Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

mardi, 09 octobre 2018 17:11

Đi tìm Vương quốc H'Mông - 7

Kỳ 7 (Phần chót)

Khu tự trị Văn Sơn

Tôi cảm thấy thân thiện với phi trường Côn Minh hơn phi trường Bắc Kinh, hay Phố Đông-Thượng Hải. Sao nhỉ ? Hay vì lúc trên phi cơ ngồi cạnh một cô thật xinh, nói tiếng Anh như chim hót và được cô hẹn đưa đi ăn mì Vân Nam ? Tiếc quá, từ lúc đến Trung Quốc cho tới khi rời Thượng Hải, hai chiếc điện thoại tôi mang theo đều hoàn toàn nối kết được ViFi, nhưng không nói chuyện được. Chẳng biết cô có trách tôi thất hứa không ? Bao nhiêu bận rộn, mệt mỏi những ngày cuối cùng của chuyến đi khiến tôi đánh mất nhiều thứ, cả số điện thoại và địa chỉ của cô.

hmong1

Khu tự trị Văn Sơn

Không phải chỉ không găp lại cô bạn mới quen dễ thương, mà tôi bị mất kết nối thế giới bên ngoài mặc dù cả hai điện thoại của tôi đều tiếp được sóng Wifi rất mạnh ở mọi chổ có internet. Người ta đã bảo về điều này trước khi tôi đến Trung Quốc, tôi vẫn nghi hoặc, nhất là khi thấy các người Hoa tôi quen vẫn dùng điện thoại, có ViFi, internet rất đầy đủ. Hỏi ra, người ta bảo chỉ có thể dùng điện thoại sim trong nước. Việc này đồng nghĩa với bị nghe lén bị kiểm duyệt, bị theo dõi.

Người ta khuyên tôi không nên xài bất cứ cái gì như phôn, computer, sim card của Trung quốc. Tôi không muốn bị theo dõi, bị nghe lén. Tôi không muốn thành một tù nhân giam lỏng của chính quyền cộng sản Trung Quốc. Điều như vậy không xảy ra trong các xứ tự do, trừ phi đối với kẻ bị tình nghi khủng bố hay tội phạm nguy hiểm. Tôi bày tỏ sự khó chịu với bạn Trung Quốc, họ cười bảo : "Bây giờ chúng tôi sống tốt hơn trước nhiều. Sống như các anh cũng chẳng hơn gì chúng tôi". Tôi bảo hơn nhiều, nhiều lắm chứ. Họ bảo họ cũng có xe, có nhà cao, cửa rộng, ăn uống đầy đủ, muốn đi du lịch thì đi. Họ bảo không hiểu sao một số người trong họ còn đòi dân chủ, nhân quyền, tự do làm gì, họ bảo họ cóc cần đến mấy cái đó. Té ra họ không thể hiểu nổi hạnh phúc của những người đã hưởng đày đủ những quyền tự do đó. Tôi không thể cắt nghĩa cho họ về hạnh phúc của một người trưởng thành khi làm đầy đủ bổn phận của mình, với gia đình, với cộng đồng, với quốc gia thế nào. Nhiều người trong chế độ cộng sản, xã hội bị vo viên, đóng cửa, cảm thấy hạnh phúc như đưa trẻ sống trong nôi, như các người thiểu năng lẵng nhẵng theo chân bố mẹ. Họ bảo những người như Lưu Hiểu Ba, Ngải Vị Vị ôm rơm nặng bụng. Họ giống như những con cá chậu, chim lồng chưa bao giờ hít thở, vùng vẫy trong bầu trời tự do làm sao hiểu và tận hưởng được cái lẽ sống tự do, có trách nhiệm của đồng loại, nhưng có thể, nếu tôi sinh ra, lớn lên trong xã hội cộng sản, và được giáo dục như họ, có lẽ tôi cũng cảm thấy sống cảnh chim, cá kiểng vậy là có hạnh phúc.Tôi đã thấy nhiều đứa nhỏ sống với mẹ chúng trong tù vài năm, chẳng biết mất tự do, bất hạnh là gì, sân chơi của chúng là mấy cái giường của người tù nhân cùng phòng với mẹ nó và hạnh phúc của nó là được cho mấy miếng bánh của mấy bà, mấy chị vừa có thăm nuôi.

hmong2

Thế là tôi phải sống một thời gian không với người thân yêu, không gia đình và bạn bè, không tin tức gì ngoài những việc xảy ra quanh mình trong bàn cờ vây vô hình của nhà tù Trung cộng. Một vị cựu đại sứ nói với tôi, ông sẵn sàng trả thêm tiền để quá cảnh một nước nào đó khác Trung Quốc. Ông có dùng cái ngôn ngữ thẳng tưng, phản ngoại giao như vậy để nói chuyện với các quan chức chính phủ Trung Quốc không nhỉ ?

Tôi không thấy cảnh người Trung Quốc chụp giật khi ăn uống như đã bị chụp hình, quay video. Nhà những người Hoa tôi quen có lẽ sạch hơn nhà tôi. Bàn trà, tủ rượu, phòng ngủ, cầu tiêu nhà tắm tinh tươm, ngăn nắp. Trong xe của họ cũng vậy, nhưng ngoài ngưỡng cửa các nhà, đặc biệt trong các quán ăn là nợi nhiều người Hoa khác thực hiện quyền làm chủ xã hội chủ nghĩa, cộng sản, theo truyền thống Trung quốc mạnh nhất.

Một đám người ngối gần bàn chúng tôi trong tiệm ăn hình như muốn cho mọi người phải biết họ là ông A chức vụ bcd, bà B chức vụ xyz… qua những câu chuyện ồn ào, khoe khoang. Họ xả ngập rác xuống gầm bàn, ngoài lối đi cho mọi người biết họ đã ăn gì, nhả ra cái gì. Họ thi nhau hò hét to nhất để vổ vũ đám tiếp viên robot nhăn nhó, vô cảm đang múa cho thực khách xem trên lối đi.

Chúng tôi gửi va li lại nhà một người bạn ở Vân Nam, theo gia đình anh đến thành phố H'Mông Tự thăm người chú ruột của anh. Họ tiếc cho chúng tôi lỡ dịp tối hôm qua, rằm tháng 7 âm lịch là ngày lễ lớn tại địa phương, người ta kéo ra đường hóa trang, mang mặt nạ quái dị, rước đèn trong thành phố, ăn uống, chơi đùa, bông lơn với nhau. Chú anh, gốc dân tộc Miao, quan chức của tỉnh Vân Nam sống hoàn toàn theo cách người Hoa, ông mới tậu miếng đất trong khu cư dân trung bình, xây một căn nhà lớn thô kệch, tường cao, hai cánh cổng sắt như cổng trại tù. Họ tiếp chúng tôi rất ân cần. Một bữa ăn với 12 món được dọn lên bên cạnh món miền miến mà tôi muốn được ăn thử, đó là món bột bắp. Ngô phơi khô, xay khá nhuyễn, như hạt kê, hấp ăn thay cơm. Họ bảo trước nghèo, chỉ miền miến, khá lên độn thêm cơm. Bây giờ khi nào thích, hoặc lễ tết thì ăn. Món này dân Nam Mỹ cũng có, cũng ăn như vậy hay làm bánh đa, bánh cuộn. Bột bắp bán đày trong chợ Mỹ, nhuyễn hơn, thường đề tẩm tôm, cá chiên dòn.

Ông chủ dành cho bạn tôi cái chân dê ninh nhừ nhìn thấy những sợi gân tưởng như dai dai, mềm mềm, sừn sựt vừa đủ, tôi bằng lòng với cái đuôi dê và đầu gà ông ân cần gắp cho. Chỉ mình ông trong bữa ăn là đảng viên Cộng Sản và như thế ông bà chỉ có một thằng con trai. Những người khác không làm trong nhà nước, không phải đảng viên thoải mái có hai đứa. Con trai ông, bặm trợn, xâm trổ về kịp lúc bữa ăn bắt đầu. Sau vài chung rượu, chú và các anh họ của nó bắt đầu lôi nó ra sửa trị. Thằng nhỏ nhìn ngầu ra mặt, nhưng chỉ biết cúi đầu vâng dạ. Cả nhà, mọi người đều ‘cho nó một trận’. Cuối cùng bố nó nhờ tôi, ông bác, nói với nó vài câu. Rượu ngà ngà, tôi đến khoác vai nó, cố rặn ra mấy câu tiếng tàu pha trộn cả tiếng phổ thông lẫn tiếng Quảng Đông học được hồi ở tù với đám Tàu Tưởng, Quốc dân Đảng trong Chí Hòa.

Tôi còn nhớ mấy câu học hồi còn nhỏ, nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, hổ phụ sinh hổ tử, cứ thế mà diễn dịch, ‘dậy dỗ nó’. Nói xong một hồi, chẳng còn biết mình nói gì. Bố nó bắt tay cảm ơn tôi. Mọi người thấy tôi mệt, ép đi ngủ sớm. Rượu nặng thật, uống đến cháy cổ họng. Bọn họ uống đến hai giờ sáng. Bà chủ nhà ngồi với họ cho đến cuối bữa nhậu để phục vụ và dọn dẹp.Tôi phản đối chuyện này. Bà bảo đó là vinh dự và bổn phận để lo cho chồng và bạn bè của chồng. Dự định về khu tự trị Văn Sơn của người H'Mông, Choang của chúng tôi trễ hết hơn nửa ngày.

Người em rể của ông chủ nhà đêm qua hứa đưa chúng tôi đi Văn Sơn không thể dậy sớm nổi. Đêm hôm qua rượu say về, anh chồng kiếm chuyện với vợ bảo con gái không phải con anh ta, nó không có một tí nào giống bố, hai vợ chồng cãi nhau một trận dữ dội, nhưng vợ chồng cũng cố đến cùng cả nhà đi ăn sáng với chúng tôi. Anh chồng vẫn toe toét, bô lô, nhưng chị vợ hai mắt còn sưng.

hmong3

Người ta đang xây một trung tâm nhiều hàng quán, quảng cáo sẽ là khu bán mì, hoằn thắn, hủ tíu lớn nhất thế giới. Sân phía trước rộng lớn trang trí 6 cái tô đường kính khoảng 4m, nhưng phải đến đầu năm mới khai trương. Chúng tôi đến một trong những quán có vẻ như đã lâu năm ở gần đó. 

Vẫn tưởng các tô phở ở California, Houston, Dallas to nhất thế giới, có đường kính gần bằng đôi đũa nhựa gác ngang, nhưng tôi đã thấy ở Las Vegas trong một tiệm ăn Thái Lan, hai người đàn ông ăn trong hai tô to như cái thau nhỏ một món gì đó. Tiếc là lúc đó vừa ăn xong, đi ra, chứ nếu không tôi nhất định sẽ hỏi nhà hàng món gì để thử. Ở đây nhiều nơi bán hàng ăn với cái tô to hơn, sâu hơn. Khu chúng tôi đến ăn sáng có nhiều tiệm bán đồng giá mỗi tô hủ tíu chừng 3,4 đô la. Thực khách chỉ cho ông đầu bếp đang bên cạnh cái chảo to đùng, nước sôi ùng ục, ninh 5 - 7 con gà còn nguyên những món mình thích được bày chung quanh trên quầy, thịt heo ba chỉ, gà xé phay, lòng, mề,... Người đầu bếp bỏ những thứ khách muốn vào một tô, múc đầy nước lèo gà. Khách bưng qua quầy khác, chọn gia vị, rau, ớt, tỏi, đến quầy mì, bún, hũ tíu lấy bao nhiêu tô cũng được. Tôi tò mò đặt đôi đũa trong túi giấy thường thấy trong các tiệm ăn Á Châu đo tô hũ tíu của tôi. Chiều dài đôi đũa bằng đường kính cái tô. Chỉ ăn gần 1/3 tô, với một chén nhỏ mì, bụng tôi đã căng ra.

Nhiều quán ăn trong khu này không có nhà vệ sinh. Hỏi nhà vệ sinh, họ chỉ ra đầu đường. Lần ra đầu đường, họ chỉ đi nữa… ra đầu đường. Ra tận đầu đường, nơi ngay ngã tư, họ chỉ bên kia đường.

Bên kia đường, chiếm hết hai mặt tiền ngã tư là đồn công an. Tôi bảo đó là đồn công an. Họ gật gật đầu, chỉ thẳng vào đó, nói như hét, trong đó có chỗ đi tiểu tiện, cả đại tiện nữa. Tôi băng qua đường, mon men vào cổng có hai câu đối. Sân đồn công an giao thông rộng lớn chứa xe cảnh sát và nhiều xe hơi tôi đoán là xe bị giam. Tô hỏi chỗ đi vệ sinh, mấy người đứng ngoài sân chỉ đi thẳng vào đại sảnh. Bước vào, thấy hàng chục cảnh sát lố nhố đứng, ngồi. Một chú lính thấy tôi lơ ngơ, nói líu lo, chỉ vào phía sau. Trong đó có 2 dẫy phòng vệ sinh cho đàn ông, đàn bà đang có người lau chùi.

Ở một khu công cộng khác, chúng tôi vào một nơi có hàng chữ tiếng Hoa, Anh : Emergency toilet. Bạn tôi trào phúng bảo cầu tiêu cấp cứu ! Mắc lắm mới được vào, mắc vừa thì đi tìm đồn cảnh sát.

Người ta gọi taxi cho chúng tôi. Chở gần hai tiếng mới nghe bảo xe đến. Đứng dưới cái nắng hừng hực, hứng bụi đường gần nửa giờ taxi mới tới, trong xe đã có 2 hành khách, hai vợ chồng cùng đi Văn Sơn, người vợ ngồi ghế trước. Chiếc xe hiệu Trung quốc, hai chúng tôi và người chồng ngồi băng sau, kể cả cái nạng của ông ta gác bên hông cửa, chúng tôi bị ép như cá mòi hộp. Chị tài xế khoảng 40 tuổi diện như đi dạ hội, áo váy ren đen ôm thân hình còn trẻ trung, găng tay đen dài đến khuỷu, mắt kiếng cũng đen, tóc đen ngắn cắt xéo một góc có vẻ ngang tàng, nhưng mặt thì xấu và cũng đen đen. Một tiếng đồng hồ xe loanh quanh chúng tôi không ra khỏi Mộng Tự, chị tài bận đi đến hết chỗ này, đến chờ chỗ kia lấy hàng giao về Văn Sơn.

Đã ồn ào vì hai người đàn bà nói chuyện như hét trên xe, lại còn phải chịu thêm nóng bức. Nóng ! Cửa sổ xe đóng hết, máy lạnh trên xe chỉ mở nấc thấp nhất, cộng với mùi mồ hôi và nước hoa của cô tài xế lẫn người đàn bà phía trước làm tôi muốn phát khùng. Tôi lẩm nhẩm đánh vần chữ Nhẫn của các cụ dậy. Cuộc đời này chỉ như cõi tạm, cuộc đời này như chung chuyến xe một lát rồi mạnh ai nấy rẽ lối khác, nhưng đến lúc mọi người xuống đi tiểu ở cái chỗ ‘nhà tiêu tiểu cấp cứu’, chữ Nhẫn của tôi rơi mất chữ Tâm, tôi lén mở máy lạnh đến mức số hai, chỉ số hai thôi. Leo lên xe, mở máy, có lẽ nghe tiếng nổ có tí khác, cô tài chuyển ngay máy lạnh về số 1, kéo mắt kính, nhìn xuống hàng ghế sau, liếc con đại Đao vào mặt tôi.Thôi mà ! Tiết kiệm không mở máy lạnh, thì kéo hết của sổ xe xuống đi, năn nỉ mà, nhưng mở cửa sổ gió thổi tung tóc của 2 nàng thì sao ? May mắn đường xa lộ tốt không thua gì ở Mỹ và cô nàng chạy qua mặt tất cả các xe cùng chiều. Đến Văn Sơn tôi cảm thấy hạnh phúc không thành con gà hấp.

Văn Sơn, khu tự trị của người H'Mông, Choang hiện ra trước mắt tôi không thua gì các thành phố ở Mỹ với chung cư cao tầng, đường rộng rãi và cửa hàng khang trang, sáng đèn, ngăn nắp, nhưng vắng người đi lại, mua xắm dù là chiều Chúa nhật. Một số đàn bà con gái mặc quần áo dân tộc H'Mông, Choang lếch thếch theo nhau. Lề đường rộng đủ cho xe hơi đậu hàng ngang và người đi bộ thoải mái.

hmong4

Một cái skyway chung quanh một quảng trường lớn, khách bộ hành sang đường không phải đi qua các làn xe cộ thưa thớt.

Căn hộ trong một khu chung cư khá đẹp giá hơn 150 trăm ngàn đô một chút. Gần như nhà nào cũng có xe hơi và một hai xe gắn máy. Hầu hết xe nhãn hiệu Trung quốc.

Tôi thấy như có một cái gì vênh, chênh giữa sinh hoạt của cư dân thành phố với tầm to lớn đô thị trung tâm, họ có vẻ như lạc lõng ngay giữa thành phố đẹp đẽ của họ. Chính quyền có vẻ như muốn cố phô hết vẻ hào nhoáng ra bề mặt, còn phía sau lưng những căn nhà cao từng ít người ở, vô số ổ chuột. Cuộc sống của người dân và môi trường nghèo nàn ở đó có vẻ khớp với nhau. 

hmong5

Người H'Mông ở đây chỉ cho tôi những rặng núi xa xa chung quanh thành phố buồn rầu bảo tổ tiên họ có thời đã ròng rã 13 năm cố thủ trên nhũng ngọn núi đó chống lại quân xâm lược Hán. Khi người Hán chiếm được các cứ địa họ đã giết hết đàn ông con trai H'Mông chưa kịp trốn thoát, nhưng hậu duệ của những người hào kiệt, từng có thời tự hào đã từ miền băng tuyết một năm chỉ có hai ngày, sáng, tối, đến đây lập nghiệp từ hàng ngàn năm trước, chỉ còn biết sợ hãi lảng sang chuyện khác khi nghe hỏi đến Vương quốc H'Mông.

Những nhận xét của tôi về Văn Sơn có thể không chính xác. Tôi chỉ qua lại đó trong vài ngày. Nhưng tôi có cái cảm giác lành lạnh khi đến một nơi chỉ có xác mà không hồn, một cảm giác tôi không có khi đến Viên Chan, một thành phố nhỏ, nghèo nàn, nhếch nhác hơn nơi đây và mặc dù sự ấm áp của nó đã lạnh đi nhiều từ hàng chục năm sau chiến tranh.

Quang Nguyên

Nguồn : VNTB, 08/10/2018

Published in Văn hóa
mardi, 09 octobre 2018 18:27

Đi tìm Vương quốc H'Mông - 6

Tôi muốn viết lên đây rõ ràng tên vùng đất rừng, gần Việt Nam, sát chân núi, cách thành phố nhiều tiếng đồng hồ, nơi người H'Mông Việt Nam trú ngụ trên đất Lào đang cố thích hợp với phong tục tập quán địa phương, bương chải để sống, nhưng người ta nhắn tôi đừng viết. Họ vẫn còn sợ bị truy nã. Họ vẫn sợ bị chính quyền Việt Nam tìm cách bắt họ về. Lúc đầu họ cũng e ngại, nghi ngờ tôi giống như những người H'Mông tôi gặp trong rừng sâu Miến Điện.

Điều đó làm tôi cảm thấy có lỗi trước mặt họ và buồn không ít. Chúng tôi không phải loại người Kinh bắt đạo, chúng tôi không phải người mang còng, súng ống đến bắt họ, chúng tôi không phải là tác nhân khiến họ phải bỏ nhà cửa, mồ mả tổ tiên chạy trốn.

Ai làm họ nghi ngờ người Kinh ? Ai gieo mầm vào sự chia rẽ Kinh Thượng ? Ai chia rẽ ngay cả người Kinh Thượng theo cùng một tôn giáo, một chi phái ? Ai gieo mầm cho người Thượng Tin Lành Tây nguyên nghi ngờ Hội thánh Tin Lành Việt Nam ? Ai xóa bỏ hẳn giáo hội Cao Đài chân truyền 1926 ? Ai dựng nên chi phái Cao Đài 1997 phá hỏng đạo sự ? Ai dựng nên các đoàn thể tôn giáo quốc doanh và bắt nhân dân đóng thuế nuôi các đoàn thể phá hoại này ?

Chúng tôi phải đi rất xa thành phố, cũng trên những con đường đất đỏ, quanh co dốc lên, dốc xuống, nhồi sóc, lắc lư đến chóng mặt. Hai bên đường chỉ thấy rừng tre, lồ ô và những khoảng trống cây thấp, thỉnh thoảng gặp vài chiếc xe thô sơ gắn máy của người làm ruộng chạy ngược chiều. Vài làng bản nhỏ bên đường và những chiếc nhà sàn, cột chống bằng xi măng. Gà, vịt, ngan, ngỗng, chó, heo,dê lang thang ngoài đường.

Cây cỏ dại trong vùng trung du thích hợp làm thức ăn cho dê hơn trâu bò, những con vật không còn cần thiết lắm trong công việc đồng áng. Ông bạn tôi hứa đãi tôi món miền miến vài món đặc biệt mà tôi tò mò muốn ăn như lõi cây song mây thấy bán dưới chợ Thành Phố 52, nhưng các chợ nhỏ trên đường đi không nơi nào bán, có thể rừng khu này không có song mây. Ông bạn tôi mua một tảng thịt heo cả chục kg và mớ rau cải to đùng đem lên xe ; tôi thấy trước được bữa ăn chiều ; cũng vẫn thịt heo đó, cũng vẫn loại rau đó, và có thể nói, cũng vẫn với những người ‘dẫn độ’ tôi từ nhà này sang nhà khác ở Hà Giang, Miến Địện, Thái Lan, tôi phải ‘đối diện’ với món truyền thống (?) của anh em H'Mông của tôi, thịt heo rang mặn, cải luộc và ớt trộn muối cục. 

Chúng tôi vào nhà bác ruột của một người trong chúng tôi. Ông ôm chầm lấy cháu khóc. Hàng xóm, bà con lục tục đến, căn nhà khá rộng xây tường gạch bloc xi măng như chật lại, nhiều người phải ngồi phệt trên nền đất. Họ hỏi nhau chuyện nhà cửa, gia đình, công ăn việc làm. Người con dâu lui cui dưới bếp, cắt thịt heo bằng con dao to bản, nhọn hoắt dễ sợ, sửa soạn rang mặn.

Những người H'Mông ở đây từ Việt Nam sang, không hoàn toàn là người trốn chạy vì bị đàn áp tôn giáo, còn cả những người tìm một nơi dễ sống. Họ nói tiếng Việt. Họ là bà con của vài người đi với chúng tôi. Họ không dấu diếm nhau điều gì. Chúng tôi không ngần ngại hỏi họ về Vương Quốc H'Mông.

Họ đến đây, nhiều gia đình không visa, không hộ chiếu, người bản trưởng H'Mông Lào chấp nhận họ như người trong họ hàng. Chỉ cần 40 triệu đồng Việt Nam, họ có quốc tịch Lào để có quyền mua đất, mua ruộng. 

hmong1

Vang Dia cùng các anh trai, mua một miếng đất đồi dựng nhà gần nhau, giá 1 mẫu tây xê dịch tứ 7 ngàn rưởi đến 8 ngàn rưởi đôla, công ban đất đồi xuống thành nền nhà khoảng 1000 đôla, Nhà ở đây đàng hoàng hơn, ngăn nắp hơn và cố định, không chông chênh như nhà anh em H'Mông ở Miến.Đặc biệt các đồ gỗ trong nhà, từ giường, tủ, bàn ghế, và ngay cả vách nhà bếp đều làm từ nhưng loại gỗ rất chắc, quý. Họ chỉ cất công lên rừng xẻ gỗ mang về. 

hmong2

Nhà Vang Dia vừa hai giường ngủ, nơi ngồi tiếp khách và chỗ để thóc sau mùa gặt. Bếp riêng. Nhà khóa cửa bên cạnh của người anh làm thuê ở đồn điền chuối của Trung quốc cách bản chừng 100 cây số. Hai vợ chồng nhà này bỏ mấy đứa con cho người em trông coi giùm. Họ ký hợp đồng với đồn điền trồng chuối làm suốt năm mới về. Trừ tiến ăn ở, mỗi năm vợ chồng mang vể khoảng 70,80 triệu. Số tiền này chỉ đươc lãnh mỗi cuối hợp đồng. Hết năm họ về nhà một tháng, sau đó lên lại, nhà người anh có tủ lạnh, máy may. Hai vợ chồng người em ở nhà coi con, cháu, giống người dưới thành phố 52km, họ làm ruộng mướn. Họ cũng có một miếng ruộng nhỏ ở rất xa nhà, lúa gặt chỉ đủ ăn sáu tháng. 

hmong3

Sau nhà có giếng bơm từ mạch nước ngầm, công đào giếng một mét sâu 1 triệu đồng, buổi chiều cả gia đình, người lớn, cha mẹ con cái, cả người hàng xóm tắm gội chung ngoài trời, ì uồm xối nước, kỳ cọ cho nhau và giặt dũ luôn thể. Lúc đó là lúc họ vui vẻ chuyện trò, xả láng nhất. Ngay trước nhà,vừa bước qua cổng là bể phốt cầu tiêu, ống thông hơi đậy bẳng chai nhựa coca, hơi bốc lên thật khó chịu. Nhà nuôi khá nhiều gia súc, anh than phiền hay bị mất trộm. Những đứa nhỏ thẩn tha chơi với nhau trước cửa nhà, trên đường đi bùn lầy trong xóm giống như bọn trẻ con người H'Mông trốn chạy tại Miến. 

Nhiều thanh niên ở đây nghiện hút, ăn cắp ăn trộm. Từ thành phố 52, cho đến các nơi như Viên Chan, Mường Phương, Mương Mường, Pa sọn. Nông Hai…lên đến Luang Namtha.. chúng tôi đều nghe đến nạn thanh niên Lào nghiện ngập thuốc phiện, ăn cắp ăn trộm. 

hmong4

Chúng tôi như những người đi tìm mua ruộng lội bộ vào các khu sâu hơn. Chỉ có ruộng lúa ngút ngàn. Người H'Mông bản địa phá rừng làm nương gần đường lớn. Người H'Mông Việt Nam đến sau vào sâu hơn. Xe cơ giới thô sơ giúp họ có thể đi lại dễ dàng cho đến hết đường đất đỏ. Nhiều cái lán xiêu vẹo trong các thửa ruộng bỏ lại sau mùa lúa, trơ trọi bên cạnh những cây đu đủ còi cọc và những cây ớt xum xuê trái. Hết ruộng là những cánh rừng không người ở.

Không phải tất cả mọi người đã sang đây đều muốn ở lại. Vàng Dế rất muốn trở lại Việt Nam, tôi ngạc nhiên khi nghe anh nói khó thích hợp với phong tục tập quán ở đây. Anh kể, Bí thư huyện, chủ tich huyện đều là người H'Mông, họ dễ dàng chấp nhân người đồng chủng tộc ở mọi nơi đến. Đất rộng, người thưa. Đất hoang có thể khai khẩn còn nhiều, nhưng những người H'Mông Lào ở đây vẫn giữ thói tục cũ, những tục lệ mà người theo Tin Lành cảm thấy không hợp nữa. Họ vẫn kéo vợ, họ vẫn làm ma chay lãng phí, hủ lậu và nhất là họ thoải mái dùng thuốc phiện, ma túy, rượu chè bê bối, Anh rất sợ chính anh rồi sẽ xa đà trở lại, con cái anh sẽ không thoát khỏi cám dỗ. Chính anh đã từng là một con nghiện, chỉ khi theo Tin Lành, sống trong cộng đồng Tin Lành anh mới dứt được con ma nghiện. Trong bản có nhà thờ Tin Lành, có mục sư nhưng tín đồ không có bao nhiêu, sống giữa cộng đồng thoải mái dùng thuốc phiện, anh lo sợ con cái anh, cả chính anh sẽ khó lòng giữ mình. Anh muốn trở về Việt Nam, nhưng đâm lao thì phải theo lao, cuộc sống có đỡ vất vả hơn, không ai bắt đạo, nhưng cơ hội sa ngã nhiều hơn.

Tôi hỏi anh có nên bỏ làng này, xuống thành phố mở một tiệm cà phê, tiệm tạp hóa, tách xa với những người dễ ảnh hưởng xấu đến mình, anh nói cần vốn nhiếu lắm. Anh mơ ước có được căn nhà giá 35, 40 ngàn đôla giống như căn biệt thự gần chợ Thành phố 52 để mở một tiệm Karaoke, nhưng cái ước mơ đó khó như tìm được kho tàng. Nhiều người H'Mông từ Việt Nam sang đều có ý như anh, họ muốn về, nhưng sợ sự trả thù. Vài lần họ đã lén lút về thăm mồ mả tổ tiên, rồi đi ngay. Người già thì không nghĩ họ sẽ trở lại được dù chỉ một lần. 

Không ai trong họ biết đến cái gọi là Vương quốc H'Mông, họ chẳng bao giờ nghe thấy có một loại vương quốc H'Mông đang ra sức chống lại, lật đổ chính quyền Việt Nam. Họ lý luận thật đơn giản và thực tế : Nếu có một Vương quốc H'Mông như vậy nằm sát ngay nách Việt Nam, thì chỉ một sớm, một chiều quân Việt Nam sẽ dọn họ sạch sẽ. Họ nói Việt Nam nắm chặt Lào trong bàn tay, thuộc nước Lào không khác gì thuộc đường phố Hà Nội. Một vương quốc H'Mông như thế chỉ là bịa đặt. 

Nghe tôi nói báo chí và chính quyền Việt Nam đưa tin người H'Mông theo đạo Tin Lành trốn ra khỏi nước để thành lập Vương quốc H'Mông chống lại Việt Nam, họ sợ. Họ không ngờ chuyện họ trốn khỏi Việt Nam vì lý do bị kỳ thị tôn giáo, hoặc tìm kế sinh nhai bị nhà nước Việt Nam chụp lên đầu cái mũ phản quốc như vậy.

Sợ bị chính quyền Việt Nam trả thù. Tôi nghe thấy câu đó ở mọi nơi có người H'Mông, người Việt Nam trốn ra khỏi nước. Họ đã bị bức hại phải ra đi,như họ nói, phải bỏ tất cả những gì thân thương nhất trong đời, biết không bao giờ có thể trở lại. Họ cũng giống như những người vượt biên sau 1975, ra đi tìm sự sống trong cái chết, không bao giờ nghĩ đến có thể trở lại. Nhiều người cả Việt, lẫn H'Mông đang tỵ nạn tại Hoa Kỳ đã mấy mươi năm vẫn sợ không dám trở lại Việt Nam, mặc dù nghe họ than thở nhớ Việt Nam lắm

Hình như nhà cầm quyền Hà Nội không học được một chút gì qua cuộc ra đi của hàng triệu người miền bắc di cư vào Nam năm 1954, lại càng không thấy được gì qua cuộc vượt biên đầy thảm thương , chết chóc sau 1975 của hàng triệu người dân miền Nam làm toàn thế giới rúng động. Người ta chỉ biết đổ tội cho người trốn chạy, cho kẻ thù của chế độ dụ dỗ người dân bỏ nước ra đi, thậm chí đổ tội trên đầu chính tôn giáo của người trốn chạy. Chỉ biết đổ tội. Họ không học được tý gì. Họ không có lòng khoan dung.

Những người H'Mông, trong suốt dọc dài lịch sử, từ Vân Nam, chỉ biết trốn chạy để tìm một nơi có thể dung thân lâu dài, được các chế độ phong kiến Việt Nam bao dung hàng trăm năm, nay lại phải bỏ nơi chôn rau, cắt rốn, bỏ mồ mả tổ tiên ra đi.

Chính quyền của người thắng trận, của kẻ mạnh không thấy được nỗi đau lòng của người trốn. Chính quyền không thấy hàng trăm, thậm chí hàng ngàn, hàng chục ngàn thuyền nhân chôn thân dưới lòng biển sâu, không thấy cả gia đình người chạy trốn bỏ thây nơi rừng già. Chính quyền Việt Nam không quăng một cáo phao nào ra cứu vớt, không một lời thành thật, thiết tha kêu gọi ở lại, và ngồi xuống với họ để cùng tìm ra một giải pháp khả thi.

Đối với chính quyền Việt Nam, buộc tội, thóa mạ, vói tay đánh tiếp theo, vói tay xô lật thuyền, đẩy người cô thế vào hang cọp, vào tay ăn cướp, hải tặc, vu khống cho người tỵ nạn tội ra đi lập quân đội chống lại chính quyền, tròng vào cổ họ trọng tội phản bội tổ quốc thì dễ hơn là ngồi xuống nói chuyện với đồng bào mình.

Tôi ghét câu cửa miệng của các quản giáo cộng sản Việt Nam leo lẻo mồm nói với chúng tôi : "Cách mạng đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại". Người H'Mông trong hoàn cảnh phải chạy đi, bị đánh dồn theo, bị đóng dấu trên trán tội ra đi thành lập vương quốc H'Mông nhằm lật đổ chính quyền, cũng như sau 30/04/1975 người bỏ trốn vượt biên bị ghép đủ tiếng xấu, nhưng người ở lại với cách mạng, kẻ bị ‘hoc tập cải tạo’ đến vài chục năm, kẻ chết rũ tù.

Chính quyền không chịu sửa sai, không chịu mở một chút khoan dung, hay họ không có lòng khoan dung? Bản chất của tôn giáo là khoan dung và người có tôn giáo càng cần đến sự khoan dung. Đừng trộn lẫn tôn giáo với đủ loại tội ác, hay tội lật đổ chính quyền. Ai cũng có thể lật đổ chính quyền bằng cách này cách khác, dù ở trong nước hay ngoại quốc, dù có tôn giáo hay không. Những người cộng sản vô thần vẫn thường tự hào lật đổ hết chính quyền này đến chính quyền khác.

Có lẽ giáo lý của các tôn giáo thường nói đến sự bình đẳng, giải phóng và tự do gây dị ứng cho đảng cầm quyền chủ trương toàn trị? Có người không tôn giáo tích cực đấu tranh cho tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, nhưng chưa hề thấy người cộng sản cổ vũ cho tự do tôn giáo, tự do ngôn luận. 

Hãy dừng tay lại, hãy mở chút lòng khoan dung với các tôn giáo. Đừng nhìn tôn giáo là thế lực phản động. Đừng tạo thêm tội ác chồng lên tôi ác, vu khống chồng lên vu khống. Đừng để tất cả tội ác vu khống một ngày nào trở ngược lại chụp trên đầu mình. 

Quang Nguyên

Nguồn : VNTB, 01/10/2018

Published in Văn hóa
mardi, 09 octobre 2018 19:27

Đi tìm Vương quốc H'Mông - 5

Kỳ V

Lào - Luk 52 km

 

Công việc ở Bangkok xong. Chúng tôi có thêm vài người đi chung, phải thay đổi kế hoạch không bay đến Viên Chan mà đi xe buýt đến Nong Khai để vào Lào, như thế mất hết một ngày, thời gian ở Lào phải rút ngắn. Nhưng Lào chính là nơi chúng tôi cần thời gian ở lại lâu hơn.

lao1

Cạn tiền, ngay cả xe buyt hạng VIP cũng không dám đi. Xe chở khách của Thái đồng loại với Việt Nam, nhưng đàng hoàng hơn nhiều. Chúng tôi được phát nước và hai hộp thức ăn. Một hộp mì ăn liền ‘không người lái’, một hộp bánh ngọt. Xe sạch sẽ, ghế ngồi thoải mái, không dồn khách, không đón khách dọc đường, không mở nhạc inh ỏi, tài xế không tán chuyện với lơ xe, với vợ, với bồ bịch qua phôn. Tệ nhất của đám xe buyt trục Nam Bắc bắt khách dọc đường nằm trên hai lối đi. Cả bọn chủ xe, tài xế, lơ xe Việt không tôn trọng khách, mà chính người khách cũng tự coi rẻ mình. Cái tâm lý này của người mình đến bao giờ mới thay đổi ?

Lần đầu đi xe buyt từ Bangkok lên Chieng Mai xe chạy suốt đêm chỉ ngừng ở một bến xe cho khách xuống nghỉ ngơi khoảng 20 phút. Lần này từ Bangkok đến Nong Khai, xe cũng chỉ dừng cho khách ăn trưa tại một tiệm xềnh xoàng, bán các thứ cơm, mì rẻ hơn ở Bangkok . Khác hẳn với tình trạng lái xe ở Việt Nam móc nối với chủ quán, ép khách vào ăn để hưởng lợi,

Chiếc xe không chạy nhanh như chúng tôi nghĩ, nó đến Udon Thani vừa đúng 10 giờ tối, giờ đóng của khẩu. Chúng tôi ngao ngán không biết tính sao. Bến xe chỉ còn vài tài xế tuk tuk chờ khách đến trễ, Gần chúng tôi là ba cậu trẻ dân Âu châu, da rám nắng trễ xe về Bangkok, bên cạnh mấy cái balô to đùng, chúng từ Moscow, Nga.

Bất ngờ một tiếng sét giáng xuống như súng lệnh, cơn bão ào ào đến, gió cuồn cuộn thổi thốc tung mái nhà ga, điện phụt tắt. Tìm một chỗ không bị mưa, tôi nằm gối đầu lên balo, kệ giông tố, nghỉ cho khỏe. May quá, trận bão qua nhanh, mưa bớt nặng hạt, ông bạn tôi thuê xe tuk tuk ra cửa khẩu. Chúng tôi 8 người dồn lên một chiếc xe chật cứng. Đoạn đường chưa đến 15 phút, tài xế chém 200 baht. 

Người bạn chờ chúng tôi bên kia biên giới cho biết anh sẽ ngủ lại trên xe đợi sáng. Chúng tôi ngồi trong nhà chờ sát ngay cổng hải quan. Có mấy chiếc võng của đám tài xế xe tuk tuk máng sẵn, tôi khoan khoái kéo một cái xuống nằm nghỉ, Ba người bạn tôi cũng đong đưa 3 chiếc võng ở ba phía. Số còn lại ngồi dựa góc.

Chuyện xảy ra dưới đây dù chưa đến mức nghiêm trọng, nhưng tôi cũng gặt được một kinh nghiệm, từ nay sẽ không lãng mạn, vớ vẩn như lần này nữa. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu hai tên ăn cướp đến trễ hơn một chút mà chỉ còn lại mình tôi ?

Ông bạn chúng tôi che cái dù mua ở BigC ngay gần nhà chờ đi tìm khách sạn. Một lúc lâu ông về, bảo chúng tôi kéo va ly, mang balô đi. Tôi nói tất cả đi đi, tôi muốn nằm ngủ võng ngoài trời đêm nay.

Trừ những lần ngủ võng khi đi cắm trại, và thời gian dài ở chiến trường đã qua từ rất lâu, tôi không có dịp nằm võng giữa trời đêm khuya.

Sau trận bão, trăng hòa lẫn ánh đèn đường, qua làn mưa lất phất trộn màu ánh sáng kỳ lạ. Bầy chim vỡ tổ lao xao, tiếng côn trùng, ếch nhái hòa bản nhạc loạn ly nao lòng. Quang cảnh ấy, tiếng nhạc ấy khiến tôi mơ màng trong sân khấu dát vàng vĩ đại của thiên nhiên huyền ảo. 

Chúng tôi định kéo nhau vào BigC chọn mỗi người một, hai gói mì, thì vừa lúc một chiếc xe pick-up truck đến đậu ngay trước nhà chờ. Tôi bảo một cậu ở lại trông đồ. 

Hai người đàn ông lực lưỡng, mặc áo không tay, phô hình xâm trổ từ chiếc xe truck đã ngồi trong nhà chờ. Chúng tôi trở lại chỗ mình, im lặng thưởng thức những ly mì nóng hổi, thơm phức. Một trong hai người lại gần tôi, giọng tiếng Anh trọ trẹ hỏi tôi từ đâu đến, tôi nói từ Mỹ. Y gằn giọng hỏi có visa không ? Tôi giả vờ không nghe, không trả lời. Y gằn giọng hỏi đến câu thứ 3, tôi ngửng lên nhìn y hỏi lại : Anh là cảnh sát ? Y bảo không. Y hỏi tôi có passport không, tôi trả lời không phải chuyện của anh. Y cứ lằng nhằng hỏi, tôi lặng thinh ăn mì. Y bỏ tôi, trở lại chỗ ngồi trong góc, lấy ra một chai bia, tu ừng ực, trong túi ni-long của y mang theo còn 5,6 chai.

Tôi sực nhớ ra sự tàn ác của lũ cướp biển Thái Lan với các đồng bào vượt biên của tôi sau khi cộng sản tràn vào Nam. Chúng có dao, có súng, chúng cướp, hiếp, giết, bắt cóc đàn bà con gái của chúng tôi. Lần này chúng tôi giáp mặt với bọn cướp cạn dùng chai bia làm vũ khí, rất dễ gây thương tích, thậm chí giết người, dễ chối tội. Tên cướp thứ hai đứng lên. Sáu người bạn trẻ của chúng tôi đứng lên. Họ sẵng sàng. Hai tên cướp chắc chắn không lường được sự ra đòn khủng khiếp của các tay bẻ gãy sừng trâu của bạn chúng tôi, nhưng tôi cũng nhớ đến các đòn Mui Thái ghê rợn. Họ nhìn nhau. Tôi nghĩ sẽ có đổ máu. Ông bạn tôi và tôi vẫn lắc lư trên võng.

Một hai phút nặng nề trôi qua, chợt ông bạn tôi, người cao hơn tôi một cái đầu và nặng gần gấp đôi tôi đứng dây, quát to bằng tiếng Thái :

- Thôi, đủ rồi. Ông ra lệnh cho chúng tôi :

- Về khách sạn ngủ hết, không ai ở lại.

Tôi líu ríu nghe theo. Bọn trẻ đẩy tôi đi trước, kéo va ly của tôi theo sau. Trời lại đổ mưa. Đến khách sạn chúng tôi ướt hết.

Chỉ bước qua lằn ranh hai nước, một nguyên là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Miến Điện, và một đang là cộng hoà xã hội chủ nghĩa Lào, độc đảng, theo chủ nghĩa Marx, đều thấy sự nghèo mạt so với nước tư bản Thái Lan. Viên Chan với những lá cờ Quốc gia và Búa liềm treo trước cửa mỗi nhà đã lâu không thay đổi, rách nát, bụi bặm như những tấm dẻ rách tả tơi.

Viên Chan không còn giữ được vẻ trầm mặc pha chút duyên dáng tây phương trước năm 75, mất cả mùi hương trầm từ các đền chùa cổ kính, chỉ còn tanh mùi của những thần tài bằng đá đứng trước các của hàng, ôm túi bạc với hai bàn tay bám đầy bụi. Các hàng cây xanh, rợp bóng ngày xưa biến đi gần hết, mọc lên nhửng căn nhà 5,3 từng nửa mùa, lố nhố, Họa may còn vài con phố giữ được vẻ sang trọng thời Tây thuộc địa. Đâu đâu cũng thấy dấu ấn phụ thuộc Tàu, Việt Nam. Người Tàu với các công trình xây dưng, các nhà máy, khách sạn, người Việt Nam với các ngân hàng, quán ăn, tiệm tạp hóa vặt vãnh. Viên Chan không còn chất Lào như các cô bạn xinh đẹp, trắng muốt, duyên dáng yểu điệu hiền lành có tên họ dài thoòng ở Mỹ của tôi.

Tôi đi qua Viên Chan bâng khuâng buồn bã như ngang nhà người tình đơn sơ, mộc mạc, thơm mùi trầm hương đã bỏ đi lấy chồng. Người ta chỉ cho tôi thấy nước đập thủy điện Sepien Senamnoi vỡ hồi tháng 7 trước, vẫn ngập hồ ao nhỏ dọc đường dẫn dến Thành Phố 52. 

lao2

Luk 52 City đang trong trận mưa nặng hạt, bùn đỏ văng tung tóe, tôi nhớ đến các thành phố Tây nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột thời chiến tranh, với bùn đỏ, lính và đĩ, điếm. Thành phố 52 km không có lính, chỉ có nhiều người mặc áo rằn ri đi làm ruộng rẫy, nhưng người dân ở đây nói đĩ, điếm nhiều. Anh bạn lái xe cho chúng tôi, Vang Shử, thổ công của thành phố này, hất hàm chỉ hai người đàn bà ngồi đối diện trong quán ăn bảo, đĩ đó. 

Luk 52km không phải là thành phố du lịch cũng không có khu giải trí, loanh quanh thành phố chỉ vài chục quán hàng nhỏ. Vàng Shử bảo, thanh niên ở đây 70% nghiện hút, lười biếng. 1 phần 3 chồng của đàn bà ở đây nghiện ngập trốn lên Viên Chan trộm cắp, vợ ở nhà làm đĩ. Tôi không chắc chuyện anh nói đúng hay sai, chỉ buồn nhớ lại ngày sau 30/4.75 các quản giáo cộng sản vào Saigon lên lớp chúng tôi cũng giống như thế : "1/3 đàn bà Saigon của các anh làm đĩ". Chúng tôi đùa với nhau chua chat, nếu vợ tao, vợ mày, vợ nó ngồi với nhau, chắc chắn vợ nó làm đĩ. Nếu mẹ nó, vợ nó, con gái nó đi với nhau, một trong 3 người đang kiếm khách.

lao3

Chúng tôi đề nghị anh bạn lái xe dẫn chúng tôi đến ‘một quán đèn đỏ có gái bán hoa’. Người Mông cũng nói văn hoa trong chuyện này như người Kinh vậy. Chiều hôm đó, Vang Shử đưa chúng tôi đến một quán khá khang trang, vắng khách. Có 6 cô gái và một người đàn bà trung niên ngồi sẵn đó. Dù cạn tiền, chúng tôi cũng gọi món khá sang. Bọn trai trẻ ngồi sen kẽ giữa các cô gái, qua ánh đèn mờ tôi thấy vóc giáng rất trẻ của họ. Tôi ngồi bên cạnh một cô. Bạn tôi ngồi bên cạnh một cô. Tôi thấy hai người nói chuyện nho nhỏ với nhau.

Thức ăn dọn ra, các cô không uống bia. Họ có vẻ rụt rè không như bọn gái cùng nghề nơi khác. Các bạn trẻ của tôi lần đầu tiếp xúc với các cô gái loại này nên khá lúng túng. Bữa ăn có vẻ trầm trầm cho đến lúc ông bạn của tôi nói to bằng cả tiếng Việt, tiếng Mông :

- Chúng tôi đến đây để ăn chứ không phải để chơi, các con đều chỉ đáng tuổi con cháu chúng tôi, từ 13 đến 16 tuổi. Thôi ăn đi.

Bọn bạn trẻ của chúng tôi có vẻ thất vọng. Còn các cô gái thấy vui hơn, họ bắt đầu ăn như đã đói từ lâu. Ngạc nhiên nghe ông bạn tôi nói tuổi họ, tôi tò mò đến từng đứa hỏi tuổi. Quả thật, chúng từ 13 đến 16 tuổi. Tôi dội thêm xô nước lạnh vào đám bạn trẻ : 

- Đừng dính vào lũ nhóc vị thành niên này mà mọt gông.

Bọn trẻ sau một chút tiếc rẻ, bắt đầu nói chuyện vui vẻ, cười đùa, giống như các người bạn. 

lao4

Chúng từ 13 đến 16. Chúng không thoa son, trát phấn, mặt chúng còn lông măng, mắt mở to vừa lo sợ, vừa buồn bã. Không biết chúng đã phải bán thân bao nhiêu lần. Có thể từ lúc 12 tuổi chăng ?

Ăn xong, ông bạn tôi gọi tính tiền, ông bảo người chủ quán đầu trọc tếu, thân hình lực lưỡng, anh chị :

- Tôi trả thêm tiền cho mấy đứa nhỏ này tối nay cho anh. Tôi đưa chúng nó về.

Ông bảo tài xế đưa chúng về tận nhà chúng, chúng tôi phải chờ xe trở lại rất lâu. 

Tôi thấy ông bạn tôi một con người nhân hậu. 

Thành phố 52, có từ trước chiến tranh, nhưng chỉ phát triển cách đây chừng 30 năm. Rất đông người Mông Lào, Mông Việt và Việt Nam ở đây. Sau thất bại trong chiến tranh Việt Nam, người Mông Lào, trong vùng Xiêng Khoảng ảnh hưởng của tướng Vàng Pao, chạy tứ tán sang Thái Lan đi định cư hết ở nước khác. Nhiều người Mông theo cộng sản trong vùng Long Chinh bỏ Xiêng Khỏang đến thành phố này lập nghiệp. Người Mông Việt qua lập nghiệp ở đây không nhiều, họ tìm một khu vực dễ dàng kiếm sống.

Người Mông Lào đến Luk 52 phá rừng làm nương. Ruộng nương từ gần tỉnh lộ tiến dần ra xa, vào tới tận các chân núi. Nhờ các phương tiên chuyên chở cơ giới, họ có thể làm nương rất xa nhà. Họ cất lán tạm trên gò, trên ruộng, mang theo gạo, mắm muối sống vài tuần, một tháng không phải về nhà. Nhiều gia đình chịu khai hoang có đến hàng chục mẫu ruộng. Hệ thống dẫn nước tưới tiêu tốt giúp những mảnh ruông mạ mọc đều, bằng trang như cánh phản, nhưng cũng chỉ làm một mùa. Giá một mẫu tây ruộng ở đây khoảng từ 7 ngàn rưởi đến 8 ngàn đô la. Có người khẩn hoang, trồng cao su, thu hoạch khá cao và không cực nhọc như làm ruộng.

Tôi vào một số gia đình Mông Lào. Không thấy ai trong họ theo đạo Tin Lành. Họ cũng hình như không gắn bó lắm với tục lệ cũ. Họ giầu có hơn Mông Việt, hay người Việt. Gia đình Vang Shử ở căn nhà 4 tầng, sở hữu hai chiếc xe hơi, anh đưa chúng tôi đi bằng chiếc Toyota 7 chổ. 

Mông Việt mới sang nghèo hơn nhiều. Những người chúng tôi găp đều không có ruộng đất, họ chỉ mua được một miếng đất nhỏ tạm dựng căn nhà vừa chỗ cho cả gia đình, đi làm ruộng mướn, giúp việc trong các tiệm ăn, bán hàng. Tôi nghe họ nói thì việc gì cũng 50 Kip một ngày.

Người Việt từ Thanh Hóa. Huế, Saigon... tập trung buôn bán trong một cái chợ khá lớn cung cấp thực phẩm, hàng hóa cho cả Luk 52. 

lao5

Người Việt chiếm phần khang trang nhất mặt tiền chợ bán dụng cụ điện máy,quần áo, đồ trang sức, đồ gia dụng nhập từ Thái Lan. Một cửa hàng có vốn khỏang từ 600 triệu đến 1 tỷ tiền Việt Nam,, như họ nói. Họ có visa ở lại Lào, đóng tiền cho địa phương mỗi 6 tháng. Họ than phiền đại sứ Việt Nam, ở Viên Chan không bao giờ để ý đến họ. Họ muốn vào quốc tịch Lào, nhưng không biết có đường dây nào chạy, mặc dù biết đúng giá 40 triệu đồng cho một gia đình. Tôi biết rõ dường dây chạy vào quốc tich Lào, và chắc chắn tôi làm được, nhưng đó không phải việc làm của tôi. Nếu tôi làm việc này, tôi có thể đút túi riêng vài trăm triệu vì có hàng vài chục gia đình Việt Nam, ở đây muốn nhập tịch. 

Phía sau chợ dành cho người Mông bản địa. Họ bán đủ thứ cho bữa cơm hàng ngày và các món ‘đặc sản’quái dị như chuột phơi khô, tổ ong đất...

lao6

Lần đầu tiên tôi biết lõi dây song mây có thể ăn được và bán khá đắt. Gần chợ có một số biệt thự đẹp đẽ, nhìn như bỏ hoang, có giá 35 đến 40 ngàn đô la. 

Tỉnh lộ là phố chính của Luk 52km, ‘đi dăm phút đã về chốn cũ’, vài quán cà phê, nhiều sạp bán đồ rèn sắt, cuốc xẻng, rựa cho người làm ruộng, đi rừng, và một dẫy cửa hàng bán các loại rễ cây, củ, quả, hoa lá làm thuốc, nhưng cũng có ngân hàng, một văn phòng Moneygram nhận, gửi tiền online, một văn phòng DHL nhận hàng từ ngoại quốc và chuyền hàng từ địa phương đi. Tôi thấy có người gửi cả trăm kg quần áo, mũ truyền thống của người Mông làm bằng tay qua Mỹ. Có nhiều quán bán thức ăn nấu sẵn, quay vịt, gà, heo ngoài đường giống như ở Việt Nam,. Tôi mua một nắm sôi, một miếng thịt heo đang quay trên lò than, người bán hàng chặt một miếng bằng bàn tay, cắt thành từng miếng vừa ăn, bỏ chung với sôi và một bịch nước chấm, tôi trả tiền bằng cách chìa tay cho cô đếm nắm tiền lẻ tôi có, đem về gess house mượn muỗng đĩa. Cô chủ nhỏ đang nướng tôm trên lò than cho bữa cơm gia đình hào phóng cho tôi 4 con tôm càng. Đĩa cơm của tôi trở thành sang trọng, có giá ít nhất 30 đô la ở một nhà hàng trung bình của Mỹ.

lao7

Người ta quy tội cho tướng Vàng Pao theo CIA Mỹ, đứng đầu đội quân chống cộng sản, lập ra đạo Vàng Chứ, người Mông Việt theo Tin Lành là theo đạo Vàng Chứ, theo Vàng Pao, trốn ra nước ngoài lập Vương Quốc Mông chống lại chính quyền Việt Nam,. Chúng tôi đến Luk 52 mong tìm dấu vết của vương quốc này, nhưng những người Mông Lào từ Long Chinh, Xiêng Khoảng theo cộng sản, đến đây lập nghiệp, cười ngất bảo chỉ có bọn hoang tưởng, bọn say rượu mới nghĩ ra chuyện này. Hỏi người Mông Việt, ho không hiểu chúng tôi nói chuyện gì.

Trên mảnh đất Luk 52km, dù là người Mông Lào, hay người Mông chạy tỵ nạn vì bị đàn áp tôn giáo, hay qua tìm sinh kế, hay người Việt bỏ quê thì tất cả đều chăm chút mưu sinh. Tôi thấy họ không đến nỗi bận rộn, có lẽ rồi dần cũng giống như cách sống buông lỏng của người Lào từ trước đến giờ, trên mảnh đất hiếu khách, thừa thãi gạo, ngô để mọi người đều có thể cùng nhau chung sống. Tôi lại càng không tìm thấy dấu vết của sự hận thù đế quốc Mỹ, hay âm mưu lật đổ chính quyền Việt Nam nào trong họ.

Chưa bỏ cuộc tại Lào, chúng tôi cố đi tìm Vương Quốc Mông ở nơi cộng đồng người Mông Việt bỏ quê cha đất tổ sang lập nghiệp, trên một vùng cao, sát chân núi.

Quang Nguyên

Nguồn : VNTB, 24/09/2018

Published in Văn hóa
mardi, 09 octobre 2018 20:48

Đi tìm Vương quốc H'Mông - 4

Kỳ IV

Người H'Mông tỵ nạn tại Bangkok

 

Chúng tôi bịn rịn, buồn bã chia tay dân bản H'Mông nằm sâu trong rừng, không ăn bữa sáng bà chủ nhà chúng tôi ngủ nhờ nấu sẵn, một phần vì muốn tiết kiệm cho họ, phần khác, chúng tôi sợ mất hết cả buổi sáng để phải đi đến 5, 3 nhà nữa ăn các bữa sau.

hmong11

Một trạm kiểm soát trên đường biên giới Thái-Miến - Ảnh minh họa

Tưởng rằng khi về Tachileik không bị các nhà xe làm khó. Tôi khoan khái nghĩ đến lúc được ngồi dựa lưng trên ghế xe, cứng hay mềm, kệ, sẽ thoải mái hơn ngồi sau chiếc xe mô tô ê ẩm hết tất cả từ cổ đến gót chân. Nhưng tất cả xe đò đều từ chối chúng tôi thẳng thừng. 

Những người dẫn đường lượt đi ngày hôm qua không còn nữa, chúng tôi phải nhờ hai thanh niên trong bản đưa đi. Họ có vẻ sợ khi thấy những chiếc xe chở đầy lính, võ trang đến tận răng rầm rập qua lại. Tôi nhớ lại thời chiến tranh u buồn Việt Nam, cũng với các xe chở đầy lính, các trạm kiểm soát và tiếng bom đạn.

Mỗi khi đến gần trạm kiểm soát, hai thanh niên bảo chúng tôi đi chung một xe, họ chạy trước. Vượt qua trạm kiểm soát trên đường trong các khu dân cư cũng dễ dàng, chúng tôi chỉ bình tĩnh, chầm chậm vòng vèo lách qua đủ thứ chướng ngại vật bắt xe phải giảm tốc độ. Nhưng bất ngờ, giữa đồng không mông quạnh, từ xa, chúng tôi thấy cây tre chắn ngang đường và người đứng gác. Đổi qua một xe, chúng tôi chạy theo hai thanh niên dẫn đường một quãng không xa lắm. Có vài xe đã đậu trước cây tre chắn, chúng tôi cũng vừa trờ tới. Hai người dẫn đường đã chạy mất tăm. Họ sợ. Mà có ở lại cũng chẳng giúp được gì, họ không biết tiếng Miến, chỉ nguy hiểm thêm.

Tôi thấy mọi người chẳng nói, chẳng rằng, móc túi cho hai người gác 200 đồng tiền Miến. Hai người gác, một mặc quần đùi, áo thung, một cuốn váy sa rông, ở trần, ốm nhách, nhếch nhác chẳng có dấu hiệu gì là ‘nhân viên công lực’. Bạn tôi lấy 200 đưa cho họ. Người mặc sa rông ở trần hau háu nhìn vào cái ví, y chỉ vào túi ông, nói nhí nhố gì không biết. Ông bạn tôi đưa cho họ xem tờ entry-permit. Y lật ngang, lật ngửa coi, xua tay lia lịa. Tôi cáu tiết, nghĩ mình là người ngoại quốc, nếu có vi phạm luật đi ra khỏi địa phương thì có lẽ chỉ bị đuổi ra khỏi nước. Việc mình đã xong, cũng chẳng sao.

Định làm căng, nhưng chợt nghĩ lại, xe chúng tôi chạy của người khác, nếu bị rắc rối, xe bị giữ có thể làm phiền đến họ, tôi nín thinh, ngậm bồ hòn làm ngọt. Ông bạn tôi mở ví, móc thêm vài tờ giấy bạc. Lần này thì thằng ăn cướp không còn chần chừ, y thọc tay vào xấp tiền của ông, chọn mấy tờ tiền Thái. Tôi thót tim thấy xấp 100 dollar xanh trong tay nó, may mắn, thằng ngốc ngắm nghía một chút rồi bỏ lại. Nó chọn tiền Thái. Đến lúc thấy không chịu nổi, ông bạn tôi ngăn tay nó lại, hai bên nhìn trừng trừng vào mắt nhau, nó chịu thua, phất tay cho chúng tôi đi. Mất một số tiền khoảng 30 đô. Kể chuyện lại, người bảo chúng là cảnh sát dân phòng, bọn nhân dân tự phát, người bảo bọn ăn cướp.

Còn cách thành phố khoảng 100km, chúng tôi thuê được xe ôm. Hai cậu dẫn đường trở lại bản. Giữa đường, mắc một trận mưa lớn, ướt hết, nhưng không lạnh.

Ngủ lại một đêm. Sáng hôm sau chúng tôi qua cửa khẩu rất sớm. Cô nhân viên hải quan Miến xinh đẹp vừa ăn sáng vừa làm việc với khách, không thèm để ý việc tôi lỗ mãng chụp hình.

Mệt mỏi. Chúng tôi lấy taxi về Chieng Rai. Ăn đĩa sôi nếp sầu riêng ngon lành tại phi trường. Ngủ thiếp đi trên máy bay về Bangkok.

Thái Lan đang chịu những cuộc tấn công nhập cư lậu của dân nhiều nước vùng Đông Nam Á. Không ít người Việt đến Thái tìm cơ hội làm việc. Họ làm đủ thứ nghề, từ bán hàng rong, thợ lao động phổ thông, phụ hồ, thợ xây, với giá rẻ mạt, số ít làm điếm. Không ít người Việt, H'Mông, Thượng đến Thái Lan, như họ nói, tỵ nạn chính trị, hay bị đàn áp vì lý do tôn giáo. Tôi gặp vài người Việt tỵ nạn chính trị, người quen có, người chưa quen có. Họ có khả năng, dễ thích nghi cho nên dù sống tạm bợ nhưng thường tìm được công việc thoải mái hơn.

Hai dòng người nhập cư lậu vì sinh kế và tỵ nạn hình như không có sự quan hệ, hay có thể nói, họ tránh nhau.

Nhập cảnh Thái Lan không khó, người cầm passport Hoa Kỳ không cần visa. Tôi găp mấy người Lào, Việt có visa đáo hạn, ra cửa khẩu biên giới, đóng dấu, về bên kia, đóng dấu, vào lại. Cũng theo họ nói, nhiều người gom hộ chiếu chung, một người cầm ra biên giới, ‘xuất, nhập cùng một phát cho tiện’, mỗi người mất vài ba ngàn baht. Người tỵ nạn thì khác, họ không quay trở về.

Theo quy định mới của Hải quan Thái Lan, du khách phải xuất trình tối thiểu 20.000 baht (tương đương 13,6 triệu VND) tiền mặt khi nhập cảnh. Bà Napasorn Kakai, Giám đốc Tổng cục Du lịch Thái Lan cho biết cơ quan của bà chưa ghi nhận trường hợp du khách Việt Nam nào bị từ chối nhập cảnh do quy định phải đem theo 20.000 baht tiền mặt, nhưng một người bạn của tôi đã bị hãng máy bay Jetstar Pacific Airlines, thay chính phủ Thái (!), từ chối cho anh lên máy bay tại Nội Bài. Biên bản không cho anh lên máy bay ghi : "Khách đi Bangkok, khách không mang theo tiền để nhập cảnh, có khả năng NTL". Không biết khả năng NTL là gì, nhưng anh không được trả lại tiền vé máy bay cả hai chiều khứ hồi.

Chúng tôi có dịp thăm nhiều gia đình H'Mông đang sống tại Bangkok đã trốn khỏi Việt Nam từ 3-5 năm trước vì bị đàn áp tôn giáo. Họ cho biết đã bị cướp đất đai, đánh đập, bỏ tù. Gia đình người H'Mông đông con, kể cả cha mẹ già, thường từ 7 đến 10 người, thuê căn hộ nhỏ trong khu chung cư, nóng nực, chật chội, không giường chiếu, bàn tủ, với giá khoảng 100 dollar một tháng, chưa kể tiền điện nước. 

hmong2

Một góc phòng dành cho các thứ ve, chai, thùng carton lượm về, chất đống chờ bán đồng nát. Để trang trải sinh hoạt phí, người lớn trong gia đình vơ vào bất cứ việc gì có thể với tiền công rẻ chỉ bằng 1 phần 3 công nhân Thái, họ phải làm việc cự nhọc, nguy hiểm hơn. Vừa làm, vừa trốn cảnh sát, hết sức nhịn nhục các công nhân Thái cùng làm, tránh đụng chạm, sợ bị trả thù. Họ ngồi nhà trông ngóng người trung gian công việc đến gọi đi làm, Rất may mắn nếu cả tuần làm được đủ 6,7 ngày. Ít ngày làm việc, thậm chí không có ngày nào, họ phải cắn răng nặn ra những đồng tiền dành dụm từ vài tháng trước để trang trải đủ thứ. 

3hmong3

Các gia đình chúng tôi dến thăm thường thấy người lớn ngồi bó gối, bên các đứa nhỏ ngủ mê mệt trên nền xi măng nóng bức, hiếm nhà có quạt máy. Họ chỉ cho chúng tôi mấy túi gạo, mấy chai dầu nhận được từ nhà thờ, cơ quan cứu trợ, hay từ Phủ Cao Ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc và những rổ rau, củ, quả lượm được từ ngoài chợ.

hmong4

Mỗi tuần họ có hai ngày đi nhặt các thứ ngoài chợ vứt đi. Thứ bảy, chủ nhật không có cảnh sát, họ dậy từ sáng sớm, đến các chợ gần nhà, chờ các cửa hàng đổ bỏ hàng cũ, chọn lựa, lượm về những thứ có thể còn dùng được.

hmong5

Quần áo cũ cho người lớn, trẻ em thường dễ lựa chọn ở các nhà thờ.

Người Thái, người Việt giống nhau, dễ trộn lẫn với nhau, nhưng người tỵ nạn ra đường lúc nào cũng nơm nớp sợ bị bắt, bị tống vào, chỉ được tha khi bằng lòng ký giấy trở lại Việt Nam. Người có việc ra ngoài luôn để trong túi vài trăm baht đề phòng cảnh sát bắt, bỏ của chạy lấy người. Một người kể, khi anh mới trốn khỏi Việt Nam, lớ ngớ bị cảnh sát tóm, bảo anh cho coi giấy tờ. Thấy 200 đô anh dành từ Việt Nam để trong ví, y chộp lấy, bỏ túi, chỉ phía trước quát xí xa xi xồ. Dù không biết tiếng Thái, anh cũng đoán được ý, chạy vắt giò lên cổ. Dù vậy, người tỵ nạn nói thà ở tù Thái Lan chứ nhất định không trở về vì sợ sự trả thù của chính quyền Việt Nam. Ông Lor Nhia Thao, đã bị giam giữ tại Thái Lan hơn 10 năm, nhất quyết không chịu ký giấy trở lại Việt Nam. Theo luật, người nhập cư lậu hay người đã có quy chế tỵ nạn chờ định cư tại nước thứ 3, bị cảnh sát bắt đều phải ở tù. Một mục sư, gia đình đã có quy chế tỵ nạn, bị bắt khi đi làm, phải ở tù hơn một năm, cho tới ngày gia đình ông được Hoa kỳ nhận. Những người trong nhà ông phải đến trình diện cảnh sát để cùng vào tù trước khi được tha đi. 

Một trong những an ủi cho dân tỵ nạn là chuyện con cái họ được ăn, học đàng hoàng.

Mặc kệ mấy ông lãnh đạo ở Việt Nam nói gì thì nói về chuyện chính phủ chăm sóc trẻ em, chuyện lo cho giáo dục tốn hàng trăm, ngàn tỷ, tôi chỉ mong các trẻ em ở Việt Nam được theo học trường như con người tị nạn tại Thái Lan.

hmong6

Minh 6 tuổi (hình trên), con một gia đình trốn khỏi Việt Nam vì bị đàn áp tôn giáo. Cho đến nay họ vẫn chưa được cấp quy chế tị nạn của Liên Hiệp Quốc. Gia đình không được hưởng bất cứ quyền lợi nào, họ có thể bị cảnh sát bắt giữ, tống vào trại giam. Minh được nhận vào trường sơ, tiểu học (Primary school) của phủ tỵ nạn. Người ta không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì để em có thể vào học. Em được phát 2 bộ đồng phục, người lớn trong nhà được thẻ vé xe buyt miễn phí để đưa, đón em đến trường. Lớp học từ 9 giờ sáng, 12 giờ ăn trưa, món ăn thay đổi mỗi ngày, kèm theo trứng, sữa và trái cây. Sau bữa ăn các em phải ngủ 2 tiếng đồng hồ và gia đình đến đón lúc 2g30. Chương trình học gồm Anh văn, tiếng Thái và Toán. Gia đình không phải đóng thêm một đồng nào cho nhà trường.

Hai chị của Minh, Một mới nghỉ học năm trước vì quá 16 tuổi, chị thứ 2 vẫn đi học, đồng phục, sách vở, ăn trưa và tiền xe buýt vẫn được cung cấp. Hai chị em học gần nhau, cho nên chị Minh đưa, đón em, dùng thẻ xe buýt của Minh, và dôi ra được phần tiền xe của mình.

Tôi có dịp ngồi ăn cơm với nhiều gia đình H'Mông ở đây. Dù nghèo khổ nhưng người ta vẫn chưa thoát khỏi tục lệ ăn uống phí phạm khi mời khách tại quê nhà.

Tôi đã khổ vì những bữa ăn với họ. Người H'Mông có câu : Chết cũng không được từ chối bữa ăn được mời. Không mời khách là không quý khách, mà được mời, không đi là coi thường chủ. 

Dù ở Sơn La, Hà Giang, Điện Biên, hay Lào, Miến Điện, chúng tôi đều đã khổ bị đám đông điệu đi, hay rước đi, hiểu theo nghĩa nào cũng được, từ nhà này sang nhà khác. Rồi lại ngồi xuống với những người trong đám rước, cùng một món ăn y như bữa vừa xong, thịt heo, hay gà rang mặn, rau cải luộc, muối hạt đâm ớt. Ăn, nhậu không phải với bia, mà là sữa. Chúa ơi, từ hồi nhận Tin Lành, họ bỏ thuốc phiện, bỏ cả thuốc lá, rượu, bia để ‘nhậu’ với sữa đậu nành, hoặc với một thứ nước màu tím nhạt rất đẹp, lạt nhách, vô vị, nấu từ một thứ gỗ tôi quên mất tên, nhưng được bảo là tốt cho gan, thận, tì, vị, v.. v..Họ cụng các hộp sữa đậu nành với nhau, khà một tiếng, rồi gắp thức ăn cho người khác ! Tôi nghĩ nếu không có khách, bữa cơm của họ chỉ có rau luộc và muối ớt.

Với những người H'Mông tỵ nạn ở Bangkok, dù phải chắt chiu từng đồng, bữa ăn mời khách của họ có phong phú hơn, nhưng nạn phải ‘dẫn độ’ từ nhà này đến nhà khác vẫn không tránh khỏi. Tôi đã nhiều lần khuyên họ bỏ tục lệ phí phạm, mất thì giờ, hại sức khỏe nhưng không được. Họ nại lý do lâu lắm mới có khách từ xa đến. Đi thăm một nhà, từ lúc 5, 6 giờ chiều, sẽ phải ra về sớm nhất lúc 12 giờ đêm từ một nhà khác với cảm giác óc ách trong bụng, đau nhừ từ cổ đến mông vì phải ngồi xếp bằng dưới sàn nhà hàng bao nhiêu tiếng đồng hồ.

Trong những bữa ăn, ký ức về Việt Nam lần nào cũng trôi trở lại với nhiều ngậm ngùi, đau xót, trộn lẫn với những lo âu nếu không được cấp chứng nhận quy chế tỵ nạn, làm nhiều người khóc.

Một người đàn ông, gia đình đã có được quy chế tỵ nạn, khi tôi hỏi Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn đã hỏi anh những gì để cấp chứng chỉ hợp lệ tình trạng tỵ nạn cho anh. Nước mắt long lanh, anh không trả lời.

Anh cũng như những người khác phải kể lại những hoàn cảnh bi đát họ trải qua. Anh phải trưng ra bằng chứng, hình ảnh của cha, mẹ, anh em ruột thịt bị bắt bớ, bị tra tấn, bị giết trong tù. Càng nhiều chứng cứ củng cố cho tình trạng bị bức hại có liên quan đến anh được nêu ra bao nhiêu, nỗi đau đã lên da non, bỗng chốc lại phải xé toạc ra lớn hơn bấy nhiêu. Anh phải phơi bày tất cả thầm kín, riêng tư của mình, xới tung những gì đã chôn chặt cho người khác thấy. Cuộc phỏng vấn không chỉ một lần, nó lập đi lập lại bởi các người chuyên môn có tài tìm ra sự giả dối. Ký ức anh bị cả người phỏng vấn và chính anh xới tung lên, bươi móc, phơi ra với máu và nước mắt, với những vết thương của roi đòn tra tấn như mưng mủ trở lại. Anh bạn tôi sau lần phỏng vấn đầu tiên về, đêm ngủ, mơ thấy các vết roi, cú đánh, đá trên người bỗng sống lại trên khắp cơ thế. Anh kêu khóc lăn lộn trên giường. Thần kinh trên da anh phản ứng ngược lại các hành động trấn an, xoa bóp, xức dầu nóng của vợ anh. Mỗi hành động chăn sóc của chị biến thành những roi vọt, đấm đá liên tục giáng trên người anh. 

Người khác nhìn thấy thân nhân của mình hiện về với khuôn mặt phù nề bị thắt cổ, hay bụng bị mổ toang khi cơ thể bị đem đi xét nghiệm.

Phỏng vấn để cấp chứng nhận quy chế tỵ nạn với những người phải trốn chạy khác hẳn những lần bị chấp pháp Việt Nam thẩm cung. Đối đầu với những lần bị la hét, đánh đập, tra khảo trong trại tạm giam, tinh thần họ thành chai cứng, lì lợm, sẵn sàng nhận đòn thù, sẵn sàng nhận cả các hình phạt họ không lường trước. Phản ứng của họ có thể phẫn nộ, có thể dẫn đến thái độ, hành động chống lại người chấp pháp, và kết quả có thể là cái chết tức tưởi. Sau các buổi đi cung, họ trở về phòng giam, với thân thể mềm nhũn, tâm trạng có thể đau buồn, thù hằn, cũng có thể kiêu hãnh, bằng lòng với chính mình. Các cuộc phỏng vấn nhận quy chế tỵ nạn không như vậy, nó diễn ra giữa hai bên đang cùng cố tìm ra sự thật, với hộp giấy thấm nước mắt để sẵn trên bàn, cực kỳ đau thương. Giống như một cuộc quật mồ, hai bên cùng cố đào lên để nhìn thấy sự bi đát, thối rữa đã bị chôn vùi. Cả hai bên hợp tác thân thiện, nhưng không kém phần cứng rắn, đau khổ. Ánh mắt người phỏng vấn cho thấy trái tim họ không vô cảm, nhưng tìm ra bằng chứng sự thật sau các lời khai, là bổn phận, và tính công bằng, nhân đạo của họ.

Không ít người bị từ chối cấp giấy chứng nhận quy chế tỵ nạn. Tôi không biết tương lai của những người đó và gia đình sẽ ra sao.Mấy tuần lễ trước dây, hàng trăm người Thượng tỵ nạn ; cả những dứa bé đang ngồi trong trường học đã bị chính quyền Thái giăng lưới bắt trọn.

Tôi đã cố tình không hỏi họ biết gì về Vương quốc H'Mông của chính quyền Việt Nam. Tôi không dám để họ nghe về một thứ tội vô hình họ phải gánh. Không nên quàng lên thêm trên cổ họ một nỗi lo sợ mà tôi nghĩ là kinh khủng nhất, tội bỏ trốn khỏi Việt Nam để thành lập một Vương Quốc H'Mông nhằm lật đổ chính quyền nhân dân mà chính phủ Việt Nam xâm trên trán họ.

Tôi đã không nghe, không thấy về một Vương Quốc H'Mông như chính quyền Việt Nam nói trên xứ Thái, Miến qua những phần đất chúng tôi đã đến, với những người H'Mông chúng tôi tiếp xúc.

Vài ngày sau, chúng tôi đến biên giới Việt Lào, những vùng đất có thể là căn cứ địa của Vương Quốc này.

Quang Nguyên

Nguồn : VNTB, 18/08/2018

Published in Văn hóa
mardi, 09 octobre 2018 21:36

Đi tìm Vương quốc H'Mông - 3

Kỳ III

Đi tìm anh em lạc loài

 

Sau 5 giờ đồng hồ đi taxi, với 3 lần đổi xe, từ Chiang Mai, Thái Lan chúng tôi đến cửa khẩu Chiang Rai chung biên giới với tỉnh Tacheleak, bang Shan, nước Cộng hòa Liên bang Myanmar. Thành phố này có tên tiếng Anh City of Golden Triangle.

mong1

Thành phố Tam giác vàng

Gọi là Tam giác Vàng vì nó nằm ngay biên giới Miến Thái Lào.

Trằn trọc qua một đêm trong cái gọi là hotel bẩn thỉu của ngươi Hoa ngay bên cạnh cửa khẩu. Thức dậy sớm, tắm rửa cho hết mùi hôi từ chăn gối của cái khách sạn Tàu thổ tả mà giá đắt gấp đôi ở Bangkok, chúng tôi đi bộ qua cửa khẩu sau khi ních no bụng tô bún ngon tuyệt của người bán rong, với giá bằng 1/5 Đôla. 

mong2

Họa đồ cửa khẩu biên giới Thái-Miến

Hai cửa khẩu Thái Miến cách nhau cây cầu, vắt qua một dòng sông nhỏ nước cuồn cuộn, vàng phù sa. Cả hai bên đất Thái, Miến đều đông người của nhiều sắc dân. Đàn bà ở đây nhiều người bôi một lớp bột mỏng màu vàng trên mặt (tanaka).

mong3

Tại cửa khẩu Thái, người ta đóng một con dấu vào passport của chúng tôi. Tại cửa khẩu Miến, người ta cấp cho chúng tôi thẻ re-entry permit có chụp hình, cho phép chúng tôi đi lại trong tỉnh này thời hạn 14 ngày.

Nhưng, chúng tôi cần đến chỗ chúng tôi muốn.

Hai người ra đón chúng tôi, Mùa và Pao phải mất 6 giờ đồng hồ để chạy xe gắn máy, vượt đoạn đường đầy bùn 100km. Họ gặp chúng tôi với vẻ mặt sáng ngời, nụ cười ngoạc đến mang tai, phô hàm răng trắng bóng có chiếc bọc vàng, nhưng nhìn họ đầy làm lũ. Cả hai đều gốc Lào Kay đã ra khỏi quê hương, lẩn trốn 7 năm trên đất Miến. Tôi cảm thấy ấm lòng khi gặp được họ, tuy không khỏi ngậm ngùi.

Hai người đến sau, ăn mặc tươm tất. Một người gốc H'Mông, gia đình sinh sống ở Yangon từ nhiều thế hệ. Anh sẽ là người thông dịch tiếng Miến cho chúng tôi. Gia đình anh cũng như gia đình các dân tộc thiểu số khác chỉ được cấp sổ hộ khẩu, nhưng không ai có căn cước. Mấy năm gần đây, chính phủ Miển đàn áp các nhóm dân tộc thiểu số, gia đình anh chạy trốn, đến sống chung với những người cùng sắc tộc H'Mông chạy nạn từ Việt Nam sang. Những người không tổ quốc, không quốc tịch, không giấy tờ tùy thân, cùng bị đối xử bất công lây lất với nhau trốn tránh cường quyền tại các vùng rải rác trên đất Miến.

Tôi được giới thiệu là phóng viên Việt Nam Thời Báo. Họ có vẻ rất ngạc nhiên và vui mừng khi được sự quan tâm của một tờ báo. Tôi nói qua người thông dịch về tờ báo, có một sự hiểu nhầm gì đó khi phiên dịch, khiến họ cùng vui mừng reo lên bằng tiếng Việt "Việt Nam Cộng Hòa ?" làm tôi hơi ngỡ ngàng. Điều gì khiến những người sinh tại miền Bắc, hầu hết sau năm 1975 có phản ứng tích cực khi nghe đến danh hiệu một quốc gia đã thất trận, đã không còn nữa ? Tôi phải giải thích kỹ hơn về tờ báo.

Chúng tôi lấy một chiếc gọi là taxi ra bến xe để đến điểm chúng tôi muốn. Chiếc taxi không khác chiếc xe chở heo nọc gieo giống ở Việt Nam, chỉ khác có hai bằng ghế. Tài xế taxi chở chúng tôi vòng vèo qua các ngõ ngách rồi đến một chỗ gọi là bến xe mà thoạt đầu tôi tưởng là một nơi sửa xe.

Cò kè để được giá 2500 kyat bao xe đi 100 cây số, chúng tôi hy vọng sẽ gặp những người muốn gặp vào buổi tối.

Vừa yên chỗ, người có vẻ chủ xe đến, đòi xem giấy tờ. Ông ta lắc đầu nguầy nguậy từ chối không chở chúng tôi. Tờ re-entry permit cấp tại cửa khẩu giá 500 bath mỗi tờ, chỉ cho phép chúng tôi đi loanh quanh trong thành phố. Cảnh sát sẽ phạt rất nặng người chở chúng tôi. Chúng tôi đành trở lại cửa khẩu định xin visa để có thể đi ra ngoài tỉnh.

mong4

Tại cửa khẩu, họ bảo không có quyền cấp visa. Muốn có visa, chúng tôi phải trở lại Thái, xin qua mạng, rồi nhập khẩu qua sân bay, thời gian để được cấp visa khoảng 2 tuần. Chúng tôi không đủ thời gian làm như vậy. Họ đề nghị chúng tôi một giải pháp là cho một người đi theo chúng tôi, cùng với người này, chúng tôi có thể đi đến bất cứ chỗ nào trong tỉnh, với điều kiện chúng tôi phải trả cho họ 2500 bath, tiền Thái, gần 100 đôla một ngày, kèm tiền ăn, ở, tiền xe. Điều khó chịu không thể chấp nhận được là người này phải được tham dự các cuộc tiếp xúc của chúng tôi với bất cứ người bản xứ nào.

Đến đây thì tôi thông cảm hoàn toàn những người bạn Myanmar của tôi hoạt động trong các tổ chức dân sự về những lời phiền trách của họ đối với bà Aung San Kyu Suu, lãnh đạo quốc gia, từng là khôi nguyên giải Nobel Hòa bình. Trước kia họ đã từng kỳ vọng vào bà như thế nào!

Dù sao, đêm nay chúng tôi cũng được ngủ trong một cái khách sạn đúng nghĩa, có máy lạnh, có Wi-Fi,chăn nệm thơm tho trên đất Miến mà giá chỉ bằng 2/3 cái hắc điếm của bọn Tàu trên đất Thái.

Quang Nguyên

Nguồn : VNTB, 18/09/2018

Published in Văn hóa
mardi, 09 octobre 2018 22:06

Đi tìm Vương quốc H'Mông - 2

Ky 2

Những anh em lạc loài ở Miến

Sau khi cò kè mãi chúng tôi cũng được một tài xế taxi bằng lòng đưa từ Chieng Mai lên Chieng Rai chỉ với giá đáng ngạc nhiên 1800 baht, so với những người khác đòi 3000 baht.

Chúng tôi có hẹn với những người dẫn đường bên kia biên giới Miến trước lúc hải quan Miến,Thái đóng cửa 7 giờ tối.

Chạy được khoảng 1 tiếng rưỡi, bác tài xế lễ phép bảo chúng tôi sang một taxi vừa chở hai người khách Âu Châu từ Chieng Rai về. Sau khi dặn chúng tôi không trả thêm một đồng nào cho người chạy thay, ông ta chở hai người Âu Châu ngược về Chieng Mai, Chúng tôi đi tiếp Chieng Rai.

hmong1

Không thấy một Vương quốc H'Mông đâu, chỉ thấy những đứa bé trần truồng lê la đất bùn, những người thiếu thốn vật chất đủ bề

Đang ngủ gật, chúng tôi nghe tài xế bảo chạy xe liên tục từ sáng nên rất mệt, ông ta sẽ gọi một người bạn chở chúng tôi hết đoạn đường cuối, chúng tôi đồng ý. Hai xe gặp nhau giữa đường, Sau khi nghe dặn dò không phải trả thêm tiền, hai tài xế giúp chúng tôi mang đồ sang xe.

Trời sập tối, mưa như trút, hai chiếc gạt nước trên kính xe phầm phậm lia lịa vẫn khó thấy đường, chiếc xe rẽ nước như tàu thủy trên xa lộ. Chúng tôi đến sau khi cửa khẩu đóng. Ông tài xế từ chối lời chúng tôi mời ăn tối, ông bảo nhà ông cũng loanh quanh trong thành phố. Ông ta lái chầm chậm theo lề đường cho chúng tôi tìm một khách sạn rẻ tiền, nhìn bề ngoài tươm tất, vác ba lô, đội mưa chạy ù vào.

Đó là một cái hắc điếm trong chuyện Tàu. Những người tiếp tân rặc Tàu. Không ăn thịt người, nhưng nó ăn thịt chúng tôi với giá một đêm gần gấp đôi tiền phải trả cho một khách sạn tương đương ở Bangkok. Ngay sau quầy lễ tân, là cả một sự lộn xộn, nhếch nhác khác hẳn sự ngăn nắp sạch sẽ chúng tôi thấy ở mọi nơi có dịp qua trên xứ Thái. 

Khách sạn, nhà hàng này có hai phần, phần trước gồm khu tiếp tân và các bàn ăn. Bắt qua một cái cầu trên con lạch nước cuồn cuộn, đục ngầu phù sa là khu các phòng ngủ. Ông Tàu già cầm chìa khóa, chỉ chúng tôi căn phòng trong một ‘ngõ hẻm’ rồi thoắt cái biến mất. Tôi cố mãi mới mở, đẩy được cánh cửa cũ kỹ, nặng nề, kẽo kẹt. Mùi hôi mốc sộc vào mũi khiến tôi phải lùi lại, đi ra kêu thay phòng khác. Khốn nỗi, mới thoắt đó, cánh cửa trên cây cầu đã khóa chặt, ‘bell boy già Tàu’ cũng biến dạng, kêu mãi chẳng thấy ai.

Mở cái quạt trần duy nhất, tưởng cho bớt mùi hôi, nào ngờ các thứ mùi đang yên nghỉ trong các ngóc ngách được đánh thức, chúng thoải mái vùng lên chiếm ngự căn phòng hẹp té. Không có điện thoại gọi tiếp tân. Nhịn đói, tắm vội dưới vòi nước lạnh, rồi lăn quay trên chiếc giường cứng ngắc, drap rách, hôi hám. Tưởng mệt sẽ ngủ qua, nào ngờ mùi hôi từ chăn gối chọc vào mũi, không ngủ được. Sáng dậy thật sớm, tắm kỹ cho bớt mùi hôi bám đầy người, chúng tôi uể oải kéo vali, vác balo ra. Lúc này ‘cánh cửa tù’ bắt qua con lạch đã mở. Không thấy tiếp tân đâu, chỉ thấy một chị, mặt trát một thứ bột vàng vàng, nhoe nhoét trên hai má đang ngồi lặt rau, toe toét nhìn chúng tôi cười. Gặp người vui tính, tôi chỉ chỏ, ý hỏi thứ bột vàng bôi trên mặt là gì, chị ta bẽn lẽn cười bảo đó là rễ cây, mài ra, bôi cho trắng da. Không biết chúng tôi hiểu có đúng ‘ngôn ngử chỉ chỏ’ của nhau không, nhưng tôi không thấy cô nào da trắng lại bôi thứ này. Tiệm bán đồ làm đẹp cho qúy nương nương cũng bán mấy thứ thuốc làm trắng da.

Bù lại nỗi bực mình, mất ngủ, đói từ trưa hôm qua, chúng tôi may mắn gặp được một chiếc xe đẩy hàng rong tuyệt ngon và rẻ, chỉ 20 baht một tô bún, hoặc chan nước giống như riêu cua, hoặc trộn khô với cà ry và đủ thứ bày trên xe. Bà hàng rong khác với nhiều người, từ các bé gái nhỏ đến các bà sồn sồn bôi thứ bột vàng trên mặt. Hai chúng tôi không dại gì mà không kêu hai tô khác nhau. Ăn xong, ông thần khẩu tham ăn và cái bụng còn đói meo bảo phải gọi thêm hai tô khác nhau nữa. Mấy ngày sau trở về từ Miến Điện, dù bụng đói, chúng tôi cố kéo vali đi tìm bà này, tiếc thay không gặp.

Chúng tôi dễ dàng qua khẩu Thái, qua cầu biên giới, chợt nhớ bài hát cùng tên của Phạm Duy, nhưng trong hoàn cảnh này không hợp tí nào. Dưới cầu nước cuồn cuộn, sánh phù sa ; một nhánh con lạch rẽ về hướng hắc điếm tối qua chúng tôi lạc vào.

Hải quan Miến bảo chúng tôi nộp 1000 baht cho hai tờ Entry Permit. Họ giữ passport, dặn khi nào về thì trả lại. Vùng tiểu bang Shan, khách sạn, lái xe ôm, người bán rong, cảnh sát hải quan, ngay cả bọn ăn cướp đều chuộng tiền Thái.

Xế trưa, những người chúng tôi muốn găp mới đến. Sau khi ăn uống, chúng tôi vội vã gọi taxi ra bến xe. Chiếc taxi đi lòng vòng qua mấy con hẻm dẫn chúng tôi nơi mà thoạt đầu tôi tưởng là một cái garage sửa xe với những chiếc xe lôi đóng đầy bụi, vài chiếc xe đang sửa và chỉ có một chiếc xe 15 chỗ ngồi. Vừa yên chỗ, một người có lẽ là chủ xe đến hỏi chúng tôi đi đâu, ông bảo chúng tôi cho xem giấy tờ, rồi giẫy nẩy lên bảo chúng tôi xuống cho nhanh như đuổi hủi. Ông cho biết tờ entry permit chỉ cho phép chúng tôi đi loanh quanh trong nội ô thành phố. Xe chở chúng tôi ra khỏi thành phố sẽ bị phạt rất nặng, còn bị giam xe. Ông bảo chúng tôi phải có visa. Chúng tôi gạ trả giá cao cho vài người lái taxi, xe ôm, nhưng tất cả họ đều đòi xem giấy tờ và từ chối thẳng thừng. Lếch thếch trở lại của hải quan xin visa, họ từ chối. Nếu muốn có visa chúng tôi phải trở về Bangkok, xin tòa đại sứ Miến. Tuy vậy, nếu chúng tôi muốn du lịch ngoài thành phố, đến khắp nơi trong tiểu bang Shan, họ có thể cung cấp cho chúng tôi một người lái xe đưa đến bất cứ chỗ nào, với điều kiện là tiền xe 100 dollar một ngày, cộng với tiền xăng, tiền ăn, ngủ cho tài xế và nhất là người đi theo này có quyền ‘chĩa mũi’ vào bất cứ chuyện gì chúng tôi trao đổi với người địa phương.

Bực bội, chúng tôi đi tìm khách sạn và gọi về Hoa Kỳ. Chúng tôi có một vài người bạn, những người này chỉ cách cho chúng tôi đến được chỗ chúng tôi muốn.

Chúng tôi đã đến được chỗ chúng tôi muốn an toàn, nhưng không kém phần khó nhọc (*).

Chúng tôi đã đến với những người H'Mông lữ hành, Exodus, trốn tránh người Ai Cập thời hiện đại. Họ ở đâu đó trong vùng phía bắc tiểu bang Shan, giáp ranh biên giới Miến, Trung, Lào. Chúng tôi đã nghe họ khóc, nghe họ kể chuyện. Chúng tôi đã ăn chung một tô cơm, chấm chung một bát muối ớt, ngủ bên cạnh họ trên nền đất bazan lổn nhổn đá và dứt tay với họ ra đi, bất lực nhìn cuộc sống của họ trôi dạt không biết sẽ về đâu để bảo vệ niềm tin họ mới chấp nhận, nhưng đã cắm rễ rất sâu trong lòng họ.

Chẳng thấy dấu vết Vương quốc H'Mông mà nhà nước Việt Nam gán cho họ đâu nơi 54 gia đình chúng tôi găp, và khoảng 600 trăm gia đình chúng tôi được biết, nhóm 5, nhóm 7, trong cả hai vùng giao tranh giữa Liên Bang Miến và Miến Điện Mới, tiểu bang Shan, nơi không xa biên giới Trung Quốc, Thái, Lào. Chúng tôi chỉ thấy một đời sống nhọc nhằn, vô định của những người chân đất để bảo vệ niềm tin của họ. Họ sống trong âu lo, sợ hãi, trôi nổi như những bầy kiến tổ bị lụt nước tôi thường chăm chú nhìn theo hồi còn bé, chúng bám lấy nhau từng đàn, từng dề. Bầy kiến trong cơn mưa lũ bám chặt lấy nhau, ôm chặt lấy trứng, mặc dòng nước cuốn đi, cố gắng bảo vệ sự sống còn và tương lai của cộng đồng. Tương lai và lẽ sống của cộng đồng H'Mông theo đạo Tin Lành chính là đức tin của họ.

Chúng tôi chỉ thấy những người thật thà, chân phương, nhút nhát như nai, như thỏ mà đối với chính quyền Việt Nam họ là người đang âm mưu thành lập một Vương quốc H'Mông nhằm xóa bỏ nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với chính phủ Miến, họ là những người nhập cư bất hợp pháp. Sự thật, họ là những người đang trốn tránh tận sâu trong rừng rú hẻo lánh để tìm nơi có thể được tự do thờ phượng và thực thi lòng tin của họ với đấng Cứu Thế, Chúa Giê-Su, mà ở Việt Nam bị gán là một thứ tà giáo cần phải loại bỏ.

Mỉa mai thay, những nơi họ đến, có tự do tôn giáo, nhưng không có đất cho họ dựng nên chỉ một nơi thờ phượng nho nhỏ ngoài căn nhà của họ. Đất đai không thuộc về họ. Ngay cả khi có người nằm xuống, xác phải cho trôi sông, hoặc bị đốt, tro trải trong rừng. Họ bị ruồng bắt bởi cả 3 chính quyền, Việt Nam, chính quyền Liên bang Miến và chính quyền Miến Điện Mới.

Cuộc sống của họ không ngớt bị đe dọa. Để có thể yên thân trong vùng Miến Điện Mới, một người đàn ông trong gia đình phải đi lính, suốt đời và không lương. Gia đình phải di chuyển theo đơn vị của người lính này.

Điều kiện để gia đình ở lại trong vùng đất của chính quyền Liên Bang cũng gần giống vậy, chỉ khác người đi lính phải sống trong quân đội đến 50 tuổi.

Nhập ngũ, cầm súng giết người để được ở yên, trái với lời dậy yêu thương kẻ thù và sự hòa bình của Chúa mà họ mới tìm được. Họ chỉ biết trốn chạy. Thân phận vô tổ quốc nổi trôi nơi lưu đầy còn tệ mạt hơn những người Bohemian Âu châu. Họ nghi ngờ người lạ mặt, nhất là nghi ngờ bất cứ người Kinh nào. Với họ, những người H'Mông tin Lành đang phải trốn chạy chính quyền Việt Nam, người Kinh là bộ mặt của sự đe dọa, sự bắt bớ, trừng phạt, bắt bỏ niềm tin tôn giáo họ vừa mở mắt nhìn thấy. ‘Người Kinh’ gán ghép, vu khống họ vào tội "thiết lập vùng an toàn dọc theo các biên giới Lào, Trung, Việt, Miến trong chiến lược lập một Vương quốc H'Mông", gieo vào các chính quyền quốc gia có chung biên giới với Việt Nam, ngay cả Miến Điện, sự nghi ngờ, săn lùng, xua đuổi họ. Chính những ‘người Kinh’ có chức, có quyền, có dùi cui, có còng số 8, có súng đạn đã làm hoen ố hình ảnh của tất cả các người Kinh khác. Những ‘người-Kinh-bắt-đạo’ là nguyên cớ của sự nghi kỵ, chia rẽ Kinh-Thượng, chia rẽ dân tộc.

Không thấy dấu vết của một Vương quốc H'Mông nhằm xóa bỏ nhà nước Việt Nam đâu, chỉ thấy một nhóm người tan tác. Già làng, trưởng bản của họ cũng thất lạc nơi nao. Sống ở bản làng xưa, truyền thống tôn trọng, tuân theo già làng, trưởng bản của họ khiến họ giờ như con chim mất định hướng, con rắn mất đầu. Chúng tôi ngồi nghe họ than thở, bây giờ chẳng biết nghe ai, theo ai, giờ mỗi người một ý, mỗi người một đường. Không ai trong họ có thể dám nói chuyện với chính quyền địa phương, và nói cho dân thuận lòng. Mỗi lần bị ruồng bắt, mạnh người nào người nấy bồng bế con, cõng cha mẹ già trốn. Như đám bèo, tụ rồi tan, tan rồi tụ. Chỉ giờ cầu nguyện là lúc nối kết với nhau. Họ cầu xin Chúa cho có một mục sư hay chí ít một thày giảng đạo đến với họ để nghe dậy bảo, nhưng họa chăng có phép lạ.

Không thấy một Vương quốc H'Mông đâu, chỉ thấy những đứa bé trần truồng lê la đất bùn, những người thiếu thốn vật chất đủ bề. Chưa khai khẩn được nương, phần lớn họ làm công cho chủ đồn điền trồng chuối gần đó nếu không thể đi hơn 50 cây số đường rừng sang trồng chuối bên Trung Quốc.

Không thấy một vương quốc H'Mông nào, nhưng thực tế sờ sờ trước mắt, cuộc sống của họ đang trong tay những ông vua Trung Quốc to, nhỏ. Kẻ là đầu nậu trung gian, kẻ là chủ đồn điền trồng chuối.

Chúng tôi bỏ lại cộng đồng dân cư người H'Mông đang trốn tránh chính quyền Miến Điện và Việt Nam để về xuôi. Bỏ lại họ với những vấn đề của họ mà chúng tôi chỉ biết bó tay cúi đầu thở dài, bất lực, bỏ lại họ với cái tội chết bị kết án bởi chính quyền Việt Nam : "[…]âm mưu, hoạt động nằm trong chiến lược "Diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. [...] là mũi nhọn, ngòi nổ tiến công để phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, kích động ly khai, tự trị, lập "Nhà nước- Vương quốc" trong vùng dân tộc thiểu số, tiến tới mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam".

Quang Nguyên

Nguồn : VNTB, 13/09/2018

(*) Xem thêm :

1. https://www.youtube.com/watch?v=h5PeGvENBVI&t=623s

2. https://www.youtube.com/watch?v=Tx7a3ynmGwg&t=457s

3. https://www.youtube.com/watch?v=6KIII06k6vs&t=31s

4. https://www.youtube.com/watch?v=MCIJtW87bVo

5. https://www.youtube.com/watch?v=dDSz7EBJkRg

http://www.vietnamthoibao.org/2018/09/vntb-ky-su-mien-ien-i-tim-anh-em-lac.html

http://www.vietnamthoibao.org/2018/08/vntb-ky-su-mien-ien-i-tim-anh-em-lac.html

http://www.vietnamthoibao.org/2018/08/vntb-ky-su-mien-ien-i-tim-anh-em-lac_11.html

Published in Văn hóa