu, chế độ vận hành, hiểu biết thực tế) và đi đến kết luận là các kết quả và kết luận của công trình là không đáng tin cậy và tiềm ẩn hậu quả bất lợi khôn lường nếu được Chính phủ Việt Nam phê duyệt".
Nói một cách ngắn gọn, đây chỉ là dự án Bộ Tài nguyên và môi trường cùng với Ủy ban Sông Mekong Việt Nam vẽ ra để trục lợi mà thôi.
Với những chính sách "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" như vậy, cộng với việc tham nhũng chính sách, thì đồng bằng sông Cửu Long sẽ chết chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.
Hà Lệ Chi
Nguồn : RFA, 30/11/2023
Tham khảo :
1. https://vnexpress.net/chuyen-gia-my-trung-quoc-co-the-giu-50-nuoc-mekong-vao-mua-kho-4059158.html
3. http://www.mrcmekong.org/assets/Publications/Situation-report-Jan-Jul-2020.pdf
5. http://m.en.freshnewsasia.com/index.php/en/localnews/41715-2023-10-18-02-08-54.html
8. https://baoquocte.vn/cho-mot-tuong-lai-ben-vung-hon-o-tieu-vung-song-mekong-251230.html
12. https://www.iucn.org/news/viet-nam/202109/viet-nam-should-save-sekong-its-own-benefit
13. https://danviet.vn/vi-sao-evn-thuc-mua-hang-nghin-mw-dien-tu-lao-20230925181945149.htm
14. https://tiasang.com.vn/dien-dan/mot-van-de-can-duoc-chat-van-10222/
"Chao ôi chợ gì mà lạ lùng vậy ? Một con ba ba to gần bằng cái nong, đặt lật ngửa, cứ ngọ nguậy bơi bơi bốn chân trước ông cụ già ngồi lim dim đôi mắt. Những con rùa vàng to gần bằng cái tô, đều tăm tắp như đổ cùng một khuôn ra, nằm rụt cổ trong mấy chiếc giỏ cần xé. Đây là một con nai người ta vừa xẻ thịt ra bán, cái thủ còn nguyên chưa lột da bày giữa đống thịt đỏ hỏn trên một tấm lá chằm. Cua biển cũng có, ếch cũng có nghêu sò cũng có. Còn cá tôm thì nhiều lắm, đủ các loại tôm, không kể xiết. Tôi bước thêm mấy bước qua những đống trái khóm chín vàng tỏa thơm mùi mật, thấy hai con trút nằm khoanh, vảy xếp lại như những đồng hào lấp lánh. Có tiếng chim gì mổ nhau kêu quang quác trong chiếc lồng kẽm chỗ tối tối : ngọn đèn vừa bị cánh chim quạt tắt và người chủ bán chưa kịp thắp lên. Một chú khỉ con cứ nhảy qua nhảy lại lia lịa, chờn vờn trèo lên đống bí ngô".
AFP
"Vườn cau, vườn dừa ở Bến Tre, nơi người đi có thể bước suốt ngày dưới những vườn dừa tàu lá ken nhau, trên đầu không lọt xuống một bóng nắng…"
"Đứng trên các cánh đồng, nhìn bốn mặt chân trời, chỉ thấy lúa vàng gợn lên mênh mông như biển…".
"Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng. Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng được dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ… lòa nhòa ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai. Chợ Năm Căn nằm sát bên bờ sông, ồn ào, đông vui tấp nập".
(Trích tiểu thuyết Đất rừng phương Nam, tác giả Đoàn Giỏi)
Trong tiểu thuyết của Đoàn Giỏi, đất rừng phương Nam mà cụ thể là xứ Cà Mau, rừng, cánh đồng, ruộng lúa và sông nước U Minh hiện ra sừng sững lồng lộng, khoáng đạt và vạm vỡ, giàu có trù mật, dữ dội quyết liệt nhưng kiến nghĩa hào hiệp, hoang dã nhưng ôm ấp chở che. Khoảng không bát ngát đó, những làn hơi thở của sông nước và đất rừng đặc biệt đó quyến rũ đến mê hoặc. Nó đã phà vào trái tim ai một lần thì người đó như đã được khảm con dấu chói bỏng lên da thịt, dù đi đâu cũng nhớ đau đáu, nhớ đến khát thắt trong từng tế bào.
Gần 100 năm trôi qua, đất rừng U Minh vẫn còn đó, những câu chuyện kỳ lạ mãnh liệt như phảng phất hơi thở truyền kỳ của đồng bằng sông nước vẫn còn sống động trên từng trang giấy, cuốn hút mạnh mẽ người đọc nơi xa.
Nhưng…
Đất "guộng" phương Nam (ruộng, theo phát âm của hầu hết xứ phương Nam) từng được lúa vàng phủ kín mênh mông như biển, ở một số nơi từ nhiều năm nay đã không còn nuôi nổi nhiều con người.
Căn nguyên của tình trạng bi đát mà nhiều người vẫn còn chưa lường nổi đó không chỉ nằm trong biên giới Việt Nam. Xưa, chín khúc Cửu Long Giang nặng trĩu trườn trên châu thổ ấp ôm, đắp bồi cho ruộng vườn miền Tây tươi tốt. Nhưng từ khi Trung Quốc và các nước thượng nguồn sông Mê Kông chặn dòng để khai thác triệt để các đập thủy điện lớn nhất thế giới thì dưới hạ nguồn, mùa nước nổi ngày càng hiếm hoi và có những năm trở thành lũ dữ. Các hồ thủy điện cao trên vùng thượng lưu sông khiến cho không còn cát và phù sa thường xuyên bồi đắp lòng sông như trước, thay đổi triệt để cả hệ sinh thái và môi trường sống của các loài thủy sản trong sông. Con nước sống vốn no nê phù sa bị rút nguồn sinh khí từ tận thượng nguồn, giờ càng xuôi dòng càng cạn kiệt.
Thêm vào đó, những nỗ lực khai thác cát suốt hàng chục năm qua của các địa phương Việt Nam ven sông, gồm cả khai thác chính thức của Nhà nước và khai thác cát lậu đã cùng chung lưng đấu sức hút cạn nguồn sống của dòng sông. Trong suốt vài chục năm, hút cát lậu dễ vô cùng, và ngon như ăn gỏi. Chỉ cần một chiếc xà lan chạy ì ì, một hoặc nhiều cái vòi hút cát cắm xuống lòng sông và máy bơm mạnh là làm giàu. Thoắt một cái chiếc xà lan đã đầy ắp. Chạy tới nơi mua, lại thò vòi ra phun cát thẳng vô những nền nhà đang chuẩn bị xây, là xong.
Theo các chuyên gia sông ngòi, dòng sông bị hút sạch cát nhưng không có gì bù lại thì chỉ còn là dòng nước đói (từ dùng của các chuyên gia về sông ngòi) trống rỗng. Nước đói rất dữ, hung hãn gặm khoét lòng và bờ sông để bù đắp lượng cát nó đã bị lấy mất. Khắp nhiều tỉnh Nam Bộ, ruộng vườn, nhà cửa của người dân rơi nhào xuống lòng sông, mép nước lấn vô đất, vô vườn đến hàng trăm mét. Có những người lùi đất cất nhà mới đến ba lần chỉ vỏn vẹn trong vòng vài năm, nhưng lần lượt cả ba ngôi nhà đều không thoát khỏi nạn cúng cho Hà Bá.
Nước gặm sụp chân móng nhà êm ái hồi nào không ai hay, rồi tới hôm định mệnh, bất thình lình ầm một tiếng như đại bác, toàn bộ ngôi nhà và mảnh vườn quanh nó sụp biến xuống lòng sông âm lặng.
Tàu chở cát trên sông Mekong ở Cần Thơ hôm 16/12/2018. Reuters
Theo thống kê mới nhất của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, từ năm 2016 đến nay, các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long đã xuất hiện đến gần 800 điểm sạt lở với tổng chiều dài gần 1.200 km. Trong đó có 281 điểm với 528 km sạt lở đặc biệt nguy hiểm.
Về Long An, Bến Tre, Tiền Giang… mà nghe kể chuyện của dân hút cát hay dân bị mất nhà mất đất thì triền miên. Câu chuyện chung là dân hút cát lậu ai cũng phất thật lẹ, giàu nhất vùng. Nhưng cái quả nhận được cũng khủng khiếp. Dân mấy ấp Tân Phú, Tân Bắc (huyện Châu Thành, Bến Tre) chỉ ngôi nhà của người hút cát lậu cũng chính là dân ấp này, kể rằng ông ta giàu nhất ở đây. Nhưng một bữa, vợ đi theo ghe hút cát của chồng rồi không biết cách sao mà té xuống sông chết đuối. Người dân kể với một thái độ đặc biệt, ám chỉ rằng nghề hút cát lậu là cái nghề thất đức, gây hậu quả mất nhà mất ruộng vườn của người khác. Nên nhân quả có thừa, gia đình họ phải lãnh hậu quả mất người kinh khủng như vậy. Mà đó chưa phải là hết !
Quay lại chuyện của dòng sông.
Từ mấy chục năm trước, từ khi Mê Kông chưa bị chặn dòng trên thượng lưu thì chính sách sai lầm của nhiều đời lãnh đạo các tỉnh đồng bằng cũng đã dẫn đến những hệ lụy đến ruộng đất miền Tây không tưởng tượng được.
Tiến sĩ Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam, nguyên chủ nhiệm dự án Quy hoạch kiểm soát lũ Đồng bằng sông Cửu Long viết trong một bài báo từ năm 2014 : "Quy hoạch kiểm soát lũ đồng bằng sông Cửu Long được Thủ tướng phê duyệt năm 1999 (thời điểm đó Thủ tướng Chính phủ là ông Võ Văn Kiệt-người viết). Trong quy hoạch nói rõ chỉ tập trung phát triển hai vụ lúa đông xuân và hè thu (đó là cách gọi miền Bắc đã bị áp đặt vào mùa lúa miền Nam, bởi ai cũng biết Nam Bộ không có mùa đông, mùa xuân, mùa hè, mùa thu gì cả. Một đàn anh miền Tây rặc ri nói tôi hay, nông dân Nam Bộ trước kia gọi là lúa mùa sớm và lúa mùa muộn, chỉ có hai mùa lúa một năm-người viết). Không khuyến khích làm vụ ba vì nhiều rủi ro do lũ về và đất cũng như người nếu khai thác quanh năm sẽ dễ kiệt quệ, làm đê bao sẽ không lấy được phù sa, vệ sinh đồng ruộng v.v… Nói cho công bằng, lúa vụ ba (còn gọi thu đông) cũng là phát kiến của người dân từ thập niên 80 nhưng chỉ làm ở những nơi chủ động được công tác thủy nông".
Ông Trường cho rằng đê bao và bờ bao mà các tỉnh đồng bằng xây nên là "một trong các chiến lược khôn khéo để thích ứng với biến đổi do các hoạt động phát triển ở thượng lưu sông Mê Kông, sự biến đổi do thay đổi khí hậu toàn cầu, và chủ động phát triển bền vững cho đồng bằng".
"Mục đích của đê bao và bờ bao là bảo vệ triệt để các khu dân cư tập trung, các khu công nghiệp, đồng thời phải lợi dụng được lũ (từ dùng của ông Trường, còn dân Nam Bộ gọi là mùa nước nổi-người viết) lấy phù sa, tăng nguồn thủy sản, vệ sinh đồng ruộng. Đê bao nhằm bảo vệ các khu dân cư, công nghiệp, còn bờ bao chỉ bảo vệ lúa hè thu cho tới tháng tám lại cho nước lũ vào đồng lấy phù sa và vệ sinh đồng ruộng. Đó là một chiến lược khôn khéo vừa phù hợp với chiến lược chung của cả lưu vực vừa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ dân sinh, phát triển sản xuất.
Nhưng khi một số nơi "phá rào" đẩy mạnh việc làm lúa vụ ba, làm đê bao tràn lan số nơi không có trong quy hoạch, đáng nhẽ phải tuyên truyền ngăn chặn vì "lợi bất cập hại" thì chính quyền địa phương, đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã sai lầm chạy theo phong trào tự phát, biến lúa vụ ba thành chính vụ. Đây là sai lầm, cần phải sửa, không có gì phải bàn cãi".
Đồng bằng sông Cửu Long bằng phẳng và đồng nhất đến nỗi một người quen với phong cảnh đồi núi, biển cả, đồng ruộng hay trảng cát liên tiếp xen nhau ở miền Bắc, miền Trung sẽ thấy cặp mắt mình nặng trĩu vì nhàm chán khi chiếc xe chạy đều đều qua các tỉnh miền Tây. Đâu cũng là lúa, đâu cũng là sông, kinh, rạch, vườn, cầu khỉ… Bằng phẳng tưởng chừng cả đồng bằng là một cái dĩa khổng lồ. Nên trước kia khi chưa có đê bao, mùa nước nổi về, nước dâng dần dần lên khắp đồng bằng (vì vậy mới gọi là nước nổi, nổi dần lên chứ không chảy từ trên cao xuống thấp cuồn cuộn như đặc thù sông ngòi các tỉnh phía Bắc và miền Trung). Nước nổi tràn ngập khắp đồng ruộng mấy tháng liền, cuốn trôi sâu bệnh, rửa sạch thuốc trừ sâu và phân bón hóa học thừa, và bồi đắp phù sa màu mỡ dày đậm khắp ruộng vườn. Mùa nước nổi là mùa vui rộn rã vì cá tôm, nguồn lợi thủy sản quá nhiều. Qua mùa nước nổi, thả hạt giống gì xuống cũng lên cây tươi tốt mà không cần thêm phân bón hay thuốc trừ sâu.
Người dân bắt cá tại một con kênh cạn nước ở Sóc Trăng hôm 8/3/2016. AFP
Nhưng hệ thống đê điều áp đặt khắp các tỉnh đồng bằng đã chặn con nước nổi lan tràn ruộng đồng. Hệ thống đê tràn lan gây chênh lệch độ cao trên khắp đồng bằng, tạo ra dòng chảy mạnh gây xói lở, cuốn quét mọi thứ trên đường đi mà không còn ôm ấp đắp bồi. Miền Tây mà có lũ ! Con lũ lạ lẫm và bất ngờ với dân xứ đồng bằng vốn quen với mùa nước hiền lành no ấm. Sai lầm nối tiếp sai lầm, thiệt hại của lũ bị gán vào mùa nước nổi khiến nhiều đời lãnh đạo địa phương-như ông Trường nhận xét trên kia- càng ráo riết xây nhiều đê điều. Phù sa không vào được ruộng, không có nước rửa sạch mầm bệnh và phân bón thừa. Nên đất đai ngày càng kém màu mỡ, sâu bệnh nhiều kéo theo việc phải bón thêm nhiều phân bón hóa học, phun thêm nhiều lượng và nhiều loại thuốc trừ sâu. Cái vòng luẩn quẩn kéo dài nhiều năm dẫn đến một kết quả mà những thế hệ nông dân trồng lúa truyền thống trước kia của Nam Bộ không thể tưởng tượng được : chi phí phân bón và thuốc trừ sâu mỗi mùa còn lớn hơn cả giá trị lúa thu hoạch được.
Báo Tuổi trẻ ngày 19/5/2022 dẫn điều tra của Chi cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật tỉnh Vĩnh Long : chi phí đầu tư vật chất vào sản xuất chiếm tới 71,7% trong tổng chi phí sản xuất lúa (tỷ lệ còn lại chi phí nhân công). So với năm 2021, con số này tăng đến 5,3%. Trong đó chi phí phân bón là 33,1%, thuốc bảo vệ thực vật là 14,6%. Nông dân càng làm càng lỗ. Thế tất họ phải tìm cách bỏ ruộng để tìm nghề khác sinh nhai.
Dân xứ vườn thì đối phó với cảnh hết được giá mất mùa thì đến được mùa mất giá, điệp khúc trồng-chặt lặp lại liên tục. Không chết đói nhưng sống lay lắt. Vốn liếng dành dụm được hoặc đi mượn nợ đổ vô vườn hết sạch để thay giống và chăm sóc cây trồng những năm chưa có thu hoạch. Mà vẫn trường kỳ phập phồng với thị trường : không cầm chắc được có lợi nhuận/lợi nhuận lâu dài hay không.
Đến cùng, khi những mùa cây trái không còn đủ lo cho những chi phí của cuộc sống thì người ta bán.
Nguyên nhân khác là cùng với quá trình đô thị hóa, giá đất ruộng màu mỡ ngày càng tăng cao. Truyền thống chia đất cho con cái (mà không có khả năng mua thêm vào) của nhiều thế hệ/gia đình nông dân khiến mảnh đất nhiều đời trước dư sức nuôi được gia đình thì giờ chỉ còn nhỏ xíu manh mún, thậm chí chỉ còn đủ làm cái nền nhà chứ chưa kể đến trồng trọt. Những thế hệ này nếu không được học hành lên cao hoặc có nghề nghiệp khác tốt hơn để có thể nuôi sống mình thì chỉ còn cách đi làm công nhân.
Ở khắp đồng bằng, có những xóm dân hầu như chỉ còn vườn không nhà trống, hoặc vài người trung niên ở lại làm ruộng vườn cầm chừng, trông nom mấy đứa cháu để cha mẹ chúng rảnh tay xa xứ làm ăn. Cả gia đình đều đi lên những tỉnh có khu công nghiệp lớn và nhiều nhà máy như Long An, Bình Dương, Đồng Nai làm công nhân. Những nhà không có ruộng vườn ở quê thì cha mẹ lớn tuổi cũng đi theo để giữ cháu và cơm nước cho con cái. Họ chỉ về quê một năm đôi lần vào Tết hoặc giỗ lớn, vì chi phí đi lại và thời gian của công nhân đều eo hẹp.
Những gì làm nên một miền Tây Nam Bộ trù phú ắp đầy như đất vàng đất bạc của những thế kỷ trước giờ chỉ còn khá phảng phất và tượng trưng. Biển lúa vàng vẫn mênh mông gợn sóng nhưng ngồi sụp ngay cạnh đó là gương mặt bạc đi của người nông dân.
Tham khảo :
https://kinhtedothi.vn/gan-40-nam-moi-duoc-mot-vu-boi-thu-duoc-mua-duoc-gia.html
https://tuoitre.vn/nong-dan-mien-tay-bo-ruong-vi-phan-bon-20220518230542438.htm
https://vneconomy.vn/xep-hang-trinh-do-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cac-tinh-den-nam-2021.htm
Đồng bằng Sông Cửu Long sẽ không còn cát vào năm 2035
RFA, 05/10/2023
Tình trạng khai thác cát ồ ạt và cá đập thuỷ điện tại thượng nguồn sông Mekong sẽ khiến vựa lúa của Việt Nam ở Đồng bằng Sông Cửu Long cạn kiệt cát vào năm 2035, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng chục triệu người. Một báo cáo mới của Quỹ Động vật hoang dã quốc tế - WWF- cho biết như vậy.
Cần cẩu chuyển cát khai thác lên tầu ở Hậu Giang năm 2018 - Reuters
Theo báo cáo của WWF, các đập thuỷ điện ở thượng nguồn sông Mekong đã làm giảm lượng cát đổ về hạ nguồn sông, trong khi nhu cầu về xây dựng ở Việt Nam lên cao khiến việc khai thác cát tăng nhanh thời gian qua cũng làm giảm đáng kể lượng cát ở sông.
Theo báo cáo, một năm Việt Nam khai thác khoảng từ 35 đến 55 triệu mét khối cát. Điều này sẽ khiến trữ lượng cát ở đáy sông cạn kiện chỉ sau khoảng một thập niên.
Sepehr Eslami - đồng tác giả của báo cáo nói với hãng tin AFP rằng nếu hết cát, khoảng 10% diện tích Đồng bằng Sông Cửu Long sẽ bị nhiễm mặn, tình trạng vốn đã và đang gây ảnh hưởng đến các loại cây trồng ở đây.
Tác giả của báo cáo này cũng nói rằng việc cạn kiệt cát sẽ dẫn tới sạt lở bờ sông nhiều hơn, triều cường lớn hơn và điều này cuối cùng dẫn tới ngập lụt, xói mòn đất.
WWF cảnh báo, vào khi Đông bằng Sông Cửu Long đang đối mặt với nguy cơ biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng, việc mất cát sẽ là một đe doạ sống còn cho khu vực này.
Khu vực Đồng bằng Mekong có ước tính trữ lượng khoảng 550 triệu mét khối cát có thể khai thác. Nghiên cứu mới cho thấy chỉ có khoảng bốn triệu mét khối cát đổ về hạ nguồn vào năm qua, thấp hơn con số trung bình hàng năm là bảy triệu mét khối.
Lượng cát bị khai thác hàng năm ở Việt Nam được đưa ra trong báo cáo có thể thấp hơn nhiều con số thực tế vì tình trạng khai thác cát lậu vào ban đêm không bị phát hiện.
Hồi tháng 8 vừa qua, Bộ Công an cho biết Bộ này đã ra quyết định khởi tố và bắt giam ông Nguyễn Việt Trí, Giám đốc Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh An Giang với cáo buộc nhận hối lộ từ công ty khai thác cát.
Nguồn : RFA, 05/10/2023
*************************
Trữ lượng cát cạn kiệt sẽ ảnh hưởng đến Đồng bằng sông Cửu Long như thế nào ?
RFA, 03/10/2023
Trữ lượng cát của Đồng bằng sông Cửu Long (Đồng bằng sông Cửu Long) chỉ tồn tại tối đa một thập kỷ nữa, nếu duy trì tốc độ khai thác như hiện nay.
Tàu khai thác trên sông. Ảnh minh họa. RFA
Thông tin vừa nói được Tiến sĩ Sepehr Eslami - Trưởng nhóm tư vấn Liên doanh Deltares công bố tại ‘Hội thảo về xây dựng ngân hàng cát cho Đồng bằng sông Cửu Long’ do Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai cùng Cơ quan Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam – WWF tổ chức ngày 29/9/2023.
Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện biến đổi khí hậu Đại học Cần Thơ khi trả lời RFA hôm 3/10/2023, cho biết :
"Báo cáo của nhóm Deltares dự báo cát ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ cạn kiệt sau 10 năm nữa nếu tốc độ khai thác hiện nay. Có nghĩa là với mức mình lấy cát lên thì cát không bù đắp nổi, nên phải có một giải pháp khác. Một khi lượng cát ở Đồng bằng sông Cửu Long ít đi nó sẽ gây ra nhiều tác hại, thứ nhất sẽ gây ra sạt lở bờ sông và vùng ven biển trầm trọng ; Thứ hai sẽ thiếu nguồn để bù cho cao trình mặt đất bị lún, rồi các công trình bị ảnh hưởng rất nhiều… Đây là mối nguy cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng trong báo cáo đó họ không đưa ra một giải pháp nào cụ thể, ngoài chuyện sử dụng một số nguồn thay thế, nhưng những nguồn này rất là hạn chế".
Theo kết quả nghiên cứu năm 2022 của Tiến sĩ Sepehr Eslami được truyền thông nhà nước đăng tải hôm 29/9/2023, lượng cát đổ về từ thượng nguồn Mekong vào Việt Nam qua sông Tiền (Tân Châu, An Giang và Hồng Ngự, Đồng Tháp) và sông Hậu (Châu Đốc, Đồng Tháp) ước tính 2-4 triệu m3. Con số này thấp hơn nhiều so với ước tính trước đây là 6,8-7 triệu m3. Trong khi đó, lượng cát đổ ra cửa Biển Đông là 0-0,6 triệu m3, và lượng cát khai thác hàng năm trong giai đoạn 2017-2022 từ 35-55 triệu m3. Như vậy, trữ lượng ngân hàng cát ở miền Tây hiện âm 42,3 triệu m3.
Tuy nhiên, nghiên cứu không nói rõ lượng cát khai thác hàng năm trong giai đoạn 2017-2022 đã tính khai thác cát lậu chưa ?
Một người dân ở An Giang không muốn nêu tên vì lý do an toàn, chia sẻ với RFA :
"Ở vùng này bị cấm tuyệt đối nên không khai thác cát được, nhưng mà nó khai thác lậu, nó khai thác lén vì lợi nhuận cao quá. Một ngày có thể khai thác 2 xà lan. Nó khai thác bằng máy hút, nó hút rồi nó đổ lên xà lan. Nó hút ở giữa sông nên bị bọng hai bên hông, dần dần nó sụt xuống".
Không đợi những công bố từ Deltares, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cho biết, trước đó ông và các nhà khoa học cũng đã có những đề xuất mang tính giảm bớt thiệt hại. Ông nói tiếp :
"Thí dụ như phải đánh giá lại một cách đầy đủ trữ lượng cát và đưa ra một chiến lược sử dụng cát ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, không để xảy ra lãng phí cát khi xây dựng, không chọn những công trình phải sử dụng quá nhiều cát, hoặc nghĩ tới những giải pháp nhập cát từ miền Đông hay miền Trung tới Đồng bằng sông Cửu Long. Cũng có những nghiên cứu sử dụng tro xỉ trong nhà máy hoặc sử dụng các biển, nhưng không được ủng hộ lắm. Hoặc phải sử dụng những vật liệu xây dựng khác, ví dụ như làm nhà thay vì đổ bê tông thì dùng sắt thép hoặc nhôm kính để giảm bớt lượng cát. Khi làm đường cao tốc thì có rất nhiều nhà khoa học đề xuất làm những đường trên cao, tức những cái cầu, thay vì làm đường dưới đất phải đổ cát rất nhiều…"
Nếu như vậy thì theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn sẽ tiết kiệm cát nhiều hơn. Tuy nhiên ông Tuấn cho rằng, những cái này chỉ là những giải pháp mang tính giảm thiểu, chứ không giải quyết được hoàn toàn vấn đề.
Những đề xuất của giới khoa học được chính phủ và xã hội quan tâm như thế nào ? Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cho biết :
"Thật ra nhà nước cũng lúng túng trong chuyện này, bởi vì nguồn cát đi vô đã hết. Nhà nước cũng kêu gọi các nhà khoa học hiến kế, các doanh nghiệp cũng đã tìm cách mua cát từ Campuchia hoặc nhập các từ miền Trung, miền Đông… Các nhà khoa học cũng tìm cách sử dụng các vật liệu khác thay thế ở mức độ nào đó để giảm bớt sự thiếu hụt về cát. Còn những giải pháp trông chờ vào sự vận hành các đập thủy điện ở thượng nguồn, thì theo tôi là gần như vô vọng. Mình không thể nào yêu cầu các đập thủy điện xả lũ để đẩy bùn cát lắng ở dưới hồ chứa để trở về đồng bằng. Nếu có thì để về cũng mất nhiều năm, phải đợi những trận lũ lớn để trở về, nên những hy vọng này là khó".
Sạt lở đất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. RFA.
Sạt lở bờ sông, bờ biển ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long ngày một nghiêm trọng hơn cả về quy mô lẫn tần suất, gây lo ngại cho sự an toàn vùng này. Tại Buổi Tọa đàm với chủ đề ‘Quản lý cát bền vững ở Đồng bằng sông Cửu Long’ hôm 19/12/2022, Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam - WWF Việt Nam cho biết đã phát hiện dưới sông Tiền có hố sâu gần 50m cách cầu Mỹ Thuận 1,2km.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện - chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long, trả lời RFA khi đó cho biết, việc phía thượng lưu của cầu Mỹ Thuận có một hố sâu do khai thác cát, làm cho ông lo ngại :
"Vì khi con sông như vậy thì đáy sông luôn luôn tái phân phối để mang vật liệu chỗ khác đến lắp và như vậy nó sẽ khỏa lấp, làm cho đáy sông bị sâu đều. Thêm nữa, gần đây phía dưới cầu Mỹ Thuận là chỗ sạt lở gần đây ở cù lao Minh, đối diện thành phố Vĩnh Long ở phía hạ lưu… nó làm cho mình phải suy nghĩ đến cầu Mỹ Thuận. Có nghĩa là ở phía thượng lưu đã có hố sâu như vậy thì chắc chắn hạ lưu đáy sông sẽ hạ sâu, như vậy thì ngay dưới cầu Mỹ Thuận sẽ như thế nào ?"
Hiện chưa có con số thống kê bao nhiêu đất đai của người dân Đồng bằng sông Cửu Long đã biến mất do sạt lở trong nhiều năm qua. Thống kê từ chi cục thủy lợi các địa phương được báo nhà nước trích dẫn cho thấy, bình quân mỗi năm khu vực này mất đi khoảng 500 ha đất. Cụ thể, chỉ từ năm 2018 đến 2022, sạt lở đã làm sập, cuốn trôi ít nhất 2.500 căn nhà ở các tỉnh, thành An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau, làm thiệt hại hơn 304 tỉ đồng. Có khoảng 20 ngàn hộ dân ở 5 địa phương này đang phải sống trong vùng sạt lở, cần phải di dời.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện lo ngại trong tương lai sẽ còn khó khăn hơn :
"Bây giờ chúng ta đã rơi vào thế rất là khó, cát ở phía thượng lưu chắc chắn là không về nữa. Bởi vì cát là vật liệu nặng, đi ở dưới đáy sông từ phía thượng nguồn về tới Đồng bằng sông Cửu Long hết mấy chục năm. Trong khi cát mình nhận được trong mấy năm vừa qua là cát đã khởi hành trong quá khứ rất lâu rồi. Những cát nào chưa khởi hành thì nó đang nằm phía trên những cái đập thì không cách nào có thể qua được. Bây giờ có xả đập thì cũng không đi xuống".
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện cho biết ông khẳng định trong tương lai sẽ không có cát về nữa, Đồng bằng sông Cửu Long đã rơi vào thế thiếu cát, nhưng việc xây dựng nhà cửa, đường xá không thể dừng được nên vẫn phải cần cát. Cho nên theo ông Thiện, tình hình bây giờ rất khó khăn và cần biết rằng lấy cát để xây dựng phải trả giá rất đắt.
Nguồn : RFA, 03/10/2023
Đồng bằng sông Cửu Long mong Mỹ tăng hỗ trợ khi biến đổi khí hậu ngày càng gây hại
Biến đổi khí hậu gây ra tác động rất nghiêm trọng đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây, một nhà nghiên cứu hàng đầu thuộc trường Đại học Cần Thơ nói với VOA mới đây, đồng thời bày tỏ hy vọng rằng Mỹ sẽ hỗ trợ thêm nữa về nghiên cứu, thông tin, dữ liệu sau khi hai nước nâng cấp quan hệ thành Đối tác Chiến lược Toàn diện.
Hạn hán nghiêm trọng xảy ra năm 2016 ở tỉnh Bạc Liêu và một số tỉnh khác thuộc Đồng bằng sông Cửu Long (ảnh tư liệu).
Trước kia, Đồng bằng sông Cửu Long có 6 tháng mùa khô và 6 tháng mùa mưa nhưng giờ đây tình hình không còn đơn giản như vậy nữa, thay vào đó, có lúc mưa rất nhiều và ngược lại có lúc khô hạn và nắng rất nhiều, Phó Giáo sư Tiến sĩ Văn Phạm Đăng Trí, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu (DRAGON-Mekong), Đại học Cần Thơ, cho biết và nói thêm rằng điều này tác động rất tiêu cực đến đời sống người dân trong vùng.
Ngoài ra còn có vấn đề nước biển dâng gây ra những thay đổi, xáo trộn lớn, làm cho người dân không còn có thể dựa vào những kinh nghiệm sản xuất trước đây được nữa, Phó Giáo sư Tiến sĩ Văn Phạm Đăng Trí nói tiếp.
Một vấn đề nữa là tình trạng sụt lún trong vùng, vẫn theo ông Trí. Nhà nghiên cứu này khẳng định 3 hậu quả nêu trên của biến đổi khí hậu đã và đang cản trở sự phát triển của vùng đồng bằng, đặc biệt không tốt cho cộng đồng yếu thế ở nơi này.
Một trong những điều Viện trưởng Viện DRAGON-Mekong nêu ra cũng trùng với quan sát của ông Brian Eyler, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á thuộc Trung tâm Stimson có trụ sở ở Mỹ.
Trong một bài viết đăng trên trang mạng Foreign Policy hồi đầu tháng 9, ông Eyler chỉ ra rằng biến đổi khí hậu đang làm giảm lượng mưa trong mùa mưa ở Đồng bằng sông Cửu Long, là một mối đe dọa đối với khu vực được ông gọi là "vốn quý của thiên nhiên".
Ông Eyler viết rằng sông Mekong (Cửu Long) là con sông lớn nuôi sống Việt Nam và một phần lớn của thế giới. Đồng bằng sông Cửu Long vừa là nơi đảm bảo an ninh lương thực cho Việt Nam, cũng vừa là nơi sản xuất ra nhiều mặt hàng xuất khẩu của đất nước. Nơi này sản xuất ra 50% lượng gạo trong nước, bán tới nhiều cửa hàng và siêu thị ở Mỹ. Ngoài ra, phần lớn Đông Nam Á cũng phụ thuộc vào gạo xuất khẩu của Việt Nam, mà 90% trong đó là từ Đồng bằng sông Cửu Long, vẫn theo bài viết của ông Eyler.
Hiện nay, so với 5 năm, 10 năm trước, vấn đề nghiêm trọng rõ rệt nhất của vùng đồng bằng là thay đổi về nguồn nước, Phó Giáo sư Tiến sĩ Trí nói với VOA.
Trong quá khứ, vào các tháng 8, 9, 10 là mùa nước nổi, nhưng năm gần đây nhất có ngập như vậy là 2011, sau đó cho đến nay chưa xảy ra trở lại. Bên cạnh đó, hai năm 2015, 2016 ghi nhận tình trạng nhiễm mặn rất nghiêm trọng, ảnh hưởng hơn một nửa Đồng bằng sông Cửu Long ; các năm 2019, 2020 lại xảy ra một lần nữa, vẫn Viện trưởng Viện DRAGON-Mekong cho biết. Ông nói thêm :
"Đầu tiên chúng ta lo về lũ. Sau đấy chúng ta không còn phải lo về lũ thì chúng ta lại lo về hạn mặn. Tuy nhiên, nói rằng không lo về lũ nữa thực sự cũng không đúng, vì một số nghiên cứu cho thấy tình trạng lũ trong tương lai có thể xảy ra rất bất chợt, với cường độ rất là lớn. Nếu chúng ta lơ là, sẽ có thể xảy ra tác hại rất nghiêm trọng".
Ông Văn Phạm Đăng Trí, Viện trưởng Viện DRAGON-Mekong (áo sơ mi trắng) tiếp Đại sứ Mỹ Marc Knapper hôm 7/4/2022.
Theo Phó Giáo sư Tiến sĩ Trí, Viện DRAGON-Mekong được chính phủ hai nước Việt Nam và Mỹ cùng thành lập năm 2008 và kể từ đó đến nay Viện đã có 15 năm hợp tác chặt chẽ với Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS), bên cạnh đó là với các trường đại học trên thế giới.
Với sự cộng tác, tài trợ từ USGS và các đối tác đó, Viện tiến hành các cuộc nghiên cứu về các vấn đề do biến đổi khí hậu gây ra, soạn ra dự báo về mức độ ngập của Đồng bằng sông Cửu Long trong những thập kỷ tới, không chỉ liên quan đến Việt Nam mà cả nước láng giềng Campuchia, đồng thời đưa ra các cảnh báo. Ông cho hay :
"Một cảnh báo chúng tôi đưa ra là chúng ta hạn chế dùng nguồn tài nguyên nước. Chúng ta phải làm sao tăng hiệu quả việc sử dụng nguồn tài nguyên nước lên".
Các nghiên cứu và cảnh báo của Viện đã góp phần đưa đến những văn bản cấp nhà nước của Việt Nam để hạn chế việc sử dụng tài nguyên nước một cách mất kiểm soát ở Đồng bằng sông Cửu Long, ngoài ra là những đóng góp rất cụ thể của Viện với các địa phương để họ canh tác và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn, cũng như giảm thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra, Viện trưởng Văn Phạm Đăng trí đúc kết.
Ông cũng nhìn lại quan hệ đối tác với USGS đã kéo dài 15 năm và bày tỏ sự trân trọng :
"USGS là một trong những đơn vị đã tích cực hỗ trợ cho Viện. Trong thời gian vừa qua, USGS đã phối hợp với Viện đưa ra các định hướng nghiên cứu, đề xuất những hành động để giúp Đồng bằng sông Cửu Long phát triển tốt hơn phù hợp với điều kiện có biến đổi khí hậu. Ngoài ra, trong vài năm qua, chúng tôi cũng nhận được sự hỗ trợ khá tích cực của USAID (Cơ quan Viện trợ Phát triển Quốc tế của Mỹ)".
Về tương lai hợp tác của Viện với phía Mỹ trong bối cảnh Hà Nội và Washington nâng cấp quan hệ thành Đối tác Chiến lược Toàn diện, Phó Giáo sư Tiến sĩ Trí nói :
"Chúng tôi cần thêm nữa sự hỗ trợ của quốc tế. Tôi rất hy vọng có sự hỗ trợ trực tiếp và nhiều hơn nữa của chính phủ Mỹ để đảm bảo rằng năng lực nghiên cứu và năng lực chuyển giao của Viện mở rộng ra hơn, sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của Đồng bằng sông Cửu Long được tốt hơn".
Từ góc nhìn của Viện trưởng Viện DRAGON-Mekong, cơ quan của ông không chỉ nghiên cứu cho riêng Đồng bằng sông Cửu Long mà cũng nghiên cứu lên cả lưu vực sông Mekong. Vì vậy, sự lớn mạnh của Viện không chỉ hỗ trợ cho sự phát triển của Đồng bằng sông Cửu Long mà còn cho cả những nước trong lưu vực sông Mekong để họ có thể sống tốt hơn trong điều kiện mới, đồng thời cũng chia sẻ các thông tin, dữ liệu khoa học quan trọng giúp ích cho các đối tác Mỹ và trên thế giới.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương và 13 tỉnh miền Tây về tình trạng sụt lún, sạt lở, ngập ở Đồng bằng sông Cửu Long vào ngày 12/8/2023 đã cảnh báo nguy cơ Đồng bằng sông Cửu Long chìm dần với tốc độ sụt lún đất cao gấp 3-4 lần, có nơi gấp tới 10 lần so với mực nước biển dâng.
AFP PHOTO
Cụ thể, ông Phạm Minh Chính dẫn chứng 50 năm qua diện tích rừng ngập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long đã giảm khoảng 80%. Riêng giai đoạn 2011-2016 mỗi năm, mất 300-500 ha, hàng nghìn hộ dân ven biển, ven sông, kênh rạch bị ảnh hưởng…
Tổ chức Future Direct International của Úc vào ngày 18/7/2019 đã công bố phân tích cho thấy, sụt lún đất tại Đồng Bằng Sông Cửu Long đang đe dọa vựa lương thực của Việt Nam.
Trước đó, nhiều nhà khoa học cũng đã cảnh báo Đồng bằng sông Cửu Long đang sụt lún một cm mỗi năm, trong khi mực nước biển dâng là 3-5mm/năm. Trong đó, có một số địa phương tốc độ sụt lún trung bình lên tới 5,7cm/năm.
Chính phủ có quan tâm đúng mức vấn đề này khi các nhà khoa học cảnh báo nhiều năm trước ? Trao đổi với RFA hôm 14/8/2023, Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện biến đổi khí hậu Đại học Cần Thơ, nhận định :
"Cái này nhiều nhà khoa học cũng đã cảnh báo, tình trạng sụt lún, sạt lở… có cả một dự án nghiên cứu về tình trạng này và các bài báo cảnh báo cũng khá nhiều… Nhưng tới bây giờ chưa có giải pháp chống đỡ gì cả, những cái thực hiện chỉ mang tính tạm thời, không có tính lâu dài. Càng ngày chúng ta thấy tình trạng càng nặng thêm, bây giờ Chính phủ mới quyết định phải đầu tư thêm các công trình chống sạt lở, nhưng tôi chưa thấy khả năng chống lún được, chỉ có thể giảm thiểu tác động ở những vùng xung yếu thôi".
Theo Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, ngân sách chỉ là một phần, cái khó nhất là bây giờ dòng chảy càng ngày càng thiếu phù sa, chắc chắn là sẽ tiếp tục xảy ra. Còn tiền để đổ vào những công trình chống sạt lở thì theo Tiến sĩ Lê Anh Tuấn chỉ mang tính nhất thời, không lâu dài. Ông nói tiếp :
"Chính sách thì cũng đã có, rồi hỗ trợ hoặc quy hoạch các vùng nguy cơ sạt lở, di dời người dân hoặc có cách hạn chế khai thác nước ngầm ở Đồng bằng sông Cửu Long, tạo thêm những hồ chứa để trữ nước để giảm bớt khó khăn trong mùa khô, nhất là vùng ven biển… Thật ra cũng có chính sách, cũng có cảnh báo, nhưng những giải pháp đó chưa phải là giải pháp lâu dài".
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long khi trao đổi với RFA về thực trạng sụt lún tại Đồng bằng sông Cửu Long cho rằng, có hai nguyên nhân chính, một là do nén tự nhiên. Ông giải thích, vì đồng bằng nào cũng nén do phù sa. Còn nguyên nhân thứ hai, ông đưa ra là do sử dụng nước ngầm quá mức. Trong đó, nguyên nhân thứ hai, theo ông Nguyễn Hữu Thiện, là rất nguy hiểm.
Theo thông tin từ dự án ‘Quản trị sụt lún đất và quản lý nước ngầm tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long’ của Bộ Tài nguyên – Môi trường, tốc độ sụt lún ở Đồng bằng sông Cửu Long cao hơn mực nước biển dâng tuyệt đối. Điều này cho thấy tốc độ mực nước biển tương đối chủ yếu là do sụt lún đất. Nếu không khắc phục, phần lớn diện tích của đồng bằng có thể sẽ nằm dưới mực nước biển trung bình vào cuối thế kỷ 21.
Do sụt lún, tình trạng sạt lở ở Đồng bằng sông Cửu Long ngày càng nhiều hơn, Giáo sư Võ Tòng Xuân, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang, khi trả lời RFA hôm 14/8, nhận định :
"Bà con đang bị như thế thì chính quyền các địa phương cũng đang làm bờ kè ở những chỗ nào làm được, nhưng có nhiều chỗ không làm được. Hồi trước khi chúng tôi hợp tác với Hà Lan cũng có một số chuyên gia Hà Lan về lấn biển đi khảo sát dọc theo bờ sông thì họ nói ở đây khó có thể làm bờ kè như bên Hà Lan được vì nó sâu quá".
Theo Giáo sư Võ Tòng Xuân, sụt lún là do người dân khoan giếng, Nhà nước không có chủ trương khoan những giếng sâu. Nếu khai thác vỉ địa tầng ở dưới quá nhiều theo ông Xuân sẽ làm cho đất sụt xuống. Ông Xuân cho biết thêm :
"Ví dụ như dự án hợp tác với Hà Lan đưa đưa nuôi tôm vào ruộng lúa, họ biết nuôi tôm cần nước mưa, mà mùa nắng nước mặn quá thì tôm chịu không nổi, cho nên phải pha nước ngọt. Mà nước lấy từ sông Cửu Long về quá xa, nên người ta phải khoan giếng thậm chí tới 400m. Vấn đề này các chương trình nước ngoài rất kỹ, không ủng hộ, nhưng ở trong nước mình người dân họ cứ làm. Bây giờ kêu gọi những công ty, tổ chức phải có đánh giá môi trường… nhưng họ đánh giá rồi họ cũng lẳng lặng bơm nước để có thể hoạt động được trong mùa khô. Đây là hiểm họa rất lớn".
Bản đồ minh họa : Miền nam Việt Nam có thể bị ngập trong nước biển vào năm 2050. Courtesy Climate Central.
Theo Tổ chức Future Direct International của Úc, trong 20 năm qua, khai thác nước ngầm tại Đồng bằng sông Cửu Long đã tăng gấp bốn lần. Tốc độ khai thác đó đã khiến mực nước ngầm giảm tới 20 mét ở một số nơi, dẫn đến việc đất bị chìm đến 18 cm.
Giải pháp cấp bách hiện nay là gì và Chính phủ Việt Nam nên vào cuộc ra sao để đối phó với tình trạng khai thác nước ngầm tràn lan ? Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện khi trả lời RFA liên quan vấn đề này, nêu ý kiến :
"Chính phủ có ra nghị định 167 phân làm năm vùng hạn chế khai thác nước ngầm, giao cho từng tỉnh để thực hiện. Nhưng khi triển khai ở từng tỉnh thì có lắm vấn đề, tôi thấy 167 là nỗ lực ban đầu tốt, nhưng chắc cần phải sửa đổi. Vì thứ nhất là dữ liệu không có để cho các tỉnh nghiên cứu chi tiết sụt lún liên quan nước ngầm tại địa phương, chỉ có cấp đồng bằng, không đủ để lên bản đồ. Chuyện thứ hai là giá nước ngầm rất rẻ so với giá nước mặt, vì giá nước mặt quá ô nhiễm... nhiều phân bón thuốc trừ sâu nên xử lý rất tốn kém. Nên xài nước ngầm tiện lợi hơn, nhưng có hai mặt, nếu địa phương nào siết không cho sử dụng nước ngầm thì nhà đầu tư sẽ bỏ đi".
Ngoài ra, theo Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, do nền nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long quá thâm canh, nên sử dụng nước ngầm quá nhiều. Một khó khăn nữa của nghị định 167 theo ông Thiện là các tầng nước ngầm sâu liên tỉnh chứ không ở riêng một tỉnh, nên phân theo từng tỉnh để hạn chế thì chưa thực sự hiệu quả. Do đó cần phải có quy hoạch tổng thể cho nước ngầm. Ông Thiện cho biết thêm những hạn chế của nghị định 167 :
"Chính phủ lập bản đồ nước ngầm theo chiều ngang, mà có tới bảy tầng nước ngầm nhưng không phân vùng theo chiều đứng. Như vậy sẽ có tầng nước ngầm vẫn bị lạm dụng như thường, thiếu liên kết vùng, thiếu điều phối vùng, thiếu cơ chế chế tài để xử phạt nếu vi phạm nghị định 167. Bộ thì giao xuống tỉnh công việc để làm theo 167, nhưng không cấp kinh phí, tỉnh thì thiếu năng lực, thiếu kinh phí nên rất khó khăn khi thực hiện 167".
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện cho rằng, việc sử dụng nước ngầm như vậy nếu không có cách hạn chế thì "con tàu" Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chìm nhanh hơn mực nước biển dâng. Điều này rất nguy hiểm, đe dọa sự tồn tại của đồng bằng. Chính phủ cần cải thiện Nghị định 167, cải cách nông nghiệp, quay lại sử dụng nước sông ngòi như cách đây mấy chục năm.
Nguồn : RFA, 14/08/2023
Thức tỉnh bây giờ hay là chết trong dài hạn ?
Liên quan đến vấn đề khai thác cát sông ở Đồng bằng Sông Cửu Long, hôm 17/3/2023, Văn phòng Chính phủ Việt Nam phát đi thông báo Số : 79/TB-VPCP, yêu cầu "đơn giản hoá các thủ tục cấp phép mỏ vật liệu san lấp, nâng ngay công suất 50% ở các mỏ cát đang khai thác ; cấp lại giấy phép khai thác các mỏ đã hết hạn, tạm thời đóng cửa ; đưa vào hoạt động các mỏ mới phục vụ riêng cho các dự án cao tốc trên cơ sở quan trắc, giám sát chặt chẽ về môi trường, nguy cơ sạt lở theo đúng quy định của pháp luật".
Khai thác cát ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện không tuân theo các chiến lược phát triển bền vững - Bộ Tài nguyên Môi trường Việt Nam
Lý do của những yêu cầu này là Việt Nam cần một lượng cát xây dựng lớn để hoàn thành các dự án cơ sở hạ tầng ở Đồng bằng Sông Cửu Long nói riêng và Việt Nam nói chung.
Chỉ đạo đơn giản hóa thủ tục cấp phép khai thác cát một cách gấp rút và nâng ngay lập tức công xuất khai thác cát ở các mở hiện hành nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng trong năm 2023 này dường như là một cách "quản trị" không mới. Tiến sĩ Pascal Peduzzi, Giám đốc Chương trình Cơ sở dữ liệu thông tin tài nguyên toàn cầu thuộc Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP), phát biểu trong một hội thảo do Chatham House, một think tank ở London, tổ chức năm 2021 : "Chính sách phát triển của nhiều quốc gia thậm chí không đề cập tới vấn đề cát như cát lấy từ đâu, tác động môi trường và xã hội của nó ra sao". Ông Peduzzi nhấn mạnh. "Hãy nhìn về tương lai. Công nghiệp hóa, đô thị hóa và tăng trưởng dân số... tất cả sẽ thúc đẩy nhu cầu bùng nổ đối với cát". Ông kêu gọi "Đã đến lúc chúng ta phải thức tỉnh".
Khai thác cát là cần thiết, nhưng khai thác cát theo cách "đơn giản hoá các thủ tục cấp phép mỏ vật liệu san lấp, nâng ngay công suất 50% ở các mỏ cát đang khai thác" mà không có một chiến lược hợp lý, đặt trong bối cảnh tổng thể các vấn đề Sông Mekong, liệu có phải là một cách làm đúng đắn ?
Hôm 13/3/2023, Stimson Center, một think tank ở Washington DC, tổ chức hội thảo về hiện trạng khai thác cát trên sông Mekong, trong đó tập trung vào vấn đề khai thác cát ở hai nước hạ lưu dòng sông là Campuchia và Việt Nam. RFA phỏng vấn Tiến sĩ Brian Eyler, Giám độc Chương trình Đông Nam Á và Chương trình Năng lượng, Nước và Phát triển Bền vững tại Stimson Center, về vấn đề khai thác cát ở hạ lưu sông Mekong.
Một đoạn đường giao thông ở Đồng bằng sông Cửu Long bị sạt lở (Ảnh : Quốc hội Việt Nam).
RFA : Thưa ông, dường như Việt Nam đang đứng trước một nghịch lý là một mặt cần khai thác tài nguyên cát để phục vụ phát triển kinh tế, nhưng mặt khác cũng cần bảo tồn nguồn tài nguyên này. Xin ông cho một nhận xét.
Brian Eyler : Ở đây điều đầu tiên cần nói là, việc Chính phủ Việt Nam đặt ra quy chế cho việc khai thác cát là điều phù hợp cần làm. Thiết lập mục tiêu và cấp giấy phép, đó là con đường đúng đắn để đi. Cách làm này trái ngược với tình trạng khai thác cát không theo quy định và không được báo cáo, thường là những gì đã xảy ra ở cả Campuchia, Việt Nam, Thái Lan và Lào dọc theo sông Mekong.
Thông qua các quy định tốt hơn của Chính phủ, việc khai thác cát có thể được giám sát, các tác động tiêu cực có thể được hiểu rõ hơn. Nhờ đó mà chúng ta sau này cũng sẽ hiểu rõ hơn mối liên hệ có thể có giữa hoạt động khai thác cát và sự thay đổi của dòng sông, cũng như với sinh kế của người dân sống dựa vào dòng sông. Chúng ta có thể thấy các mối tương quan đó đang thay đổi như thế nào.
Bạn đã nói rằng việc khai thác cát được sử dụng cho phát triển đô thị và các mục đích khác xung quanh Đồng bằng sông Cửu Long. Tôi thì xin nói rằng, từ trước tới nay, nhân tố thúc đẩy việc khai thác cát trên sông Mekong chủ yếu lại đến từ đô thị và các khu vực công nghiệp hóa như Bà Rịa - Vũng Tàu và các khu vực tương tự. Khu vực này được kết nối với Đồng bằng sông Cửu Long bằng kênh rạch, vì cát được vận chuyển bằng sà lan. Vận chuyển cát tương đối rẻ nếu bạn vận chuyển bằng thuyền. Càng xa mỏ, nó càng đắt.
Nhưng chúng tôi cũng lại được biết rằng đó là một mặt hàng được giao dịch quốc tế. Cát đi từ Campuchia đến Singapore chẳng hạn. Điều đó từng xảy ra trong quá khứ.
Và theo nghĩa đó, tốt hơn hết là chúng ta phải nắm bắt được các tín hiệu nhu cầu đến từ đâu và giải quyết các tín hiệu nhu cầu ở những khu vực đó.
Tài nguyên thiên nhiên có thể và nên được khai thác, nhưng chúng cần được thực hiện một cách bền vững hơn. Và quan trọng, lúc đầu, điều quan trọng là phải hiểu xuất phát điểm của tình hình hiện tại.
Trong cuộc hội thảo trực tuyến của chúng tôi vào tuần trước, Tiến sĩ Chris Hackney và đồng nghiệp của ông, Tiến sĩ Magdalena Smigaj, đã ước tính rằng tốc độ khai thác cát hiện tại ở lưu vực sông Mekong cao gấp mười lần so với tốc độ có thể thay thế.
RFA : Nghĩa là cát sông là tài nguyên có thể tái tạo tự nhiên, nhưng người ta khai thác nó nhanh hơn tốc độ nó hồi sinh ? Cát có ý nghĩa gì với môi trường tự nhiên và xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long ?
Brian Eyler : Theo một nghĩa nào đó, cát là một loại tài nguyên có thể tái tạo nếu nó đến từ một con sông. Bạn biết đấy, dòng chảy từ các quá trình tự nhiên sẽ gửi thêm trầm tích và cát vào hệ thống sông. Nó được vận chuyển xuống hạ lưu nhưng tốc độ vận chuyển và lắng đọng ở dưới đáy sông, nơi nó được khai thác, thấp hơn nhiều so với tốc độ khai thác hiện nay.
Vì vậy, trong ngành công nghiệp khai thác, không thể tiếp tục theo cách làm hiện nay vì cát cuối cùng sẽ biến mất.
Bây giờ, nếu cát chỉ được nhập khẩu để sử dụng trong công nghiệp như xây dựng các tòa nhà, thì vấn đề duy nhất cần điều chỉnh là tốc độ khai thác của nó. Nhưng cát và trầm tích, đặc biệt là ở khu vực sông Mê Kông, còn có vai trò rất quan trọng đối với đời sống dân sinh. Nó quan trọng với cách con người tiến hành các quy trình nông nghiệp, trồng trọt và ngư nghiệp.
Cát và trầm tích sông cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giữ nguyên vẹn vùng đất của Đồng bằng sông Cửu Long cho nó không sụp đổ.
Trước những thách thức của biến đổi khí hậu, chúng ta thường không nghĩ đến lớp bùn cát dưới đáy sông như một thứ đóng vai trò lớn hơn những gì nó đang làm. Nhưng thực chất chúng rất quan trọng. Trong mùa mưa ở sông Mekong, lớp bùn cát đó cũng được nước nâng lên và chuyển qua vùng đồng bằng ngập nước. Và khi nó cố định ở đó, nó tạo điều kiện cho nền nông nghiệp chất lượng cao, chi phí thấp. Và đây là một trong những lý do tại sao Đồng bằng sông Cửu Long là một khu vực sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng phong phú như vậy. Ở Campuchia cũng thế.
Quá trình tương tự đó hình thành mạng lưới nguồn cung cho nghề cá và các sinh vật khác trong Lưu vực sông Mê Kông. Đó là tia lửa châm ngòi cho ngọn lửa biến sông Mekong trở thành khu vực đánh bắt cá năng suất cao nhất thế giới. Chúng tạo ra năng lượng cho phép cá lớn và nhiều. Và nếu không có nó, nghề cá bị ảnh hưởng, nông nghiệp bị ảnh hưởng.
Đồng thời, Đồng bằng sông Cửu Long là một vùng đất còn khá trẻ về mặt địa chất. Nó mới chỉ tồn tại được khoảng 3000 năm và điều đó xảy ra thông qua các quá trình lắng đọng trầm tích. Nếu cát và trầm tích đó được lấy ra khỏi sông, thì chúng sẽ không làm những việc khác mà chúng nên làm.
RFA : Năm 2022, trong bài phát biểu nhân "Ngày Sông Mekong" 5 tháng 4, Tiến sĩ Anoulak Kittikhoun, Giám đốc điều hành Ban thư ký Ủy hội sông Mê Kông, đã lên tiếng cảnh báo về vấn nạn khai thác cát trên sông Mekong không theo một quy hoạch thống nhất và khoa học. Ông cho biết : Nồng độ trầm tích trong dòng chính sông Mekong được quan sát thấy là đã giảm đi nhiều, phần lớn do hậu quả của việc ngăn chặn trầm tích bởi các đập thủy điện và hoạt động khai thác cát. Ông nói nồng độ phù sa lơ lửng trong dòng Mekong giảm tới 80% ở một số khu vực, từ năm 2018 đến 2020. Ông nhấn mạnh : "Xu hướng suy giảm này là không thể nhầm lẫn," đồng thời cho biết thêm rằng việc giảm trầm tích có ảnh hưởng tới năng suất của vùng ngập lũ và sự ổn định của bờ sông.
Brian Eyler : Chà, điều còn thiếu hiện nay là một cuộc thảo luận ở tầm khu vực rộng lớn hơn biên giới từng quốc gia về khai thác cát.
Như ông Giám đốc điều hành Ủy hội Sông Mekong đã nhấn mạnh về tính cấp bách phải giải quyết vấn đề khai thác cát, mặc dù Sông Mekong là một vấn đề xuyên biên giới, chúng tôi không thấy các thỏa thuận xuyên biên giới liên quan đến khai thác cát ở đây.
Campuchia đang khai thác rất nhiều cát, đặc biệt là xung quanh Phnom Penh, và điều đó đang gây tổn hại cho vùng Đồng bằng Sông Cửu Long ở Việt Nam. Việt Nam cũng đang khai thác cát và trầm tích của chính mình với tốc độ gây tổn hại cho Việt Nam.
Thái Lan cho phép khai thác cát dọc theo con sông và biên giới Thái Lào. Và tôi không nghĩ là có nhiều nhà nghiên cứu đang theo dõi vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi không biết lượng cát bị khai thác từ phần đó của hệ thống sông Mekong. Có rất nhiều điều chưa biết, có rất nhiều thực hành bất hợp lý trên dòng sông này. Và đồng thời, có nhiều cách để điều chỉnh hiện trạng bằng các quy định của nhà nước, và có nhiều cách để hiểu các tác động của những hoạt động ấy tới môi trường và đời sống con người.
Những gì chúng ta cần làm là tăng cường hơn nữa những quy định liên quan đến khai thác cát ở đây. Cần phải nghiên cứu nhiều hơn, và đưa các nghiên cứu đó đến với những người làm chính sách và quản lý. Tôi nghĩ rằng đã có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra những tác động của việc khai thác cát ở Campuchia và Việt Nam tới môi trường tự nhiên và xã hội. Nhưng điều đó dường như không quan trọng đối với những người ra quyết định.
Bản đồ hoạt động khai thác cát trên sông Mekong, khu vực thành phố Phnom Pênh ở Campuchia, trong một nghiên cứu năm 2021 : "Cát ra đi, người cũng ra đi : tác động sinh kế của việc khai thác cát ở Campuchia", công bố trên AFD Research Papers, một tạp chí của French Development Agency.
RFA : Thông báo Số : 79/TB-VPCP tuần trước nói rõ về nhu cầu xây dựng hạ tầng ở Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Nhưng khai thác cát ồ ạt ở Đồng bằng sông Cửu Long để đẩy nhanh tốc độ xây dựng hạ tầng, thì trong dài hạn, cũng đồng thời đẩy nhanh tốc độ xói mòn nền móng của chính những công trình họ muốn xây dựng ở đó. Mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường không phải là vấn đề riêng của Việt Nam. Năm ngoái, Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc ước tính mỗi năm toàn cầu khai thác lên đến 50 tỷ tấn cát. Đối với vấn đề khai thác cát, bài học quản lý nào trên thế giới là bài học Việt Nam cần học tập nếu họ muốn bảo vệ Đồng bằng sông Cửu Long ?
Brian Eyler : "Làm xói mòn" (undermine) là một từ đúng. Và chúng ta cũng có những lựa chọn thay thế.
Thật không may, cát từ sông hóa ra lại là một trong những vật liệu tốt nhất để xây dựng. Các tòa nhà và khu đô thị lớn có xu hướng được xây dựng bên cạnh các con sông. Các dòng sông cung cấp tài nguyên cho con người. Đó là lý do tại sao loài người chúng ta định cư bên cạnh các dòng sông. Chúng ta đang ở thế kỷ 21, Đông Nam Á được cuốn vào một chu kỳ mà các thành phố đang đô thị hóa nhanh chóng.
Chúng ta thiếu nguồn lực để đáp ứng nhu cầu đô thị hóa. Và các dòng sông là mục tiêu khai thác dễ dàng. Nó ở ngay bên ngoài cửa sổ của các tòa nhà chính phủ hoặc trụ sở của các nhà phát triển bất động sản. Vì vậy, nó được coi là thứ cực kỳ dễ khai thác, so với các lựa chọn thay thế khác.
Nhưng việc khai thác cát sông cũng đồng thời đi kèm với sự gây ra tổn hại. Và những chi phí bù đắp tổn hại đó thì hoặc do các nhà phát triển liên quan đến bất động sản gánh vác hoặc không thì sẽ do ai đó phải gánh. Đúng không nào ?
Thực tế thì toàn xã hội đang gánh vác chi phí đó. Xã hội phải chịu đựng những tổn thương do việc khai thác cát sông gây ra. Do đó, nếu những người bị thiệt thòi, yếu thế trong xã hội phải gánh chịu những tổn hại đó, thì những người yếu thế đó sẽ càng chịu tổn thương nhiều hơn.
Như vậy, điều quan trọng hơn là nhà nước cần có quy chế sao cho chi phí bù đắp tổn hại do khai thác cát sông gây ra sẽ do các nhà phát triển liên quan đến bất động sản gánh chịu và những người hưởng lợi trực tiếp từ việc sử dụng tài nguyên cát ấy.
Đó là một cách để mang lại nhiều công bằng hơn trong bối cảnh hiện nay và làm cho việc khai thác tài nguyên trở nên bền vững hơn.
Còn bản thân việc khai thác cát thì không nên dừng lại. Nó cần phải được Nhà nước chế tài theo cách làm giảm tác động đến môi trường, đến cộng đồng và nền kinh tế hiện vốn đang xảy ra trong khu vực này.
RFA : Xin cảm ơn Tiến sĩ Brian Eyler đã dành cho độc giả chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Nguồn : RFA, 24/03/2023
Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 sẽ trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả của quốc gia, khu vực và thế giới. Đây là mục tiêu được đề ra trong Quy hoạch vùng đầu tiên giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, triển khai theo Luật Quy hoạch của Việt Nam và được công bố tại thành phố Cần Thơ ngày 21/06/2022.
Đồng bằng sông Cửu Long đối mặt với biến đổi khí hậu. Ảnh minh họa ngày 04/03/2014. © Flickr / Georgina Smith / CIAT
Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long được giám đốc Ngân Hàng Thế Giới tại Việt Nam đánh giá (1) là "một cột mốc quan trọng" cho chính phủ Việt Nam. Bản quy hoạch "nêu bật được tư duy và tầm nhìn mới cho khu vực", "đưa ra được những cơ hội to lớn để tạo ra các giá trị mới và mang lại sự chuyển đổi, cũng như tiềm năng tăng trưởng xanh, bền vững, đồng đều và thịnh vượng lâu dài trong khu vực".
Vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn được coi là vựa thóc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và đóng góp lớn cho nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, tỉ lệ huyện có số hộ nghèo so mức trung bình trên cả nước lại tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2015-2019, đặc biệt do các vấn đề biến đổi khí hậu và gần đây là hệ quả của đại dịch Covid-19. Lượng người di cư từ vùng này chiếm khoảng 37% tổng số người di cư trong cả nước vào năm 2020, theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới.
Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 23/06, tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch kiêm giám đốc Quỹ Bảo tồn Mekong (Mekong Conservancy Foundation, MCF), giải thích thêm những bất cập mà đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt :
"Bản quy hoạch này ra đời đúng vào lúc mà sự phát triển của đồng bằng sông Cửu Long đã tới "ngưỡng". "Ngưỡng" ở đây có hai ý nghĩa. Nghĩa thứ nhất về mặt diện tích, hiện nay diện tích đất canh tác trên đầu người ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ được 0,7 hecta. Với diện tích nhỏ như vậy, người nông dân bắt buộc phải tăng vụ, thâm canh hay phải làm rất nhiều vụ một năm mới đủ ăn, đủ xài. Tiếp theo, năng suất cây trồng, ví dụ cây lúa, năng suất hiện giờ đang đạt tới đỉnh, nghĩa là được tối đa 7-8 tấn/hecta một vụ. Thâm canh làm 2-3 vụ/năm nên đất đai cũng đến lúc bị kiệt quệ.
Yếu tố thứ hai là Quy hoạch của Đồng bằng sông Cửu Long. Bấy lâu nay chưa có Luật Quy hoạch, do đó mỗi tỉnh tự quy hoạch theo tỉnh, mỗi ngành tự quy hoạch theo ngành cho nên trong quá khứ, những quy hoạch đó bị chồng chéo nhau, thậm chí có những cái chọi nhau. Điều này làm cho người dân, kể cả chính quyền địa phương của nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian qua phải đối phó với rất nhiều bất cập, đôi khi rất lúng túng.
Ngoài ra, điều quan trọng là nhiều quy hoạch chồng chéo, không được minh bạch, rõ ràng, khiến phải điều chỉnh, sửa sang liên tục, làm cho các định chế tài chánh quốc tế, như Ngân Hàng Thế Giới hoặc Ngân Hàng Phát Triển Châu Á lúng túng khi muốn đầu tư hoặc cho vay tiền… Họ không biết dự án đó sẽ được làm hay không làm. Và quan trọng nhất là đối với giới đầu tư, những người muốn bỏ tiền làm ăn lâu dài với người dân ở đồng bằng, họ không biết phải đầu tư vô chỗ nào".
Tiến sĩ Dương Văn Ni nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Luật Quy hoạch năm 2017 tạo nền móng cho Quy hoạch cấp vùng đầu tiên của Việt Nam và tạo bộ khung cho thành phố Cần Thơ, cùng với 12 tỉnh trong vùng phát triển. Ngoài ra, Quy hoạch lần này mang tính khách quan, do được nhiều định chế nước ngoài tư vấn, tổng hợp hết những yêu cầu phát triển của các ngành, các địa phương, tính cả những yếu tố bất lợi như áp lực từ các nước thượng nguồn sông Mê Kông, biến đổi khí hậu toàn cầu…
"Trước đây, trong thời gian dài, nền nông nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long chịu áp lực rất lớn từ chính sách an ninh lương thực, thực ra chỉ là trồng lúa. Do đó, chúng ta làm bằng mọi giá, gần như là mọi nơi, mọi chỗ, mọi nguồn lực của xã hội từ vốn liếng đến các chính sách đều tập trung để phát triển cây lúa. Ngay cả những vùng không thuận lợi lắm cũng cố gắng trồng thật nhiều lúa, thành thử ra nó đẩy người dân vào tình huống rất khó khăn, lúc hạn hán hay xâm nhập mặn thì lại thiếu nước ngọt, làm cho việc sản xuất hàng ngày của người dân gặp rất nhiều khó khăn.
Tháo gỡ đầu tiên có thể nói chính là từ nghị quyết 120, được phê chuẩn cuối năm 2017. Nghị quyết đó lần đầu tiên xác định lại vai trò quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long, dựa trên ba trụ cột chính. Trụ cột thứ nhất là dựa trên thủy sản. Trụ cột thứ hai là trên cây ăn trái. Thứ ba mới là lúa gạo. Trong đó, lúa gạo là vấn đề số 1 vì lúa gạo bảo đảm về vấn đề an ninh lương thực.
Nói như vậy để thấy nền nông nghiệp phải chuyển dịch theo chiều sâu. Có nghĩa là bây giờ không sản xuất quá nhiều số lượng nữa, mà phải chú ý vào chất lượng, bởi vì chất lượng mới có thể làm tăng thu nhập của người dân. Đó là điểm mấu chốt".
Điểm khác biệt quan trọng nhất là Quy hoạch lần này đặt trọng tâm vào nguồn nước ở đồng bằng sông Cửu Long. Tiến sĩ Dương Văn Ni giải thích tiếp :
"Từ việc dựa trên ba trụ cột là thủy sản, cây ăn trái và lúa gạo, việc quy hoạch đồng bằng lần này phải bám sát vào mục tiêu của nghị quyết 120, do đó chia đồng bằng theo những vùng sinh thái dựa trên vấn đề cốt lõi nhất là nguồn nước, một trong những tài nguyên chủ lực : Có nguồn nước thì mới tính đến chuyện sản xuất.
Cũng nghị quyết 120 cũng cởi trói cho chúng tra về nguồn nước. Hồi trước, mình nhìn nước lũ hay nước mặn như kẻ thù nên phải tìm mọi cách để chống trọi. Còn trong nghị quyết 120 thì khẳng định lại : nước lũ, nước lợ hay nước mặn đều là tài nguyên. Và từ chuyển dịch về khái niệm đó nên mới chia đồng bằng thành ba vùng : Vùng thượng là vùng nước ngọt quanh năm ; thứ hai là vùng xen lẫn mặn-ngọt, hay còn gọi là vùng nước lợ ; thứ ba là vùng ven biển có nước mặn gần như quanh năm.
Dựa trên trụ cột từ ba nguồn nước đặc thù của đồng bằng sông Cửu Long, ở mỗi Châu thổ vùng như vậy, người ta chia ra thành những tiểu vùng sinh thái mang tính đặc thù dựa trên tài nguyên đất và chất lượng của nguồn nước, thời gian thay đổi nguồn nước đó trong năm chẳng hạn. Từ những tiểu vùng sinh thái đó, chúng ta sẽ vực dậy cho vấn đề sản xuất cho mạnh hơn. Những vùng có nước ngọt quanh năm, chúng ta có thể nghĩ đến sản xuất lúa, cây trồng, chăn nuôi thích nghi với nước ngọt. Còn ở những vùng có nước mặn nhiều, chúng ta sử dụng cây trồng, vật nuôi thích nghi với nước mặn".
Trong tương lai, vùng đồng bằng sông Cửu Long dành "1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao nhằm nâng cao giá trị, thu nhập của người dân, bảo đảm an ninh lương thực và phục vụ chế biến, xuất khẩu" (2). Chỉ thị số 10/CT-Tg được phó thủ tướng Lê Văn Thành ký ngày ngày 18/06 nhấn mạnh đến ưu tiên phát triển các sản phẩm chủ lực, đặc sản. Mục tiêu đề ra là phát triển đồng bằng sông Cửu Long trở thành thương hiệu quốc tế về du lịch nông nghiệp-nông thôn, du lịch sinh thái. Về điểm này, tiến sĩ Dương Văn Ni giải thích thêm :
"Bây giờ nông nghiệp không còn nhìn vào điểm cố gắng đạt nhiều sản lượng nữa, mà nhìn vào chiều sâu, vào hiệu quả kinh tế. Do đó, nó lồng ghép thêm những khả năng tăng thu nhập cho người dân, ví dụ làm du lịch. Khi chúng ta giữ gìn sinh thái tốt, chọn lựa cây trồng, vật nuôi cho phù hợp, kiểu canh tác không gây ô nhiễm, độc hại đến cây trồng, vật nuôi thì đồng nghĩa với việc chúng ta phục hồi hệ sinh thái thì chúng ta mới có cơ may khai thác du lịch. Như vậy, trong quy hoạch kỳ này, chúng ta tìm mọi cách, thứ nhất là để phục hồi lại hệ sinh thái của đồng bằng, thứ hai là làm sao để phát huy hết nội lực của tài nguyên đồng bằng".
Quy hoạch còn chú trọng đến việc cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông với mục tiêu đến năm 2030 xây mới và nâng cấp khoảng 830 km đường bộ cao tốc, khoảng 4.000 km đường quốc lộ. Ngoài mục tiêu biến đồng bằng sông Cửu Long thành nơi đáng sống đối với người dân, mọi nỗ lực trong Quy hoạch còn hướng đến việc quản lý sử dụng tài nguyên một cách hợp lý để cải thiện sức khỏe môi trường nhằm ứng phó tốt hơn với biến đổi khí hậu, theo giải thích của tiến sĩ Dương Văn Ni :
"Điểm đặc biệt là quy hoạch này được chuẩn bị chu đáo từ mặt chính sách cho đến hướng dẫn về cách thực hiện quy hoạch này, kể cả chuẩn bị về vấn đề tiền bạc để thực hiện. Đặc biệt là chúng ta có rất nhiều nhà tài trợ hoặc là những định chế tài chính hay là Ngân Hàng Thế Giới, Ngân Hàng Châu Á…, họ rất sẵn sàng hỗ trợ, cho Việt Nam vay để phát triển Quy hoạch này. Đây là điểm đặc biệt so với những quy hoạch trước đây. Về những quy hoạch trước đây, nhiều khi quy hoạch rồi nhưng không biết lấy tiền ở đâu để làm. Lần này thì có cả cơ chế, chính sách, kinh phí. Nói như vậy để chúng ta thấy việc thực thi quy hoạch này có khả năng thành công rất lớn".
Ngân Hàng Thế Giới, một đối tác hỗ trợ chính phủ Việt Nam trong việc lập Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cam kết tiếp tục hỗ trợ khi Quy hoạch được triển khai. Cụ thể là các cán bộ của định chế tài chính này đã bắt đầu chuẩn bị một chương trình tổng hợp để thực hiện Quy hoạch vùng. Tuy nhiên, "chuyển từ tầm nhìn và quy hoạch sang thực hiện luôn là một thách thức" cho nên khi phát biểu tại lễ công bố ngày 21/06, bà giám đốc quốc gia Ngân Hàng Thế Giới tại Việt Nam đã nêu ba điểm quan trọng mà phía Việt Nam cần cân nhắc khi tiến hành : Thứ nhất, đảm bảo tập trung cao độ vào hiệu quả và hiệu lực ; thứ hai, đảm bảo sự phối hợp theo chiều dọc và chiều ngang ; thứ ba, đảm bảo quy hoạch vùng luôn được cập nhật. (3)
Theo tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch kiêm giám đốc Quỹ Bảo tồn Mekong, vì là quy hoạch cấp vùng đầu tiên được thực hiện theo Luật Quy hoạch năm 2017 nên Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long có thể không hoàn hảo 100%, nhưng đặt nền tảng để tiếp tục phát triển hoàn thiện hơn.
"Về điểm yếu, chúng ta đang làm ở mức độ cấp vùng, nên chưa đi vào ngóc ngách, vào thực tế của người dân cho nên sẽ phải cần rất nhiều sự sáng tạo, thông tin cập nhật và chính xác của từng địa phương. Rồi địa phương mới bắt đầu làm một quy hoạch chi tiết cho việc minh bạch. Cho nên còn cần thêm một bước nữa mà bước này cần vào sự quyết tâm của chính quyền địa phương và kể cả người dân ở địa phương đó. Chúng ta phải chia sẻ những kinh nghiệm, đặc biệt là vốn sống, những tri thức bản địa. Nếu tích hợp được đầy đủ những yếu tố đó, tôi tin rằng bản Quy hoạch cuối cùng cho từng địa phương, từng tỉnh sẽ tiếp cận tốt hơn vào đời sống thực tế của người dân".
Thu Hằng
Nguồn : RFI, 27/06/2022
(1) (3) Bài phát biểu của bà Carolyn Turk, giám đốc quốc gia Ngân Hàng Thế Giới tại Việt Nam tại Lễ Công bố Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thành phố Cần Thơ, ngày 21/06/2022.
(2) Báo Chính phủ, ngày 18/06/2022.