Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Phỏng vấn chuyên đề : "Chính sách của nhà nước Việt Nam đối với các sắc dân bản địa".

Làm sao để người Chăm tồn tại với bản sắc thêm 4 thế hệ nữa trước khi mất hút vào Bảo tàng nhân loại !

Cuộc phỏng vấn được thực hiện với ông Lưu Quang Sáng (Amuchandra Luu), sinh tại Phan Rang, hiện sống và làm việc tại California. Thạc sĩ toán và có gần 20 năm giảng dạy ở trường đại học cộng đồng tại thủ phủ Sacramento, California, Hoa Kỳ. Tổng thư ký Hội Bảo tồn văn hóa truyền thống Champa USA, qua 7 nhiệm kỳ chủ tịch.

cham1

Katê là lễ hội dân gian có từ lâu đời và đặc sắc nhất của người Chăm theo đạo Bàlamôn ở Bình Thuận.

Song Chi : Thưa ông, chúng ta bắt đầu bằng sự phân biệt những cụm từ "dân tộc thiểu số, người thiểu số" và "dân tộc bản địa, sắc dân bản địa". Nếu để ý chúng ta sẽ thấy nhà nước Việt Nam luôn luôn dùng cụm từ "dân tộc thiểu số, người thiểu số" mà không dùng cụm từ thứ hai. Thưa ông, tại sao như vậy và ở Việt Nam, có người bản địa hay không ?

Lưu Quang Sáng : Định nghĩa thì hơi dông dài. Tôi lấy một ví dụ để nói lên tất cả : "Ngưởi Việt tại Mỹ là dân tộc thiểu số, và người Da Đỏ là dân tộc bản địa của Mỹ". Từ đó ta suy ra cộng đồng các dân tộc Champa là những sắc dân bản địa Việt Nam và người Hoa tại Việt Nam là dân tộc thiểu số. Chối bỏ sự thật chỉ cho thế giới biết chúng ta mãi mãi nằm ở Thế giới thứ ba. Các nước văn minh đều công nhận dân tộc bản địa, tại sao chúng ta không ?

Song Chi : Trước đây khi còn ở Việt Nam đi làm phim tài liệu liên quan đến các sắc dân bản địa vào những năm 2000s, tôi đã nhận thấy văn hóa, bản sắc của một số sắc dân bản địa ở Tây Nguyên, hay phía Bắc Việt Nam, dần dần bị "biến mất" : từ nhà cửa (nhà sàn chuyển thành nhà gạch, mái bằng như người Kinh), trang phục, lễ hội v.v… Trong nhiều năm, nhà nước Việt Nam đã thi hành chính sách "đồng hóa" dần dần về ngôn ngữ, phong tục tập quán cho tới "lấn sân" (ở những nơi như Tây Nguyên thì cho người Kinh – đa số là người Thanh Hóa, Nghệ An… lên định cư làm ăn sinh sống, đẩy dần đồng bào bản địa vào rừng sâu), hoặc lấy mất đất, mất rừng, tách các dân tộc bản địa ra khỏi khu vực mà tổ tiên ngàn đời của họ đã sinh sống… So với các sắc dân bản địa này, dân tộc Chăm nhờ có chữ viết, có nền văn hóa dày dặn, cư ngụ ở vùng đồng bằng nên có vẻ ít bị thiệt hại hơn. Nhưng xin ông cho biết, việc dạy và học tiếng Chăm của người Chăm ra sao, có được thoải mái không, người Chăm có bị các chính sách "đồng hóa" hay bị hạn chế gì về mặt văn hóa không ?

Lưu Quang Sáng : Đây là chủ đề rất rộng, tôi tạm đề cập ba khía cạnh.

Trước năm 1975, cộng đồng người Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận ở An Phước và Phan Lý Chàm đều có cơ quan hành chính do người Chăm tự quản. Tất cả từ Quận trưởng cho đến nhân viên đều là người Chăm. Tổ chức như thế rất thuận tiện cho việc giải quyết vấn đề liên quan đến phong tục tập quán đặc thù, mà vẫn đảm bảo an ninh chung. Sau 1975 khi hai miền Nam-Bắc gom về một, cả hai quận này bị giải thể và quyền tự quản đã mất hẳn. Hơn nữa ruộng nhà, ruộng lệ, ruộng làng đều mất nên tổ chức xã hội truyền thống dần bị phá vỡ, ảnh hưởng xấu đến đời sống cũng như tâm linh, nhất là quyền lợi của những chức sắc bản địa đều bị xóa sạch.

Trường Trung học Pô-Klong do bà con Chăm xây dựng, đa phần thầy giáo là người Chăm, còn học sinh tuyệt đại đa số là con em Chăm. Sau này chính thế hệ học sinh từ Pô-Klong ra, đã đóng góp rất nhiều cho đất nước. Thế mà sau 1975, trường cũng bị giải thể. Biết là Trường Pô-Klong là khuôn mẫu giáo dục Chăm theo chương trình giáo dục quốc gia, vừa đậm bản sắc dân tộc vừa hiện đại.

Về ngôn ngữ, người Chăm có chữ viết sớm và họ rất trân quý ngôn ngữ dân tộc mình. Lối dạy truyền thống là cha dạy con, ông dạy cháu ở mỗi gia đình. Năm 1978, Chính phủ thành lập Ban Biên soạn sách chữ Chăm là điều đáng ghi nhận. Ban đã tổ chức soạn sách giáo khoa Ngữ văn Chăm cấp Một dạy cho con em Chăm tại các trường Tiểu học trong hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Từ đó Ban này đã đào tạo cả vạn người Chăm biết chữ mẹ đẻ. Tiếc rằng sau 30 năm, Ban cũng bị giải thể, hiện chỉ còn một cán bộ chuyên trách trong Sở Giáo dục.

Song Chi : Thực tế tại Việt Nam cho thấy, đàn áp tôn giáo là một chính sách xuyên suốt bao nhiêu năm nay của chế độ độc tài toàn trị, đối với các sắc dân bản địa thậm chí còn hà khắc hơn, hệ quả là lâu nay trong số người Việt chạy sang Campuchia, Thái Lan xin tỵ nạn, rất nhiều người thuộc các sắc dân bản địa và vì lý do bị đàn áp tôn giáo như người H'mong, người Ê đê theo đạo Tin Lành, người Khơ Me theo đạo Phật, v.v… Còn cộng đồng người Chăm thì sao, có gặp khó khăn gì trong việc bảo vệ và thực hành tôn giáo của mình không thưa ông ?

Lưu Quang Sáng : Sinh hoạt tâm linh của cộng đồng Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận không thuần tôn giáo, mà bao gồm cả phong tục tập quán. Nhìn trước được tương lai không mấy tươi đẹp, ông bà Chăm đã khôn khéo lồng tất cả truyền thống văn hóa, phong tục tập quán vào trong tôn giáo bản địa Ahier-Awal. Biến mọi thứ thành vấn đề tâm linh để con cháu dễ lưu truyền. Nói chung tôn giáo bản địa Champa không có mối liên kết với thế giới bên ngoài nên những cụm từ "diễn biến hòa bình, lợi dụng tự do tôn giáo, thế lực thù địch kích động…" không được nhà nước Việt Nam áp dụng cho dân tộc Chăm. Nhìn chung sinh hoạt tín ngưỡng của người Chăm, Nhà nước Việt Nam không có gì cản trở cả. Chỉ có điểm nóng duy nhất và mang tính nguy cơ là tên tôn giáo Bà-ni bị nhà nước gom thành Hồi giáo gây nhức nhối cho bộ phận người Chăm theo tôn giáo Bà-ni.

cham2

Cứ đến những ngày cuối tháng 8 lịch đạo Bà-ni, đồng bào Chăm Bà Ni ở các làng lo sắm các lễ vật để chuẩn bị cho lễ tảo mộ.

Song Chi : Trước và sau 1975, tín đồ theo tôn giáo dân tộc này đều được ghi là "Tôn giáo : Bà-ni" trong mọi loại giấy tờ hành chính. Rồi không hiểu nguyên do từ đâu, năm 2015, tất cả đều chuyển qua "Tôn giáo : Đạo Hồi". Hơn nữa trong Danh mục Tôn giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, con số tín đồ Bà-ni đều bị dồn qua Hồi giáo. Tên Tôn giáo Bà-ni biến mất một cách vô cớ. Ông nghĩ sao về vấn đề này ?

Lưu Quang Sáng : Theo một nguồn dư luận thì Nhà nước Việt Nam có hai dự án để xin viện trợ, gọi nôm na là dự án Ấn Độ và dự án Ả Rập. Dùng Bà La Môn và đền tháp chịu ành hưởng văn hóa Ấn Độ để xin viện trợ từ Ấn Độ. Gom Bà-ni thành Hồi giáo để lấy lòng thế giới Hồi giáo và xin viện trợ từ thế giới Hồi giáo. Một nguồn dư luận khác thì nói vì dân tộc Chăm hiền hòa và thanh bình quá nên Nhà nước cần tạo sự xung khắc nội bộ, và cách dễ nhất là xung đột tôn giáo. Còn sự thật thế nào chỉ có Nhà nước Việt Nam biết. Riêng tôi thì cho dù lý do gì, gom một tôn giáo độc lập vào một tôn giáo khác là một việc mà một nhà nước không nên làm. Đặc biệt người Chăm luôn tự hào là một dân tộc duy nhất trên thế giới hóa giải và hòa giải được sự xung khắc giữa Ấn giáo và Hồi giáo. Khi Việt Nam công nhận dân tộc Chăm là dân tộc bản địa thì Việt Nam tự hào là quốc gia duy nhất có một dân tộc bản địa hòa giải sự xung khắc giữ Ấn giáo và Hồi giáo, một nguồn cảm hứng và một thông điệp hòa bình cho nhân loại.

Song Chi : Được biết, bà con đã gửi nhiều đơn thư lên Tỉnh và Trung ương, đến nay vẫn chưa giải quyết. Ông nghĩ về chuyện này người Chăm Bà-ni có thể chấp nhận hay không ?

Lưu Quang Sáng : Chấp nhận hay không, điều này rất dễ kiểm chứng. Chỉ cần Chính phủ cho trưng cầu dân ý thì có kết quà ngay. Chứ mở một hội thảo vài chục người rồi biểu quyết theo định hướng là không ổn. Hồi giáo là một tôn giáo chuộng sự đồng đạo, vậy mà tại các nước Hồi giáo vẫn có các tôn giáo khác tồn tại. Tại sao chính phủ Việt Nam lại xóa bỏ Bà-ni ra khỏi danh sách tôn giáo của Chính phủ ?

Song Chi : Chỉ tính riêng từ năm 1954 trở lại đây, người Thượng ở Tây Nguyên có lịch sử thường xuyên xung đột với người Kinh, còn sau tháng 4/1975 ít nhất từng có vài cuộc biểu tình lớn, nhỏ nổ ra ở Tây Nguyên những năm 2001, 2004, 2008… Vì sao điều đó không xảy ra với người Chăm ?

Lưu Quang Sáng : Câu này cho tôi trả lời sự thật theo cách trào phúng hay ai oán cũng được. Các dân tộc bản địa Tây Nguyên còn nhiều thứ để mất như đất đai, không gian văn hóa, tự do tôn giáo, công bằng đối xử v.v. nên họ phải biểu tình để đòi. Còn người Chăm không còn gì nữa để mất nên họ không biểu tình. Hơn nữa mật độ "an ninh" trong cộng đồng người Chăm là một kèm một như bóng đá. Nên các bạn trẻ hay ví von "Người Chăm sống ở Việt Nam là an toàn nhất thế giới vì được công an theo dõi bảo vệ 24/24". Năm 2019, tôi về Việt Nam và cũng được công an theo "bảo vệ" như thế.

Song Chi : Theo ông, chính sách đối với các sắc dân bản địa của nhà nước Việt Nam lâu nay có những gì không đúng và nhà nước cần phải có những thay đổi gì ?

Lưu Quang Sáng : Nhân mùa lễ Tạ ơn của nước Mỹ, xin lấy nước Mỹ làm ví dụ. Bài học lịch sử đầu tiên mà người Mỹ dạy công dân ở lớp mẫu giáo là bài học về Lễ Tạ ơn Thanksgiving. Qua lễ này họ dạy về những người Da Đỏ và những người Châu Âu di dân đầu tiên. Qua đó họ giáo dục về người bản địa và ý thức bản địa lớn dần theo thời gian. Nên mọi mọi người Mỹ đều có ý thức về người bản địa và chung tay vun đắp cho cộng đồng bản địa. Dĩ nhiên chúng ta có quyền được mơ Việt Nam sẽ giáo dục về ý thức bản địa và công nhận quyền bản địa. Hiện tại, ít nhất phải có cách răn đe với những người kỳ thị chủng tộc, nhất là những video clips phát tán xuyên tạc về những người bản địa, hoặc những phát ngôn khiếm nhã về những người bản địa. Ngoài ra Chính phủ phải miễn học phí cho học sinh người bản địa đến hết bậc Trung học.

Song Chi : Theo ông, nỗi niềm ưu tư lớn nhất của người Chăm hiện nay là gì ?

Lưu Quang Sáng : Niềm ưu tư lớn nhất của người Chăm hiện này là làm sao tồn tại với bản sắc thêm 4 thế hệ nữa trước khi mất hút vào Bảo tàng Nhân loại. Với tốc độ đồng hóa như hiện nay, và khi người Việt Nam hiểu được câu "Sống có nghĩa là Tạ ơn" như người Mỹ thì người Chăm đã đến và đã đi.

Song Chi : Xin cảm ơn ông đã nhận trả lời phỏng vấn.

Song Chi (thực hiện)

Nguồn : RFA, 02/11/2023

Published in Diễn đàn
dimanche, 20 août 2023 12:40

Nguồn gốc người Chăm ở Việt Nam

Quá trình biến mất của vương quốc Champa

Nguồn : Những vấn đề địa lý, 05/04/2023

Published in Tư liệu

Trong cuộc chiến 'nồi da xáo thịt' giữa hai miền Nam - Bắc Việt Nam (1954-1975), có 'một lực lượng không nhỏ' binh lính, sĩ quan, nhân sự các lĩnh vực trong hệ thống bộ máy chính thể Việt Nam Cộng Hòa là người thiểu số miền Trung và Tây Nguyên, bao gồm những sắc dân gốc gác Chăm, Ê Đê, Raglay v.v...

cham0

Người Chăm trong một ngày lễ hội ở Phan Rang

Sau sự kiện lịch sử 30/04 đầy chết chóc, tang thương và sụp đổ ấy, trong hàng triệu sinh linh người Việt bỏ nước ra đi, kéo theo hệ lụy hàng trăm, hàng ngàn số phận chưa là tử sĩ sắc dân thiểu số cũng nằm chung cảnh huống 'chết bờ chết bụi', bị tù đày cải tạo, truy xét lý lịch hoặc phân biệt đối xử thậm tệ trong cuộc sống thường nhật.

Hậu chính sách cải tạo của 'bên thắng cuộc', một bộ phận rất nhỏ bé thôi trong lực lượng không nhỏ ấy, nhận được những 'cánh tay ơn nghĩa' giang ra giúp đỡ, dù muộn màng từ chính sách H.O của chính phủ Hoa Kỳ.

Song đến thời điểm hiện nay, dù đã 45 năm trôi qua, di sản của nỗi bi kịch khổng lồ ấy dường như vẫn không thể nào phai nhòe, bớt ám ảnh những người một thời 'trong cuộc' khiến dây dưa vắt sang cả những thế hệ tiếp nối.

Lát cắt người thân bất hạnh

Theo lời kể từ những cấp dưới của cha tôi, cách đây hơn hai mươi năm, khi họ tề tựu chung quanh quan tài ngày ông mất, trước 30/4/1975, ông là một sĩ quan người Chăm phụ trách tuyển quân bổ sung vào các vùng chiến sự, trực thuộc Tổng khu hành dinh Phan Thiết.

Sau 'tháng Tư đen tối' đó, ông trở thành tù cải tạo vài năm, ra tù tay trắng cùng đàn con nheo nhóc, vô công rỗi nghề lại bị chính quyền mới đưa vào diện theo dõi quản thúc, phân biệt đối xử, chèn ép thô bạo khiến tinh thần ông tổn thương nặng nề.

Cha mất khi tôi còn rất bé, nhưng những trang nhật ký để lại, được mẹ tôi đem cất giữ kĩ lưỡng, sau này bất ngờ lục lọi trong đống giấy tờ cũ, có dịp đọc đã khiến tôi khóc nhiều và thương cha hơn bao giờ hết.

Tiếc là cách đây bảy, tám năm, trước khi qua đời, mẹ tôi bị lẫn nên trong một lần nhóm bếp nấu cơm đã đem đốt sạch bút tích của cha.

Bác trai tôi, một người lính thủy quân lục chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã kinh qua nhiều chiến sự khốc liệt ở Plei Ku, Buôn Mê Thuột, sau khi bị đạn ghim vào đầu, vào chân trở thành thương phế binh lúc tỉnh lúc mơ.

Khi chính quyền mới vào tiếp quản, bác mất hết chế độ khám chữa bệnh, tiền trợ cấp.

Cách đây hai năm, có lần tôi ghé thăm nhà lúc bác tỉnh táo, mới hay bác mình giờ chỉ sống rặt với kí ức năm tháng tuổi trẻ và luôn tự hào kể về những trận đánh của bác và đồng đội, lúc ở đồng bằng khi ở đồi dốc.

cham2

Cuộc sống kinh tế hôm nay của người Chăm nói chung, sau 45 năm được 'giải phóng' cũng còn chật vật, đếm đong từng bữa, bệnh tật cũng ít có điều kiện được chăm sóc y tế tốt nhất

Nhiều lần, bác hay than phiền về sự hành hạ của vỏ đạn còn nằm trong đầu mình, nó khiến bác mệt mỏi nhức nhối. Những lúc tột cùng đau đớn, nửa đêm tôi còn nghe tiếng bác hét bi thương vượt qua năm, sáu mái nhà vọng vào cửa sổ mở hé để làn gió lùa vào nơi tôi ngủ.

Ít tháng sau thì bác mất trong hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu, không có đồng đội đến phúng viếng.

Vài số phận may mắn

Cộng đồng người Chăm ở hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận, hầu hết đều biết và có thể kể vanh vách về những giai thoại 'đánh giặc' của Thiếu tá Thêm, Trung tá Sở.

Họ là những quân nhân người Chăm đầu tiên đeo lon cấp tá trong lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cũng là những người nổi tiếng chiến đấu gan dạ mưu lược, dũng cảm bất khuất, kiên cường bất chấp hiểm nguy trước lối đánh du kích ưa chuộng của du kích cộng sản.

Theo nhiều cụ ông Chăm cho biết, Thiếu tá Thổ Thêm, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 320, quận Thiện Giáo (nay là huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận) luôn là nỗi khiếp sợ kinh hồn bạt vía của đối phương.

Ở nhiều trận chiến, ông đã thoát chết một cách thần kỳ bởi những bẫy bom mìn được cài dày đặc, những kẻ nằm vùng chỉ điểm, những trận đánh khốc liệt... Người Chăm kháo nhau rằng ông có bùa hộ mệnh của ông bà tổ tiên lận trong người. Thậm chí, nhiều người còn thêu dệt chuyện ông dùng bùa ngải của người Miên, người Lào tặng.

Nhiều nguồn tin kể lại, sau ngày 30/4, ông bị đem đi cải tạo tận ngoài Bắc để cho các lãnh đạo xem mặt 'hung thần' một thời, coi như ra đi bặt tăm tích, không có ngày trở về quê hương, hoặc bi kịch tù đày cải tạo chết mất xác như cách chính quyền cộng sản thủ tiêu Phó Tổng thống Fulro Huỳnh Ngọc Sắn, người làng dệt thổ cẩm truyền thống Chăm Mỹ Nghiệp ngày nay.

Tuy nhiên, có một sự kiện hy hữu tình cờ cứu được ông, trong khi cả làng ông không trông mong hi vọng gì về ngày trở về.

Đó là chuyện người lính 'thiếu niên' Bắc Việt gầy gò, xanh xao năm xưa, trong một trận giao tranh nọ, có lần ông trỗi niềm thương cảm cứu sống, lúc bấy giờ đang làm lớn trong quân đội "bên thắng cuộc".

Một dịp vô tình vào thăm trại tù đã nhận ra vị ân nhân bên kia chiến tuyến năm xưa của mình, nên đã ra tay nghĩa hiệp, bảo lãnh và giúp tiền tàu xe cho ông được về quê nhà sau hơn thập niên cải tạo. Thiếu tá Thêm mất ở quê nhà khi tuổi già sức yếu.

Một buổi chiều cuối tháng Tư rất nóng, tôi ghé về làng Chăm Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, quê hương của Trung tá Dương Tấn Sở để tìm hiểu tiểu sử, giai thoại về ông.

Qua những người thân cận, được biết, ông xuất thân từ trường Võ bị Đà Lạt, là người học cao hiểu rộng, am hiểu sâu sắc văn hóa mẹ đẻ.

Ông được bổ nhiệm làm Quận trưởng Quận An Phước (nay là huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) khi còn rất trẻ. Thuở làm quận trưởng, ông có vài xích mích với các tướng lĩnh Sài Gòn chỉ vì bênh vực người Chăm của mình.

Năm 1965 ông là người đưa ra ý tưởng 'phần hội' chủ yếu tạo cho không khí tưng bừng, sinh động hơn đối với lễ hội Kate. Ngày nay, lễ hội truyền thống này được biết đến rộng rãi, nổi tiếng nhất của cộng đồng Chăm nhờ có được các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao bổ trợ.

cham3

Lễ hội Kate của người Chăm ở Bình Thuận

Sau 30/4, ông bị bắt đi tù cải tạo 5 năm, quản thúc tại gia 3 năm, hết thời hạn đó, ông đã cùng gia đình qua Hoa Kỳ định cư theo diện H.O năm 1994.

Khoảng thời gian sau đó, ông bị bệnh nặng tai, di chứng của hàng trăm lần tham gia chiến sự lẫn vai trò lãnh đạo quân sự. Ông mất đột ngột ở tiểu bang California bởi tai nạn giao thông năm 2009, được bạn bè đồng ngũ, đồng niên vinh danh theo nghi thức quân đội Hoa Kỳ.

Ngoài những số phận đó, người Chăm chỉ có thêm ít ỏi những quân nhân lẫn những người phục vụ bên lãnh vực dân sự khác đã được diện H.O cứu xét định cư, lưu vong bên các xứ sở văn minh.

Hiện nay, dù tuổi cao sức yếu họ vẫn còn sống như là những chứng nhân một thời oanh liệt như các ông Lưu Quang Sang, cựu dân biểu nghị viện Sài Gòn, ông Đặng Chánh Anh, Quận trưởng Phan Lý Chàm... góp vào bức tranh đa sắc tộc Hoa Kỳ thêm một tộc người thiểu số mới mẻ : người Chăm xứ Cờ Hoa.

45 năm sau giải phóng…

Nhà thơ cộng sản Nguyễn Duy có hai câu thơ khái quát về sự đương nhiên thất bại của người dân, mặc dù chính thể nào đó có giành lấy được chiến thắng : "Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh. Phe nào thắng thì nhân dân đều bại". Tôi xin phép trích dẫn hai câu thơ này để phác họa số phận của những người Chăm trong cuộc chiến, bất kể cuộc chiến nào trong lịch sử gần hoặc xa, họ đều trở nên bất hạnh, làm vật tế thần và thất bại thảm thương.

Từ cuộc chiến giữa Tây Sơn với nhà Nguyễn, giữa nhà Nguyễn với Lê Văn Khôi, chiến trận nào cũng có người Chăm, người thiểu số khác tham gia, nhưng những kẻ lên ngôi chiến thắng luôn nhanh chóng lãng quên quyền lợi dân tộc thiểu số, hoặc giả nhớ mà ban phát quyền lợi rất ư kẻ cả.

Đến cuộc chiến ý thức hệ (1954-1975), phần lớn người Chăm 'ở lại', đi theo chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Ít ỏi đếm trên đầu ngón tay thì bị dụ dỗ, thoát ly lên rừng theo Việt cộng và bất ngờ giành chiến thắng lịch sử. Nhưng rốt cuộc đến nay, số phận của những người theo hoặc không theo bên này bên kia, xét cho công bằng cũng không sáng sủa là mấy.

Cuộc sống kinh tế hôm nay của người Chăm nói chung, sau 45 năm được 'giải phóng' cũng còn chật vật, đếm đong từng bữa, bệnh tật cũng ít có điều kiện được chăm sóc y tế tốt nhất. Đối với những gia đình 'ngụy quân ngụy quyền' còn kẹt lại, các thế hệ con cháu có nguyện vọng làm việc trong chế độ mới thì việc bị thẩm tra lý lịch ba đời vô cùng gắt gao, khốc liệt.

Với những nhà hoạt động, tranh đấu cho tự do dân chủ người Chăm thì bị tù tội, triệt đường kinh tế, theo dõi, nghe lén điện thoại, khủng bố đủ kiểu.

Chính sách cộng cư, xen cư, chia nhỏ không gian thôn xóm làng mạc ngày nay cũng phần nào phá vỡ cấu trúc xã hội mẫu hệ Chăm.

Ngôn ngữ Chăm ngày càng rơi rụng, nhiều nhà khoa học, trí thức Chăm uy tín cũng đã gióng hồi chuông cảnh báo nguy cơ trở thành tử ngữ cao. Đền tháp Chăm thì bị tịch thu, quản lý yếu kém. Tín ngưỡng tôn giáo bị siết chặt, lũng đoạn, sắp xếp người thân chính quyền và can thiệp thô bạo.

Bản sắc văn hóa Chăm rõ ràng ngày càng phai nhạt, lai căng và mất mát từng ngày từng giờ không gì cứu vãn nổi.

Đó là tổng thể thảm trạng văn hóa - xã hội, đời sống - kinh tế của người Chăm nói riêng, dân tộc Việt nói chung sau 45 năm dưới sự lãnh đạo đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam.

Một thảm trạng đầy chấp vá, hoàng kim của nỗi buồn, lạc lõng đến quái dị và xám xịt đến u mê, trái ngược vời vợi đối với xu thế chung của xã hội văn minh, tiến bộ.

Đồng Chuông Tử

Nguồn : BBC, 27/04/2020

Tác giả Đồng Chuông Tử, một nhà thơ, nhà báo tự do, nghiên cứu văn hóa Chăm, hiện đang sống và làm việc tại Ninh Thuận - Bình Thuận, Việt Nam.

Published in Diễn đàn

Người Chăm và người Thượng tại Việt Nam

Nguyễn Văn Huy, tháng 01/2002

 

Thư tịch

 

Về người Thượng và người Chăm tại Việt Nam

 

champa1

 

Những tài liệu nghiên cứu được sắp xếp theo chuyên đề và theo tứ tự abc (bằng tiếng Pháp cũng như tiếng Việt, tài liệu tập thể hay cá nhân).

Những nguồn tài liệu bằng Pháp ngữ, đặc biệt là các tập san, được ghi bằng chữ tắt, chẳng hạn như :

BAVH    : Bulletin des Amis du Vieux Huế.

BEFEO   : Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême-Orient.

PEFEO   : Publication de l’Ecole Française d’Extrême-Orient.

BIIEH    : Bulletin de l’Institut Indochinois de l’Etude de l’Homme.

BSEI     : Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises.

 

***************

 

I. Tổng quát

 

A. Tập bản đồ, Niên giám, Từ điển

-     Annuaire administratif de l’Indochine 1938-1939, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoi, 1938, 1074 p.

-     Annuaire administratif des services communs de l’Indochine 1947, Imprimerie de l’Union, Saigon, 1949, 367 p.

-     Atlas du Vietnam, Vũ Tự Lập & Christian Taillard, Reclus - La documentation française, Collection Dynamique du Territoire, Paris, 1994, 421 p.

- CARATINI Roger, Dictionnaire des nationalités et des minorités de l’ex-URSS, Larousse, Paris, 1992, 255 p.

-     DOUDART de Lagrée Ernest Marie Louis (capitaine de frégate), Atlas du voyage d’exploration en Indochine effectué pendant les années 1866-1868, publié sous la direction du lieutenant de vaisseau Francis Garnier, Dessin du lieutenant de vaisseau Delaporte, Hachette, Paris, 1873, 2 vol.

-     Danh mục các dân tộc Việt Nam (Références des ethnies au Vietnam), Institut d’Ethnologie, Revue d’Ethnologie n° 4-1978, Hanoi, Hanoi, 1978, pp 54-60.

-     Số liệu thống kê CHXHCN Việt Nam, 1976-1990 (Données statistiques de la RSV de 1976 à 1990), Institut des Statistiques, Département des statistiques, Hanoi, 1991, 179 p.

NGUYỄN Huyền Anh, Việt Nam danh nhân tự điển (Dictionnaire des personnalités au Việt Nam), Zieleks, Houston, 1981, 557 p.

 

B. Nhân chủng học, dân tộc học

-     BALANDIER Georges, Anthropologie politique, PUF. 2e Edition, Quadrige, Paris, 1991, 240 p.

-     LAPLANTINE François, L’Anthropologie, Editions Seghers, Paris, 1987, 223 p.

-     LEVI-STRAUSS Claude, Anthropologie structurale, Plon, Paris, 1958, 478 p.

-     WOLTERS Oliver WoltersHistory, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives since 1982, Southeast Asian Program, Cornell University, Ithaca, New York, in cooperation with The Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 1999, 272 p. 

-     SERVER Jean, L’Ethnologie, PUF, 2e Edition, Paris, 1986, 127 p.

 

C. Chính trị

-     Les minorités à l’âge de l’Etat-Nation, François Thierry, Groupement pour les Droits des Minorités, Géopolitiques et Stratégies, Fayard, Paris, 1985, 320 p :

  • Empire et minorité en Chine (pp 125-162), René Tangac ;
  • La réponse soviétique au problème des minorités (pp 163-187).

 

-     BARREAU Jean-Claude, De l’immigration en général et de la nation française en particulier, Le Pré aux Clercs, Paris, 1992, 206 p.

-     BURDEAU Georges, La démocratie, Seuil, Paris, 1966, 186 p.

-     CARRÈRE d’ENCAUSSE Hélène :

  • Lénine - La révolution et le pouvoir, Flammarion, Paris, 1979, 297 p.
  • L’ordre par la terreur, Flammarion, Paris, 1979, 294 p.

-     GIRARDET Raoul, Le nationalisme français - Anthologie 1871 - 1914, Seuil, Paris, 1983, 280 p.

-     JAULIN Robert, La paix blanche - Introduction à l’ethnocide, Seuil, Paris, 1970, 424 p.

-     HỒ Chí Minh, Về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội (A propos de la révolution socialiste et l’élaboration du socialisme au Vietnam), Sự Thật, Hanoi, 1975, 229 p.

D. Lịch sử thuộc địa

-     Histoire de la France coloniale, des origines à 1914, Jean Meyer, Jean Tarrade, Annie Rey-Goldzeiguer et Jacques Thobie, Armand Colin, Paris, 1991, 847 p.

-     Histoire de la France coloniale, 1914-1990, divers sujets traités par Jacques Thobie, Gilbert Meynier, Catherine Coquery-Vidrovitch, Charles-Robert Ageron, Armand Colin, Paris, 1990, 655 p.

-     La France colonisatrice, Liana Levi - Sylvie Messinger, textes réunis par Nicole Prillaud, illustrations de Cham, préface de Patrice de Beer, Les reporteurs de l’histoire, Paris, 1983, 254 p.

-     DALLOZ Jacques, Textes sur la décolonisation, PUF, Paris, 1989, 125 p.

-     FERRO Marc, Histoire des colonisations - des conquêtes aux indépendances XIIIe - XIXe siècle, Seuil, Paris, 1994, 525 p.

-     GAILLARD Jean-Michel, Jules Ferry, Paris, Fayard, 1989, 730 p.

-     GRIMAL Henri, La décolonisation de 1919 à nos jours, revue et mise à jour, Complexe, Paris, 1985, 351 p.

-     MARTIN Jean, Lexique de la colonisation française, Dalloz, Paris, 1988, 395 p.

 

 

II. Châu Á, Đông Nam Á và Đông Dương

 

A. Châu Á, Đông Nam Á

-     Enfants et sociétés de l’Asie du Sud-Est, textes réunis par Jeannine Koubi et Josianne Massard-Vincent, L’Harmattan, Paris, 1994, 371 p.

-     La Chine au XXe siècle - de 1949 à aujourd’hui, Marie-Claire Bergère, Lucien Bianco et Jürgen Domes, Librairie Arthème Fayard, Paris, 1990, 448 p.

-     CHEN Jian, China and the first Indochina war, 1950-1954, in The China Quartely, lecture lue à la 5ème Convention des historiens chinois aux Etats-Unis organisée à Clark University, Août 1993, pp 85-110.

-     ELISSEEFF Vadime et Danielle, La civilisation de la Chine classique, Collection Les Grandes civilisations dirigée par Raymond Bloch, Arthaud, Paris, 1987, 504 p.

-     LEBRA Joyce C., Japan’s Greater East Asia Co-prosperity Sphere in World War II, selected readings and documents, Oxford University Press, 1975, 212 p.

-     RICHIER Philippe, L’Asie du Sud-Est - Indépendances et communismes, Collection Notre Siècle dirigée par Jean-Baptiste Duroselle, Imprimerie nationale, Paris, 1981, 430 p.

-     Thư tịch cổ Việt Nam viết về Ðông Nam Á, phần Chân Lạp (Archives antiques du Vietnam à propos du Sud Est Asiatique : Le Chenla), documents confidentiels (inédits), rassemblés par Nguyễn Lệ Thi, Institut scientifique et social du Vietnam, Comité Sud-Est Asiatique, Hanoi, 1977, 374 p dactylographiées.

 

B. Đông Dương

-     Indochine - La colonisation ambiguë - 1858-1954, Pierre Brocheux et Daniel Hémery, La Découverte, Paris, 1995, 427 p.

-     Introduction à la connaissance de la péninsule indochinoise, Centre d’Histoire et Civilisations de la Péninsule Indochinoise, Paris, 1983, 145 p.

-     L’Indochine - Histoire d’un siècle (1843-1944), Les grands dossiers de l’Illustration - Journal Universel, Préface de Philippe Franchini, Le Livre de Paris, 1987, 191 p.

-     AYMONIER Etienne, Un aperçu de l’histoire du Cambodge, Augustin Challamel, Paris, 1918, 38p.

-     CHARBONNEAU René, La longue marche française en Indochine et en Chine 1945-1946, AC.SC., vol. 37, Février 1977, pp 51-68.

-     COLANI Madeleine, Recherche sur le préhistorique indochinois, BEFEO, vol. 30, Hanoi, 127 p.

-     CONBOY Kenneth, War in Laos 1954 - 1975, Vietnam studies group, Squadron/Signal publications, Carrollton, Texas, 1994, 65 p.

-     DALLOZ Jacques, La guerre d’Indochine 1945-1954, Seuil, Paris, 1987, 316 p.

-     FRANCHINI Philippe, Les guerres d’Indochine - Des origines de la présence française à l’engrenage du conflit international, Pygmalion - Gérard Watelet, Paris, 1988, 438 p.

-     FRANCO Guido, Mékong - du Laos au Vietnam, après de dégel, avec la colaboration de Raphaël Franco, Autrement, Série Monde H.S., n°63, Paris, 1992, 259 p.

-     FREDERIC Louis, La vie quotidienne dans la péninsule indochinoise à l’époque d’Angkor (800-1300), Hachette, Paris, 1981, 414 p.

-     HALL (D.G.E), A History of South-East Asia (Ðông Nam A sử lược), traduction en vietnamien par Nguyễn Phút Tấn, Khai Trí, Saigon, 1968, 1.028 p.

-     LE MIRE Henri, Les Paras français, la guerre d’Indochine, Princesse, Paris,1977,199 p.

-     MAK Phœun, Histoire du Cambodge de la fin du XVIe siècle au début du XVIIIe siècle, PEFEO, Paris, 1995, 495 p.

-     MAK Phœun & KHIN Sok, Chroniques royales du Cambodge (traduction française avec comparaison des différentes versions et introduction), Collection Textes et documents sur l’Indochine :

  • Tome 1 : Des origines légendaires jusqu’à Paramaraja 1er, Paris, 1984, 466 p ;
  • Tome 2 : De Bena Yat à la prise de Lanvæk (1417-1595), Paris, 1988, 473 p ;
  • Tome 3 : De 1594 à 1677, Paris, 1981, 473 p.

-     MEYER Charles, La vie quotidienne des Français en Indochine, 1860-1910, Hachette, Paris, 1985, 298 p.

-     NEPOTE Jacques, Indochine : Laos - Cambodge - Vietnam, Olizane, Genève, 1990, 396 p.

-     ROBBINS Christopher, The ravens - The men who flew in America’s secret war in Laos, Military History, Crown, New York, 1987, 420 p.

-     RUSCIO Alain, 1945-1954 La guerre française d’Indochine, La Mémoire du siècle, Complexe, Bruxelles, 1992, 279 p.

-     Về lịch sử & văn hóa ba nước Ðông Dương (A propos de l’histoire et de la culture des trois pays d’Indochine), Institut de l’Extrême-Orient, Comité des Scienes sociales du Vietnam, Hanoi, 1983, 343 p.

 

 

III. Việt Nam

 

A. Lịch sử tổng quát

-     L’affrontement - L’histoire vécue de la guerre du Viet-Nam, NAM, 52 chapitres, 6 porfolio, 1 chronologie de la guerre et 1 index, traduction et adaptation : Bénédicte Duchet, Ilona Papal, révision historique : Jean-Pierre Gillet, Atlas, Paris, 1988, pp 321-634.

-     L’engagement - L’histoire vécue de la guerre du Viet-Nam, NAM, 62 chapitres, 11 portfolio, traduction et adaptation : Bénédicte Duchet, Ilona Papal, révision historique : Jean-Pierre Gillet, Atlas, Paris, 1988, pp. 1-320.

-     Le Dai Viet et ses voisins, d’après le Ðại Việt sử ký toàn thư (Mémoires historiques du Dai Viet au complet), traduction par Bùi Quang Tùng et Nguyễn Hương, revue et annotée par Nguyễn Thế Anh, publié avec le concours du Centre National de la Recherche Scientifique, Centre d’Histoire et Civilisations de la Péninsule Indochinoise, L’Harmattan, Paris, 1990, 155 p.

-     Saigon 1925-1945, de la "belle colonie" à l’éclosion révolutionnaire ou la fin des dieux blancs, Autrement, Paris, 1992, 263 p.

-     Viet Nam - L’histoire, la terre, les hommes, textes rassemblés et présentés par Alain Ruscio, Collection "Péninsule Indochinoise", L’Harmattan, Paris, 1990, 437 p.

-     Viet Nam - La route mandarine, Jacques Népote & Xavier Guillaume, Guides Olizane, Genève, 4-1993, 312 p.

-     BISSACHÈRE (de la), Etat actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des royaumes de Cambodge, Laos, Lac Tho, 2 vol., Galignani, Paris, 1812.

-     BODARD Lucien, Les dossiers secrets du Pentagone, Presses de la Cité, Paris, 1971, 282 p.

-     BORRI Chritoforo, Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie du Jésus royaume de la Cochinchine, traduction de l’italien par le P.Antoine de la Croix, réédition, BVAH, Juillet-Décembre, pp 259-407 (complet).

-     CADIÈRE L., Première étude sur les sources annamites de l’histoire d’Annam, BEFEO, tome IV, n° 3, Hanoi, Juil.-Sept. 1904, pp 615-671.

-     COATALEM Jean-Luc, Nouvelles chroniques vietnamiennes, Vietnam récit de voyage, in GEO n°182, Paris, Avril 1994, pp 70-112.

-     COLBY William, 30 ans de C.I.A (Honorable men - My life in the CIA), avec la collaboration de Peter Forbath, traduit de l’américain par Jean-Pierre Carasso, Presses de la Renaissance, Paris, 1978, 377 p.

-     ÐẶNG Phương Nghi, Les institutions publiques du Vietnam au XVIIIe siècle, PEFEO, Paris, 1969, 146 p.

-     DEVILLERS Philippe, LACOUTURE Jean, Vietnam - De la guerre française à la guerre américaine, Collections esprit "Frontière ouverte", Seuil, Paris, 1969, 428 p.

-     DORGELÈS Roland, Sur la route mandarine, Albin Michel, Paris, 1925, 315 p.

-     FALL Bernard, Le Vietminh - La République Démocratique du Vietnam (1945 - 1960), Cahiers de la Fondation nationale des sciences sociales, A. Colin, Paris, 1960, 377 p.

-     FERAY Pierre-Richard, Le Viet Nam (des origines lointaines à nos jours), PUF, Paris, 1984, 128 p.

-     FITZGERALD Frances, Fire in the lake, the Vietnamese and the Americans in Vietnam, Little Brown and Company (Canada) Ltd., Boston-Toronto, 1972, 491 p.

-     KARNOW Stanley, Vietnam - Des révélations explosives sur le conflit le plus sanglant de l’après guerre, préface de Jean Lartéguy, France Loisirs, Paris, 1983, 436 p.

-     LARTEGUY Jean, Voyage au bout de la guerre, Presses de la Cité, Paris, 1971, 312 p.

-     LÊ Thành Khôi, Histoire du Viet Nam, des origines à 1858, Sudestasie, Paris, 1987, 460 p.

-     LINDHOLM Richard W., Viet Nam : the first five years - an international symposium, Michigan State University Press, Boston, 1959, 364 p.

-     MUS Paul, Viet Nam - Sociologie d’une guerre, Esprit Frontière Ouverte, Seuil, Paris,1952, 374 p.

-     OURY Guy-Marie, Le Vietnam : des Martyrs et des Saints, Fayard, Paris, 1988.

-     SNEPP Franck W., Decent interval - An insider’s account of Saigon’s indecent end told by the CIA’s chief startegy analyst in Vietnam, First Vintage Books, Random House, New York, August 1978, 590 p.

-     TEULIÈRES André, La guerre du Vietnam (1945-1975), Le conflit franco-vietminh et sa suite américaine, Lavauzelle, Paris-Limoges, 1979, 256 p.

-     TODD Oliver, Cruel Avril 1975 - La chute de Saigon, Laffont, Paris, 1987, 479 p.

-     TOURNAIRE Hélène, Livre jaune du Vietnam, Librairie Académique Perrin, Paris, 1966, 350 p.

-     VILLARD E., Etude sur le droit pénal annamite, Excursions et Reconnaissances n° 13, Imprimerie du gouvernement, Saigon, 1882, pp 73-167.

-     VILLARD L., Etude sur le droit administratif annamite, Excursions et Reconnaissances, n° 11, Imprimerie du gouvernement, Saigon, 1882, pp 306-357.

-     Dự án chính trị dân chủ đa nguyên (Programme politique pour la démocratie pluraliste), Mouvement de la Démocratie Pluraliste, Paris, 1992, 69 p.

-     Ðà Lạt : thành phố cao nguyên (Dalat : La ville des Hauts Plateaux), Comité Populaire de la ville de Dalat, Editions de Hochiminhville, 1993, 392 p.

-     Ðại Việt sử ký toàn thư (Histoire du Vietnam au complet), chapitres 10, 11, 12 và 13, tome III, traduction par Cao Huy Giu, notifié par Ðào Duy Anh, Institut scientifique et social du Vietnam, Editions des Sciences sociales, Hanoi, 1972.

-     Chung một bóng cờ - Về Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (Sous le même drapeau - A propos du Front National de Libération du Sud Việt Nam), Editions de la Politique nationale, Sự Thật, Hanoi, 1993, 979 p.

-     Khảo cổ Ðồng Nai - Thời tiền sử (Archéologie de Ðồng Nai - Période préhistorique), Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn, Bùi Chí Hoàng, Comité scientifique et technique de la province de Ðồng Nai, Editions Ðồng Nai, Biên Hòa, 1991, 222 p.

-     Lịch sử Việt Nam (tập 1), thời kỳ nguyên thủy đến thế kỷ X (Histoire du Vietnam, tome 1, de ses origines au 10ème siècle), Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Editions du Ministère de l’Université et de la Formation professionnelle, Hanoi, 1991, 367 p.

-     Lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (Les forces armées populaires des Hauts Plateaux pendant la résistance contre les Américains pour le salut de la nation), Imprimerie de l’Armée Populaire, Hanoi, 1980, 389 p.

-     Nguyễn Huệ Phú Xuân (Nguyễn Huệ de Phú Xuân), divers textes rédigés par Ðỗ Bang, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lê Văn Hảo, Phan Thuận An, Mai Khắc Ứng, Editions Thuận Hóa, Huế, 1986, 177 p.

-     Thư tịch cổ Việt Nam viết về Ðông Nam A, phần Chiêm Thành, Thủy Xá, Hỏa Xá, Miến Điện, Chà Và (Archives antiques du Vietnam relatant du Sud Est Asiatique : Le Champa, le Sadet de l’Eau, le Sadet du Feu, la Birmanie, l’Indonésie), documents confidentiels (inédit), rassemblés par Nguyễn Lệ Thi, Institut scientifique et social du Vietnam, Comité Sud-Est Asiatique, Hanoi, 1978, 168 p dactylographiées.

-     Thừa Thiên phủ (La préfecture de Thừa Thiên), Ðại Nam Nhất Thống Chí (1865-1882), tập Thượng & Trung (tome I et II), traduction par Tu Trai Nguyễn Tạo, Bibliothèque de la Culture, Département de la Culture, Saigon, 1961, 143 et 141 p.

-     Tîm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh (Etudes de la pensée du président Hồ Chí Minh), Sự Thật, Hanoi, 1982, 263 p.

-     Tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa (Les provinces de Phú Yên et Khánh Hòa), Ðại Nam Nhất Thống Chí (1865-1882), tome 10 & 11, traduction par Tu Trai Nguyễn Tạo, Bibliothèque de la Culture, Département de la Culture, Saigon, 1964, 122 p.

-     Tỉnh Quảng Nam (La province de Quảng Nam), Ðại Nam Nhất Thống Chí (1865-1882), tome 5, traduction par Tu Trai Nguyễn Tạo, Bibliothèque de la Culture, Département de la Culture, Saigon, 1964, 124 p.

-     Tỉnh Quảng Trị và tỉnh Quảng Bình (Les provinces de Quảng Trị et Quảng Bình), Ðại Nam Nhất Thống Chí (1865-1882), traduction par Tu Trai Nguyễn Tạo, Bibliothèque de la Culture, Département de la Culture, Saigon, 1961, 200 p.

-     Tỉnh Thanh Hóa (La province de Thanh Hóa), Ðại Nam Nhất Thống Chí (1865-1882), tome 16, 1ère partie, traduction par A Nam Trần Tuấn Khải, Bibliothèque de la Culture, Département de la Culture, Saigon, 1960, 115 p.

-     Về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (A propos de l’établissement du socialisme au Vietnam), Sự Thật, Hanoi, 1991, 123 p.

-     Việt Nam : đất nước, lịch sử, văn hóa (Vietnam : la nation, l’histoire, la culture), Sự Thật, Hanoi, 1991, 242 p.

-     BÌNH Nguyên Lộc, Nguồn gốc mã lai của dân tộc Việt Nam (Les origines malaisiennes du peuple vietnamien), Saigon, 1971. Réédition Xuân Thu, Los Alamitos, California, 1991, 894 p.

-     CAO Văn Luận, Bên giòng lịch sử, hồi ký 1940-1965 (Sur les rives du cours de l’histoire, Mémoires 1940-1945), réédition Ðại Nam, Glendale, 1976, 455 p.

-     HOÀNG Ðạo Thúy & al., Ðất nước ta (Notre Pays), Editions des Sciences, Hanoi,1989, 646 p.

-     LÊ Quí Ðôn, Phủ biên tạp lục (Notes historiques sur le patrimoine des Nguyễn), tome I, Hanoi, Editions scientifique et sociale, réédition 1977, 348 p. Traduction revue et notifiée de l’original par Tạ Trọng Hiệp, Paris, 1994.

-     NGÔ Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí (Histoire de la dynastie des Lê), tome I, 6 chapitres, Editions de la Littérature, Hanoi, 1987, 215 p.

-     NGUYỄN Khắc Ngữ, Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa (Les derniers jours de la République du Vietnam), Groupe d’Etudes d’Histoire et de Géographie, Montréal, 1979, 430 p.

-     PHẠM Khắc Hòe, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc (De la Cour de Huế à la base de résistance Việt Bắc), Editions Thuận Hóa, Huế, 1987, 415 p.

-     PHẠM Ngọc Huyền, Việt sử đại cương (Histoire du Vietnam), Cổ Kim Thư Hương, Paris, 1984, 270 p.

-     PHẠM Văn Sơn, Việt sử tân biên (Nouvelle Edition de l’histoire du Vietnam), tome I, II, III, Văn Thái, Saigon, 1959.

-     TRẦN Phúc Long, Những trại cùi Việt Nam (Les centres de léprosie au Vietnam), Etudes exposées à la Journée Mondiale de Léprosie à Paris, The Vietnam Leprosy Guild, 1993, 102 p.

-     TRẦN Tam Tinh, Dieu et César - Les catholiques dans l’histoire du Vietnam, Sudestasie, Paris, 1978, 240 p.

-     TRẦN Trọng Kim, Việt Nam sử lược (Histoire succincte du Vietnam), tome I (280 p) & tome II (396 p), Institut de l’Asie du Sud Est, Paris, 1987.

-     VĂN Tấn, Nguyễn Huệ, con người và sự nghiệp (Nguyễn Huệ, l’homme et ses œuvres), Editions des Sciences sociales, Hanoi, 1967, 227 p.

-     VĂN Tiến Dũng (Général), Ðại thắng mùa xuân (La grande victoire du printemps), Editions de l’Armée Populaire, Hanoi, 1976, 322 p.

-     VÕ Nguyên Giáp, Về sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam (A Propos de la force générale de la révolution du Vietnam), Sự Thật, Hanoi, 90 p.

B. Văn hóa

-     Contes vietnamiens, Illustrations de Zdenka Krejcová, Adaptation française de Marie-José Lamorlette, Gründ, Paris, 1991, 208 p.

-     THÁI Văn Kiểm :

  • La plaine aux cerfs et la princesse de Jade (Etudes historico-géographiques de l’établissement des pionniers vietnamiens au Sud-Vietnam au début du XVIIe siècle), BSEI, tome XXXIV, Saigon, 1959, pp. 379-393.
  • Ðất Việt trời Nam (Le Sud Vietnam), Saigon, 1960, 608 p.

-     40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam : 1945-1985 (40 ans de la culture et de l’art des minorités ethniques du Vietnam), divers textes rédigés par Nguyễn Văn Hiếu, Nông Quốc Chấn, Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Thế Minh, Phong Lê, Đinh Văn Ðịnh, Editions de la Culture, Hanoi, 1985, 307 p.

-     Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập VI, Văn học dân tộc ít người (Recueil des poèmes du Vietnam, tome VI, Littérature des minorités ethniques), Editions de la Culture, Hanoi,1979, 550 p.

-     Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, văn học dân tộc ít người (Recueil des poèmes et littératures vietnamiennes), Institut de la Littérature - Littérature des ethnies, Editions de la Littérature, Hanoi, 1979, 550 p.

-     Những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn (Les problèmes culturels et sociaux de la dynastie des Nguyễn), Institut des Sciences sociales de Hochiminhville, Editions des Sciences sociales, Saigon, 1992, 263 p.

-     Tuyển tập truyện cổ tích các dân tộc ở Việt Nam (Recueil de contes des Minorités ethniques au Vietnam), Tome 1, Institut des Sciences sociales de Hochiminhville, 1987, 243 p.

-     Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long (Le problème des minorités ethniques du delta du Mékong), divers textes rédigés par Mạc Ðường, Phan An, Đinh Văn Liên, Phan Thị Yến Tuyết, Phan Văn Dốp, Nguyễn Việt Cương, Editions des Sciences sociales, Sài G^on, 1991, 324 p.

-     Văn hóa Chăm (La culture cham), Phạm Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Editions des Sciences sociales, Hanoi, 1991, 395 p.

-     Văn hóa & dân số cư dân đồng bằng sông Cửu Long (Culture et démographie de la population du Mékong), divers textes rédigés par Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Ðường, Editions des Sciences sociales, Saigon, 1990, 452 p.

-     Văn hóa Việt Nam - Tổng hợp 1989-1995 (La culture du Vietnam - Mémento 1989-1995), Comité central de la Culture et des Arts, Hanoi, 1989, 480 p.

-     ÐÀO Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương (Histoire de la Culture du Vietnam), réédition suivant l’édition originale Quan Hải Tùng Thư, 1938, Faculté d’Histoire de l’Université Pédagogique de Hochiminhville, Saigon, 1992, 389 p.

 

 

IV. Ngưởi Thượng trên Cao Nguyên miền Trung

 

A. Nghiên cứu dân tộc học

-     Archives des recherches agronomiques au Cambodge, au Laos et au Vietnam, Centre de recherches scientifiques et techniques, Imprimerie d’Extrême-Orient, Saigon.

  • 8&8A : Les sols et la végétation au Darlac et sur le Plateau des Trois Frontières (M.Schmid, P.de la Souchère, D.Godard), 1951, 105 p ;
  • 12&12A : Contribution à l’étude des terres rouges basaltiques et dactiques des Hauts Plateaux du Sud de l’Indochine (E.M.Castagnol), 1952, 124 p.

-     Education, numéro spécial consacré aux Populations Montagnardes du Sud-Indochinois, revue publiée par le Rectorat d’Académie (Bureau des Affaires culturelles), Imprimerie d’Extrême-Orient,, Saigon, 1949, 204 p.

-     Les ethnies minoritaires du Vietnam, Ðặng Nghiêm Vạn, Chu Thái Sơn, Lưu Hùng, Editions en Langues Etrangères, Hanoi, 1986, 347 p.

-     Montagnards des pays d’Indochine, Collections du Musée de l’homme, préface de Paul Graziani, divers textes rédigés par Georges Condominas, Françoise Cousin, Ðặng Nghiêm Vạn, William L. Dessaint, Bernard Dupaigne, Anne de Hauteclocque, Christine Hemmet, Jacques Lemoine et Nguyễn Tú Chi, Sépia, Paris, 1995, 135 p.

-     Vietnam images of the community of 54 ethnic groups, Vietnam News Agency, Ethnic Culture Publishing House, Hanoi, 1996, 206 p.

-     ANTOINE (Chef du service de l’enseignement aux PMSI), Les Bahnars, Education, Saigon, 1949, pp 11-16.

-     AZEMAR R.P. (Missionnaire apostolique), Les Stieng de Brö Lam (1861-1866), Excursions et Reconnaissances, vol. XII, n°27, Hanoi, Mai-Juin 1886, pp 107-160, n°28, Juillet-Août 1886, pp 251-341.

-     BACHELET Hervé, Les Minorités ethniques du Centre Vietnam vues par les missionnaires français, Cahiers de l’Asie du Sud-Est n°26, Paris, 1989, pp 7-38.

-     BAUDESSON (Ct), Au pays des superstitions et des rites chez les Moïs et les Chams, Plon, Paris,1932, 276 p, 1 carte.

-     BERTRAND Henri, Un peuple oublié - Les Montagnards Khas des Hauts Plateaux du Sud Indochinois, Sudestasie, Paris, 1989, 157 p.

-     BEZACIER Louis, Note sur 99 tatouages des Moïs "Ka-tu", province de Quang Nam, Annam, BIIEH, vol.2, 1942, pp 117-125.

-     CONDOMINAS Georges :

  • Enquête linguistique parmi les populations montagnardes du Sud Indochinois, BEFEO, 46, vol.2, Hanoi, 1954, pp 573-597.
  • Nous avons mangé la forêt de la Pierre-Génie Gôo (Hii saa brii Mau-Yaang Gôo) - Chronique de Sar Luk, village Mnong Gar (tribu proto-indochinoise des Hauts Plateaux du Vietnam central), 45 photographies, 2 cartes, Mercure de France, Paris, 1974, 495 p.

-     CUISINIER Jeanne, Les Mường. Géographie humaine et sociologie, tome XLV, Institut d’Ethnologie, Paris, 1948, 618 p.

-     DENIAU, Folklore Jarays, Education, Saigon, 1949, pp 171-186.

-     DOURNES Jacques (RP) :

  • Nri, Recueil des coutumes srê du Haut Donnaï, France-Asie, Saigon, 1951, 44 p.
  • Etudes Jörai, 1963, 2 fasc, 62 p et 117 p polytypés.
  • Les Moïs du Sud, Education, Saigon, 1949, pp 37-40.
  • Coordonnées Structures Jörai - Familles et sociales, Institut d’Ethnologie, Paris, 1972, 44 p.
  • Pötao, une théorie du pouvoir chez les Indochinois Jörai, Flammarion, Paris, 1977, 365 p.

-     GERBER Théophile, Coutumier Stieng, BEFEO, tome XLV, Hanoi, 1951.

-     GUILLEMINET Paul (Administrateur des servcres civils) :

  • Le sacrifice du buffle chez les Bahnars de la province de Kontum, BAVH, n°2, 1942, 38 p.
  • Coutumes juridiques contemporaines du pays des Bahnars et de leurs voisins, Education, Saigon, 1949, pp 127-148.
  • La tribu des Bahnars du Kontum, Education, Saigon, 1949, pp 47-64.
  • Coutumier de la tribu bahnar, de Sedang et des Djarai de la province de Kontum selon la coutume appliquée dans les tribunaux de cette province de 1908 à 1939, PEFEO, vol.XXXII, Hanoi, 1952, 2 tomes (tome I, pp 1-457 ; tome II, pp 458-763).

-     JERUSALEMY (Administrateur des services civils), Les Sedangs, Education, Saigon, 1949, pp 7-10.

-     JOUIN B.Y. (Docteur, chef des services sanitaires des PMSI) :

  • Les Jarays, Education, Saigon, 1949, pp 21-24.
  • Les Rhadés, Education, Saigon, 1949, pp 25-28.
  • Les M’nongs, Education, Saigon, 1949, pp 35-36.
  • Recherches ethnographiques - Croyances et rites des Rhadés, Education, Saigon, 1949, pp 149-170.

-     KEMLIN J.E. (R.P. de la Société des Missions Etrangères de Paris), Alliances chez les Reungao, BEFEO, tome X, Hanoi, 1910, pp 1-119.

-     LAFONT Pierre-Bernard :

  • Tơlơi Djuat, Coutumier de la tribu Jarai, PEFEO, vol. 51, Paris, 1963, 323 p.
  • L’agriculture sur brûlis chez les Protos Indochinois des Hauts Plateaux du Centre Vietnam, Cahiers d’Outre-Mer n°20, Bordeaux, 1967, 14 p.

-     LAVALLEE A., Notes ethnographiques sur diverses tribus du Sud-Est de l’Indochine, BEFEO, vol. 1, Hanoi, 1901, pp 291-311.

-     MA Tuan-Lin, Ethnographie des peuples étrangers à la Chine, Fou-Nan, ouvrage composé au XIIIe siècle de notre ère, traduit pour la première fois du chinois par le Marquis d’Hervey de Saint Denys, H.Georg.-Th.Mueller, Genève, 1883, pp 436-443.

-     MAURICE Albert-Marie :

  • Les Mnongs du Plateau central indochinois, le capitaine Paul Huard et le lieutenant A. Maurice, Institut indochinois pour l’Etude de l’homme, Hanoi, 1934.
  • Les Mnong des Hauts Plateaux (Centre-Vietnam) - Vie matérielle (pp 1-457), Vie sociale et coutumière (pp 458-745), Préface de Georges Condominas, L’Harmattan, Paris,1993.

-     ROUX (Commandant), Les tombeaux chez les Moï Jarai, BEFEO, tome XXIX, Hanoi, 1929, pp 346-348.

-     SABATIER Léopold, La chanson de Damsan, légende recueillie chez les Rhadé de la province du Darlac, texte et traduction par L.Sabatier, BEFEO n°33, vol.1, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoi, 1933, 160 p.

-     SION Jean (Mgr. Vicaire apostolique de Kontum), Les Bahnars Jolongs de la province de Kontum, Education, Saigon, 1949, pp 17-20.

-     TRINQUET, Notes sur la tribu des Djarais (partie Sud-Ouest), Revue Indochinoise, 1906, pp 1903-1921.

-     Y BIH Nie Blo (Surveillant général du Groupe scolaire Antomarchi), Cinq légendes rhadées, Education, Saigon, 1949, pp 187-204.

-     Các dân tộc ít người ở Việt Nam : các tỉnh phía Bắc (Les minorités ethniques des proinces du Nord Vietnam), Editions des Sciences sociales, Hanoi, 1978, 454 p.

-     Các dân tộc ít người ở Việt Nam : các tỉnh phía Nam (Les minorités ethniques des proinces du Sud Vietnam), Editions des Sciences sociales, Hanoi, 1984, 313 p.

-     Cao Nguyên Miền Thượng, quyển thượng và quyển hạ (Les Montagnards des Hauts Plateaux, tome I & II), Toan Ánh & Cửu Long Giang, Saigon, 1974, 556 p.

-     Một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây Nguyên (Quelques problèmes économiques et sociaux des Hauts Plateaux), Editions des Sciences sociales, Hanoi, 1986, 443 p.

-     Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và chính sách ngôn ngữ (Langage des minorités ethniques et politique de langue vivante), Editions des Sciences sociales, Hanoi, 1984, 160 p.

-     Tây Nguyên thiên nhiên và con người (Les Hauts Plateaux, la Nature et l’Homme), Nguyễn Trọng Lân, Huỳnh Thị Cả, Editions de la Pédagogie, Hanoi, 1987, 192 p.

-     BÙI Khánh Thế, Một vài cứ liệu về song ngữ và vấn đề nghiên cứu song ngữ ở Việt Nam (Quelques données sur la bilinguisme et la recherche bilingue au Vietnam), Revue d’Ethnologie n°1, Hanoi, 1978, pp 48-63.

-     KHỔNG Diễn, Các dân tộc vùng Trường Sơn-Tây Nguyên (Les populations de la Chaîne annamitique - des Hauts Plateaux), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1-1984, pp 41-47.

-     NGUYỄN Ðình Khoa, Các dân tộc ở Việt Nam - Dẫn liệu nhân học-tộc người (Les Ethnies au Vietnam - Introduction à l’anthropologie et l’ethnologie), Editions des Sciences sociales, Hanoi, 1983, 183 p.

-     NGUYỄN Văn Diệu, Ít ghi chép về người Chil ở Lâm Ðồng (Notes sur les Chil à Lâm Ðồng), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1978, pp 49-54.

-     NGUYỄN Văn Luận, Lễ chém trâu Ngap Kubao của đồng bào Chăm (Ngap Kubao, sacrifice du buffle chez les Chams), Revue mensuelle de la Culture n°3&4, Nov-Déc 1967, Département de la Culture, Saigon, 1967, pp 254-269.

-     PHAN Ðăng Nhật, Sử thi Ê-Ðê (Chansons rhadés), Institut de la Culture Folklorique, Editions des Sciences sociales, Hanoi, 1991, 247 p.

-     PHAN Xuân Biên, Một số vấn đề dân tộc học vùng Lâm Ðồng (Quelques problèmes ethnologiques de la région de Lâm Ðồng), Revue d’Ethnologie n° 2, Hanoi, 1979, pp 39-46.

-     PHAN Xuân Biên, Một số ý kiến về thành phần dân tộc của cư dân bản địa tỉnh Lâm Ðồng (Quelques suggestions sur la répartition ethnique des autochtones de la province de Lâm Ðồng), Revue d’Ethnologie n°4, Hanoi, 1977, pp 1-9.

 

 

B. Nghiên cứu lịch sử và xã hội – chính trị

-     Plan d’action sociale pour les Pays Montagnards du Sud du Domaine de la Couronne, plan élaboré sur les directives de SM Bảo Ðại, chef de l’Etat du Vietnam par SE Nguyễn Ðệ, directeur du cabinet de SM et délégué impérial pour les PMN et les PMS du Domaine de la Couronne, Etat du Vietnam, Edition de la délégation impériale du Domaine de la Couronne, Juin 1953, 51 p.

-     Variétés sur les pays moïs, Gouvernement de la Cochinchine, Saigon, 1935, 264 p.

-     ARDANT DU PICQ (Lieutenant-colonel), Etude du pays moï au point de vue militaire (Provinces de Kontum et de Ban-Me Thuot), CM 409, dossier secret n°33al, Huế, 11 Octobre 1923, 85 p dactylographiées et 2 cartes, Centre des Archives d’Outre-Mer, Aix-en-Provence.

-     BARTHELEMY (Comte de), Rapport sur une mission scientifique en Annam et au Laos (région de Xieng Khoaung), Imprimerie nationale, Paris, 1902, pp 5-26, carte.

-     BESNARD Henri (Administrateur du Darlac), Les populations Moï du Darlac, BEFEO, tome VII, Hanoi, 1907, pp 61-86.

-     BOULBET Jean :

  • Paysans de la forêt, PEFEO, Paris, 1975, vol. 105, 151 p.
  • Pays des Maa - Domaine des génies Nggar Maa, Nggar Yang, Essai d’ethno-histoire d’une population proto-indochinoise du Vietnam central, PEFEO, Paris, 1967, 154 p.

-     BOUROTTE Bernard, Essai d’histoire des populations montagnardes du Sud-Indochinois jusqu’à 1945, BSEI, tome XXX, n°1, Saigon, 1955, 116 p.

-     BRIÈRE M. :

  • Notice sur les Moïs du Bình Thuận et du Khánh Hòa, Excursions et Reconnaissances, tome XIV, n°32, Hanoi, 1890, pp 235-272.
  • Culture et commerce de la cannelle en Annam, Bulletin Economique de l’Indochine, n°33, Hanoi, 1904, pp 935-950.

-     CARRAU Pierre, Du commerce et de l’agriculture chez les Moïs, Excursions et Reconnaissances n° 14, Saigon, 1882, pp 270-293.

-     CHANDA Nayan, The enemy within, Far Eastern Economic Review, Hong Kong, 10 September 1992.

-     CLEMENT (Médecin-lieutenant), Cochinchine - Minorités ethniques "Moïs", Commission Guernut 25, province de Biên Hòa, Délegation du Sông Bé, Novembre 1937, 14 pages dactylographiées, in Centre des Archives d’Outre-Mer, Aix-en-Provence.

-     CONDOMINAS Georges, L’espace social - A propos de l’Asie du Sud-Est, Flammarion, Paris, 1980, 540 p.

-     CUPET (Capitaine) :

  • Voyages au Laos et chez les sauvages du Sud-Est de l’Indochine, Mission Pavie (1879-1895),
  • Les populations de l’Indochine par le Lieutenant-colonel Cupet, Bulletin de la Société de Géographie, Lyon, 1907, pp 237-305, cartes.

-     DURAND E-M., Les Moïs du Sơn Phòng, Bulletin de Géographie historique et descriptive, Hanoi, 1900, n°1-2, pp 284-322.

-     DAM BO, Les populations montagnardes du Sud-Indochinois (Pémsiens), présentation par René de Berval, Revue France-Asie, tome V, numéro spécial 49-50, Saigon, 1950, pp 931-1208 (277 p).

-     DOURNES Jacques (RP), Perspectives sur le problème de l’enseignement des PMSI, Education, Saigon, 1949, pp 103-118.

-     DOURISBOURE Pierre (Abbé), Les sauvages Ba-Hnars (Cochinchine orientale) - Souvenirs d’un missionnaire, P.Tequi/Missions Etrangères, Paris, 1929, 336 p.

-     FINOT Louis, Nécrologie : Prosper Odhendal, in BEFEO, tome IV, Hanoi, 1909, pp 529-537.

-     GAUTIER A. (Lieutenant d’Infanterie de Marine), Voyage au pays des Mois, accompli en Février, Mars, Avril, Mai et Juin 1882, Excursions et Reconnaissances n° 14, Saigon, 1882, pp 219-249, 1 carte.

-     GAYET G. (Inspecteur général des Colonies), Evolution récente des PMSI, Education, Saigon, 1949, pp 69-82.

-     GUERRINI (Administrateur), Cochinchine - La question Moï, Commission Guernut 25, Biên Hòa, 25 Novembre 1937, 7 p. dactylographiées, Centre des Archives d’Outre-Mer, Aix-en-Provence.

-     HICKEY Gerald Cannon :

  • Sons of the mountains - Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands to 1954, Yale University Press, New Haven, 1982, 488 p.
  • Free in the forest - Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands 1954-1976, Yale University Press, New Haven, 1982, 350 p.
  • Indigenous peoples of the Central Highland, in the Socialist Republic of Vietnam : 1956-1973, Première partie, texte inédit envoyé à la conférence sur les minorités ethniques au Vietnam organisée par l’UNESCO à Hanoi, Mars 1994, 17 pages dactylographiées.
  • Kingdom in the morning mist - Mayréna in the Highlands of Vietnam, University of Pennsylvania Press, Philadelphia, 1988, 221 p.
  • Shattered world - Adaptation and survival among Vietnam’s Highland peoples during the Vietnam War, University of Pennsylvania Press, Philadelphia, 1993, 397 p.

-     HICKS Pappy, Story of the vietnamese montagnards in the U.S. as I know it, 1994, Texas, 3 pages dactylographiées (inédit).

-     HUGUES (d’, Administrateur), Cochinchine - Minorités ethniques Moïs, Commission Guernut 25, province de Thủ Dầu Một, Délégation de Hớn Quản, 11 Novembre 1937, 27 p dactylographiées, Centre des Archives d’Outre-Mer, Aix-en-Provence.

-     HUMANN, Excursion chez les Moïs indépendants (1884), in Variétés sur les pays moïs, Gouvernement de la Cochinchine, Saigon, 1935, pp 104-118.

-     HUYN de Verneville, Notice sur la province de Binh Dinh (Annam), Excursions et Reconnaissances n° 11, Imprimerie du gouvernement, Saigon, 1882, pp 287-297.

-     JERUSALEMY, Peut-on sauver économiquement le peuple Sedang ?, Education, Saigon, 1949, pp 41-46.

-     LABUSSIÈRE A. (Inspecteur des affaires indigènes), Rapport sur les Chams et les Malais de l’arrondissement de Chaudoc, Excursions et Reconnaissances n° 6, Saigon, 1880, pp 375-380, 1 carte.

-     LECHESNE Paul, L’Indochine Régions Moïs (Kontoum-Darlac), Quinhon, 1924, 31 p.

-     MAÎTRE Henri :

  • Les Régions Moï du Sud Indochinois - Le plateau du Darlac, Plon-Nourrit et Cie, Paris, 1909, 335 p.
  • Les Jungles Moï - Exploration et histoire des hinterlands moï du Cambodge, de la Cochinchine, de l’Annam et du bas Laos, Emile Larose, Paris, 1912, 578 p.

-     MALGLAIVE (Capitaine de), Voyages au centre de l’Annam et du Laos et dans les régions sauvages de l’Est de l’Indochine, Mission Pavie (1879-1895), vol. IV, 13 cartes et 75 illustrations, Ernest Leroux, Paris, 1900, 296 p.

-     NEIS Paul (Dr), Rapport sur une excursion scientifique faite chez les Moïs de l’arrondissement de Baria, Excursions et Reconnaissances, n° 6, Saigon, 1880, pp 405-435, 1 carte.

-     NGUYỄN Tấn (Ôn Khê), Notes diverses sur la pacification de la région des sauvages (Phủ Man tạp lục thơ), manuscrit écrit en 1871, traduction française, Revue Indochinoise, Hanoi, 1904, 15 Avril (pp 455-469), 15 Mai (pp 641-648), 31 Mai (pp 706-716) et 15 Juin (pp 789-796).

-     NGUYỄN Xuân Linh, Note sur les rapports des minorités ethniques et des autorités politiques au Sud Vietnam, Pluriel Débat n° 6, Paris, 1976, pp 27-45.

-     NOUET L., Excursion chez les Moïs de la frontière Nord-Est (1882), in Variétés sur les pays moïs, Saigon, 1935, pp 84-103.

-     PAGÈS P. (Gouverneur de la Cochinchine), Rapport sur la pénétration en pays moï au cours des cinq dernières années (Circulaire du 9 Février 1935), in Variétés sur les pays moïs, Saigon, 1935, pp 206-219.

-     PASQUIER Pierre (Résident Supérieur en Annam), Circulaire du 30 Juillet 1923 sur l’organisation de l’hinterland Moï et Annexe, in Variétés sur les pays moïs, Saigon, 1935, pp 220-264.

-     PAVIE Auguste, Excursion dans le Cambodge et le royaume de Siam, Excursions et Reconnaissances, n° 12, 13 et 14, Saigon, 1882.

-     ROGER (Administrateur), La protection des minorités ethniques de Cochinchine, Commission Guernut 25, Novembre 1937, 33 p dactylographiées, Centre des Archives d’Outre-Mer, Aix-en-Provence.

-     SALEMINK Oscar :

  • Martial anthropology : Contextualization of ethnographic practice in Vietnam’s Central Highlands, Chapter outline : Maynot be quoted !
  • Mois and Maquis, The invention and Appropriation of Vietnam’s Montagnards from Sabatier to the CIA, in Essays on the contextualization of ethnographic knowledge, The University of Wisconsin Press, 1991, pp 243-284.
  • Primitive partisans : French strategy and the construction of a Montagnard ethnic identity in Indochina, Hans Antlous & Stein Tønnesson, Croudon Curson Press, Propfs, 1994, pp 1-38.

-     SEITZ Paul L. (Mgr), Des hommes debout - Les Montagnards du Sud-Vietnam, réalisation Jacques Barthélémy, Paris-Fribourg, 1977, 173 p.

-     SEPTANS Albert (Capitaine de l’Infanterie), Reconnaissance dans le Cambodge et le Laos, Excursions et Reconnaissances n°12, Saigon, 1882, pp 536-551, 1 carte.

-     SIMONNET Christian, Les tigres auront plus pitié, France Empire, 1977. Réédition Missions Etrangères de Paris, Paris, 1992, 300 p.

-     SION Jean (Mgr), Quelques réflexions sur les Montagnards, Education, Saigon, 1949, pp 65-68.

-     SYLVESTRE J. (Chef de la justice indigène), Rapport sur l’esclavage, Excursions et Reconnaissances n° 4, Saigon, 1880, pp 95-144.

-     THAYER Nate (Journaliste de FEER) :

  • Lighting the darkness, Far East Economic Review, Hong Kong, 10 September 1992.
  • The forgotten army, Far Eastern Economic Review, Hong Kong, 10 September 1992.
  • Trail of tears, "lost" montagnard army vows to fight on, Far Eastern Economic Review, Hong Kong, 10 September 1992.

-     TRINQUET, Le plateau d’An Khê, in Revue Indochinoise, Hanoi, 1906, 15 Juillet : pp 1061-1070, 30 Juillet : pp 1162-1165, 2 cartes.

-     Y BIH Nie Kdam (Instituteur rhadé) :

  • Notice sur le Darlac, Education, Saigon, 1949, pp 29-34.
  • Evolution culturelle des PMSI, Education, Saigon, 1949, pp 83-90.

-     Y NGÔNG Nie Kdam, Con người và Tây Nguyên đi lên chủ nghĩa xã hội (L’homme et les Hauts Plateaux vers le socialisme), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1-1984, pp 7-10.

-     YERSIN (Dr), Sept mois chez les Moïs, in Variétés sur les pays moïs, Saigon, 1935, pp 166-205.

-     Chính sách dân tộc, những vấn đề lý luận và thực tiễn (Politiques ethniques, théories et pratiques), Sự Thật, Hanoi, 1990, 155 p.

-     Chính sách phát triển sắc tộc của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (Politiques de développement ethnique de la République du Vietnam), Imprimerie du Ministêre du Développement Ethnique, Saigon, 1970, 84 p.

-     Nhu viễn (Pacification extérieure), extrait du Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ (Répertoire des rêglements administratifs de l’empire du Ðại Nam établis par ordre impérial), livres 132-133, tome I, 1851, traduction par Tạ Quang Phát, revue et annotée par Bửu C)am, Institut de la Recherche Archéologique, Ministère de la Culture, n° X, Saigon, 1965, 287 p.

-     Nhu viễn (Pacification extérieure), extrait du Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ (Répertoire des rêglements administratifs de l’empire du Ðại Nam établis par ordre impérial), livres 134, 135 et 136, tome II, 1851, traduction par Tạ Quang Phát, revue et annotée par Bửu Cầm, Institut de la Recherche Archéologique, Ministère de la Culture, n° XIII, Saigon, 1966, 296 p.

-     BẢO ÐẠI, Dụ số 6 ngày 15 tháng Tư năm 1950 (Ordonnance n° 6 du 25 Avril 1950), in Journal ofđiciel du Việt Nam, Courriers du gouvernement, Saigon, 3/6/1950.

-     BẾ Viết Ðảng, Về một số đặc điểm xã hội của các dân tộc Trường Sơn - Tây Nguyên (Quelques aspects sociaux des populations de la Chaîne annamitique et des Hauts Plateaux), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1/1984, pp 11-22.

-     CHU Thái Sơn, Vấn đề xây dựng nhà cửa của các dân tộc Tây Nguyên trong việc tổ chức nông thôn mới (A propos de l’architecture de la population des Hauts Plateaux dans l’organisation des nouveaux villages), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1/1984, pp 71-74.

-     ÐẶNG Nghiêm Vạn, Tây Nguyên trên chặng đưòng đầu tiên của thời kỳ quá độ cần tạo nên một truyền thống xã hội chủ nghĩa (Période de transition des Hauts Plateaux, la nécessité de créer une tradition socialiste), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1/1984, pp 23-31.

-     ÐÀO Văn Tập, Phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên (Développement économique et social des Hauts Plateaux), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1/1984, pp 1-6.

-     LÊ Duy Ðại, Những đặc điểm về cư dân Tây Nguyên (Caractéristiques de la population des Hauts Plateaux), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1-1984, pp 61-70.

-     LÊ Ðình Chi, Vấn đề đồng bào Sơn cước tại Việt Nam Cộng Hòa (A propos des Montagnards de la République du Vietnam), Faculté de Droits, Saigon, 1971, 390 p.

-     LƯU Ðức Hồng, Một vài suy nghĩ về dân cư và phân bố lao động trong sơ đồ phát triển vùng Tây nguyên tương lai (Réflexions sur les populations et la répartition de la main-d’œuvre d’après le plan de développement des Hauts Plateaux dans l’avenir), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1-1984, pp 57-60.

-     MẠC Ðường, Một số đặc điểm về vùng dân tộc Lâm Ðồng và đông Nam Bộ (Quelques caractéristiques sur les régions des minorités ethniques de Lamdong et de l’est du Sud Vietrnam), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1-1984, pp 32-34.

-     NGÔN Vĩnh :

  • Fulro ?, Editions de Hà Sơn Bình, 9-1982, 360 p.
  • Fulro - Tập đoàn tội phạm (FULRO - Bande de criminels), 2ème édition, revue et corrigée, Editions de Hochiminhville, Saigon, 1983, 276 p.

-     NGUYỄN Ðình Tứ :

  • Núi Ðá Bia ở Phú Yên (Le Mont Ðá Bia à Phú Yên), Văn Ðàn, tome VI, n° 38, Saigon, 1/1/1969, pp 10-34.
  • Tỉnh Khánh Hòa (La province de Khánh Hòa), Văn Ðàn, tome IV, n° 51&52, Saigon, Oct&Nov, 1963.

-     NGUYỄN Quốc Lộc, Từ Tuyên Hóa đến Khánh Sơn (mấy suy nghĩ qua 5 năm khảo sát) (De Tuyên Hóa à Khánh Sơn, réflexions après 5 ans d’études), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1/1984, pp 35-40.

-     NGUYỄN Trắc Dĩ :

  • Tîm hiểu phong trào đấu tranh FULRO 1958-1969 (Etudes sur le mouvement FULRO de 1958 à 1969), Ministère des Minorités ethniques, Saigon, 1969, 114 p.
  • Hội đồng các sắc tộc, một tân định chế dân chủ của đệ II Cộng Hòa Việt Nam (Le Conseil des minorités ethniques, une nouvelle institution de la IIe République du Vietnam), Ministère des Minorités ethniques, Saigon, 1970, 183 p.

-     NGUYỄN Văn Huy, Một số vấn đề nghiên cứu người Việt hiện nay ở Tây Nguyên (Quelques problèmes sur l’étude des Vietnamiens sur les Hauts Plateaux actuels), Revue d’Ethnologie, Hanoi, 1/1984, pp 48-56. Xin lưu ý : Nguyễn Văn Huy ở đây là một nhà dân tộc học kỳ cựu và uy tín ở Việt Nam. Sự trùng tên này chỉ là tình cờ.

-     PAUL Nưr :

  • Ðường lên xứ Thượng - Các văn kiện căn bản (Sur les routes du Pays Montagnard - Les textes fondamentaux), Ministère du Développement des Minorités Ethniques, Saigon, 1970, 284 p.
  • Sơ lược về chính sách thượng vụ trong lịch sử Việt Nam (Essai sur la politique à l’égard des Montagnards dans l’histoire du Vietnam), Ministère du Développement des Minorités Ethniques, Saigon, 1966, 175 p.

-     PHẠM Thanh Khiết, Suy nghĩ về phong trào hợp tác hóa ở nông thôn Tây Nguyên (Réflexions sur la collectivisation rurale dans les Hauts Plateaux), Etudes économiques n° 3, Hanoi, Juin 1988, pp 13-17.

-     PHÙNG Thanh Quang, J.M. (R.P), Lạc quan trên miền Thượng, tập lưu niệm đức giám mục Gioan Cassaigne (đức thầy Sanh), vị sáng lập giáo xứ và làng cùi tại Di Linh tỉnh Lâm Ðồng (Optimisme aux pays montagnards, cahier de souvenirs de l’évêque Jean Cassaigne, le créateur du diocèse et du centre de léprosie de Djiring, province de Lamdong), Episcopat de Dalat, 1974, 184 p.

-     THÀNH Tín, Ðập nát công cụ hậu chiến CIA : FULRO (Réprimer l’outil d’après-guerre de la CIA : FULRO), Editions de Hochiminville, 1983, 67 p.

-     VĨNH Lộc, Cái gọi là "phong trào đòi tự trị FULRO" (Le prétendu mouvement d’autonomie FULRO), Bureau des Etudes politiques, Banméthuot, 1965, 104 p.

 

V. Người Chăm

 

-     Actes du séminaire sur le Campā, organisé par l’Université de Copenhague le 23-5-1987, ACHCPI, Paris, 1988, 131 p.

-     International Office of Champa (IOC) :

  • Champaka 1 : Nghiên cứu lịch sử và nền văn minh Champa,  San Jose, Calofornia, USA, 1999, 263 p.
  • Champaka 2 : Champa trên làn sóng báo chí quốc tế từ năm 1975, Toronto, San Jose, Slagelse, Dỏmage, 2002, 225 p.
  • Champaka 3 : Từ vựng Hroi-Việt, Paris, 2003, 220 p.
  • Champaka 4 : Những cuộc vùng dậy của nhân dân Champa 1693-2004, Paris, San Jose, Toronto, 2004, 249 p.

-     Inventaire des archives du Panduranga, Centre d’Histoire et Civilisations de la Péninsule Indochinoise, Fonds de la Société Asiatique de Paris, 1984, 95 p.

-     Le monde indochinois et la péninsule malaise, publié avec le concours de l’Ambassade de France en Malaisie, Ministère de la Culture et du Tourisme de Malaisie, Kuala Lumpur, 1990, 163 p.

-     BOISSELIER Jean, La statuaire du Champa - Recherches sur les cultes et l’icographie, PEFEO, Paris, 1963, 398 p.

-     CABATON Antoine, L’inscription chame de Biên Hòa, BEFEO, tome IV, n°3, Hanoi, Juil.-Sept.1904, pp 687-690.

-     CADIÈRE L., Monuments et souvenirs chams du Quảng Trị et du Thừa Thiên, BEFEO, tome V, n° 1-2, Hanoi, Janv.-Juin 1905, pp 185-195.

-     DOROHAMIDE, DOROHIÊM, Bangsa Champa, Tìm về với một cội nguồn cách xa, Seacaef & Viet Foundation, California, 2004, 384 p.

-     MASPERO M. Georges, Le royaume du Champa, G.Van Oest, Paris-Bruxelles, 1928, 278 p.

-     PARMENTIER H., DURAND E.-M., Le trésor des rois chams, BEFEO, tome V, n°1-2, Hanoi, Janvier-Juin 1905, pp 1-46.

-     PO DHARMA :

  • Le Pānduranga (Campā) 1802-1835, ses rapports avec le Vietnam, tome I (198 p) et tome II (273 p), PEFEO, Paris, 1987.
  • Notes sur les Cam au Cambodge, Centre de Documentation et de Recherche sur la Civilisation Khmère, n°3-4, Paris, 12-1981, pp 161-183.
  • Người Chăm ở Thuận Hải (Les Chams de Thuận Hải), divers textes rédigés par Phạm Xuân Biên, Lê Xuân, Phan An, Phan Văn Dốp, Département de la Culture et de la Communication, Thuận Hải, 1989, 374 p.

-     BỬU Cầm, Một đoạn lịch sử Chiêm Thành, từ đời Nguyễn Hoàng đến triều Minh Mệnh (Une fraction de l’histoire du Champa, de Nguyễn Hoàng à Minh Mạng), Văn Hóa n° 36, Saigon, 11-1968, pp 1246-1249.

-     NGUYỄN Bá Trác, Lịch sử dân tộc ta khai thác về cõi Nam (Histoire du défrichement du Sud Vietnam), Nam Phong n° 65, traduction de l’original en caractères chinois par Tùng Vân Nguyễn Ðôn Phục, Hanoi, 11-1922.

-     NGUYỄN Văn Hiếu, Cuộc tiến hóa của dân tộc Việt Nam (La progression vers le Sud des Vietnamiens), Nam Phong n° 205, Hanoi, 1-10-1934, pp 95-102.

-     NGUYỄN Văn Tố, Nước Chiêm Thành (Le Champa), Ðông Thanh n° 1, Hanoi, 1-7-1932.

-     PHẠM Quỳnh, Cuộc tiến hóa của dân tộc Việt Nam (L’évolution du peuple vietnamien), Nam Phong, n° 169, Hanoi, 2-1932, pp 153-157.

-     PHAN Lạc Tuyên, Sự liên hệ giữa khảo cổ học và dân tộc học qua một số công tác điền dã tại vùng Chàm Thuận Hải, những phát hiện về khảo cổ học năm 1977 (Liaisons archéologiques et ethnologiques à travers des études du terrain à Thuận Hải, les découvertes archéologiques en 1977), Documents internes de l’Institut de l’Archéologie, Hanoi, 1978.

-     TẠ Chí (Ðại Trường), Về các danh xưng chỉ người Chàm (A propos des appellations chames), Revue d’Histoire et de Géographie n° 17&18, Saigon, 1970.

-     TIÊN Ðàm, Việc khẩn hoang Nam kỳ dưới triều Nguyễn (Le défrichement du Sud Vietnam sous la dynastie des Nguyen), Tri Tân n°21, Hanoi, 31-10-1941.

-     TRẦN Huy Bá (Biệt Lam), Việt Nam xưa kia đã thôn tính mấy nước ? (Le Vietnam d’antan avait annexé combien de pays ?), Tri Tân n° 15, Hanoi, 19-9-1941.

-     TỪ Ngọc, Một trang lịch sử hiển hách của người mình, cuộc giao thiệp giữa người Nam và mấy nước láng giềng từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ thứ 19 (Une page de notre glorieuse histoire, relations des Vietnamiens avec les pays limitrophes du 17ème siècle au 19ème siècle), Tri Tân n°22, Hanoi, 11-1941, pp 517-520.

-     TỪ Nguyên, Lược sử cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam (Histoire de la progression vers le Sud des Vietnamiens), Văn Hóa n° 43-44, Saigon, 9-1959, pp 1132-1144.

 

 

VI. Những nguồn tài liệu khác

 

A. Encyclopaedia Universalis, Paris, 1992

 

1. Corpus (A -> Z)

-     L’Asie du Sud-Est :

  • Préhistoire et protohistoire de l’Asie du Sud-Est, Helmut Loofs-Wissowa.
  • La formation des pays indianisés du IIe siècle avant J.C. au VIe siècle de notre ère, Janice Stargardt.
  • Les grands empires, Bernard Philippe Groslier, corpus A, pp 184-196.
  • Histoire et archéologie-Vietnam, archéologie préhistorique et protohistorique, Maud Girard-Geslan, corpus E, pp 214-218.

-     Les religions :

  • Bouddhisme, André Bareau, Jean Nandou, Jean et Pierre Filliozeat, Jacques Gernet et Catherine Meuwese, Jean-Noël Robert, Anne-Marie Blondeau, Rita Régnier, pp 383-422.
  • Brahmanisme, Anne-Marie Esnoul, corpus B, pp 472-474.
  • Hindouisme, Anne-Marie Esnoul, corpus H, pp 439-445.
  • Manu, Anne-Marie Asnouo, corpus M, pp 468-469.

-     Les pays de l’Asie du Sud-Est :

  • Cambodge, Philippe Devillers, corpus C, pp 795-811.
  • Champa, Albert le Bonheur, corpus C, pp 309-312.
  • Inde, histoire, Christine Hurtig, corpus I, pp 24-39.
  • Indochine française, Odette Guitard, corpus I, pp 177-183.
  • Indonésie, les ethnies & histoire, Denys Lombard, corpus I, pp 193-203.
  • Laos, Christian Taillard, Philippe Devillers, Madeleine Giteau ; corpus L, pp 458-472.
  • Malaisie, les ethnies & histoire, Denys Lombard & Philippe Devillers, corpus M, pp 345-353.
  • Thailande, au centre de la péninsule indochinoise, Jean Boisselier, Jean Delvert, Achille Dauphin - Meunier, Pierre Fistié, corpus T, pp 401-416.
  • Vietnam, Philippe Devillers, Pierre-Bernard Lafont, corpus V, pp 560-585.

-     L’Océanie :

  • Préhistoire et archéologie, José Garanger ;
  • Ethnographie, Jean-Paul Latouche & Daniel de Coppet, corpus O, pp 711-721.

2. Cartes          

-     L’unification de la Chine de 350 avant J.C. à 220 après J.C., pp 80-82.

-     La civilisation chinoise des Tang au Song, 618-1279, pp 126-128.

-     Les premières civilisations du Sud-Est asiatiques jusqu’en 1511, pp 132-133.

-     L’Asie orientale à l’époque de la dynastie des Ming, 1368-1644, pp 168-169.

-     L’Asie orientale à l’époque de la dynastie des Qing, pp 174-175.

-     L’Asie du Sud-Est et les puissances européennes de 1511 à 1826, pp 176-177.

B. Điện ảnh

-       Apocalypse Now. Film américain de Francis Ford Coppola, 1979. Une vision allégorique du Vietnam et une parabole démesurée sur le démesure humaine avec Martin Sheen, un homme des Special Forces qui fut chargé de traquer Marlon Brando, un ancien Béret vert réfugié dans un village montagnard à la frontière cambodgienne, pour l’exécuter.

-     Col de cuir. Film italien de Paul T. Robinson (Ignazzio Doltz), 1988, avec Richard Hatch, James Mitchum, Tania Gomez.La défense d’un village montagnard de Làng Vây encadré par les Bérets verts américains contre l’invasion communiste et le trađic d’armes dans les années 1961-1963.

-     Full Metal Jacket. Film américain de Stanley Kubrick sur la guerre du Vietnam, 1987. Une espèce de protestation, de désillusion envers la guerre, et non un sentiment passionné pour ou contre la guerre. La parole est aux Marines, ils parlaient devant la caméra au cours d’un arrêt des combats à Khe Sanh dans le territoire des Bru.

-     Hamburger Hill. Film américain réalisé en 1987. Histoire d’une des plus sanglantes batailles de la guerre du Vietnam Mai 1969 dans la Vallée d’A Shau (province de Quảng Trị). Le film montre le mouvement pacifiste et les médias de l’époque, et le message semble être le suivant : si les opposants avaient coopéré et si les médias avaient raconté la vérité, les choses auraient tourné différemment.

-     L’enfer du devoir. Série télévisée. Une section de Marines opérant à Ðà Nẵng faisant leur devoir de pacification et de défense des populations montagnardes autour de leur camp.

-     Les Bérets Verts. Film américain de John Wayne, 1968. Un colonel des Forces Spéciales à la tête d’une équipe de commandos américains et montagnards luttant contre un ennemi fanatique et cruel. Film de propagande belliciste.

-     The A Team. Série télévisée. Une équipe des Forces Spéciales combattant au Vietnam est accusée par le haut commandement d’un crime atroce, elle essaie de prouver son innocence. Ces hommes aident les gens (Montagnards et Vietnamiens) dans le malheur et sont đinallement classés dans les bons parce qu’ils font leur devoir dans cette folle guerre asiatique et parce qu’ils ont été abandonnés par des généraux incompétents et par des politiciens égoïstes.

C. Nhật báo và tập san

 

1. Nhật báo :

  • Công An Thành Phố Hồ Chí Minh
  • Lao Ðộng
  • Nhân Dân
  • Quân Ðội Nhân Dân
  • Sài Gòn Giải Phóng
  • Tuổi Trẻ

2. Tập san

 

Cộng đồng người Chăm tại Việt Nam :

Người Chăm 1 - Tìm lại anh em, nhận lại bạn bè

Người Chăm 2 - Thời kỳ xác định bản thể 

Người Chăm 3 - Thời kỳ mở nước và dựng nước 

Người Chăm 4 - Thời vàng son

Người Chăm 5 - Thời kỳ xung đột

Người Chăm 6 - Bùng lên trước khi tàn lụi

Người Chăm 7 - Cố gắng tồn tại trong khó khăn

Người Chăm 8 - Cộng đồng người Chăm tại Campuchia

Published in Tư liệu

Người Chăm tại Việt Nam

Bài 8

Cộng đồng người Chăm tại Campuchia

Cộng đồng người Chăm tại Campuchia hiện nay (230.000 người) đông gấp hai lần cộng đồng người Chăm tại Việt Nam (115.000 người). Sự đông đảo này không phải tình cờ. Vì ở sát cạnh nhau, Campuchia là vùng đất dung thân của những gia đình người Chăm trốn chạy những cuộc nội chiến và chiến tranh xảy ra tại Chiêm Thành cũ.

cham22

Đền Nokor Bachey ở Kampong Cham - Campuchia

Nhóm Chăm Java

Cộng đồng người Chăm có mặt đông đảo trên lãnh thổ Campuchia từ sau ngày thành Đồ Bàn (Vijaya) thất thủ năm 1471. Hàng trăm gia đình Chăm, sinh sống dọc vùng duyên hải Bình Trị Thiên, chạy lên Tây Nguyên lánh nạn, một số đã ở lại và sống lẫn với các sắc tộc Thượng đã có từ trước, một số khác vượt thảo nguyên Kontum sang Chân Lạp định cư và trở thành những dân cư Khmer gốc Chăm.

Đợt tị nạn đông nhất có ghi rõ số lượng xảy ra vào năm 1692, khi quân của Minh vương Nguyễn Phúc Chu chiếm đóng Khánh Hòa (Kauthara). Sử liệu Khmer cho biết có khoảng 5.000 gia đình người Chăm, do những vương tôn dẫn đầu, đã băng rừng vượt núi đến Chân Lạp xin tị nạn. Vua Khmer Jaya Chetta III chấp thuận bảo vệ và cho định cư tại Udong (đế đô cũ). Những người này đều được đối xử tử tế. Với thời gian, một số di chuyển đến những địa phương khác quanh đế đô khai phá đất đai và trồng trọt.

Sau 1835, có thêm nhiều đợt di dân Chăm khác đến. Những người này không chấp nhận chính sách cai trị hà khắc của vua Minh Mạng, nhất là từ khi quyền tự trị tại trấn Thuận Thành (Panduranga) bị xóa bỏ. Dân số Chăm định cư tại Chân Lạp ngày càng tăng lên, đa số được đưa đến các tỉnh Pretviha (phía tây bắc) và các tỉnh Kongpong Cham, Prayveng, Svayrieng, Kandang và Takeo (phía tây nam) định cư. Một số khác tình nguyện sang Thái Lan định cư tại các tỉnh Ubon, Ratchathani và Sisakhet.

Thật ra người Khmer và người Chăm không xa lạ gì nhau. Lúc tiểu vương quốc Panduranga còn hùng mạnh, sự giao hảo giữa người Chăm và người Khmer đã rất khắng khít, dân cư hai vương quốc này đã thiết lập nhiều quan hệ suôi gia thân thiết. Nhiều vị vua tại Panduranga có vợ là người Khmer. Nhiều vị vua Chân Lạp đã từng sinh trưởng tại vương quốc Nam Chiêm Thành, như Jayavarman III, và cũng có nhiều vị vương Chăm được hoàng triều Khmer nuôi nấng, như Suryavaravarman. Người Khmer gọi chung cộng đồng di dân này là Chăm Java.

Tại sao Chăm Java ?

Theo những sử liệu Khmer, người Java (Chà Và) đã đến định cư tại Campuchia từ thế kỷ 14.

Thật ra Java là hai nhóm người khác nhau : người Mã Lai và người Java (Indonesia). Vì không nắm vững địa lý và phong tục tập quán của hai nhóm này, dân chúng Khmer gọi chung là Java. Người Java từ các đảo Bornéo, Sumatra, Minang Kabau... đến Chân Lạp từ đầu thế kỷ 16 ; người Mã Lai đến từ các lãnh địa Singapore, Trengganu, Thái Lan... để trốn tránh chiến tranh, đói kém hay sự trù dập của các chính quyền địa phương. Đa số những người tị nạn này là đàn ông, đi trên những thuyền nhỏ đổ bộ các vùng bờ biển phía đông nam, rồi di chuyển dần vào sâu trong nội địa và định cư tại các tỉnh Prayveng, Takeo, Kandang, Kampot, Kompong Chnang, Kompong Spư. Thời gian sau đó, những nam nhân Java di cư này lập gia đình với những phụ nữ Khmer, gọi là Java Kur. (Kur theo tiếng Chăm là Khmer). Vì theo đạo Hồi chính thống (sunni), nhóm này sống tách biệt với người Khmer chính gốc, đa số theo Phật giáo.

Nhưng từ khi tiếp xúc được với những nhóm Chăm di cư có mặt tại chỗ, vì cùng ngôn ngữ, phong tục và tôn giáo, cả hai nhóm dân gốc Nam Đảo ly hương này kết hợp lại với nhau để thành nhóm Chăm Java.

Người Chăm và các vương triều Khmer

Sự xuất hiện của nhóm Chăm Java xảy ra đúng vào lúc hoàng triều Chân Lạp có nhiều biến loạn.

Từ 1516 đến 1525, hai tiểu vương Paramaraja II (Cau Bana Cand hay Ang Chan) và Sri Jettha (Stec Kan hay Nay Kan) tranh quyền lẫn nhau. Được sự hỗ trợ của nhóm Chăm Java, Paramaraja II đuổi được Sri Chetta sang Xiêm La. Từ sau ngày đó nhóm di dân hỗn hợp này đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng trong nội chính Chân Lạp, nhiều người được phong tới chức thượng thư (Samtec Cau Hva).

Năm 1594, quân Xiêm tiến chiếm đế đô Longvek, cướp đi nhiều tài sản rồi rút về. Vua Paramaraja IV (Chetta I) cử hai lãnh tụ Chăm Java, Po Rat và Laksmana, sang Chiêm Thành cầu cứu. Vì đang bận chống lại chúa Nguyễn tại Phú Yên, vua Po Klong Halau (gốc Khmer) đã không tiếp đãi trọng hậu hai lãnh tụ này. Cảm thấy bị nhục và lợi dụng lúc đế đô Panran (Phan Rang) vắng chủ, cả hai tháo gỡ nhiều khẩu đại bác (mua của người Bồ Đào Nha) và bắt theo một số phụ nữ Chăm mang về Chân Lạp.

Trong thời gian đó, năm 1595, con của Sri Chetta tên Ram de Joen Brai (Prah Rama) đã cùng một người Tây Ban Nha tên Blas Ruiz, một người Bồ Đào Nha tên Diego Veloso và một người Hòa Lan chiếm trốn chạy qua Lào. Joen Brai xưng hiệu Ram I, dời đô về Srei Santhor. Vừa từ Chiêm Thành trở về và hay tin đảo chánh, hai vị tướng Chăm Java đành ủng hộ tân vương. Ram I liền ra lệnh cho Ukena Tejo, một tướng Khmer, và hai vị tướng Chăm Java kia sang đánh Chiêm Thành nhưng bị quân Đại Việt lúc đó đã làm chủ đất Phú Yên đánh bại.

Trong lúc đó, tại Chân Lạp, Ram I bị người Tây Ban Nha ám sát năm 1596. Hay tin này, Ukena Tejo cùng Po Rat và Laksmana chiếm lại đế đô, sát hại rất nhiều người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và tôn hoàng tử Cau Bana Nur con của Ram I lên ngôi, hiệu Ram II. Nhưng bị hoàng tử Cau Bana Tan (Ponhea Tan, con của Paramaraja IV) được người phương Tây và vương quốc Lào ủng hộ, trở về Longvek chiếm lại ngôi báu năm 1597, xưng hiệu Paramaraja V. Ba vị tướng xin thần phục và được giao bảo vệ đế đô. Laksmana còn được cử làm đô đốc Bộ Thủy Vận đặc trách về quan thuế và giao dịch quốc tế. Nhưng chính sách bài phương Tây một cách trắng trợn vì lý do tôn giáo của ba vị tướng ngày càng bị nhiều quần thần thân phương Tây chống đối. Ukena Tejo bị phe phản loạn xử tử, Po Rat bị Diego Veloso đâm chết.  

Còn lại một mình, năm 1599, Laksmana kêu gọi dân Khmer và Chăm Java nổi loạn, chiếm đế đô Srei Santhor, giết tất cả người phương Tây rồi rút về Thbuang Khmum thành lập một tiểu vương quốc riêng tên Ponhea Lu. Tại đây Laksmana bị một tân vương khác tên Paramaraja VI (Cau Bana An hay Ponhea An) đánh bại, phải chạy qua Chiêm Thành xin tị nạn nhưng bị vua Po Klong Halau bắt giết vì tội cướp người và vũ khí vài năm trước đó.

Tuy bị mất những địa vị cao trong triều đình, người Chăm vẫn được cậy nhờ mỗi khi vương quyền Khmer lâm nguy. Năm 1603, với sự trợ lực của nhóm Chăm Java, hoàng tử Cau Bana Nom (Ponhea Nom) tranh chấp với Paramaraja VII (Ponhea To hay Sri Suryobarm) nhưng không thành. Năm 1621, Ponhea Nu lên ngôi, hiệu Jaya Chetta II, tuyển rất nhiều người Chăm vào đoàn quân viễn chinh sang Attopeu (Lào) tìm vàng.

Năm 1630, Ang Non I lên ngôi, nhưng đến năm 1636 phải nhờ người Chăm bảo vệ và chấp nhận cho người Chăm có một lãnh thổ riêng tại Ponhea Lu (Thbuang Khmum hay Kompong Cham), cạnh thủ đô Udong. Trong thời gian này đạo Hồi phát triển mạnh tại Chân Lạp. Sự cuồng tín và lòng dũng cảm của những tín đồ Hồi giáo được nhiều vương tôn Khmer cậy nhờ mỗi khi có biến.

Năm 1642, Cau Bana Cand (Ram Cul hay Nặc Ông Chân) nhờ nhóm Chăm Java giúp lật đổ Ang Non I và lên ngôi, hiệu Ramadhipatih I (Nặc Ông Chân) và phong một phụ nữ Chăm tên Nan Hah làm hoàng hậu, hiệu Anak Mnan Kapah Pau. Nhà vua theo đạo Hồi (tên thánh là Ibrahim) và áp dụng triệt để giáo lý Hồi giáo trong đời sống. Chính sách này đã làm dân chúng Khmer bất bình, một phong trào bảo vệ Phật giáo chống lại Hồi giáo nổi lên khắp nơi. Chống không lại, con cháu các vị vua Khmer cũ chạy sang Đàng Trong cầu cứu.

Quan hệ giữa người Chăm tại Chân Lạp và các vua chúa nhà Nguyễn

Năm 1658 chúa Hiền xua 3.000 quân tiến chiếm Mỗi Xuy (Biên Hòa), bắt Ramadhipatih I về giam tại Quảng Bình, đưa Batom Racha (Nặc Ông Nộn hay Ang Sur) lên ngôi, hiệu Paramaraja VIII (1659-1674) và năm 1659 đuổi được nhóm Hồi giáo chạy sang Xiêm La, trong số này có rất nhiều gia đình vương tôn Khmer. Cộng đồng người Chăm Hồi giáo còn lại chạy về Nokor Vat (tỉnh Svay Rieng) cạnh biên giới tây-nam Việt Nam ẩn náu, một số khác ở lại phục tùng vị vua mới và được cho giữ những chức vị cao trong triều đình. Hồi giáo mất dần ảnh hưởng trong đời sống chính trị và xã hội tại Chân Lạp. Nhưng cũng kể từ đó cộng đồng người Chăm Hồi giáo chống lại bất cứ triều đình Khmer nào thân Việt Nam hay thân Phật giáo.

Năm 1672, hoàng tử Sri Jaya Chetta (Ang Chey hay Nặc Ông Đài), cháu Ramadhipatih I, giết cha vợ là vua Paramaraja VIII lên ngôi, hiệu Padumaraja II, và nhờ Xiêm La chống lại quân Việt. Vị tân vương mời hoàng hậu gốc Chăm, vợ của vua Ramadhipatih I, từ Battambang về Udong làm thái hậu, nhưng bà này từ chối và trốn về Thbaung Khmum nhờ đồng hương giành lại ngôi báu. Padumaraja II bị ám sát chết, Udong bị chiếm đóng và hoàng hậu cũ lên ngôi nhưng chỉ tồn tại được 5 tháng. Các con của Ramadhipatih I đã vận động dân chúng Khmer lật đổ bà hoàng thái hậu và giành lại quyền lãnh đạo nhưng anh em lại tranh cvhấp lẫn nhau. Thommo Racha (Nặc Ông Thu) nhờ Xiêm La và nhóm Chăm Java giúp ; Ang Non (Nặc Ông Nộn) chạy sang Đàng Trong cầu cứu.

Năm 1674, chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm và Nguyễn Đình Phái đánh chiếm thành Udong. Ramadhipatih I chạy trốn vào rừng và mất tích. Con trưởng là Nặc Ông Thu đầu hàng nhưng được chúa Nguyễn phong Ông Thu làm chánh vương cai trị Lục Chân Lạp, đóng đô tại Udong (Long Úc hay Nam Vang), Nặc Ông Nộn được phong làm phó vương cai trị Thủy Chân Lạp (miền Nam Việt Nam), đóng đô tại Prei Nokor (Sài Gòn).

Năm 1691, sau khi Nguyễn Hữu Kính đánh chiếm lãnh thổ Panduranga, giết Po Saut (Bà Tranh) vì đã dám chống cự lại Minh vương Nguyễn Phúc Chu, một lãnh tụ Chăm tên Po Chonchanh, đạo Bani (Hồi giáo cải tiến), dẫn 5.000 người băng cao nguyên Di Linh sang Chân Lạp tị nạn, tất cả được đưa đến Thbaung Khnum (Kompong Cham) lập nghiệp.

Trong hai thế kỷ 17 và 18, nội bộ triều đình Khmer luôn có loạn lạc, quân Xiêm La và quân Đàng Trong liên tục sang can thiệp để đưa một vị vua thân mình lên ngôi. Trong khí đó, tất cả các vị vương Khmer đều nhờ các nhóm Chăm tại Thbuang Khmum và Chroy Chanvar giúp sức. Năm 1782, nhân dịp triều đình Khmer đang rối loạn, một người Chăm tên Duôn Ser chiếm Udong và Chroy Chanvar rồi xưng vương. Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên tị nạn và nhờ Mạc Thiên Tứ xin chúa Nguyễn giúp, quân Chăm bị đánh bại, Duôn Ser bị giết. Dưới thời Nặc Tôn, cộng đồng người Chăm tại Chân Lạp bị sát hại tập thể, một số chạy qua Xiêm La ẩn lánh, một số khác chạy vào xứ Đàng Trong xin tị nạn và được định cư tại Moat Chruk (Châu Đốc).

Trong thời gian này binh lực nhà Nguyễn thường tiến qua Chân Lạp bảo vệ các triều vương Khmer thân Việt, nhóm Chăm Java cũng nhờ đó được người Khmer để yên. Thế lực của nhóm này lên cao khi năm 1795, một lãnh tụ Chăm, hoàng tử Thị Hảo (Chay Brey hay Po Ceng Sei Brei) và binh lính từ Panduranga qua tị nạn.

Năm 1817, một hoàng thân Chăm (không rõ tên) được cử làm tổng trấn tỉnh Kongpong Cham. Năm 1834, con vị tổng trấn này được Minh Mạng phong tước tổng trấn thay mặt triều đình Huế cai trị Kompong Cham, nhưng chính sách bảo hộ này bị người Khmer thân Xiêm La chống đối.

Năm 1854 sau khi nhờ quân Xiêm La đuổi quân Việt ra khỏi lãnh thổ, vua Ang Duong (Harirak Rama hay Ang Tuon) áp dụng chính sách bài Việt và cứng rắn với người Chăm : quyền tự trị tại Thbuang Khmum bị bải bỏ, sự qua lại với Châu Đốc bị hạn chế. Nhiều chức sắc cao cấp trong cộng đồng Chăm tại Thbuang Khmum nổi lên chống lại vì không muốn bị đồng hóa với người Khmer.

Năm 1858, một sứ giả của vua Ang Duong là Udkana Yodhasangram (Yuthea Sangkream) được cử đến thương thuyết nhưng bị quân Chăm phản loạn giết chết. Ang Duong mang 10.000 quân đến đánh, giết được nhiều thủ lãnh Chăm, giải tán Ponhea Lu và tuyên án khổ sai cho hơn 6.000 người khác. Gia đình những người Chăm còn lại bị đày sang các tỉnh Pursat, Lovek, Kompong Tralach, Kompong Luong và khu vực giữa Tonlé Sap và Phnom Penh, đạo Hồi bị cấm truyền bá. Một thủ lãnh Chăm Java dẫn hàng ngàn người Chăm Java chạy sang Châu Đốc tị nạn và giúp nhà Nguyễn tấn công các vị vua Khmer chống người Việt và người Chăm.

Năm 1861 triều đình Khmer lại có loạn, Norodom (Narottam hay Nặc Ông Lân), con vua Ang Duong, vừa lên ngôi thì bị hai em là hoàng tử Sisowath (Preah Kevea hay Ang Sor) và hoàng thân Sivattha (Sivotha) tranh ngôi. Sivattha được người Chăm hậu thuẩn chiếm thành Udong, Norodom chạy qua Bangkok, thủ đô Xiêm La lánh nạn. Tại đây, Norodom kêu gọi người Chăm tại Châu Đốc qua giúp. Nhân dịp này, với sự có mặt của quân Pháp tại Nam kỳ, cộng đồng người Chăm tại Châu Đốc yêu cầu quân Pháp chiếm luôn Chân Lạp với hy vọng được tự do truyền bá đạo Hồi. Năm 1862 Norodom được người Pháp và người Chăm đưa về nước giành lại ngôi vua, nhưng Chân Lạp vẫn bị đặt dưới quyền bảo hộ của Xiêm La.

Năm 1864, Pháp đuổi quyền Xiêm ra khỏi lãnh thổ và đứng ra bảo hộ Chân Lạp trực tiếp, đổi tên nước là Cambodge. Dân chúng Khmer, không tán thành việc này, nổi lên chống lại triều đình. Một nhân sĩ Khmer tên Assoua, tự nhận là hoàng tử Ang Phim, cháu vua Ang Duong, kêu gọi người Khmer chống Norodom. Trong cuộc tranh chấp này, cộng đồng người Chăm bị chia rẽ. Người Chăm tại Kompong Cham theo Assoua ; người Chăm tại Châu Đốc theo Pháp ủng hộ Norodom. Vùng biên giới phía cực nam Việt Nam trở thành vùng tranh chấp giữa người Khmer, người Việt và người Chăm. Người Chăm muốn thành lập một tiểu vương quốc Hồi giáo tại Hà Tiên, chấp nhận triều cống Cao Miên và nhận Pháp bảo hộ. Cambodge xác nhận Hà Tiên là lãnh thổ của họ và người Việt nói Hà Tiên là một thị xã của miền Nam từ lâu đời. Sau cùng Pháp sát nhập Hà Tiên vào lãnh thổ Nam kỳ.

Trong khi đó, tại Cambodge, triều thần muốn đưa hoàng tử Sisowath lên thay. Bị cô lập, Norodom giao cho Samdech Chau Ponhea, một tướng Chăm, bảo vệ vòng đai thành Udong nhưng sau cùng phải giao cho Brière de l’Isle, một sĩ quan Pháp, đảm nhiệm vì trong phe phản loạn cũng có người Chăm do đó rất khó phân biệt. Sau cùng Samdech Chau Ponhea được giao bảo vệ hậu cung.

Năm 1865, một tu sĩ Phật giáo tên Pou Kombo (tự nhận là hoàng tử Ang Phim, con vua Ang Chan, cháu vua Ang Duong) cùng với 2.000 người Chăm tại Châu Đốc nổi lên chống lại Norodom, bao vây thành Udong. Khoảng 1.000 người Chăm khác từ Châu Đốc theo quân Pháp sang bảo vệ thành Udong. Pou Kombo chạy sang Châu Đốc và Tây Ninh tị nạn. Sau khi chiêu mộ thêm binh sĩ Chăm và Khmer, ngày 17/12/1866, Pou Kombo tiến vào Udong. Quân Khmer bỏ chạy, chỉ còn quân Chăm của Samdech Chau Ponhea ở lại tử thủ. Nhưng qua ngày hôm sau, hơn 500 quân Chăm của Pou Kombo bỏ theo Chau Ponhea vì lý do tôn giáo (Pou Kombo là một nhà sư Phật giáo).

Hoàng tử Sisowath (Preah Kevea), được cả người Khmer và người Chăm tại Kompong Cham lẫn Châu Đốc ủng hộ, đứng ra lãnh đạo cuộc phản công chống Pou Kombo. Tháng 12/1867, quân phản loạn bị bao vây tại Kompong Thom, Pou Kombo bị giết. Pháp rất hài lòng về sự dũng cảm và sự trung thành của quân Chăm Hồi giáo ở Châu Đốc, buộc Norodom phải khen thưởng xứng đáng. Nhiều nhân vật Chăm giữ những chức vị quan trọng trong triều đình vua Norodom. Nhưng vì sự cuồng nhiệt trong lối sống đạo, người Chăm Hồi giáo không chiếm được nhiều thiện cảm của dân chúng Khmer, đa số theo đạo Phật. Chỉ các vua chúa Khmer mới tin tưởng nhóm người Chăm Hồi giáo vì sự trung thành và sự can cường của họ, một số quân nhân Chăm được tuyển mộ để bảo vệ hoàng gia và vòng đai củ thủ đô Nam Vang.

Norodom mất năm 1904, hoàng thân Sisowath lên thay, vòng đai cận vệ của nhà vua chỉ toàn người Chăm. Trong hai triều kế tiếp, Monivong (1928-1940) và Sihanouk (từ 1940), người Chăm được giữ nhiều vai trò quan trọng trong vương quyền. Năm 1970, vòng đai phòng thủ Phnom Penh được giao cho tướng Les Kosem, một người gốc Chăm và là một sĩ quan nhảy dù được huấn luyện từ Pháp.

Khi đã ổn định được thế đứng trong chính quyền Cambodge, Les Kosem liền nghĩ tới việc phục hồi vương quốc Champa cũ. Sau 1954, những người Chăm Java theo đạo Hồi là Khmer Islam và tỏ ra thù nghịch với người Việt.

Trong những năm 1975-1979, những nhóm người Chăm sinh sống trong những thành phố tại Kongpong Cham, Kongpong Chnang và nhiều nơi khác bị đuổi về nông thôn, hơn phân nửa đã bị Khmer đỏ sát hại, số còn lại chạy sang Châu Đốc và vùng biên giới Thái Lan lánh nạn.

Khi Khmer đỏ bị quân đội cộng sản Việt Nam đẩy lui ra khỏi lãnh thổ Campuchia, người Khmer Islam tị nạn tại Châu Đốc trở về Kompong Cham, Kompong Chnang và Phnom Penh sinh sống. Cộng đồng người Chăm Hồi giáo sống dưới chế độ cộng sản thân Việt Nam của Heng Samrin và Hun Sen được tự do giữ gìn văn hóa và giữ đạo của họ. Hiện có hơn 260 giáo đường Hồi giáo tại Campuchia và mỗi năm có trên 20 người hành hường tại La Mecque. Cũng nên biết đương kim thủ tướng Hun Sen xuất thân từ Kompong Cham, do đó rất được người Chăm ủng hộ. Chính phủ của Norodom Ranariddh cũng thế.

Sự phồn thịnh và ổn định của Campuchia trong những năm 1979-1980 một phần là do sự đóng góp của nhóm Chăm Hồi giáo này, họ là đầu cầu vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam qua ngõ Châu Đốc và trên sông Hậu. Trong các chức vụ cao trong chính quyền Khmer, của Hun Sen và Ranariddh, đều có người Khmer Islam.

Nguyễn Văn Huy

(2002)

Đọc thêm :

Người Chăm 1 - Tìm lại anh em, nhận lại bạn bè

Người Chăm 2 - Thời kỳ xác định bản thể 

Người Chăm 3 - Thời kỳ mở nước và dựng nước 

Người Chăm 4 - Thời vàng son

Người Chăm 5 - Thời kỳ xung đột

Người Chăm 6 - Bùng lên trước khi tàn lụi

Người Chăm 7 - Cố gắng tồn tại trong khó khăn

Người Chăm 8 - Cộng đồng người Chăm tại Campuchia

Người Chăm 9 - Thư tịch về người Chăm và người Thượng ở Việt Nam

Published in Tư liệu

Người Chăm tại Việt Nam

Bài 7

Cố gắng tồn tại trong khó khăn

cham20

Những gì còn lại của thành Đồ Bàn (Qui Nhơn) ngày nay - Ảnh minh họa

Đối với nhiều sử gia và học giả phương Tây, biến cố 1471 đánh dấu sự giải thể vương quốc Chiêm Thành, không một biên khảo lịch sử hay niên giám triều đình Chiêm Thành nào được phổ biến từ sau ngày đó.

Trong thực tế, sinh hoạt triều chính của các dòng vương tôn Chiêm Thành vẫn tiếp tục, với một qui mô tuy nhỏ hơn nhưng không kém phần xúc tích. Tuy vậy tìm hiểu lịch sử người Chăm trong giai đoạn này rất là khó khăn vì thiếu chứng liệu, người viết đã dựa vào các nguồn sử liệu Việt Nam, đối chiếu với nhiều nguồn sử liệu khác của nước ngoài để phác họa lại giai đoạn thiếu sót này.

Nam Chiêm Thành trong thế kỷ 16

Sau 1471, nhóm hoàng tộc Chăm từ Nam Bàn (từ Quảng Nam đến Đồ Bàn) chạy về Giao Nam (Bình Thuận) lánh nạn và tranh chấp quyền bính với các dòng vương tôn địa phương tại Phan Rang (Virapura). Nhóm người này tự nhận là truyền nhân đích tôn của vương triều cũ (vương triều Vijaya) và kêu gọi dân chúng địa phương không thừa nhận dòng họ Bố Trì Tri (Jayavarman Mafoungnan), vì chỉ là cấp thừa hành của các dòng tiên vương.

Tuy âm thầm nhưng rất mãnh liệt, các dòng vương tôn Nam Bắc Chiêm Thành kết thành từng phe nhóm tranh chấp lẫn nhau. Với thời gian, dòng dõi vương tôn Nam Bàn được dân chúng mến chuộng và tôn lên làm vua cai trị lãnh thổ Nam Chiêm Thành. Yếu tố bộ tộc truyền thống Cau và Dừa phai dần trong ký ức tập thể dân gian và, kể từ thế kỷ 15 trở về sau, huyền thoại này không còn được nhắc tới nữa. Dân chúng Panduranga (Nam Chiêm Thành), quá mệt mỏi trước các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm và nội chiến, muốn quên đi quá khứ để chỉ chăm lo cuộc sống hằng ngày.

Dòng họ Bố Trì Tri không trị vì lâu. Năm 1478 Bố Trì Tri mất, em là Koulai lên thay nhưng năm 1505 bị ám sát tại Champassak (Nam Lào), con là Chakou Poulo kế nghiệp và trị vì đến 1530 thì mất. Kể từ sau ngày đó, con cháu dòng vương tôn Nam Bàn được hoàng triều và dân chúng tôn lên làm vua. Con Trà Toại là hoàng thân Po Karutdrak được tôn lên làm vua, kế nghiệp Chakou Poulo cai quản xứ Panduranga. Con Karutdrak, thái tử Maresarak làm vua năm 1536. Po Kanarai lên ngôi năm 1541, hiệu Chế Bãi. Năm 1553 Chế Bãi mất, Po Ất (Po At) lên thay.

Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, người Chăm phía Bắc vẫn thỉnh thoảng nổi lên quấy phá Thuận Hóa (châu Ô và châu Rí). Nhân cớ này, Nguyễn Hoàng xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, rồi bí mật xây dựng cho mình và con cháu cơ nghiệp riêng. Mỗi lần các chúa Nguyễn bị các chúa Trịnh làm áp lực, vương quốc Chiêm Thành lãnh nhận những hậu quả.

Năm 1560, Nguyễn Hoàng bị Trịnh Kiểm buộc phải nộp hàng năm 400 cân bạc, 500 tấm lụa nếu muốn được yên. Không sao tìm đủ phẩm vật dâng nộp, Nguyễn Hoàng cử người xuống Aryaru (Tuy Hòa) thông báo cho vua Po Ất cung cấp số lượng phẩm vật nói trên, nhưng bị từ chối. Liền tức thì, Nguyễn Hoàng xua quân tiến chiếm Phan Rang, quân Chăm rã hàng, hàng ngàn người chạy theo Po Ất lên Tây Nguyên lánh nạn. Sau khi cướp phá các đền đài và tịch thu hết tài sản của hoàng gia Chiêm, Nguyễn Hoàng rút quân về nước nhưng để lại số binh sĩ trấn giữ Tuy Hòa.

Năm 1579, lợi dụng sự yếu kém của quân Chăm, một hoàng thân Khmer trấn thủ lãnh thổ đông-bắc Chân Lạp (Mondolkiri và Rattanakiri) dẫn đại quân tiến vào Phan Rang giết Po Ất rồi tự xưng vương, hiệu Po Klong Halau (Po Klău Haluv).

Nam Chiêm Thành trong thời Nguyễn sơ

Sau khi làm chủ toàn bộ lãnh thổ Panduranga, Po Klong Halau (1579-1603) mở rộng giao thương với phương Tây, nhà vua tìm mua súng điểu thương và những khẩu đại pháo phòng thủ bờ biển và kinh thành. Không bao lâu sau, vương quốc Panduranga trở nên hùng mạnh, Po Klong Halau tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Đại Việt, chiếm Thành Hồ (Tuy Hòa) trên sông Đà Rằng năm 1579 và thách đố các thế lực khác trong vùng, nhất là Chân Lạp.

Trước sự đánh phá của quân Chiêm phía nam và áp lực quân sự của chúa Trịnh phía bắc, Nguyễn Hoàng không những bỏ qua việc mất Thành Hồ mà còn đề nghị thành lập một liên minh quân sự với Chiêm Thành. Po Klong Harau cũng muốn được yên với Đại Việt để chống trả những cuộc tiến quân của Chân Lạp nên đã chấp thuận.

Năm 1594, vua Po Klong Harau gởi quân sang tiếp cứu tiểu vương Johore, đất Madjapahit (bán đảo nam Mã Lai, gần Singapore), chống lại sự tấn công của quân Bồ Đào Nha.

Năm 1597, vua Khmer Chetta I (tiếng Chăm là Cau Bana Tan, hiệu Paramaraja V) mang quân đánh Chiêm Thành viện cớ Po Klong Harau làm phản không chịu sát nhập Panduranga vào lãnh thổ Chân Lạp. Nhờ được trang bị những loại vũ khí mới, quân Chăm đánh bại quân Khmer trong những trận đầu và còn tiến sâu vào nội địa Chân Lạp. Về sau, được người Chăm tị nạn tại Chân Lạp ủng hộ, quân Khmer phản công trở lại và cuộc chiến trở nên ngang ngửa. Khi quân Chăm rút lui về nước, quân Khmer do tướng Ukana Tejo và hai tướng gốc Chăm, Po Rat và Laksmana chỉ huy, tiến vào Panduranga cướp các khẩu trọng pháo do người Bồ Đào Nha cung cấp.

Liên minh giữa Đàng Trong và Panduranga cũng không bền lâu. Năm 1603 khi Po Klong Halau qua đời, con là Po Thikdhik lên thay, hiệu Po Nit. Po Nit không những không chịu thông sứ với xứ Đàng Trong mà còn xây kho lương, tuyển mộ binh sĩ đánh phá phủ Hoài Nhơn, đạo Quảng Nam. Nguyễn Hoàng liền thành lập dinh Phú Yên và đưa một số di dân gan dạ vào lập các "lân" (làng biên giới) để canh tác và dò xét tình hình.

Năm 1611, sau khi củng cố xong thế lực ở phía bắc đèo Ngang, Nguyễn Hoàng sai một người Chăm không rõ tên, gọi là Văn Phong (Văn Phong là tên một chức chủ sự) dẫn quân qua đèo Cù Mông chiếm thành Phú Yên (Aryaru), tổ chức dinh điền và đưa dân từ các tỉnh Quảng Nam đến Bình Định vào định cư, lập ra hai xã Đồng Xuân và Tuy Hòa. Quân Chăm tấn công liên tục hai xã mới này, nhưng không thành công. Po Nit mất năm 1613, em là Po Chai Păran kế nghiệp.

Po Chai Păran dời đô từ Virapura (Phan Rang) về Bal Canar (thôn Tịnh Mỹ, Phan Rí) đề phòng chúa Nguyễn tấn công bất ngờ. Năm 1618 Po Chai Păran mất, con là Po Ehklang lên ngôi.

Năm 1622 nội bộ triều chính Panduranga có loạn, một vương tôn đạo Bani tên Po Klong Menai (Po Klău Manai) giết Po Ehklang rồi tự xưng vương, hiệu Po Mahtaha.

Dưới thời Po Klong Menai, xung đột với người da trắng và tôn giáo trở nên trầm trọng. Trong những năm 1622-1630, thuyền buôn của các thương nhân Hòa Lan qua lại trên Biển Đông bị quân "Mã Lai" (thực ra là người Chăm) cướp bóc và thương điếm của người phương Tây tại Côn Sơn thường xuyên bị đập phá, những cơ sở truyền đạo của các giáo sĩ phương Tây trên lãnh thổ Panduranga đều bị đốt. Những vị lãnh đạo các tôn giáo Bà La Môn và Bani cũng nhân cơ hội xúi giục giáo dân chống phá lẫn nhau trong những dịp lễ lạc. Đất nước trở nên loạn lạc, dân chúng sống trong cảnh lầm than, tại mỗi nơi các lãnh chúa và tù trưởng địa phương tùy theo sức mạnh của mình tổ chức đánh phá các nơi khác để cướp bóc lương thực.

Trước cảnh loạn lạc này, năm 1627, một tù trưởng người Thượng gốc Churu tên Thốt được dân chúng Chăm và người Thượng tôn lên làm lãnh tụ đứng ra dẹp loạn. Dẹp loạn xong, tù trưởng Thốt được dân chúng tôn lên làm vua, hiệu Po Romé (Pô Rômê). Việc đầu tiên của tân vương là buộc các lãnh tụ tôn giáo Bà La Môn và Bani (các thầy Paseh và thầy Char) phải sinh hoạt chung với nhau, phân chia những ngày lễ lớn như các lễ nghi về nông nghiệp (lễ dựng chòi, lễ mừng cây lúa, lễ cúng chúa lửa, lễ cúng sân lúa, lễ cúng cơm mới...) cho hợp lý để các thầy tế lễ và giáo dân đạo kia có thể tham dự.

Po Romé (1627-1651) là một vị vua sáng suốt, biết tổ chức, chăm lo đời sống dân chúng, đất nước sống trong thái hòa. Gần như tất cả các vương quốc địa phương đều giao thương với Chiêm Thành : Xiêm La, Chân Lạp, Ai Lao, Ấn Độ, Mã Lai và Đại Việt, kể cả với các quốc gia phương Tây. Nhiều đập nước lớn dẫn thủy nhập điền (như đập Marên) được thành lập tại những nơi khô cằn và triền núi để dân chúng canh tác. Nhà vua chọn Krong Laa (làng Palai Bachong, xã Hòa Trinh, thị xã Phan Rang, trên quốc lộ 1, cách Sài Gòn 310 cây số) làm kinh đô, cạnh sông Krong Binh (sông Viêu). Nơi này trước kia là kinh đô cũ (Virapura) của vua Satyavarman, được trồng nhiều cây Kraik tượng trưng cho uy quyền của vua.

Năm 1629, một chủ sự người Chăm, gọi là Văn Phong, nổi lên đánh phá các làng di dân người Việt tại Phú Yên. Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên sai Nguyễn Phúc Vinh mang quân xuống đánh dẹp và thành lập Trấn Biên Dinh, lấn sâu vào lãnh thổ Chiêm Thành tới chân núi Thạch Bi (đèo Cả) để bảo vệ di dân. Sau thất bại này, Po Romé làm hòa và xin cưới con gái thứ ba của Sãi Vương là công chúa Ngọc Khoa (em của Ngọc Liên và Ngọc Vạn, đã gả cho vua Chân Lạp Chetta II năm 1620, và là chị của Ngọc Đỉnh), gọi là Po Bia Út, tước hiệu hoàng hậu Akaran.

Cũng nên biết Po Romé có rất nhiều vợ. Vợ thứ nhất tên Po Bia Suthi (hay Po Bia Suchi), con vua Po Ehklang, không có con. Po Romé lên cao nguyên Đắc Lắc cưới người vợ thứ hai, con một tù trưởng Rhadé, tên Po Bia Thanh Chan (hay Po Bia Suncan) và sinh hạ được nhiều con. Sau cùng nhà vua xin cưới công chúa Ngọc Khoa, vợ thứ ba và cũng là vợ út của Po Romé (không tài liệu nào nhắc đến con cái của bà Ngọc Khoa).

Tuy là sui gia với chúa Nguyễn, quân Chăm vẫn thỉnh thoảng tấn công quân Việt tại Phú Yên. Năm 1651, trong một trận giáp chiến với quân Việt, Po Romé bị tử thương. Dân chúng Chăm rất thương tiếc và xây cho ông một tháp lớn tại Phan Rí để thờ, gọi là tháp Po Romé (thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước).

Năm 1652, Po Nraup, người con cùng mẹ khác cha với Po Romé, lên ngôi, hiệu Bà Thâm (còn gọi là Bà Tấm hay Bà Bì). Bà Thâm là một người Chăm lai Thượng (Chăm Pal), cha là người Chăm, mẹ là người Churu. Vừa lên ngôi Bà Thâm dẫn quân tấn công Trấn Biên Dinh, chiếm lại thành Phú Yên. Hiền vương Nguyễn Phúc Tần sai tướng Hùng Lộc (một người gốc Chăm theo chúa Nguyễn) mang 3.000 binh sĩ vượt đèo Hổ Dương (đèo Cả, núi Thạch Bi), đánh bọc hậu, chiếm Aya Tră (Nha Trang), bắt được Bà Thâm.

Để cầu hòa, Bà Thâm dâng đất Kauthara và chấp nhận lấy xã Kamran (Cam Ranh) làm ranh giới : phần đất phía nam sông Phan Rang thuộc vua Chiêm Thành, phần đất phía bắc thuộc về chúa Nguyễn (lãnh thổ Kauthara) và đổi tên thành phủ Thái Ninh (gồm Thái Khang và Diên Ninh), sau là phủ Diên Khánh (Khánh Hòa). Tướng Hùng Lộc được phong làm thái thú. Nhiều đoàn người Chăm, lo sợ bị trả thù, vượt cao nguyên Đắc Lắc sang Xiêm La lánh nạn, đông nhất là tại Ayuthya.

Lãnh thổ Panduranga như vậy chỉ còn lại 4 địa phận : Panră (Phan Rang), Krău (Long Hương), Parik (Phan Rí) và Pajai (Phố Hài). Kinh đô dời về Bal Canar (Cà Ná thuộc thôn Tịnh Mỹ, Phan Rí). Vương quốc Nam Chiêm Thành mất đi những hải cảng lớn, việc giao thương với các tàu buôn phương Tây giảm dần và mất hẳn vào giữa thế kỷ 18, người Champa trở thành một dân tộc lục địa, mất hẳn khả năng hàng hải và ngư nghiệp.

Năm 1653 Bà Thâm qua đời, hoàng thân Po Prik Tirai Pakhuoh được chúa Nguyễn cho lên thay. Po Prik Tirai là con trai vương phi người Rhadé (Po Bia Tanchan) của Po Romé. Năm 1657, Po Ja Tanưh, rể vua Po Prik, được chúa Nguyễn phong vương (đề đốc đại tướng). Năm 1659, Po Saut (Bà Tranh) lên ngôi trị vì đến năm 1692.

Cũng nên biết từ 1620, vua Chân Lạp là Chey Chetta II tặng Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên đất Đồng Nai làm quà cưới công chúa Ngọc Vạn, nhưng vì bận đối phó với chú Trịnh nên chúa Nguyễn chưa thể đưa người vào khai phá ngoài những lưu dân phiêu lưu và tội phạm bị đày xa xứ. Từ sau ngày đó, vương quốc Nam Chiêm Thành nằm trong thế gọng kìm giữa hai thế lực, xứ Đàng Trong và Chân Lạp. Quân Việt có băng qua lãnh thổ Panduranga năm 1630 giúp Chey Chetta II nhưng rút về hết khi xong nhiệm vụ. Năm 1679 nhân có hai vị tướng nhà Minh xin tị nạn, chúa Nguyễn cho vào khai phá đất Đồng Nai. Phong trào di dân Việt từ Diên Khánh vào Đồng Nai trong giai đoạn này còn rất hạn chế vì không thể băng ngang lãnh thổ Chiêm Thành bằng đường bộ trong khi tàu thuyền thì quá hiếm hoi và chỉ dành cho nhu cầu triều chính và quân sự.

Năm 1691, Bà Tranh (Po Saut) xua quân đánh Diên Ninh với hy vọng chiếm lại Kauthara, rồi không chịu triều cống nữa. Năm 1692, Minh vương Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Kính chiếm Panduranga, giết Bà Tranh và bắt theo một số cận thần gồm Kế Bà Tử (Po Saktiray Depatih), Tả Trà Viên (Po Thutirai Depatih), vương phi Bà Ân cùng rất nhiều binh sĩ đem về giam tại núi Ngọc Trản (Thừa Thiên).

Hoàng thân Po Chongchan (Po Choncăin) được đưa lên kế nghiệp và bị buộc phải triều cống nhiều phẩm vật quí hiếm cùng vàng bạc cho chúa Nguyễn, lúc đó ngân khố đang rất thiếu hụt.

Không chịu nổi sự áp đặt này, năm 1692 Po Chongchan bỏ vương triều, dẫn theo khoảng 5.000 gia đình tín đồ đạo Bani chạy sang Chân Lạp tị nạn. Đây là đợt tị nạn thứ sáu (sau năm 986, 1285, 1318, 1471 và 1652) của người Chăm ra hải ngoại và là đợt tị nạn thứ hai sang Chân Lạp.

Đoàn người di tản đã để lại nhiều tài sản quí báu cho người Churu và người Kaho cất giữ trên cao nguyên Đồng Nai thượng và Langbian. Tại Chân Lạp, nhóm người này họp với nhóm "Mã Lai" (người Khmer gốc Chăm theo đạo Hồi) tạo thành nhóm Chăm Java, theo đạo Hồi chính thống. Một số sau đó về định cư tại Châu Đốc gọi là Chăm Islam (Chăm Islam khác với Chăm Bani, mặc dù cùng là đạo Hồi). Từ 1692 đến 1695, người Chăm tại Panduranga không có vua.

Quân Việt liền tiến chiếm Panduranga đang bị bỏ trống và đặt cho tên mới là trấn Thuận Thành. Những lãnh địa cũ của người Chăm cũng được đổi tên và giao cho các tướng Việt nắm giữ : Nguyễn Trí Thắng cai quản Phố Hài, Nguyễn Tấn Lễ địa phận Phan Rí, Chu Kiêm Thắng lãnh thổ Phan Rang.

Tháng 8 năm 1693, trấn Thuận Thành đổi thành phủ Bình Thuận (trấn là khu quân sự chưa ổn định, phủ là khu vực hành chánh đã ổn định). Dân chúng Chăm không chấp nhận sự cai trị trực tiếp của người Việt đã nổi lên chống đối. Để trấn an, Minh vương Nguyễn Phúc Chu phong Kế Bà Tử, em vua Po Saut, làm khám lý (tỉnh trưởng) phủ Bình Thuận, ba người con của Bà Ân làm đề đốc (quận trưởng) thay mặt Minh vương cai trị và thâu thuế. Những tù binh Chăm bị giam tại Huế cũng được trả về phủ Bình Thuận ; tất cả buộc phải ăn mặc như người Việt : quan thì áo thụng, mũ cánh chuồn, đi hia ; binh lính thì mặc áo cộc, đội nón lá, không được vấn váy (sà rông), tóc bới ra sau. Người Chăm tại phủ Bình Thuận được hưởng qui chế giám hộ (tự trị về hành chánh, kinh tế và tôn giáo) đã tỏ ra bớt chống đối nhưng sự căng thẳng vẫn tồn tại.

Năm 1696, nhân có nạn đói, một người Hoa tên A Ban và một hoàng thân Chăm tên Ốc Nha Thát xúi giục dân chúng nổi loạn nhưng liền bị dập tắt. Sau biến cố này, qui chế bảo hộ bị hủy bỏ, phần đất đông người Chăm cư ngụ nhất tại phủ Bình Thuận đổi thành trấn Thuận Thành, Kế Bà Tử được phong làm "phiên vương" (vua), một tước ngang với vua Chăm cũ, và được giao lại ấn kiếm, yên mã. Kể từ cuối thế kỷ 17, người Chăm tuy mất độc lập nhưng vẫn còn hưởng qui chế tự trị.

Trấn Thuận Thành thật ra chỉ còn là một vùng đất nhỏ tại Phan Rang và Phan Rí, người Chăm gọi là Bal Prădară (Thuận Hải), gồm hai huyện An Phước (phía nam Phan Rang) và Hòa Đa (phía nam Phan Rí). Cung đình vua Chăm đặt tại Bal Canar (Tịnh Mỹ) về hình thức. Bên cạnh sự quản trị đó, phong trào di dân lập ấp của người Việt vào trấn Thuận Thành ngày càng gia tăng. Những làng Việt Nam, hơn 200 làng, tạo thành những khoảng da beo trong lãnh thổ Prădară. Những người Chăm bất mãn bỏ lên cao nguyên sống lẫn lộn với người Thượng (Churu, Kaho và Djarai) tại Djiring (Di Linh, Lâm Đồng), một số khác chạy sang Chân Lạp hòa nhập với nhóm Chăm Java đã có từ trước. Sự thù ghét người Việt tại Chân Lạp do những nhóm Chăm di cư gieo rắc bắt đầu manh nha trong lòng người Khmer.

Sự cộng cư giữa người Chăm và Việt rất là khó khăn, do bất đồng văn hóa, tôn giáo, hành chánh và việc khai thác đất đai ngày càng gay gắt.

Năm 1712, một quan lại và khoảng 30 binh lính Kinh được tăng cường để phụ giúp Kế Bà Tử về hành chánh. Sự hiện diện của những Kinh binh này làm người Chăm bất mãn vì nhiều khu đất tốt lần lượt lọt vào tay nhóm người này. Từ đó người Chăm sống co cụm lại trong hai huyện An Phước và Hòa Đa để duy trì bản thể và phong tục tập quán riêng.

Tại Phan Lý Chàm, người Kinh thành lập bốn thôn giữa các làng Chăm : Xuân Quang (xóm Ổi), Xuân Hội (xóm Tầm), Tuân Giáo (xóm Rau Cá) và Tuân Mục. Về sau những di dân này lập gia đình với thiếu nữ Chăm, gọi là người Kinh Cựu (Cựu ở đây là người Chăm).

Một số tù binh Việt Nam, bị bắt từ thế kỷ 18, chấp nhận ở lại Chiêm Thành lập gia đình với phụ nữ Chăm cũng được gọi là người Kinh Cựu (Chăm Yuôn, tức người Chăm lai Việt).

Để duy trì tốt sự tuân phục của các dòng vương tôn Chăm, các chúa Nguyễn lần lượt phong vương con cháu Kế Bà Tử và Tả Trà Viên.

Kế Bà Tử trị vì đến năm 1727. Năm 1728, Nguyễn Phúc Chu phong Po Jinah Depatih, cháu Kế Bà Tử, làm vương trấn Thuận Thành.

Năm 1731, Tả Trà Viên, con Po Saut, lên thay.

Năm 1732, Po Rattirai Depatih, cháu Kế Bà Tử, làm vương trấn Thuận Thành.

Con Rattirai, Po Tathun Demurai kế nghiệp năm 1763.

Po Tithuntirai Rakhuoh (Rakhvăh), con Tả Trà Viên, được chúa Nguyễn tấn phong năm 1765, nhưng đến năm 1768 mới chính thức chấp chánh.

Giữa hai gọng kìm

Trong thời gian từ 1771 đến 1799, Đại Việt có nội chiến. Tây Sơn, nhà Lê và chúa Nguyễn đánh phá lẫn nhau.

Tây Sơn là một làng ở phía tây Bình Định, gần An Khê, nơi có nhiều người Chăm Hroi (Hời) và người Thượng sinh sống. Phong trào Tây Sơn được rất đông người Chăm Hoi theo, về sau có thêm nhiều bộ lạc người Thượng gia nhập. Năm 1773, phong trào Tây Sơn phát triển mạnh trên cao nguyên Bình Định, một số người Chăm sống dưới quyền của nữ chúa Thị Hỏa tham gia phong trào. Tại Quảng Ngãi, một lãnh tụ Chăm tên Lía (còn gọi là Doan) theo Tây Sơn khởi nghĩa. Lực lượng thủy binh của Tây Sơn cũng có rất nhiều người Chăm đồng bằng.

Từ 1776 đến 1798, người Chăm sống trong trấn Thuận Thành buộc phải ngả theo một trong hai thế lực, hoặc Tây Sơn hoặc chúa Nguyễn. Quân Tây Sơn chiếm giữ Thuận Thành năm 1776, chúa Nguyễn lấy lại năm 1779, Tây Sơn tái chiếm năm 1791, Nguyễn Ánh chiếm lại năm 1793. Quân Tây Sơn trở lại Thuận Thành năm 1794, Nguyễn đẩy lùi năm 1798. Sau những cuộc xung đột liên tục này, dân chúng không còn biết nghe ai.

Từ 1781 đến 1783, trấn Thuận Thành tuy có vua (do Tây Sơn đưa lên) nhưng không được chúa Nguyễn công nhận. Năm 1782, một vương tôn dòng Kế Bà Tử tên Po Tithuntirai Deparan (tên Việt là Tá) xin theo Nguyễn Huệ. Năm 1783, Tá chiếm cao nguyên Đồng Nai thượng chống lại Nguyễn Ánh. Cũng trong năm 1783, một lãnh tụ Chăm Bà La Môn tên Po Tolripho từ Ấn Độ về lập chiến khu chống lại người Việt nhưng bị Nguyễn Huệ đánh bại. Po Tolripho phải chạy lên Cheo Reo (Phú Bổn) ẩn lánh trong các buôn làng người Thượng.

Năm 1790 Nguyễn Ánh chiếm lại trấn Thuận Thành, cháu Kế Bà Tử là Môn Lai Phu Tử được phong làm chưởng cơ cai quản trấn Thuận Thành, sau đó bị bãi chức vì tình nghi theo Nguyễn Huệ. Po Ladhun Paghuh, hay Thôn Ba Hú, được phong làm chưởng cơ (tiểu vương) Thuận Thành. Tước Thuận Thành trấn phiên vương bị bãi bỏ.

Để tưởng thưởng các trung thần, Nguyễn Ánh ban họ Nguyễn cho những vương tôn Chăm trung thành. Môn Lai Phù Tử, cháu Kế Bà Tử, mang tên Nguyễn Văn Chiêu ; Po Ladhun Paghuh thành Nguyễn Văn Hào ; Po Sănuncăn là Nguyễn Văn Chấn... Năm 1793, Nguyễn Văn Hào (Po Ladhun Paghuh) được phong làm chánh trấn Thuận Thành, Nguyễn Văn Chấn (Po Sănuncăn) làm phó trấn.

Năm 1794, quân Tây Sơn tiến vào Thuận Thành, Nguyễn Văn Hào chạy vào Gia Định. Năm 1796, Po Thong Khang, một thủ lĩnh người Chăm Hồi giáo tại Dã Giang, pháp danh Tăng Ma, theo Tây Sơn bị đánh bại tại Phô Châm. Tháng 10/1796, tù trưởng hai huyện Phô Châm và Đồng Phủ nổi lên đánh phá quân chúa Nguyễn nhưng liền bị đánh dẹp. Năm 1798 Nguyễn Ánh làm chủ Thuận Thành và giao cho Nguyễn Văn Hào cai trị. Năm 1799, Nguyễn Văn Hào mất, Nguyễn Ánh đưa Nguyễn Văn Chấn lên thay.

Người Chăm trong thời nhà Nguyễn

Dưới thời Gia Long (1802-1820), qui chế tự trị của người Chăm được duy trì trong chừng mực. Phong trào di dân và chính sách ban thưởng ruộng đất cho các công thần tại trấn Thuận Thành đã đẩy những người không chấp nhận sự cai trị của nhà Nguyễn vào chốn rừng sâu và đất cao.

Dòng họ còn lại của vị vua cuối cùng là Po Chongchan không được Gia Long nhìn nhận, tất cả bỏ sang Chân Lạp tị nạn. Những vùng đất tốt quanh thành Đồ Bàn cũ trước kia, do người Chăm Hroi cư ngụ và bị kết tội theo Nguyễn Huệ, đều bị tịch thu. Thành Đồ Bàn bị đổi tên thành Bình Định, tức đã dẹp yên được loạn Tây Sơn.

Về hành chánh, Gia Long sát nhập trấn Thuận Thành (trước kia trực thuộc thuộc phủ Bình Thuận) vào Gia Định thành và phong Nguyễn Văn Chấn (Po Săununcăn) làm chính vương, dưới quyền quản trị trực tiếp của tổng trấn Lê Văn Duyệt. Tước vương này tương đương với chức chưởng cơ của triều đình Huế và được người Chăm nhìn nhận như là vua (patau). Năm 1807, Nguyễn Văn Vĩnh (Po Klănthu) lên thay và được phong làm phó vương.

Lo sợ thế lực của Lê Văn Duyệt lấn át uy quyền của mình tại miền Nam, năm 1822 Minh Mạng đặt phủ Bình Thuận trực thuộc Phú Xuân. Phó vương Nguyễn Văn Vĩnh bị triệu về Huế giam lỏng vì tình nghi theo Lê Văn Duyệt. Phó tổng trấn Gia Định thành kiêm trấn thủ phủ Bình Thuận, Trương Văn Chánh, cũng bị triệu về kinh, một thân tín của Minh Mạng là Mai Gia Lương được đưa vào thay.

Năm 1823, khi chính vương Nguyễn Văn Chấn lâm bệnh qua đời, Mai Gia Lương đưa một người Chăm thân tín tên Bait Lan lên thay nhưng không được người Chăm công nhận. Minh Mạng buộc phải đưa Nguyễn Văn Vĩnh về làm vương để giữ yên nhân tâm và ban cho ấn đồng "Quản Lý Thuận Thành Quan Phòng". Với sự tín cẩn này, Nguyễn Văn Vĩnh áp dụng chính sách cai trị khe khắt của Minh Mạng khiến dân chúng Chăm bất mãn và không nhìn nhận ông là truyền nhân đích tôn của dòng Kế Bà Tử. Nhiều nhân sĩ Chăm vào Gia Định cầu cứu Lê Văn Duyệt nhưng tả quân bất lực vì Minh Mạng đã tước hết quyền. Các nghi lễ của người Chăm bị cấm cử hành ngoài trời và chốn đông người.

Năm 1829 Nguyễn Văn Vĩnh mất, không người kế vị. Lê Văn Duyệt đề nghị Nguyễn Văn Nguyên (hoàng tử Po Dhar Kauk), con Nguyễn Văn Vĩnh, lên làm phó vương Gia Định Thành kiêm trấn thủ trấn Thuận Thành, hiệu Po Kabait Thvac, lên thay. Minh Mạng, ngược lại, chọn Nguyễn Văn Thừa (Po Phauk Tha), con Nguyễn Văn Chấn, lên thay nhưng chỉ cho giữ chức tuần phủ (kham ma).

Nhiều phong trào chống đối nhà Nguyễn đã xảy ra nhưng đều bị dẹp tan trong biển máu như cuộc nổi dậy của Tà La Văn (Ja Lidon), một người Thượng ở Cam Tăng, Phan Thiết, năm 1823 ; của Nvait Kabait, một tướng người Thượng trên Đồng Nai thượng, năm 1826 ; của Katip Sumat, một tu sĩ Hồi giáo toàn nguyên, kêu gọi thánh chiến chống các đạo khác tại Ninh Thuận năm 1833 ; của Ja Thakva (Điền Sư), tại Bình Thuận năm 1834.

Minh Mạng buộc người Chăm phải lấy một trong sáu họ Việt do chính nhà vua ban : Nguyễn, Dụng, Lâm, Diệp, Hắc, Tôn. Về sau có thêm các họ : Thiên, Quảng, Bá, Đàng, Thiết, Thổ, Dương v.v... Người Bani có các họ Inh Khrit, Inh Gra, Yang Inh, Than Bra, Băng Tay Bajang, Popat v.v... Tên thánh của người Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc phải phiên âm ra tiếng Nôm thành một họ như Hosen thành Châu Sanh, Mahli thành Mạch Ly v.v...

Trong hai năm 1854 và 1858, nhiều người Chăm Islam sống sót sau những cuộc tàn sát của quân Khmer chạy qua Châu Đốc tị nạn, được Trương Minh Giảng cho định cư cùng với những người Chăm có mặt từ trước ở vùng biên giới dọc theo sông Hậu gần Châu Đốc (rạch Bình Gỉ) và Tây Ninh ; tất cả sinh sống bằng nghề trồng rau quả, lúa nước và thương mại. Người Chăm miền Tây thành lập được 7 làng (Châu Giang, Katambong, Phum Soài, Lama, Kakôi, Ka Côki và Sàbâu), dân số khoảng 5.000 người chia làm 9 đội đặt dưới sự cai quản của quan hiệp quản người Kinh tại Châu Giang.

Từ 1954 đến nay

Dưới thời Pháp thuộc (1884-1954), người Chăm được xếp hạng ngang với người Kinh nên không hưởng một qui chế đặc biệt nào. Họ được toàn quyền sinh hoạt tôn giáo. Chỉ sau năm 1946, khi phong trào Việt Minh xâm nhập vào các thôn làng Chăm, người Pháp mới chú tâm đào tạo thanh niên và phát triển những vùng dân cư gốc Chăm. Hậu duệ cuối cùng của Po Chongchan là một hoàng hậu, từ trần tại Huế năm 1927, không người thừa kế, chấm dứt dòng vương chính thức của Nam Chiêm Thành.

Sau năm 1954, người Chăm chịu sự quản trị trực tiếp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Địa phận Thuận Thành xưa kia được chia thành hai tỉnh Ninh Thuận (thủ phủ là Phan Rang) và Bình Thuận (thủ phủ là Phan Thiết).

Riêng tỉnh Bình Thuận, chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập thêm quận Phan Lý Chàm, tách khỏi huyện Hòa Đa. Hai quận An Phước (Ninh Thuận) và Phan Lý Chàm (Bình Thuận) do chính người Chăm tự quản lý lấy vì có số đông. Ông Thanh Giác làm quận trưởng quận Phan Lý Chàm, sau là dân biểu quốc hội năm 1966 ; ông Quảng Đại Minh làm quận trưởng quận An Phước. Về chính trị, hai nhân vật này đại diện cho đẳng cấp lãnh đạo người Chăm trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, tranh đấu ôn hòa trong các định chế hợp pháp của chính quyền miền Nam để quyền sinh tồn và phát triển của cộng đồng người Chăm được tôn trọng.

Tại những nơi đông dân cư Chăm sinh sống, vì lý do an ninh kể từ sau 1965 vai trò lãnh đạo hành chánh địa phương do những sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa đảm nhiệm. Những nhân vật quản trị cộng đồng người Chăm là những sĩ quan quân đội gốc Kinh do vị tướng chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật chỉ định, năm 1968 quyền này được giao lại cho những sĩ quan gốc Chăm. Cho đến năm 1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã đào tạo được nhiều sĩ quan gốc Chăm cao cấp : 1 trung tá và 7 thiếu tá.

Trong nội bộ cộng đồng người Chăm, những sĩ quan và cán bộ hành chánh gốc Chăm hợp tác chặt chẽ với các lãnh tụ tôn giáo địa phương để quản trị, đặc biệt là việc cắt đặt ngày giờ tế lễ giữa hai tôn giáo Bà La Môn và Bani tại Ninh Thuận và Bình Thuận. Những đòi hỏi của người Chăm tại Việt Nam ít được chính quyền miền Nam nâng đỡ hay chú ý tới vì không bị coi là kém phát triển, chính vì thế trong cuộc nổi dậy của phong trào FULRO năm 1964 có nhiều lãnh tụ Chăm tham dự.

Sau tháng 4/1975, không những cộng đồng người Chăm cũng không được chính quyền cộng sản nâng đỡ hơn mặc dù nhận được nhiều hứa hẹn trong chiến tranh mà còn bị nghi ngờ theo tàn quân FULRO chống lại nhà nước.

Để loại trừ ảnh hưởng của các lãnh tụ tôn giáo, tháng 12/1981, chính quyền cộng sản ban hành chỉ thị số 121/BBT cải tạo phong tục, tập quán, mê tín, dị đoan của người Chăm (đả kích một số nghi lễ gây lãng phí tiền bạc, của cải, thời gian, không vệ sinh và duy trì các hình thức bóc lột bằng phẩm vật thông qua việc thực hiện các lễ cúng). Chỉ thị này gây chấn động trong giới tu sĩ và giáo dân Chăm, một phong trào chống đối rầm rộ nổi lên và chính quyền cộng sản đã nhượng bộ : cuối năm 1982, người Chăm được phép sinh hoạt tín ngưỡng theo tập tục riêng.

Hiện nay tất cả những lễ nghi lớn của người Chăm tại Thuận Hải đều do bà Nguyễn Thị Thềm chủ lễ. Thật ra bà Thềm - hiện cư ngụ tại làng Tịnh Mỹ (tên cũ là Bal Canar), thị xã Phan Lý Chàm - chỉ là con cháu của một vị tướng (không rõ tên và cũng không biết thời nào), nhưng vì còn lưu giữ kiếm và áo mão của tổ tiên nên được công nhận là truyền nhân của dòng quan lại (chứ không phải vua) cuối cùng của trấn Thuận Thành. Tìm người kế thừa vai trò của bà Thềm trong việc tế lễ hiện nay đang được đặt ra vì bà Thềm không có con, em trai của bà là ông Dung Gạch không có vai trò trong chế độ mẫu hệ.

Về dân số, năm 1963 trên toàn quốc có 51.975 người Chăm, trong đó 33.600 cư trú tại Ninh Thuận và Bình Thuận, 3.000 tại Bình Định, 915 tại Bình Tuy, 1.760 tại Tây Ninh và 12.700 tại Châu Đốc. Năm 1970 toàn miền Nam có khoảng 75.000 người Chăm, 2/3 sống tại Ninh Thuận và Bình Thuận. Năm 1989, dân số Chăm tăng lên 99.000 người, hiện nay trên 110.000 người. Đa số sống bằng nghề nông và tiểu thủ công nghiệp, chỉ một số rất ít cộng tác với chính quyền trong các lãnh vực hành chánh, an ninh và giáo dụïc. Những đại biểu quốc hội và chức sắc "dân cử" địa phương không có uy tín trong cộng đồng.

Từ năm 1975 đến nay, có hơn 22.000 người Chăm tị nạn tại khắp nơi trên thế giới, trong số này hơn 4/5 là người Chăm tại Campuchia (khoảng 2.000 người đã di tản ngay khi Phom Penh thất thủ), và được phân chia như sau : Pháp có hơn 1.000 người (hơn 30 người Chăm đi từ Việt Nam), Đan Mạch : 250, Canada : 400, Úc : 400, Hoa Kỳ khoảng 2.000, đông nhất là tại Malaysia : hơn 10.000. Những người Chăm di tản chỉ sinh hoạt riêng với nhau, không giao thiệp với người Việt di tản. Người Campuchia gốc Chăm thường tỏ ra quá khích trong việc bài xích Việt Nam và vẫn tiếp tục xúi giục thành lập vương quốc Champa.

Nguyễn Văn Huy

(2002)

Đọc thêm :

Người Chăm 1 - Tìm lại anh em, nhận lại bạn bè

Người Chăm 2 - Thời kỳ xác định bản thể 

Người Chăm 3 - Thời kỳ mở nước và dựng nước 

Người Chăm 4 - Thời vàng son

Người Chăm 5 - Thời kỳ xung đột

Người Chăm 6 - Bùng lên trước khi tàn lụi

Người Chăm 7 - Cố gắng tồn tại trong khó khăn

Người Chăm 8 - Cộng đồng người Chăm tại Campuchia

Người Chăm 9 - Thư tịch về người Chăm và người Thượng ở Việt Nam

Published in Tư liệu

Người Chăm tại Việt Nam

Bài 6 : Bùng lên trước khi tàn lụi

cham19

Tranh vẽ Huyền Trân công chúa (www.chuagiaclam.org) - Ảnh minh họa 

Dấu ngoặc về công chúa Huyền Trân

Sau 5 năm thương lượng gay go giữa hai triều đình về của hồi môn, năm 1306 vua Trần Anh Tôn chấp thuận gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân, bù lại lãnh thổ bắc Chiêm Thành (Indrapura) : châu Ô và châu Lý thuộc nhà Trần. Cuộc hôn nhân dị chủng này đã trở thành tranh chấp giữa hai dân tộc và hai triều đình suốt thời gian sau đó.

Cho đến nay chưa một tài liệu nào giải thích về trường hợp công chúa Huyền Trân một cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Người Chăm tố cáo nhà Trần lợi dụng cuộc hôn nhân này để chiếm đoạt đất đai của họ. Thơ văn Việt Nam bênh vực Huyền Trân như là nạn nhân của một vụ đổi chác chính trị và đả kích Chế Mân (với những lời lẽ khiếm nhã) dám sánh ngang hàng với người Việt…

Những lý luận vừa kể chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về phong tục tập quán của người Chăm. Khi cựu vương Trần Nhân Tôn hứa gả Huyền Trân cho Chế Mân, ông muốn thành lập một liên minh quân sự chống lại quân Mông Cổ khi bị tấn công. Nhưng chiến lược này đã không được quần thần chấp nhận vì không muốn một sự pha chủng nào trong quan hệ hoàng gia.

Có lẽ bà hoàng hậu thứ ba này của Chế Mân đã rất được sủng ái nên sử tích Chăm kể rằng Huyền Trân được nhà vua đưa đi thăm viếng những danh lam thắng cảnh của Chiêm Thành. Các suối nước nóng dọc bờ biển miền Trung được dành riêng cho bà tắm rửa, kể cả suối Vĩnh Hảo (huyện Tuy Phong, Phan Thiết), để hạnh phúc của vua và hoàng hậu được bền lâu. Nhưng hạnh phúc đã không dài lâu.

Hơn một năm sau, tháng 5/1307 Chế Mân từ trần. Hung tin đến tai nhà Trần bốn tháng sau đó, tháng 9/1307. Lo sợ em gái mình bị hỏa thiêu, Trần Nhân Tôn sai quan nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc sạ Trần Khắc Chung và quan an phủ sứ Đặng Văn sang Chiêm Thành phúng điếu rồi tìm kế đưa Huyền Trân về.

Việc hỏa thiêu vợ khi vua băng hà là hoàn toàn bịa đặt. Nếu Huyền Trân bị triều đình Chiêm Thành bắt chết theo Chế Mân thì bà đã bị hỏa thiêu từ lâu rồi, vì theo tục lệ của người theo đạo Hồi, hay Bà La Môn xác người chết chỉ giữ tối đa là 7 ngày sau đó phải đem hỏa thiêu.

Thật ra trong vụ này triều đình Chiêm Thành đã quyết định trả Huyền Trân về lại cho nhà Trần để đòi lại hai châu Ô và Rí nên đã tiếp đón phái đoàn Trần Khắc Chung một cách ân cần và cấp hơn 300 thủy binh hộ tống. Sự từ khước kết nghĩa suôi gia này có một ý nghĩa đặc biệt, nó thể hiện sự từ chối hợp tác giữa hai nền văn minh và văn hóa khác nhau, một bên là văn minh văn hóa Khổng Mạnh và một bên là văn minh văn hóa Ấn Độ. Cả hai vương triều gần như chấp nhận sự khác biệt đó và không muốn có một sự hòa hợp nào.

Còn chuyện hỏa thiêu có lẽ đã do Trần Khắc Chung thêu dệt ra để được Trần Anh Tôn cử sang Chiêm Thành đón Huyền Trân về nước. Sau khi gặp lại người yêu, thay vì căng buồm về Bắc ông dẫn Huyền Trân ra một hoang đảo tư thông với nhau trong suốt một năm liền, đến mùa thu năm 1308 mới lên thuyền về lại Thăng Long. Đoàn thủy binh Chăm lúc đó mới được giao trả cho Chiêm Thành để báo cáo sự việc.

Cũng nên biết, nhà Trần áp dụng chế độ nội hôn để bảo vệ quyền lợi hoàng tộc. Việc Trần Khắc Chung tư thông với Huyền Trân được coi là bình thường. Nhưng triều đình Chăm không chấp nhận và rất căm hận về chuyện này, vì Huyền Trân là hoàng hậu Champa bị một quan Việt thông dâm, xúc phạm đến danh dự hoàng triều và tín ngưỡng quốc gia.

Có lẽ cũng chính vì thế mà Hưng Nhượng đại vương Trần Quốc Tảng (con Trần Hưng Đạo) mắng "họ tên người này không tốt, có lẽ nhà Trần mất vì người này chăng ?", vì Khắc là thắng, Chung là tàn (thắng xong thì tàn lụi theo). Cuộc tình sử tay ba này ít được người đời nhắc tới mà chỉ nói về cuộc hôn nhân dị chủng mà thôi.

Về phía Chiêm Thành, đền thờ Chế Mân được lập tại Tháp Po Klong Garai (Tháp Chàm, Phan Rang) và tại Yan Prong (An Khê, Đắc Lắc) cạnh núi Se San. Dân chúng thờ ông dưới tên Sri Jaya Sinhavarma Lingesvara.

Hoàng tử Po Sah - 23 tuổi, con của chánh hậu Bhaskaradevi (người Java), tước Pulyan Mahendravarman tiểu vương lãnh địa từ sông Vok (sông Bung) đến bắc Bình Định (Bhumana) - lên thay năm 1307, hiệu Jaya Sinhavarman IV (còn gọi là Chế Chí hay Chế Dà La). Việc đầu tiên của tân vương là xúi giục dân Chăm tại Thuận châu và Hóa châu nổi loạn.

Năm 1311, Trần Anh Tôn tấn công Chiêm Thành, bắt Chế Chí về giam tại cung Gia Lâm (và mất năm 1313), đưa em trai của Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm lên thay, hiệu Chế Năng. Năm 1314 Chế Năng kéo quân ra Bắc chiếm lại châu Ô và châu Rí và chỉ bị đẩy lui 5 năm sau đó. Năm 1318, quân Trần tiến xuống Đồ Bàn, Chế Năng cùng hoàng gia chạy sang Java lánh nạn, triều đình Chiêm Thành bị bỏ trống.

Đây là đợt di dân thứ ba của người Chăm ra hải ngoại. Chế Năng là con thứ hậu Tapasi, người Yavadvipa.

Triều vương thứ mười hai (1318-1390) : tột đỉnh

Năm 1318, nhà Trần phong một tướng Chăm tên Thủ (Patalthor) lên ngôi, hiệu Chế A Năng (hay Thành A vương, tương đương với tước phó vương của Đại Việt). Vì không thuộc dòng dõi bộ tộc Cau và Dừa, Chế A Năng liên tục bị triều thần Chăm chống đối từ 1323 đến 1326. Để có sự chính thống, năm 1323 Chế A Năng cử em trai là Pao Yeou Patseutcho đi sứ sang Trung Hoa xin nhà Nguyên công nhận. Hay tin này, năm 1326 nhà Trần mang quân sang đánh nhưng bị đẩy lùi. Chiêm Thành sống trong thái bình cho tới 1342.

Năm 1336 Chế A Năng từ trần, con ruột là Chế Mỗ và con rể là Trà Hoa Bồ Đề tranh ngôi vua trong 6 năm, Chiêm Thành sống trong loạn lạc. Năm 1342 Chế Mỗ bị đuổi sang Đại Việt, Trà Hoa Bồ Đề chính thức lên ngôi. Năm 1353, Trần Dụ Tôn đưa Chế Mỗ về nước nhưng đến Cổ Lũy (Quảng Ngãi) thì bị quân Chiêm chận đánh, quân Trần rút về, Chế Mỗ buồn rầu rồi qua đời. Từ sau ngày đó, quân Chiêm Thành liên tục tràn sang đánh phá Hóa châu và Thuận châu.

Năm 1360, Trà Hoa Bồ Đề qua đời, em Chế A Năng là Po Binasor (Po Bhinethuor) được triều thần tôn lên làm vua, hiệu Chế Bồng Nga (Che Bonguar). Chế Bồng Nga là một vị tướng tài, chỉ huy nhiều trận đánh vào lãnh thổ Đại Việt. Vừa lên ngôi, ông liền tổ chức lại quân đội, chuẩn bị chiến tranh với nhà Trần nhằm chiếm lại những phần lãnh thổ bị mất. Những tù trưởng và bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên theo Chế Bồng Nga rất đông.

Từ 1360 đến 1370, quân Chiêm Thành ra vào lãnh thổ Đại Việt như chốn không người. Dân cư Đại Việt lập nghiệp dọc các vùng bờ biển Bố Chánh, Tân Bình, Thuận Hóa (Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên) sinh sống rất khổ sở trước nạn binh đao. Từ 1371 đến 1383, quân Chiêm đã ba lần chiếm đóng Thăng Long và năm 1390 lúc đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư thì Chế Bồng Nga bị tử trận, chấm dứt một trang sử anh hùng.

Nét đặc biệt của Chế Bồng Nga là mỗi lần đánh phá xong, ông cho rút quân về bên kia đèo Hải Vân chứ không cho người ở lại quản trị trực tiếp những vùng đất vừa bị chiếm như những vua trước, vì người Chăm tin rằng trấn đóng những vùng đất lạ sẽ mang tai họa và cũng không muốn bị hao tổn lực lượng bởi những hành động kháng chiến. Tuy vậy vẫn có thể nói trong vòng 30 năm, Chế Bồng Nga đã khôi phục lại những vùng đã mất từ hơn 300 năm trước đó (Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh bị mất năm 1069, châu Ô, châu Rí năm 1306).

Chế Bồng Nga chết, quân Chiêm như rắn không đầu liền bị rối loạn, quân Trần sát hại rất nhiều. Các vùng đất dưới ảnh hưởng Chiêm Thành đều được thu hồi.

Lê Quí Ly (tức Hồ Quí Ly sau này) kinh lý các vùng đất Hóa châu và Thuận châu, tổ chức lại việc phòng thủ và cho xây dựng lại những nơi bị tàn phá. Phan Mãnh được bổ nhiệm cai trị hai xứ Tân Bình (Quảng Bình) và Thuận Hóa (Quảng Trị và Thừa Thiên). Nhà Trần đưa dân chúng từ các vùng trung du, vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã vào định cư tại Tân Bình và Thuận Hóa.

Triều vương thứ mười ba (1390-1458) : suy yếu

Bị đánh bại năm 1390, tướng La Khải (Ko Cheng) chiếm được xác Chế Bồng Nga mang đi hỏa táng, rồi thu quân về nước. Về Đồ Bàn, La Khải liền xưng vương và chịu triều cống nhà Trần trở lại. Năm 1391, La Khải xin nhà Minh thừa nhận nhưng đến năm 1413 con của ông là Ba Đích Lại mới được nhà Minh tấn phong.

Chính sách cai trị khắt khe của La Khải gây bất mãn trong nước. Vây cánh của Chế Bồng Nga đều bị La Khải thay bằng những tướng sĩ thân tín.

Con trai của Chế Bồng Nga tên Chế Ma Nô Dã Na cùng em là Chế San Nô sợ bị ám hại đã chạy qua Đại Việt xin tị nạn. Cả hai được nhà Trần phong tước Hiệu chính hầu. Năm 1397, một hoàng thân tên Chế Đà Biệt, em là Mộ Hoa, con là Gia Diếp cùng toàn thể gia quyến sang Đại Việt tị nạn. Chế Đà Biệt được Lê Quí Ly giao trọng trách bảo vệ biên giới phía nam của Đại Việt đề phòng những cuộc tấn công mới của quân Chiêm Thành. Năm 1400, La Khải mất, con là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman V) lên ngôi.

Tại Đại Việt, năm 1400 Lê Quí Ly lên ngôi vua, đổi thành họ Hồ. Cũng nên biết, lúc nhà Trần suy yếu vai trò của Lê Quí Ly trở nên nổi bật và trực tiếp điều khiển triều đình từ 1372. Vì thiếu sự chính thống, Hồ Quí Ly thường ra oai bằng cách tấn công Chiêm Thành và các lãnh thổ Chiêm Động (nay là Thăng Bình, Quảng Nam, hay bắc Amavarati), Cổ Lũy (nay là Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch (nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định) và Sa Lý Nha (tức Sa Huỳnh) lần lượt bị sát nhập từ 1400 đến 1403. Vựa lúa lớn nhất Bắc Chiêm Thành bị mất hẳn, toàn bộ đất đai tại Indrapura và Amaravati (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi) cũng không còn.

Những vùng đất mới được phân thành châu Thăng, châu Hoa, châu Tư và châu Nghĩa ; bốn châu mới này họp lại thành lộ Thăng Hoa do một quan an phủ sứ cai trị, chỗ giáp giới đặt thành trấn Tân Ninh. Chế Ma Nô Dã Na (con Chế Bồng Nga), lúc đầu làm Thăng Hoa quận vương để chiêu dụ dân chúng Chăm, sau được phong Cổ Lũy thượng hầu giữ hai châu Tư và Nghĩa. Quí Ly đưa những nông dân cùng gia đình không có đất cày từ những châu khác ở phía bắc vào khai phá đất mới. Người Champa không chấp nhận sống dưới sự cai trị của người Việt bỏ đi lên núi hoặc về Vijaya (Đồ Bàn) lập nghiệp.

Năm 1403, Ba Đích Lại yêu cầu nhà Minh can thiệp để đòi lại Indrapura và Amavarati, nhưng bị nhà Hồ từ chối. Chỉ khi nhà Hồ bị dẹp và nước Đại Ngu bị nhà Minh đô hộ, từ 1407 đến 1427, Chiêm Thành mới phục hồi lại sức mạnh quân sự và những vùng đất đã mất dưới tay nhà Hồ đều lấy lại được.

Năm 1407, hoàng tử Ngauk Glaun Vijaya (con Ba Đích Lại) cất quân đánh Đại Việt, giết quan trấn thủ lộ Thăng Hoa là Chế Ma Nô Dã Na (con của Chế Bồng Nga). Ba Đích Lại được nhà Minh phong vương năm 1413. Mặc dù vậy, dân chúng Champa không muốn di dân lên những vùng đất vừa chiếm lại lập nghiệp, chỉ một số người muốn trở về để giữ gìn hương hỏa mà thôi.

Dẹp yên phía Bắc, Ba Đích Lại mang quân xuống tấn công vương quốc Chân Lạp phía nam đang suy yếu, vì bị Xiêm La đánh phá liên tục. Quân Chăm chiếm được nhiều vùng đất lớn dọc sông Đồng Nai và trên đồng bằng sông Cửu Long. Quân Khmer bị đuổi tới thành phố Chantabun, gần biên giới Xiêm La, vua Chau Ponea Yat phải cầu cứu nhà Minh và quân Minh đã hai lần tiến vào Chiêm Thành (1408 và 1414) làm áp lực Chiêm Thành mới chịu rút quân, Chân Lạp thoát nạn đô hộ. Mặc dầu vậy, quân Chiêm Thành cũng chiếm được thị trấn Nagara Brah Kanda (thị xã Biên Hòa ngày nay).

Năm 1428, Lê Lợi đuổi được quân Minh ra khỏi lãnh thổ và lên ngôi vua, hiệu Thánh Tổ. Trước thế lực của nhà Lê, Ba Đích Lại trả những vùng đất đã chiếm dưới thời nhà Minh, đổi thành lộ Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây và đặt quan cai trị. Việc giao hảo giữa Chiêm Thành và Đại Việt trở nên tốt đẹp.

Năm 1433 Lê Lợi mất, con là Nguyên Long, 11 tuổi, lên ngôi hiệu Thái Tôn, Ba Đích Lại liền trở mặt. Năm 1434, ông cho quân sang đánh phá các vùng đất (Hóa châu) vừa giao trả trước đó, vua Lê phải cử Lê Khôi và Lê Chiếc ra dẹp, vua Chăm mới chịu triều cống trở lại.

Thật ra từ 1390 đến 1433 Chiêm Thành không có vua, đất nước lâm vào cảnh nội loạn. Đối với người Chăm, La Khải và Ba Đích Lại chỉ là những kẻ soán ngôi. Năm 1433, quần thần Chiêm đưa công chúa Po Sahnar về miền Nam cai trị (Panduranga), đóng đô tại Phan Rí, không tuân lệnh Vijaya. Hoàng tử Nauk Glaun Vijaya thân chinh đi đánh dẹp, gây nhiều thù oán với các dòng vương tôn Champa phía nam, như bắt công chúa Po Sahnar về giam tại Vijaya. Chính vì thế năm 1441 khi Ba Đích Lại qua đời, Nauk Glaun Vijaya không được triều thần cho nối ngôi mà đưa người cháu của cố vương là Maha Kilai (Mã Kha Qui Lai) lên thay. Chú của tân vương là Po Parichanh tự đứng ra nhiếp chính, rồi tự xưng vương năm 1442, hiệu Bí Cai (Maha Vijaya) và được nhà Minh công nhận.

Vừa lên ngôi, Bí Cai liền mang quân tấn công nhà Lê và bị đánh bại. Vua Lê Nhân Tôn tiến chiếm Phật Thành (còn gọi là Đồ Bàn, Chà Bàn, Vijaya) bắt được nhiều vương tôn Champa, trong đó có công chúa Po Sahnar, rồi rút về. Ba Đích Lại cùng hoàng gia phải chạy lên núi trốn trong những buôn làng của người Thượng như Trà Toàn (Po Ka Prah), Trà Toại (Po Ka Prih). Kinh đô Phật Thành (Vijaya) bị nhà Lê đổi thành Đồ Bàn.

Trong hai năm 1444 và 1445, Bí Cái nhiều lần dẫn quân tiến vào Hóa châu nhưng đều bị đẩy lùi. Năm 1446, được Maha Quí Lai hướng dẫn, quân Lê chiếm thành Đồ Bàn, bắt sống Bí Cai và tất cả phi tần đem về Thăng Long. Maha Quí Lai được nhà Lê tôn lên làm vua Chiêm Thành và chịu triều cống, quan hệ giữa hai nước tốt đẹp trở lại. Năm 1448, Lê Nhân Tôn đánh dẹp các lực lượng Thượng do những hoàng tôn Chăm lãnh đạo, chiếm xứ Bồn Man (Djarai-Kontum) và đặt thành châu Quy Hợp rồi giao cho một vương tôn Chăm thần phục nhà Lê cai quản.

Năm 1449 Maha Quí Lai bị người em tên Bí Do (Maha Kido) bắt giam rồi xưng vương. Bí Do sai Giao Nể Mỗ và Bàng Thoan sang Đại Việt báo tin, vua Lê không những không công nhận mà còn khiển trách nặng nề. Sau biến cố này, Bí Do đuổi 70 gia đình Việt định cư tại Chiêm Thành về nước rồi ngưng luôn việc xin tấn phong. Năm 1452, Quí Lai mất, Bí Do sai sứ sang Trung Hoa xin nhà Minh công nhận và được phong vương năm 1457.

Triều vương thứ mười bốn (1458-1471) : tan rã

Năm 1458 thái tử Po Tam (Po Dam hay Po Kathit), con Bí Cai, giết Bí Do rồi tự xưng vương, hiệu Bàn La Trà Nguyệt (Maha Banla Tranguyet). Năm 1460, Trà Nguyệt nhường ngôi cho em là Po Kaprah, hiệu Bàn La Trà Toàn (Maha Tratoan). Trà Toàn cử người sang Đại Việt xin tấn phong nhưng bị nhà Lê buộc dâng phẩm vật triều cống nên Trà Toàn tức giận. Trong hai năm 1468 và 1469, Trà Toàn vừa cho người sang cầu viện nhà Minh vừa mang đại quân (100.000 người) sang chiếm Hóa châu (1469-1471).

Tức giận trước sự khiêu khích này, vua Lê Thánh Tôn quyết định phạt Chiêm một lần cho đích đáng.

Trước khi ra quân, ngày 6/10/1471, nhà vua đọc hịch Bình Chiêm trước ba quân, lời lẽ rất đanh thép, rồi cho sứ sang Trung Hoa báo cáo sự xâm phạm lãnh thổ của Chiêm Thành. Lê Thánh Tôn cất đại quân hơn 250.000 người sang đánh Chiêm Thành, trong đó 100.000 đi bằng đường thủy, 150.000 đi bằng đường bộ. Đại quân nhà Lê chiếm cửa Thị Nại rồi tiến về Đồ Bàn. Trà Toàn sai em là Po Kaprih dẫn đội tượng binh gồm 5.000 người ra đối chọi nhưng bị đánh bại, Trà Toàn rút vào cố thủ thành Đồ Bàn. (Xin lưu ý : những con số hàng chục ngàn hay hàng trăm ngàn người trong sử sách Việt chỉ là biểu tượng).

Sau cuộc tấn công, khoảng 60.000 binh lính và thường dân Chăm bị loại khỏi vòng chiến, hơn 30.000 người bị bắt làm tù binh, tất cả đều bị đày lên Thanh Hóa. Một số tù binh Chăm gồm thợ khéo tay, nài voi được đưa về Thăng Long xây dựng đền đài và huấn luyện voi trận cho nhà Lê (chùa Bà Đá ở Hà Nội được xây dựng trong giai đoạn này). Toàn bộ tài sản và báu vật tại Đồ Bàn đều bị tịch thu, trong đó có ấn kiếm hoàng gia (một hộp bằng bạc hình chiếc gươm), biểu tượng của vương quyền Chiêm Thành. Trà Toàn và cả hoàng gia gồm 50 vương tôn (Po Sahama, Po Ngasa, Bà Thái, Đa Thủy...) đều bị bắt.

Trong cuộc tiếp kiến, Trà Toàn xin vua Lê chỉ làm tội một mình ông và tha cho con cái gồm 10 người. Trên đường về tới Nghệ An, Trà Toàn tự tử chết. Lê Thánh Tôn sai cắt đầu Trà Toàn treo ở đầu thuyền và cho khắc chữ "Cổ Chiêm Thành ngươn ác Trà Toàn chi thủ".

Lê Thánh Tôn giải tán vương quốc Chiêm Thành. Thủ đô chính trị, hành chánh và tín ngưỡng của vương quốc Bắc Chiêm Thành Vijaya bị đổi thành Đồ Bàn và cấm người Chăm đến cư ngụ.

Em Trà Toàn là Po Kaprih dẫn theo một số tàn quân trốn lên xứ Bồn Man (cao nguyên Kontum-Darlac), được dân chúng tôn lên làm vua. Po Kaprih xưng hiệu Trà Toại và cho người sang Trung Hoa cầu cứu nhà Minh, báo cáo tình hình của Chiêm Thành. Lê Thánh Tôn sai Lê Niệm mang 30.000 quân lên Tây Nguyên lùng bắt Trà Toại đem về trị tội.

Nhà Minh không tán thành việc Đại Việt chiếm đóng Chiêm Thành nhưng không dám can thiệp trực tiếp, kể cả việc xin phóng thích Trà Toàn và hoàng gia Chiêm Thành. Năm 1472, nhân vua Lê Thánh Tôn sai sứ sang Trung Hoa báo cáo sự tình, Minh Hiển Tông trách cứ việc chiếm đế đô Đồ Bàn. Sau đó nhà Minh sai sứ sang phong vương cho Trà Toại nhưng khi đến cửa Tân Châu (Quảng Nam) quân Lê không cho cập bờ. Lê Thánh Tôn phản đối việc phong vương này và tuyên bố Chiêm Thành đã trở thành một châu của Đại Việt : châu Giao Nam. Nhà Lê phong cháu của Trà Toàn tên Bố Trì Tri (Thái Da) làm vương đất Giao Nam (còn gọi là Phan Long).

Chiêm Thành bị phân hóa

Năm 1472, Bố Trì Tri, cháu của Trà Toàn, chạy về Panduranga (Giao Nam) xưng vương, hiệu Thái Da (Jayavarman Mafoungnan). Tân vương sai sứ sang Đại Việt xin thừa nhận và xin tiếp tục triều cống. Ranh giới phân chia hai nước được xác nhận tại đèo Cù Mông, cạnh chân núi Thạch Bi.

Vua Lê Thánh Tôn áp dụng chính sách bảo hộ, chia Chiêm Thành ra làm ba tiểu quốc, phong ba tiểu vương cai trị.

1. Bồ Trì Tri cai quản đất Giao Nam, tức Nam Chiêm Thành gồm Kauthara và Panduranga, bằng 1/5 lãnh thổ cũ, từ mũi Kê Gà trở xuống gồm 5 lãnh địa : Aya Tră (Nha Trang), Panră (Phan Rang), Krău (Long Hương), Parik (Phan Rí) và Pajai (Phố Hài, gần Phan Thiết). Giao Nam (tức Panduranga) được độc lập về chính trị, kinh tế và tín ngưỡng nhưng phải triều cống nhà Lê. Kinh đô trong giai đoạn đầu đặt tại Virapura, tức Phan Rang.

2. Trà Toại cai trị đất Nam Phan : xứ Bồn Man, tức châu Quy Hợp (Tây Nguyên ngày nay và một phần cao nguyên Attopeu Nam Lào).

3. Một vương tôn Champa (người Thượng) khác cai quản đất Hóa Anh : lãnh thổ Aryaru cũ (Phú Yên).

Sau 1471, lãnh thổ của vương quốc Chiêm Thành phía nam (Kauthara và Panduranga) chỉ còn từ đèo Cù Mông đến mũi Kê Gà (cap Varella). Lãnh thổ Đại Việt mới kéo dài từ ải Nam Quan đến đèo Cù Mông. Phần đất Chiêm Thành cũ, gọi là Nam Bàn (từ Quảng Nam đến Đồ Bàn) được chia thành ba vùng gồm Đại Chiêm tức Chiêm Động (Quảng Nam), Cổ Lũy (Quảng Ngãi) và Đồ Bàn (Bình Định). Một tướng Chăm tên Bà Thái (Po Thai) làm tri phủ đất Đại Chiêm. Những quan Đại Việt cai trị Đồ Bàn và Cổ Lũy có quyền tiền trảm hậu tấu.

Hàng đoàn người Chăm, trong đó có nhiều gia đình vương tôn không chấp nhận sự cai trị của người Việt tại Cổ Lũy, chạy vào rừng sâu thuộc lãnh thổ xứ Láng Cháng (Luang Prabang, Bắc Lào) lánh nạn, một số người khác vượt Trường Sơn chạy sang Chân Lạp định cư. Đây là cuộc di dân lần thứ tư sau các đợt di tản năm 986, 1285 và 1318.

Lê Thánh Tôn đổi tên đất Cổ Lũy thành đạo Quảng Nam gồm 3 phủ (Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn) và 9 huyện.

Trên cao nguyên, một lãnh tụ Chăm tên Công (còn gọi là Chăm Công) được sự giúp đỡ của vương quốc Láng Cháng tổ chức đánh phá các làng xã và đồn phòng thủ của quân Việt. Năm 1479, Lê Thánh Tôn mang đại binh gồm 180.000 người sang Láng Cháng dẹp loạn Chăm Công, truy đuổi vua Láng Cháng sang lãnh thổ Miến Điện. Vua Lê giao một vương tôn Chăm thân Đại Việt cai trị xứ Quy Hợp gồm 7 huyện và cho thành lập phủ Trấn Ninh giao cho một quan người Việt cai trị.

Tại Nam Bàn, Lê Thánh Tôn cho thành lập Thái bộc tư khanh, một bộ phận hành chánh chuyên lo đặt lại cho đúng qui chế họ tên của người Chăm theo đúng phiên âm Đại Việt. Vì người Chăm không có họ nên việc xét tên đặt họ rất khó khăn, nếu tên có nhiều chữ thì chỉ giữ lại ba chữ cuối : thí dụ như Tô Môn Tô Sa Môn viết thành Tô Sa Môn, Sa Qua Sa Oa Qua thành Sa Oa Qua...

Vua Lê còn ra lệnh cấm quan viên và dân chúng Việt chứa chấp người Chăm. Nhà Lê đưa những tội phạm biệt xứ gốc Kinh vào các châu Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (thuộc đạo Quảng Nam) khai phá đất mới. Những lưu dân này lúc ra đi, hoặc độc thân hoặc không được mang theo gia đình, một số đã lập gia đình với các thiếu nữ Chăm và sinh con đẻ cái. Con cái của những người này sau đó đã trở thành người Việt, quên hẳn gốc Chăm của mẹ và trở thành cư dân miền Trung. Người Chăm tại Phan Rang gọi những người Chăm mang hai giòng máu tại Quảng Nam và Bình Định là Chăm Hoi (người Việt gọi là Hời). Phụ nữ Chăm Quảng Nam và Bình Định lấy chồng Việt là chuyện thường, nhưng rất hiếm trường hợp phụ nữ Chăm tại Ninh Thuận và Bình Thuận lấy chồng Việt, vì khác biệt tôn giáo, đa số theo đạo Chăm Bani (Hồi giáo cải cách).

Dân chúng Việt sống trên các lãnh thổ Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, tức Indrapura cũ, thỉnh thoảng bị người Hroi, một bộ lạc gốc Malayo Polynesien cư ngụ trên Tây Nguyên, tràn xuống đánh phá, từ đó người miền Trung gọi chung tất cả những người có nước da đen đủi ở trần là Hời. Về sau danh xưng này được đồng hóa với người Chăm trước thế kỷ 15. Thật ra người Chăm lai Thượng, hay người Thượng gốc Chăm được người Chăm Phan Rang gọi là Chăm Pal, không liên quan gì đến người Chăm Hoi tại Bình Định. Họ là những người thuộc các bộ lạc Rhadé, Raglai, Churu v.v...

Năm 1478, Bố Trì Tri mất, em à Koulai lên thay và bị ám sát tại Lão Qua (Lào) năm 1505, con là Chakou Poulo kế nghiệp. Chakou Poulo lo mở mang xứ sở, giao hảo với Trung Hoa và được nhà Minh sắc phong năm 1515 và nhìn nhận vương quốc Nam Chiêm Thành cho tới năm 1543. Thuyền buôn ngoại quốc (Trung Hoa, Mã Lai, Khmer, Bồ Đào Nha và Hòa Lan) vẫn lui tới các hải cảng Panduranga buôn bán tấp nập trong những thế kỷ 16 và 17.

Đầu thế kỷ 16, người Chăm trong các vùng đất Thuận Hóa và Nam Bàn thường hay nổi lên đánh giết những gia đình người Việt đến định cư lập nghiệp. Đất Nam Bàn trở nên khó cai trị, việc quản trị sau đó phải giao cho những quan Việt. Được sự đồng ý của chúa Trịnh, vua Lê sai Nguyễn Hoàng trấn thủ đất Thuận Hóa giữ yên bờ cõi phía Nam. Nhiều gia đình hoàng tộc Champa sinh sống trên vùng đất này chạy về Panduranga tị nạn. Một số dân cư Chăm sinh sống dọc các bờ biển miền Trung trở thành những nhóm hải tặc tổ chức cướp phá các đội thương thuyền ngoại quốc, nhất là của người Bồ Đào Nha và Hòa Lan, đi lại trong vùng để sinh sống. Địa Bàn hoạt động của các đám hải tặc là quanh các đảo Côn Lôn và Phú Quý.

Chiêm Thành trên danh nghĩa không còn được nhắc tới nữa, nhưng trong thực tế vương quốc Chiêm Thành đối với người Chăm vẫn tồn tại mặc dù đất đai bị thu hẹp. Sau này vào thời Nguyễn sơ, nhất là dưới thời Nguyễn Hoàng, vương quốc Chiêm Thành được nhìn nhận trở lại.

Nguyễn Văn Huy

(2002)

Đọc thêm :

Người Chăm 1 - Tìm lại anh em, nhận lại bạn bè

Người Chăm 2 - Thời kỳ xác định bản thể 

Người Chăm 3 - Thời kỳ mở nước và dựng nước 

Người Chăm 4 - Thời vàng son

Người Chăm 5 - Thời kỳ xung đột

Người Chăm 6 - Bùng lên trước khi tàn lụi

Người Chăm 7 - Cố gắng tồn tại trong khó khăn

Người Chăm 8 - Cộng đồng người Chăm tại Campuchia

Người Chăm 9 - Thư tịch về người Chăm và người Thượng ở Việt Nam

Published in Tư liệu
vendredi, 01 septembre 2017 04:21

Người Chăm 5 - Thời kỳ xung đột

Người Chăm tại Việt Nam

Bài 5

Thời kỳ xung đột

Biến cố Đại Cồ Việt, năm 939, thay đổi hẳn tương quan lực lượng giữa các thế lực trong vùng.

cham15

Vết tích của một thời vàng son : Thánh địa Mỹ Sơn (Amavarati)

Do chưa bao giờ là một định chế chính trị có tổ chức, các vương quyền người Việt chọn khuôn mẫu Trung Hoa để quản trị đất nước. Với thời gian, chọn lựa này vô tình quyết định luôn chỗ đứng của hai nền văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ trong khu vực ; người Pháp đặt tên vùng đất này là bán đảo Ấn Hoa (Indochine), không phải là Đông Dương (Biển Đông) như chúng ta dịch lại. Người Pháp còn đặt tên Nam Kỳ (miền Nam) là Cochinchine, sự ghép tên của một thành phố ở miền Nam Ấn Độ, Kochi (hay Cochin) với Trung Hoa (Chine).

Cũng do chưa bao giờ là một thế lực hùng mạnh có thể bành trướng sang Trung Hoa, người Việt thường tiến về phía Nam để tránh nạn khi có nội chiến, hay tìm đất mới để khai phá. Cuộc Nam tiến tuy không rầm rộ nhưng tiệm tiến này đã thu hẹp dần lãnh thổ của người Chiêm Thành, để rồi mất hẳn dưới thời Gia Long. Và cũng do vị trí địa dư đặc biệt, tranh chấp Bắc-Nam và nhu cầu thống nhất lãnh thổ và đất nước đã xảy từ thời vương quốc Chiêm Thành chứ không phải mới đây giữa người Việt Nam với nhau.

Triều vương thứ bảy (991-1044) : vương triều Vijaya

Năm 989 Lưu Kỳ Tông, một người Kinh tự nhận là vua lãnh thổ Chiêm Thành phía Bắc từ năm 983, bị Bằng Vương La (Cu-thì-lợi Hà-thanh-bài Ma-la), một vương tôn Chăm phía Nam, nổi lên lật đổ và được dân chúng tôn lên làm vua, hiệu Harivarman II (Dương-to-pai hay Dương Đà Bài). Harivarman II xưng vương tại Phật Thành (Vijaya), nhưng tổ chức vương quyền vẫn đặt tại Indrapura (Đồng Dương), ý muốn đề cao nguồn gốc thần quyền của ông từ bộ tộc Dừa.

Harivarman II được nhiều sử gia xác nhận là người sáng lập vương triều thứ bảy của Chiêm Thành.

Năm 990, một người Việt tên Dương Tiến Lộc - làm quan quản giáp đi thu thuế tại châu Ái và châu Hoan (Thanh Hóa, Nghệ An) - hô hào người Kinh và Chăm nổi lên chống lại nhà Lê. Dương Tiến Lộc có yêu cầu Harivarman II giúp đỡ nhưng bị từ chối. Hay tin có phản loạn, Lê Đại Hành liền mang quân vào đánh dẹp, Dương Tiến Lộc cùng những người phản loạn bị giết chết, hơn 360 tù binh Chăm bị bắt mang về miền Bắc, một số được tuyển làm nài điều khiển voi trong binh lực nhà Lê.

Năm 992, quan hệ giữa nhà Lê và vương triều Vijaya trở nên bình thường và, để tỏ lòng biết ơn Harivarman II từ chối không ủng hộ cuộc phản loạn của Dương Tiến Lộc, Lê Đại Hành trả tự do cho hơn 300 tù binh Chăm về nước.

Cũng nên biết làn ranh phân chia Đại Cồ Việt và Chiêm Thành trong giai đoạn này được xác định tại đèo Ngang, tức địa phận Di Luân, gần cửa sông Gianh (Quảng Bình). Cùng thời gian này, quan hệ giữa Chiêm Thành và Trung Hoa trở nên bình thường, Harivarman II được nhà Tống công nhận, hai bên trao đổi nhiều phẩm vật quí giá. Nhân dịp này Harivarman II yêu cầu vua Tống giao trả những người Chăm tị nạn tại Quảng Châu trước đó (986-988) về lại Chiêm Thành.

Mối giao hảo thân thiết giữa Chiêm Thành và Trung Hoa không làm vua Lê hài lòng. Năm 994, Lê Đại Hành cho người vào Viyaja yêu cầu Harivarman II triều cống nhưng bị từ chối, vua Lê liền cất quân sang đánh. Quân Chiêm tuy có đẩy lui được cuộc trừng chinh này nhưng hao tổn cũng khá nhiều, Harivarman II chấp nhận sẽ triều cống trở lại. Nhưng Lê Đại Hành yêu cầu phải triều cống tức khắc và buộc Harivarman II phải đích thân sang bái kiến mới vừa lòng. Vua Chiêm liền sai một thân tín tên Chế Đông sang thay mặt, Lê Đại Hành trách là vô lễ ; Harivarman II phải sai cháu là Chế Cai sang chầu và hứa sẽ không quấy phá vùng biên giới nữa mọi việc mới yên. Tuy vậy trong những năm 995 và 997, do thiếu đói vì mất mùa quân Chiêm có tràn sang cướp phá một số làng xã dọc vùng biên giới rồi rút về liền. Lê Đại Hành cũng chỉ củng cố lại một số địa điểm phòng thủ chứ không trả đũa ; một số gia đình nông dân nghèo gốc Kinh được đưa vào lập nghiệp trên một phần lãnh thổ Bắc Chiêm Thành, sau này có tên là Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh.

Năm 999, Harivarman II mất, con là Po Alah (Po Ovlah hay Âu Loah) - một tín đồ Hồi giáo trung kiên đã từng sang La Mecque hành hương - lên thay, hiệu Yanpuku Vijaya (Dương-phổ-cu Bi-trà-xá-lợi). Trung tâm quyền lực đặt tại Vijaya, tức thành phố Chiến Thắng (còn có tên là Phật Thệ, Phật Thành hay Chà Bàn, Đồ Bàn, nay là thị trấn An Nhơn). Toàn bộ vương tộc tại Indrapura (Đồng Dương) được đưa về Sri Bini (Qui Nhơn) định cư, vì nơi này ít bị uy hiếp hơn khi có chiến tranh.

Dưới thời Yanpuku Vijaya (999-1010), đạo Hồi cùng với đạo Bà La Môn phát triển mạnh mẽ. Tân vương tổ chức lại quân đội và cử nhiều phái đoàn sang Trung Hoa thông sứ với hy vọng được nhà Tống bảo vệ khi bị Đại Cồ Việt tấn công.

Năm 1005, hay tin Lê Đại Hành mất, Yanpuku Vijaya mang quân tấn công Đại Cồ Việt, lúc đó do Lê Long Đĩnh (1005-1009), một hôn quân, cai trị. Hai bên giữ thế giằng co, bất phân thắng bại trong 40 năm (1005-1044).

Yanpuku Vijaya mất năm 1010, Sri Harivarmadeva lên thay, hiệu Harivarman III. Tân vương cai trị đến năm 1018 thì mất, Chế-mai-pa Mộ-tài (Chemeipai Moti) lên thay, hiệu Paramesvaravarman II.

Trong lãnh thổ người Kinh, Lý Công Uẩn lật đổ nhà Lê, thành lập nhà Lý (năm 1010), hiệu Thái Tổ, đổi quốc hiệu là Đại Việt.

E ngại uy dũng và mến mộ đức độ của Lý Thái Tổ, Chiêm Thành và Chân Lạp cử người sang triều cống. Giao hảo giữa Chiêm Thành và Đại Việt rất là tốt đẹp, nhưng chỉ kéo dài được mười năm. Năm 1020, do mất mùa và đói kém, quân Chiêm Thành tiến chiếm hai châu Bố Chánh và Ma Linh (Quảng Bình). Năm 1021, thái tử Phật Mã, trưởng nam của Lý Thái Tổ, chiếm lại hai châu bị mất. Năm 1026, quân của thái tử Phật Mã chiếm luôn châu Điền (Thừa Thiên).

Lý Thái Tổ mất năm 1028, Phật Mã lên thay, xưng hiệu Thái Tôn. Vua Chiêm Thành không những không chịu thông sứ với Đại Việt mà còn xua quân đánh phá các làng ven biển tại châu Điền, châu Ái (Thanh Hóa) và châu Hoan (Nghệ An). Sau khi củng cố lại lực lượng tại châu Hoan, Lý Thái Tôn sát nhập ba châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh vào lãnh thổ Đại Việt và cử võ quan vào trấn thủ.

Năm 1030, Paramesvaravarman II qua đời, triều đình Viyaja rối loạn. Một vương tôn tên Chế Li (Cheli) tiếm ngôi, xưng hiệu Vikrantavarman IV. Nội chiến liền xảy ra, rất là khốc liệt. Con cháu Paramesvaravarman II nổi lên chống lại.

Năm 1038, con Vikrantavarman IV là hoàng tử Địa Bà Thích cùng với một số thủ hạ trong binh đội địa phận Bố Chánh (hơn 100 người do các tướng Bố Cả, Lan Đồ Thích, Lạc Thuẩn, La Kế và A Thát Thích chỉ huy) nổi lên giành ngôi với vua cha nhưng không thành, phải chạy vào Đại Việt xin tị nạn. Tại đây Địa Bà Thích hai lần xin nhà Lý (1039 và 1040) đưa về làm vua, nhưng không được chấp nhận.

Trước đe dọa của chính con mình, năm 1401 Vikrantavarman IV - sau khi liên minh được với vương quốc Angkor là vua Surayavarman I - yêu cầu nhà Lý giao hoàng tử Địa Bà Thích phản nghịch về xử tội, nhưng không thành. Quân Chăm liền tấn công Đại Việt, Vikrantavarman IV bị giết ngay trong trận đầu, con là thái tử Sạ Đẩu (Po Tik) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman II. Tân vương sai sứ sang Trung Hoa xin vua Tống tấn phong đồng thời cũng xin được bảo vệ, nhờ đó được yên bình vài năm. Năm 1043, quân Chiêm dùng thuyền đổ bộ vào một số làng xã ven biển đánh phá và chỉ rút lui khi quân Lý tiến tới.

Năm 1044, viện cớ Chiêm Thành không chịu triều cống từ hơn 16 năm qua và còn quấy rối lãnh thổ, Lý Thái Tôn dẫn đầu một đại binh gồm 10.000 thủy quân xuống đánh. Jaya Sinhavarman II vừa tổ chức phản công vừa cho người sang Trung Hoa cầu cứu. Quân Chiêm chận quân Đại Việt tại phía nam sông Thu Bồn (Quảng Nam) nhưng bị thua to : gần 30.000 binh sĩ và hơn 60 voi trận phơi thây trên chiến trường, hơn 5.000 quân Chiêm và 30 voi trận bị bắt sống. Jaya Sinhavarman II cũng bị tử thương trong trận này, tướng Quách Gia Gi (Isvaras) liền cắt lấy đầu mang sang trại vua Lý làm lễ vật xin hàng. Lý Thái Tôn thấy quân Chiêm bị giết quá nhiều liền ra lệnh không cho binh sĩ giết người vô cớ. Quân Đại Việt tiếp tục tiến xuống phía Nam, chiếm đế đô Phật Thệ (Vijaya hay Đồ Bàn), bắt được vương phi Mỹ Ê cùng nhiều cung nữ và nghệ nhân mang về đất Bắc.

Trên đường về nước, khi đến sông Lý Nhân (sông Hương), Lý Thái Tôn cho người mời Mỹ Ê sang chầu nhưng bà nhảy xuống sông tự tử để giữ tiết với chồng. Quý mến sự thủy chung này, vương phi Mỹ Ê được Lý Thái Tôn phong tước Hiệp chánh hộ thiên và cho lập đền thờ. Những tù binh Chiêm Thành sau đó được cấp ruộng đất và cho định cư tại Hưng Hóa (Nghệ An) trong hai xã Vĩnh Khương và Đăng Châu. Nông dân Đại Việt cũng di cư vào các vùng đất mới tại Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh lập nghiệp.

Trong số tù binh Chăm có một thiền sư Phật giáo tên Thảo Đường. Tăng sư Thảo Đường lập ra phái Thiền tông thứ ba tại Đại Việt. Nhiều chùa Phật giáo Tiểu Thừa tại miền Bắc Việt Nam (chùa Vạn Phúc ở Bắc Ninh, chùa Thiên Phúc ở Sơn Tây) do nhân công gốc Chăm xây dựng. Thợ Chăm dạy cho thợ Đại Việt cách đúc tượng Phật và xây cất chùa kiểu Ấn Độ. Nghệ nhân Chiêm Thành dạy cho các cung nữ triều đình nhà Lý các điệu nhạc Chiêm Thành (các điệu nam ai, nam oán...).

cham11

Sơ đồ lãnh thổ Champa trong thế kỷ 11

Triều vương thứ tám (1044-1074) : loạn sứ quân

Quách Gia Gi là một vương tôn thuộc đẳng cấp Ksatriya (chiến sĩ). Sau khi đầu hàng nhà Lý, ông được triều thần tôn lên làm vua năm 1044, hiệu Jaya Paramesvaravarman I. Trước một đất nước bị kiệt quệ vì chiến tranh, Quách Gia Gi một mặt phải giao hảo tốt với Trung Hoa và Đại Việt để được yên thân, mặt khác tập trung sức lực còn lại bình định loạn lạc ở phía nam.

Trước kia, theo thỏa hiệp giữa Vikrantavarman IV và Surayavarman I (vương quốc Angkor), quân Khmer vào giúp Chiêm Thành dựng trại tại Panduranga, khi Vikrantavarman IV mất quân Khmer không những không chịu rút quân về mà còn muốn chiếm giữ luôn lãnh thổ Panduranga.

Năm 1050, viện cớ một tiểu vương tại Panduranga không tuân phục triều đình trung ương, Jaya Paramesvaravarman I cùng cháu là hoàng thân Yavaraja Mahasenapati mang quân chinh phạt và cũng nhân dịp đánh đuổi quân Khmer ra khỏi lãnh thổ.

Tiểu vương Panduranga thua trận, một số binh sĩ và dân chúng đất Pănrăn (Phan Rang) phải trốn trong các hầm đất, hang động hoặc chạy lên núi trốn, một số khác chạy theo quân Khmer về bên kia biên giới lánh nạn. Toàn bộ tài sản, súc vật của dân chúng Pănrăn bị tịch thu mang về Vijaya làm chiến lợi phẩm ; những tù binh bị mang về làm nô lệ và hạ xuống làm đẳng cấp Sudra. Tiểu quốc Panduranga bị đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của triều đình trung ương Vijaya.

Trong giai đoạn này, người Chăm chạy loạn lên Tây Nguyên (đặc biệt là cao nguyên Đắc Lắc) lánh nạn một số đã ở lại định cư vĩnh viễn, hòa trộn với những nhóm dân cư có trước để thành người Rhadé.

Dẹp xong loạn phía Nam, Jaya Paramesvaravarman I xây dựng lại đất nước. Nhà vua cho dựng lại các tượng đài bằng đá hoa cương trong tháp Po Nagar, cấp cho những vị tu sĩ giữ đền 50 nô lệ Chăm, Khmer, Hoa, Miến, Xiêm, 15 cân vàng, 15 cân bạc, và nhiều vật dụng quí giá khác. Nhà vua mất năm 1060, con trai trưởng lên kế vị hiệu Bhadravarman III, trị vì được một năm (1060-1061) thì mất.

Năm 1061, em trai của Bhadravarman III là Chế Củ lên thay, hiệu Rudravarman III. Rudravarman III là một người tinh khôn, một mặt giao hảo bình thường với nhà Lý để tránh bị nghi ngờ, mặt khác chuẩn bị quân sĩ tiến đánh Đại Việt. Năm 1068, Rudravarman III mang quân đánh vào các làng của người Việt tại Ma Linh và Địa Lý, quân Lý thua phải rút lên phía Bắc.

Năm 1069, Lý Thánh Tôn (lên ngôi năm 1054) cùng Lý Thường Kiệt mang 30.000 quân và 200 chiến thuyền tiến chiếm Sri Bini (Qui Nhơn), rồi đế đô Vijaya (Bình Định), giết tướng giữ thành là Bố Bì Đà La trên sông Tu Mao (nay là Hà Giao). Rudravarman III băng rừng chạy sang Chân Lạp tị nạn. Tại đây hoàng gia Chăm bị người Khmer bạc đãi, Rudravarman III về lại Vijaya chịu cho quân Đại Việt bắt sống, cùng với 3.000 quân và gia quyến, hơn là qui thuận Angkor. Tuy vậy thành Vijaya vẫn bị quân Đại Việt tràn vào đốt phá trước khi rút về nước. Dân số Vijaya lúc đó được ghi nhận là hơn 2.560 gia đình. Để chuộc lại tự do, Rudravarman III xin dâng ba tỉnh phía bắc Chiêm Thành gồm Bố Chánh (hay Bố Chính), Địa Lý và Ma Linh (Quảng Bình và bắc Quảng Trị ngày nay). Lãnh địa Indrapura bị xóa tên và trở thành ba tỉnh của Đại Việt. Nhà Lý đổi tên Ma Linh thành châu Minh Linh, Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Bố Chánh được giữ nguyên tên.

Thật ra ba châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh đã thuộc về Đại Việt từ lâu, từ đời nhà Tiền Lê (năm 982), cách đó gần 80 năm. Do sức ép về dân số, nhiều gia đình nông dân nghèo khó không có đất canh tác trên đồng bằng sông Hồng và sông Cả đã tự động di cư đến đây rồi khai phá đất hoang và canh tác hoa mầu. Trong cuộc sống cộng cư, với thời gian, có thể những nhóm di dân cư này đã hòa trộn với các nhóm dân cư gốc Kinh có mặt từ trước, khi vương quốc Lâm Ấp được thành hình, hoặc với người Chăm địa phương từ nhiều đời để tạo thành các nhóm "dân miền Trung". Yếu tố Chăm do đó không còn mạnh mẽ, nếu không muốn nói là mất hẳn ảnh hưởng trên vùng đất này, nhường chỗ cho yếu tố Kinh, đầy sức sống và đông đảo hơn.

Nói một cách khác, sự dâng đất này là một hình thức công nhận quyền sở hữu chính thức của nhà Lý trên một vùng đất đã thoát khỏi sự kiểm soát của chính quyền trung ương Chiêm Thành từ lâu. Sự dâng đất này còn ngụ ý là Chiêm Thành sẽ không mang quân sang quấy phá nữa, vì thần linh bảo vệ hoàng tộc và đất đai không còn nữa. Đất ở ba châu này thật ra có phì nhiêu hơn ở vùng Thanh Hóa (tức châu Điền), nhưng không phì nhiêu bằng đất ở Amavarati (Quảng Nam). Sự tranh chấp giữa Đại Việt và Chiêm Thành về sau trên phần lãnh thổ này vì tự ái dân tộc nhiều hơn vì sự mầu mỡ của đất đai.

Sau khi nhượng hẳn cho Đại Việt ba châu phía Bắc, Rudravarman III mất uy tín trước các tiểu vương. Chiêm Thành bị loạn sứ quân, không ai còn nghe ai nữa. Hơn mười tiểu vương tự tuyên bố độc lập, kẻ mạnh mang quân đi đánh kẻ yếu hơn để mở rộng lãnh thổ hoặc gây thanh thế. Các tiểu vương ở phía Nam, liên minh với đế quốc Angkor, biến Panduranga thành trung tâm chống lại vương triều và các tiểu vương phía Bắc.

Năm 1074, buồn phiền trước cảnh đất nước loạn lạc và bị các tiểu vương phía Nam xua đuổi, Rudravarman III (Chế Củ) dẫn gia đình sang Đại Việt xin tị nạn và tan biến luôn trong xã hội người Kinh.

Triều vương thứ chín (1074-1139) : tranh chấp với Đại Việt

Tại Panduranga, một hoàng thân xuất thân từ Panduranga tên Thăn (còn gọi là Yan Visnumurti, Madhavamurti hay Devatamurti, tiếng Việt là Thân), cùng em là hoàng tử Pãn (tên Việt là Phan), đã lần lượt chinh phục các tiểu vương sứ quân, thống nhất lại đất nước.

Năm 1074, Thăn được quần thần tôn lên làm vua, hiệu Harivarman IV, mở đầu triều vương thứ chín.

Thăn là tên một hoàng tộc thuộc bộ tộc Cau mà dân chúng Panduranga cho là dòng vương tôn chân truyền của vương quốc Champa. Chính vì thế Harivarman IV rất tự hào về nguồn gốc xuất thân của mình, vì luôn tự nhận là sự kết hợp của hai bộ tộc lớn nhất của Chiêm Thành : cha là Pralaysvara Dharmaraja, dòng Narikelavansa thuộc đẳng cấp Ksatriya, bộ tộc Dừa ở Amaravati ; mẹ thuộc dòng Kramukavansa, đẳng cấp Brahman, bộ tộc Cau ở Panduranga.

Sở dĩ có sự giải thích dài dòng về nguồn gốc xuất thân này - nhất là nguồn gốc xuất thân của mẹ, dòng Brahman chính thống - vì Harivarman IV biết chắc rằng trong các sứ quân không ai hội đủ điều kiện về nguồn gốc xuất thân để có thể được tôn lên làm vua trên toàn cõi Chiêm Thành.

Việc làm đầu tiên của Harivarman IV là phục hồi lại các đền đài đã bị tàn phá bởi quân Đại Việt và cuộc nội chiến. Không đầy một năm sau, Chiêm Thành trở nên hùng mạnh trở lại. Harivarman IV mang quân sang đánh Đại Việt, giành lại phần lãnh thổ mà Rudravarman III đã nhượng trước đó.

Năm 1075, viện cớ phục hồi ngôi vua cho con cháu Rudravarman III (Chế Củ), nhà Lý sai Lý Thường Kiệt mang quân chiếm lại ba châu vừa bị mất. Trước sự chống trả mãnh liệt của quân Chiêm, Lý Thường Kiệt phải lui binh nhưng cho người vẽ lại địa thế rồi đưa một số nông dân gan dạ (thật ra là những binh lính trá hình) vào định cư. Hay tin quân Lý bị Chiêm Thành đánh bại, vua Tống sai Vương An Thạch mang 10.000 quân tiến qua biên giới tấn công Đại Việt. Lý Thường Kiệt lui về bảo vệ lãnh thổ phía bắc. Ba châu vừa chiếm lại lọt vào tay Chiêm Thành.

Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì kết hợp với Chiêm Thành và Angkor, mang 7.000 quân tiến công Đại Việt nhưng bị Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh bại. Thừa thắng, Lý Thường Kiệt tiến xuống chiếm đóng đế đô Phật Thành, Harivarman IV phải cùng con cái và một số thân tín chạy lên núi trốn ; tại đây phái đoàn được các sắc dân Thượng che chỡ.

Quân Lý chỉ chịu rút khỏi Phật Thành khi Harivarman IV tuyên bố chấp nhận triều cống nhà Lý trở lại. Hay tin này, hoàng thân Sri Nandanavarmadeva (người Khmer) - mang quân vào miền Nam Chiêm Thành theo lời mời của Quách Quì để chống lại nhà Lý - chiếm luôn Panduranga. Vua Harivarman IV phải yêu cầu nhà Lý giúp đỡ. Lúc này mặc dù đã tuổi già sức yếu, Lý Thường Kiệt vẫn phải thân chinh đi đánh dẹp. Quân Khmer thua to bỏ chạy về nước, Harivarman IV truy đuổi và tiêu diệt hết tại Somesvara (Biên Hòa ngày nay). Nhà vua sai em là hoàng tử Pãn (tiếng Việt là Phan) chiếm thành Sambhupura (Sambor) trên sông Mekong, bắt được nhiều tù binh cùng vàng bạc và của cải mang về nước.

Dẹp xong loạn phương Nam, Harivarman IV tập trung phục hồi đất nước. Mặc dù vẫn duy trì triều đình tại Vijaya, nhà vua sửa sang lại các nơi thờ phượng khác trên toàn quốc và cho xây dựng lại các thánh địa tôn giáo tại Indrapura (Đồng Dương) và Sinhapura (Mỹ Sơn). Hoàng tử Pãn đích thân đôn đốc việc trùng tu các đền thờ tại Sinhapura (Mỹ Sơn). Dưới triều vua Harivarman IV, Chiêm Thành trù phú trở lại, đền đài cung điện tìm lại những nét huy hoàng tráng lệ ngày xưa.

Năm 1080, Harivarman IV nhường ngôi cho con là thái tử Văk Pulyan Rajadvara, 9 tuổi. Tân vương lên ngôi năm 1081, hiệu Jaya Indravarman II (Chế Ma Na). Chú là hoàng tử Pãn thế quyền giám quốc.

Nhưng không biết vì nguyên do nào mà cả triều thần và thái tử Văk đồng tôn Pãn lên làm vua, hiệu Sri Paramabodhisatva (Si-bà Ra-ma Bồ-đề Sát-bà). Paramabodhisatva giao hảo tốt với Đại Việt, mục đích chính của nhà vua là duy trì sự thống nhất của Chiêm Thành, vì lúc đó một tiểu vương Panduranga tên Rudravarman ly khai, không công nhận vương quyền phương Bắc. Thật ra sự ly khai này đã xảy ra từ 16 năm trước, nhưng triều đình Vijaya vì bận lo giải quyết những vấn đề khác cấp bách hơn nên chưa ra tay. Tiểu vương Rudravarman bị đánh bại, Panduranga bị đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của Phật Thành (Vijaya).

Năm 1086, nội bộ Chiêm Thành xảy ra nội chiến. Thái tử Văk (Jaya Indravarman II) được triều đình thúc đẩy cầm quyền trở lại. Ước muốn này gặp sự phản đối của vua Paramabodhisatva (hoàng tử Pãn) - người muốn đưa trưởng nam của mình là hoàng tử Pulyan Sri Yavaraja lên ngôi - đã tìm mọi cách loại trừ thế lực của thái tử Văk nhưng không được.

Cuối cùng Paramabodhisatva mất tích, phe của ông bị phe của thái tử Văk giết hết. Jaya Indravarman II lên ngôi và tiếp tục triều cống Đại Việt. Năm 1092, Jaya Indravarman II nhờ nhà Tống giúp đòi lại vùng đất đã mất nhưng không kết quả.

Năm 1103, một người Việt ở phủ Diên Châu (Nghệ An) tên Lý Giác nổi lên làm phản. Lý Thường Kiệt vào đánh, Lý Giác thua chạy sang Phật Thành (Vijaya) thuyết phục vua Jaya Indravarman II hưng binh chiếm lại vùng đất đã mất. Lý Thường Kiệt một lần nữa phải thân chinh đi dẹp lọan, Jaya Indravarman II bị thua phải trả lại ba châu đã chiếm và chịu triều cống trở lại năm 1104.

Nhà Lý liền phân chia lại các châu vừa lấy lại như sau : châu Bố Chánh gồm huyện Nam Bố Chánh (Bố Trạch ngày nay) và huyện Bắc Bố Chánh (Quảng Trạch và Tuyên Hóa ngày nay), châu Lâm Bình (Địa Lý cũ) gồm huyện Phong Lộc (Quảng Ninh ngày nay) và huyện Phong Đăng (sau gọi là Phong Phú, tức huyện Lệ Thủy ngày nay). Hai huyện Phong Lộc và Phong Phú là vựa lúa lớn nhất của đất Indrapura. Châu Minh Linh (Ma Linh cũ) được chia thành hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh.

Năm 1113, cháu Jaya Indravarman II là Harivarman V lên ngôi, tân vương giữ nguyên chính sách cai trị của chú, quan hệ giữa Chiêm Thành và Đại Việt rất là thân thiết.

Harivarman V trị vì đến năm 1129 thì mất không người kế vị, Chiêm Thành lâm cảnh loạn lạc. Vương triều Panduranga không chịu sự cai trị của Vijaya, liên kết với Chân Lạp đánh lại. Hai miền Nam Bắc đánh phá lẫn nhau trong suốt 10 năm (1129-1139).

Triều vương thứ mười (1139-1145) : dưới sự khống chế của người Khmer

Năm 1129 Harivarman V mất, hoàng triều Champa tôn người con nuôi của nhà vua tên Po Sulika lên thay, hiệu Jaya Indravarman III.

Vì không có quan hệ gia tộc trực tiếp với dòng vua cũ, Jaya Indravarman III phải tự nhận có quan hệ xa xôi với các triều vua trước để được dân chúng phục tùng.

Theo các bia ký đọc được tại Đồng Dương và Po Nagar, Jaya Indravarman III sinh năm 1106, được nhận vào hoàng tộc năm 1129 tước Devaraja, được phong vương (Yuvaraja) năm 1133. Jaya Indravarman III xây thêm nhiều tượng thần Siva, Visnu và Linga trong những năm 1139, 1142 và 1143 tại Indrapura và Kauthara để xác nhận ông là truyền nhân của đẳng cấp Brahman.

Cùng thời gian này, năm 1112, tại Chân Lạp vua Suryavarman II lên ngôi. Năm sau tân vương xua quân đánh chiếm Chiêm Thành. Tham vọng của nhà vua Khmer được thời cuộc hỗ trợ vì bên Trung Hoa nhà Tống đang bận chống quân Kim (Mãn Châu) ; về phía Đại Việt, vua Lý Thần Tông chết sớm, Lý Anh Tôn còn quá nhỏ, các tướng lãnh tranh quyền, Đại Việt bị suy kém. Năm 1128, được Nam Chiêm Thành hỗ trợ, Suryavarman II dẫn 20.000 quân, đi trên 700 chiến thuyền, đổ bộ vào Thanh Hóa đánh phá và cũng là một cách răn đe Đại Việt không nên hỗ trợ Bắc Chiêm Thành.

Về phía Chiêm Thành, bị Angkor liên tục đánh phá từ 1030, đời sống người Chăm Bắc Chiêm Thành rất là khổ sở. Không chịu đựng nổi sự cai trị hà khắc và sự hà hiếp của người Khmer, một số vương tôn Chăm chạy vào Đại Việt xin tị nạn (Cụ Ông và 30 gia nhân, Kim Đình A Phú và 4 gia nhân, Tư Bồ Đà La cùng 30 gia nhân, Ưng Ma và Ưng Câu…). Trong những năm 1131 và 1136, quân Nam Chiêm Thành và Chân Lạp hợp nhau đánh phá Nghệ An và bờ biển Thanh Hóa.

Năm 1132, viện cớ Jaya Indravarman III không chịu hợp tác tấn công Đại Việt, Suryavarman II tiến quân lần nữa sang đất Chiêm Thành : đế đô Vijaya bị chiếm năm 1145. Jaya Indravarman III mất tích trên chiến trường (được dân chúng thờ dưới tên Rudraloka), những người chống lại quân Khmer đều bị xử trảm. Suryavarman II tự xưng là hoàng đế của cả Chân Lạp lẫn Chiêm Thành.

Kể từ 1145 đến 1149, lãnh thổ đế quốc Khmer được nới rộng lên phía Bắc, từ Champassak (Nam Lào) đến đèo Hải Vân (Bắc Chiêm Thành), người Khmer trực tiếp điều khiển binh lực Chiêm Thành.

Triều vương thứ mười một (1145-1318) : xung đột với Angkor

Năm 1145 hoàng thân Parabrahman được triều thần đưa lên kế vị Jaya Indravarman III, hiệu Rudravarman IV.

cham17

Phù điêu chiến trận giữa đế Quốc Angkor và Champa (quần thể Angkor Wat)

Vừa lên ngôi, Rudravarman IV cùng con trai là Ratnabhumivijaya (hoàng tử Sivanandana) bị quân Khmer truy lùng ráo riết phải bỏ Vijaya chạy vào Đại Việt lánh nạn. Thời gian sau, Rudravarman IV băng rừng về lại Panduranga lập chiến khu trên cao nguyên, nhiều bộ lạc Thượng gia nhập quân kháng chiến rất đông. Trên đường chạy loạn, Rudravarman IV lâm bệnh mất năm 1147 (dân chúng thờ dưới tên Brahmaloka hay Parabrahmaloka), con là thái tử Ratnabhumivijaya lên thay, hiệu Jaya Harivarman I (Chế Bì Ri Bút).

Trên cao nguyên, Jaya Harivarman I được đông đảo người Thượng và người Khmer (có thể là người Thượng thuộc hệ ngôn ngữ Môn Khmer) ủng hộ. Nhà vua tổ chức kháng chiến chiếm lại Panduranga, nhưng lãnh thổ Bắc Chiêm Thành (Vijaya) vẫn còn nằm trong tay người Khmer, do em rể vua Jaya Indravarman III là hoàng tử Hariveda (đẳng cấp Ksatriya) cai trị. Vương quốc Chiêm Thành bị chia đôi.

Năm 1148, vua Khmer (Jaya Indravarman III) cử tể tướng Sankara cùng tướng Sipakhya tấn công Panduranga, nhưng bị quân Chăm đánh bại tại đồng bằng Kayev, tỉnh Virapura (tiếng Khmer là Rajapura, tiếng Việt là Phan Rang). Thừa thắng xông lên, năm 1149, Jaya Harivarman I dẫn đầu đoàn quân Chăm, Thượng chiếm thành Vijaya, giết Hariveda trên sông Yami (sông Hà Giao, Bình Định), thống nhất lại đất nước. Kinh đô đặt tại Vijaya.

Do phân chia quyền lợi không đồng đều, người Rhadé, Bahnar và nhiều bộ lạc Thượng khác tôn Vansaraja (Ưng Minh Diệp), anh rể Jaya Harivarman I, lãnh đạo phong trào kháng chiến chống lại Jaya Harivarman I.

Năm 1150, sau khi xưng vương tại Madhyamagrama (ngày nay là An Khê, cạnh núi Yang Mung), Vansaraja dẫn đại quân xuống đồng bằng tấn công người Chăm, nhưng bị đánh bại tại làng Slay. Jaya Harivarman I tiến lên cao nguyên càn quét quân nổi loạn, Vansaraja phải chạy vào Đại Việt xin nhà Lý giúp đỡ đưa về làm vua.

Lý Anh Tôn sai thương chế Nguyễn Mông mang 5.000 binh sĩ từ Thanh Hóa và Nghệ An vào đánh Chiêm Thành. Chiến trận đã diễn ra rất là khốc liệt tại Dalva (Đông Hà) và Lavan (La Vang), cả Nguyễn Mông lẫn Vansaraja đều bị tử trận. Trong những năm sau (1151-1155), quân Chiêm Thành thường xuyên vào lãnh thổ Đại Việt (Nghệ An) cướp phá, vua Lý Anh Tôn định cất quân đi chinh phạt nhưng Jaya Harivarman I chịu dâng nhiều phẩm vật quí giá nên thôi, thực sự nhà Lý cũng e ngại sức mạnh quân sự của Chiêm Thành.

Vì dồn hết mọi năng lực vào chiến tranh đánh dẹp nội loạn và ngoại xâm, đời sống dân chúng Chiêm Thành trở nên cơ cực, nhiều lãnh chúa địa phương nổi lên chống lại triều đình trung ương. Năm 1151, Jaya Harivarman I phải hao tổn nhiều công sức lắm mới khuất phục được những cuộc nổi loạn tại Amavarati. Vừa dẹp loạn phương Bắc, Jaya Harivarman I lại phải đương đầu với những cuộc nổi loạn tại Panduranga, do người Khmer đỡ đầu. Phải mất năm năm (1151-1155), nhà vua mới dẹp xong được loạn và sau 1160 Chiêm Thành tìm được lại sự hùng mạnh của quá khứ và giao hảo tốt với các lân bang.

Năm 1162, Jaya Harivarman I băng hà truyền ngôi cho con là hoàng tử Sakan Vijaya, hiệu Jaya Harivarman II. Năm 1167 Sakan Vijaya bị hoàng thân Vatuv Gramapuravijaya soán ngôi, hiệu Jaya Indravarman IV.

Trong những năm 1164-1166, quân Chiêm Thành thường xuyên tổ chức đánh cướp các tàu buôn Ả Rập qua lại trên Biển Đông và tiến lên đánh phá các làng xã của Đại Việt tại châu Lâm Bình và Minh Linh. Năm 1167, Lý Anh Tôn sai Tô Hiến Thành mang quân đánh Chiêm Thành. Jaya Indravarman IV vội cử người sang cống nạp, Tô Hiến Thành lui quân về nước. Quà cáp thường là chiến lợi phẩm cướp từ các tàu buôn Ả Rập.

Chính vì những hành vi cướp bóc tàu thuyền này mà nhà Tống từ chối không phong vương cho Jaya Indravarman IV, mặc dầu đã cử nhiều phái đoàn sang Trung Hoa triều cống.

Jaya Indravarman IV (1151-1205), còn gọi là Po Klong Girai, Po Klong Garai hay Po Klău Girai, là người có công xây đập Chaklin (Nha Trinh) và hai mương dẫn nước (mương Cái và mương Đực) tại Phan Rang để canh tác nông nghiệp.

Theo truyền thuyết, Po Klong Garai - còn gọi là Vua Lác, con của nữ thần Po Sah Ino - lúc mới sinh ra đã mắc bệnh cùi, may nhờ có rắn naga liếm nên lành bệnh. Tuy mang bệnh cùi từ lúc còn trẻ nhưng nhà vua đã tỏ ra đắc lực trong việc chiến chinh. Khi băng hà, nhà vua dân được chúng thờ trong tháp Po Klong Garai (nay là tháp Chàm Phan Rang, phường Lưu Vinh, thị xã Tháp Chàm).

Jaya Indravarman IV quyết chí phục thù đế quốc Angkor về việc xâm chiếm và đô hộ Chiêm Thành. Quân lực Chiêm Thành dưới thời Jaya Indravarman IV rất giỏi về tượng binh và thủy chiến. Năm 1170, sau khi điều đình với Đại Việt giữ thế trung lập (bằng phẩm vật triều cống), Jaya Indravarman IV mang đoàn tượng binh tấn công Chân Lạp, lúc đó do vua Dharanindravarman II cai trị. Cuộc chiến kéo dài một năm, bất phân thắng bại (quân Khmer cũng dùng tượng binh đối chọi), sau cùng quân Chiêm phải rút về nước vì hết lương thực.

Năm 1171, một quan nhân gốc Hoa (không rõ tên) - quê ở Ki Yang Kiun, Quí Châu đảo Hải Nàm, bị chìm tàu trôi giạt vào bờ biển Chiêm Thành - được dân chúng dẫn đến trình diện Jaya Indravarman IV. Người này chỉ cho vua Chiêm cách cưỡi ngựa xung trận thay vì dùng voi như trước, điều này làm nhà vua rất thích thú vì hiệu quả thần tốc và gọn nhẹ của nó. Sau khi nắm vững được thuật cỡi ngựa, Jaya Indravarman IV cử một đoàn người sang Cửu Châu, đảo Hải Nàm, mua hết ngựa chiến nhưng bị vua Tống không cho bán (vì những hành vi hải tặc trước đó). Đoàn thương buôn Chăm nổi giận bắt người, đốt những trại nuôi ngựa không chịu bán. Dân Hải Nàm quá lo sợ phải bán cho họ một số ngựa mới được yên, nhưng không đủ để thành lập một đội kỵ binh. Năm 1172, Jaya Indravarman IV cử một đoàn người khác sang Trung Hoa triều cống, trả về những thường dân bị bắt và yêu cầu xin được mua ngựa, vua Tống vẫn từ chối.

Không mua được ngựa, Jaya Indravarman IV tấn công Chân Lạp bằng đường thủy (năm 1176). Nhà vua cho đóng thêm nhiều tàu chiến, tập dượt thủy binh. Năm 1177, Jaya Indravarman IV đi thuyền từ cửa sông Cửu Long vào chiếm Vrah Nagar (Prah Nokor, ngày nay là Sài Gòn). Quân Chiêm tịch thu nhiều chiến lợi phẩm và bắt theo nhiều tù binh Khmer về nước. Những tù binh này lúc đầu có bị bạc đãi, nhưng về sau được đối xử tử tế để trở thành dân Chăm và hội nhập hoàn toàn vào xã hội dân Chiêm Thành.

Trong số tù binh này có một vương tôn Khmer, sau này là Jayavarman VII. Lúc còn ở Chiêm Thành, Jayavarman VII học được cách tổ chức xã hội, cách huấn luyện binh sĩ thủy bộ và còn kết thân được với nhiều hoàng thân của xứ này. Ông được thả về nước năm 1186 để kế nghiệp anh là vua Yasovarman II, bị soán ngôi.

Về lại Chân Lạp, Jayavarman VII kết nghĩa với một vương tôn Chăm tên Sri Vidyanandana, quê ở Tumpraukvijaya (một làng ở Bình Định), đến Chân Lạp lập nghiệp từ 1182. Sau khi dẹp được loạn ở Malyan (hay Mou Leang, một làng ở vùng phía Đông Chân Lạp), hoàng thân Sri Vidyanandana được Jayavarman VII phong một tước hoàng tộc Khmer là Yuvaraja.

Năm 1190, Jayavarman VII sai Vidyananada đi đánh Chiêm Thành, ông chiếm được Vijaya, bắt sống Jaya Indravarman IV mang về Chân Lạp. Hoàng tử In (anh em cột chèo với Jayavarman VII) được phong làm tiểu vương xứ Nagara Vijaya (Bắc Chiêm Thành), hiệu Surya Jayavarman (hay Surya Jayavarmadeva), hoàng thân Vidyanandana được phong làm tiểu vương xứ Rajapura (Nam Chiêm Thành), hiệu Suryavarman (Suryavarmadeva hay Bố Trì), cả hai đều đạt dưới sự lãnh đạo của Jayavarman VII. Vương quốc Chiêm Thành trở thành một thuộc địa của Chân Lạp. Panduranga và Vijaya là hai tỉnh của đế quốc Angkor. Người Thượng trên Tây Nguyên không công nhận vương quyền mới này đã cùng một số vương tôn Chăm khác tổ chức đánh phá Amavarati, Vijaya và Panduranga.

Năm 1191 tại Vijaya, Suryajayavarman (hoàng tử In) bị Rasupati, một hoàng thân Champa, đánh bại phải chạy về lại Chân Lạp. Rasupati tự xưng là vua xứ Vijaya, hiệu Jaya Indravarman V.

Không nhìn nhận vương quyền mới này, Jayavarman VII cho Jaya Indravarman IV (cựu vương Chiêm Thành và cũng là thân phụ của hoàng tử In) về Bắc Chiêm Thành chiếm lại ngôi báu. Jaya Indravarman IV được Suryavarman (hoàng thân Sri Vidyananda) tiếp sức mới chiếm được Vijaya, Rasupati (Jaya Indravarman V) bị xử trảm. Thay vì giao thành lại cho vua Chăm cũ, Suryavarman chiếm luôn Vijaya ; Jaya Indravarman IV liền kêu gọi dân chúng tại Amavarati và các làng Ulik, Vyar, Jriy, Traik chống lại. Năm 1192, Jaya Indravarman IV bị tử trận tại Traik. Suryavarman thống nhất lại đất nước, lên ngôi vua và tìm cách tách khỏi ảnh hưởng của đế quốc Angkor.

Hay tin hoàng thân Suryavarman làm phản, Jayavarman VII cử đại quân, trong số này có cả người Thượng (do tướng Jai Ramya cầm đầu), sang đánh Chiêm Thành. Cuộc chiến kéo dài từ 1193 đến 1194, đại quân Khmer bị đánh bại. Thay vì theo quân Khmer về nước, một người Djarai tên Sri Agara chiếm một vùng đất lớn từ Amavarati đến Pidhyan (Phú Giang, bắc Phú Yên) rồi tự xưng vương năm 1193, hiệu Patau Ajna Po Ku.

Tuy đẩy lui được quân Khmer, Suryavarman vẫn lo sợ. Năm 1194, ông dời cư lên Amaravati (Quảng Nam) tránh nạn và giao hảo tốt với Đại Việt năm 1198, bằng cách triều cống hằng năm, và được vua Lý Cao Tông (Long Cán) phong vương năm 1199. Đất nước được thái bình trong vài năm thì Suryavarman bị chú là Yuvaraja on Dhanapati Grama (Bố Do) soán ngôi năm 1203.

Dhanapati Grama đưa quân Khmer vào chiếm Amaravati, Suryavarman dẫn một hải đội hơn 200 chiến thuyền chạy vào cửa Cửu La (Nghệ An) xin tị nạn. Tại đây, vị hoàng thân Chăm (người Việt gọi là Bố Trì) bị Dĩ Mông và Phạm Giêng, hai quan trấn thủ Nghệ An, nghi ngờ. Suryavarman rất buồn lòng, dùng mưu đốt thuyền của Phạm Giêng và giăng buồm ra khơi mất tích.

Dhanapati được lệnh vua Khmer đánh dẹp các cuộc nổi loạn tại Chiêm Thành, đặc biệt là trên cao nguyên. Patau Ajna Po Ku bị bắt sống đem về Chân Lạp trị tội. Dhanapati được phong toàn quyền cai trị xứ Chiêm Thành. Chiêm Thành trở thành một tỉnh của đế quốc Angkor lần thứ hai.

Dhanapati được con trưởng của Jaya Harivarman II (1162-1167), sinh sống tại Chân Lạp, tên Ansaraja Turaivijaya phụ lực cai trị Chiêm Thành. Turaivijaya cai quản đất Amavarati, tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Đại Việt (Nghệ An) trong những năm 1207, 1216 và 1218 ; tất cả đều bị quan trấn thủ Nghệ An Lý Bất Nhiêm đẩy lui.

Chiêm Thành bị đế quốc Angkor tái đô hộ trong suốt 17 năm (1203-1220). Năm 1220 bị quân Xiêm La làm áp lực tại chính quốc, quân Khmer rút khỏi Chiêm Thành. Trong gần 100 năm chống chọi và bị Angkor đô hộ, Chiêm Thành hoàn toàn kiệt quệ.

Quân Chân Lạp rút khỏi Chiêm Thành, hoàng tử Ansaraja Turaivijaya (tên Khmer là Sri Ajirang) được hoàng tộc Chăm tôn lên làm vua, hiệu Jaya Paramesvaravarman II, đóng đô tại Viyaja.

Vừa lên ngôi, tân vương cho xây lại những tượng đài bị đập phá tại tháp Sri Sanabhadresvara (Mỹ Sơn) và Po Nagar (Nha Trang), xây thêm các đập nước, mở rộng diện tích dinh điền, đất nước phồn thịnh trở lại ; nhiều bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên trở về thần phục.

Năm 1230, hoàng tử Abhimanyuvarman, một vương tôn tỉnh Pankaja người Cathei, được Jaya Paramesvaravarman II cử làm thống lãnh đất Panduranga. Những tiểu vương kế nghiệp ông được biết đến sau này tại Panduranga là Po Unvavah, Po Binasur, Po Putrik v.v... (Tên những vương tôn Chăm tại miền Nam Chiêm Thành, hay tại Panduranga sau này, đều kèm theo chữ Po (Pô, Pu, Pou hay Poh), có nghĩa là Ông, Ngài hay Vua).

Năm 1244, vua Chiêm tổ chức nhiều đợt tấn công vào duyên hải Nghệ An và Thanh Hóa, chiếm đóng Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh.

Tại Đại Việt, sau khi ổn định triều chính, năm 1252 Trần Thái Tôn dẫn đại quân đi đánh Chiêm Thành. Cuộc tiến công kéo dài gần một năm, thành Vijaya thất thủ, vương phi Bố Gia La cùng nhiều cung phi, tù binh và quan chức triều đình Chăm bị bắt mang về Đại Việt. Jaya Paramesvaravarman II bị tử trận năm 1254, em là hoàng tử Sakan Vijaya lên thay, hiệu Jaya Indravarman VI.

Jaya Indravarman VI duy trì giao hảo với Đại Việt, triều cống đều đặn. Năm 1257, nhà Trần rút quân về nước, lúc đó đang bị quân Nguyên (Mông Cổ) đe dọa.

Năm 1257, Jaya Indravarman VI bị ám sát, hoàng tử Pulyan Sri Yuvaraja, con người chị (công chúa Suryadevi) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman VI. Năm 1266, hoàng tử Chay Nuk, con Jaya Paramesvaravarman II, lên kế vị, hiệu Indravarman V.

Indravarman V tiếp tục giao hảo tốt với Đại Việt. Năm 1278, Indravarman V sai hai sứ giả (Bồ Tinh và Bồ Đột) sang Đại Việt xin bảo hộ và thành lập một liên minh chống lại quân Mông Cổ.

Hay tin này, năm 1281, vua Nguyên (Hốt Tất Liệt) cử hữu thống chế Toa Đô (Sogatu) và tả thống chế Lưu Thâm cùng tham chính A Lý và Ô Mã Nhi mang 10 vạn thủy binh từ Quảng Châu sang Chiêm Thành buộc Indravarman V phải đích thân về Trung Nguyên triều cống. Không chống nổi quân Mông Cổ, Indravarman V chịu đặt Chiêm Thành dưới sự bảo hộ của nhà Nguyên năm 1282. Toa Đô được nhà Nguyên phong làm thống đốc toàn quyền cai trị xứ Chiêm Thành, tiểu vương Chăm nào chịu theo quân Nguyên đều được phong làm phó vương.

Hoàng tử Harijit Po Devada Svor (hay Po Depitathor), con Indravarman V, cùng mẹ là hoàng hậu Gaurendraksmi, không chấp nhận sự đô hộ của Mông Cổ rút vào rừng, tổ chức kháng chiến. Harijit mộ được khoảng 20.000 người, gồm đủ mọi các sắc tộc Thượng sinh sống trên cao nguyên Ya Heou, phía tây bắc Chiêm Thành, tấn công quân Nguyên trên khắp lãnh thổ Bắc Chiêm Thành. Năm 1283, Toa Đô dẫn đầu một đoàn quân gồm 5.000 người, 100 tàu và 250 thuyền đi dọc theo bờ biển và các con sông lớn đổ bộ lên Tây Nguyên nhưng bị đánh bại. Quân Mông Cổ - một phần bị bệnh tật, không chịu đựng nổi khí hậu nóng nực của miền nhiệt đới, một phần vì đói kém, thiếu tiếp liệu từ lục địa - phải rút về trấn giữ đồng bằng.

Tháng 4 năm 1285, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi mang hải đội từ Chiêm Thành, trong đó có đội thủy binh người Chăm, tiến lên ra Bắc hợp với Thoát Hoan vây thành Thăng Long, kinh đô của Đại Việt. Quân của Thoát Hoan bị quân Trần đánh bại phải rút về nội địa, quân của Toa Đô bị đánh tan tại Nghệ An. Toa Đô bị chết tại trận, quân Trần bắt được rất nhiều tù binh Mông Cổ và Chăm, trong đó có hai tướng Chăm tên Lậu Khê và Na Liên, bị trả về cho vua Chiêm Thành xử tội. Những binh lính Chăm khác theo Mông Cổ, không dám về lại quê cũ, theo quân Nguyên về Hoa lục và được cho định cư trên đảo Hải Nàm, bờ biển nam Quảng Châu, nơi đã có nhiều người Chăm khác đến lập nghiệp từ năm 992 dưới thời Lưu Kỳ Tông. Những binh lính Chăm này, đa số theo đạo Hồi, đã lập gia đình với người địa phương và ở lại lập nghiệp. Đây là đợt di dân thứ hai của người Champa ra hải ngoại.

Năm 1288 Indravarman V mất, hoàng tử Harijit lên ngôi, hiệu Jaya Sinhavarman III (Chế Mân), đặt kinh đô tại Vijaya. Mặc dù không triều cống nhà Trần, bang giao giữa Đại Việt và Chiêm Thành rất là thắm thiết. Chỉ một thời gian ngắn sau Chiêm Thành hùng mạnh trở lại, các vương quốc lân bang, trong có Đại Việt cử người sang thông hiếu đều đặn. Nhiều đền đài được xây cất cả tại đồng bằng lẫn trên cao nguyên. Chế Mân cho xây một tháp trên đồi Chok Hala, gọi là đồi Trầu, để dân chúng đến tế lễ, sau này là tháp Po Klong Garai (Tháp Chàm Phan Rang).

Năm 1292 và 1293, trên đường tiến đánh Java (Indonesia) và Madjapahit (Mã Lai) quân Mông Cổ xin vào bờ mua tiếp liệu nhưng bị Chế Mân từ chối, phải giương buồm đi tiếp. Cũng nên biết Chế Mân có rất nhiều quan hệ tình cảm với các tiểu vương Nam Đảo. Vợ cả của Chế Mân là vương phi Bhaskaradevi, con một đại vương Java ; thứ phi là hoàng hậu Tapasi, con gái một tiểu vương Yavadvipa (Mã Lai).

Lãnh thổ Chiêm Thành trong thời kỳ này được nới rộng lên cao nguyên Darlac và Langbian, Chế Mân cho xây một đền thờ tại Yang Prong (An Khê) để đón nhận phẩm vật triều cống của những bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên.

Năm 1301, cựu hoàng Đại Việt là Trần Nhân Tôn, sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tôn, đi thăm các nước láng giềng. Khi thăm Chiêm Thành, Trần Nhân Tôn được Chế Mân tiếp đãi nồng hậu và đã ở lại đây 9 tháng. Để tạ ơn, khi ra về cựu vương hứa gả công chúa Huyền Trân (em gái Trần Anh Tôn) cho Chế Mân. Cuối năm 1301, Chế Mân sai Chế Bồ Đày mang lễ vật sang cưới Huyền Trân. Triều đình nhà Trần có nhiều người không thuận, cuộc thương thảo kéo dài từ 1302 đến 1305 ; sau cùng, mùa hè năm 1306, Chế Mân thuận tặng cho nhà Trần hai châu Ô và châu Rí (châu Lý), phía bắc đèo Hải Vân, để làm quà cưới, nhà Trần mới chịu và sai Đoàn Nhữ Hài đưa Huyền Trân về Chiêm Thành. Tại đây, Huyền Trân được Chế Mân đặt tên là hoàng hậu Paramesvari.

Châu Ô và châu Rí là đề tài tranh chấp giữa Đại Việt và Chiêm Thành trong thời gian sau đó. Năm 1307, Trần Anh Tôn đặt tên lại hai châu mới này thành Thuận châu (Quảng Trị) và Hóa châu (Thừa Thiên và một phần Quảng Nam ngày nay), rồi giao cho Đoàn Nhữ Hài cai quản. Châu Thuận gồm các huyện Đăng Xương (nay là Triệu Phong), Hải Lăng, Phong Điền, Quảng Điền và Hương Trà. Châu Hóa gồm các huyện Phú Vang, Phú Lộc, Diên Phước và Hòa Vang. Người Chăm sống trong các làng La thỉ, Tác Hồng và Đà Bồng nổi lên chống sự cai trị của người Việt. Để trấn an dân Chăm, Đoàn Nhữ Hài chấp nhận để người Chăm chịu sự quản trị trưc tiếp của các nhân sĩ Chăm địa phương và cho miễn thuế ba năm.

Về chủ quyền, nông dân Việt đã đến lập nghiệp và khai phá hai châu này từ lâu, nhất là trong thời gian có chiến tranh với Mông Cổ. Thật ra sự sát nhập này, trên bình diện nào đó, chỉ là sự hợp thức hóa một sự kiện đã rồi, vì quan hệ cộng sinh giữa hai chủng tộc đã diễn ra từ lâu đời. Những cuộc hôn nhân dị chủng chắc chắn không phải là những trường hợp ngoại lệ, với thời gian dân cư Việt có lẽ đã đông hơn dân cư Chăm tại đây.

Nguyễn Văn Huy

(2002)

Đọc thêm :

Người Chăm 1 - Tìm lại anh em, nhận lại bạn bè

Người Chăm 2 - Thời kỳ xác định bản thể 

Người Chăm 3 - Thời kỳ mở nước và dựng nước 

Người Chăm 4 - Thời vàng son

Người Chăm 5 - Thời kỳ xung đột

Người Chăm 6 - Bùng lên trước khi tàn lụi

Người Chăm 7 - Cố gắng tồn tại trong khó khăn

Người Chăm 8 - Cộng đồng người Chăm tại Campuchia

 

Published in Tư liệu
vendredi, 01 septembre 2017 05:55

Người Chăm 4 - Thời vàng son

Người Chăm tại Việt Nam

Bài 4

Thời vàng son

Sau thời kỳ dựng nước và mở nước khó khăn, dưới thời Bradravarman I (Phạm Hồ Đạt) - người sáng lập triều đại Gangaraja phía Bắc, từ thế kỷ thứ 4 vương quốc Lâm Ấp đã trở thành một thế lực chính trị đáng kể trong vùng.

Là một kết hợp của nhiều tiểu vương quốc khác nhau, lãnh thổ phía Bắc giáp ranh với quận Cửu Chân, lãnh thổ phía Nam trải dài đến mũi Kê Gà (Varella, Phan Thiết). Hào quang của Lâm Ấp chiếu sáng vùng trời Đông Nam Á, các quốc gia láng giềng đều tìm đến để làm thân.

cham14

Sơ đồ các tiểu vương quốc trên lãnh thổ Champa cổ

Cho đến nay không ai biết hai miền Nam Bắc đã thống nhất như thế nào, nhưng từ thế kỷ 5 trở về sau thông thương giữa hai miền trở nên liên tục và ồ ạt, lượng người và hàng hóa di chuyển từ miền Nam lên miền Bắc thay đổi dần dần cán cân quyền lực.

Người Chăm phía Bắc, vì thường xuyên đối phó với các thế lực thù địch, trở nên thiện chiến. Khi mộ quân hay trên đường chạy nạn, vì bị quân Trung Hoa truy đuổi, người Chăm phía Bắc khuất phục luôn những tiểu vương quốc khác đã có mặt dọc bờ biển miền Trung từ lâu đời, quen sống trong hòa bình và an lạc.

Với thời gian, vương quyền miền Bắc suy yếu dần, vì dồn hết tài nguyên nhân vật lực cho chiến tranh, vai trò lãnh đạo nhường lại cho các vương triều phía Nam giàu có và hùng mạnh hơn.

Triều vương thứ năm (758-854) : vương triều Panduranga hay Hoàn Vương Quốc

Năm 757, môt tiểu vương phía Nam nổi lên hạ bệ Bhadravarman II - nhà vua trẻ vừa lên ngôi - rồi tự xưng vương, hiệu Prithi Indravarman, chấm dứt dòng Gangaraja phía Bắc.

Theo bia ký đọc được, Prithi Indravarman là người đã thống nhất lãnh thổ Champa một cách chính danh nhất, vì được triều thần công nhận là "người thống lãnh toàn bộ đất nước như Indra, thần của các vị thần".

Tuy đất nước đã được thống nhất, lãnh thổ này vẫn chưa có tên. Khi sang Trung Hoa triều cống, không biết sứ thần của Prithi Indravarman đã giải thích như thế nào mà sử liệu cổ Trung Hoa đặt tên lãnh thổ mới của người Chăm trong thời kỳ này là Hoàn Vương Quốc, "vương quyền trở về quê cũ". Để xác minh điều này, việc làm đầu tiên của Prithi Indravarman là dời kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử hay Trà Kiệu, Quảng Nam) về Virapura (thành phố Hùng Tráng, nay là thôn Palai Bachong, xã Hòa Trinh, huyện An Phước - cách Sài Gòn 310 cây số về phía Bắc trên quốc lộ 1, tỉnh Ninh Thuận).

Dưới thời Prithi Indravarman, văn minh và văn hóa Ấn Độ từ phía Nam đưa lên lấn át toàn bộ sinh hoạt của người Chăm phía Bắc : chữ Phạn được phổ biến rộng rãi trong giới vương quyền và các nơi thờ phượng ; đạo Bà La Môn (Brahmanism) được đông đảo người theo ; đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada) phát triển mạnh trong chốn dân gian ; đền đài, dinh thự và chùa tháp được xây dựng lên khắp nơi, nhiều nhất là tại Khu Lật (Huế), Amavarati (Mỹ Sơn), Sinhapura (Trà Kiệu)… để tạ ơn thần linh. Tuy vậy nguyên tắc tự trị của các tiểu vương quốc phía Bắc vẫn được tôn trọng, vì không thấy di ảnh hay hình tượng nữ thần Bhagavati - vị thần bảo hộ Panduranga được Prithi Indravarman chọn làm "Bà Mẹ xứ sở" để dân chúng thờ phượng – trong các di tích khảo cổ trên lãnh thổ Chiêm Thành phía Bắc.

cham13

Phù điêu nữ thần Bhagavati hay "Bà Mẹ xứ sở" được dựng trong tháp Po Nagar (Tháp Chàm ngày nay)

Về "Bà Mẹ xứ sở", ngôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương Jagadharma (646-653) được Prithi Indravarman cho xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aya Tră (Nha Trang), trên một ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần Bhagavati (bằng vàng). Tháp này về sau được biết dưới tên Po Nagar, hay Tháp Bà.

Truyền thuyết Chăm cho rằng Hoàn Vương Quốc trước kia do nữ vương Po Nagar cai trị trong suốt 200 năm, từ 758 đến 958. Thời gian trị vì lâu dài này là thời gian mà vương triều Panduranga thịnh hành.

Nữ vương Po Nagar - còn gọi là Yan Pu Nagara, Po Ino Nagar hay Bà Đen (nguời Việt Nam gọi là Thánh Mẫu Thiên Y Ana) - là vị nữ thần được tạo nên bởi áng mây trời và bọt biển, người tạo dựng ra quả đất, sản sinh gỗ quí, cây cối và lúa gạo. Bà có 97 phu quân, trong đó chỉ một mình Po Yan Amo là người có uy quyền và được tôn trọng hơn cả. Bà có 38 người con gái, tất cả đều hóa thân thành nữ thần, trong đó có ba người được người Chăm chọn làm thần bảo vệ đất đai và còn thờ phượng cho tới ngày nay : Po Nagar Dara, nữ thần Kauthara (Khánh Hòa) ; Po Rarai Anaih, nữ thần Panduranga (Ninh Thuận) và Po Bia Tikuk, nữ thần Manthit (Phan Thiết).

Prithi Indravarman là một quân vương tài giỏi, đất nước thái bình và rất phồn vinh. Sự giàu có của Hoàn Vương Quốc hấp dẫn các vương quốc lân bang, đặc biệt là Srivijaya (Palembang), Malayu (Malaysia), Javadvipa (Java), Nagara Phatom (Thái Lan), Sriksetra (Miến Điện) và Angkor (Chân Lạp) ; họ đến để trao đổi hoặc chờ dịp cướp phá.

Năm 774, quân Nam Đảo từ ngoài khơi đổ bộ vào Kauthara và Panduranga, chiếm Virapura. Vua Prithi Indravarman đã chống trả lại mãnh liệt nhưng bị chết trong đám loạn quân (sau này được dân chúng tôn thờ dưới pháp danh Rudraloka). Một bia ký đọc được ở tháp Po Nagar ghi "những người đen đủi và gầy yếu từ miền xa đến, ăn những thức ăn khủng khiếp hơn xác chết, lại có tính hung ác. Bọn người này đi mành đến lấy cắp tượng linga của thần Sri Sambhu, đốt phá đền thờ [Po Nagar]". Sau cuộc tấn công này quân Nam Đảo cướp đi rất nhiều báu vật, trong đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng.

Ngay khi Prithi Indravarman vừa tử trận, một người cháu gọi ông bằng cậu tên Satyavarman được hoàng tộc tôn lên thay thế. Nhưng vừa lên ngôi, Satyavarman đã cùng hoàng tộc chạy lên miền Bắc (Bình Định) lánh nạn. Tại đây, nhà vua được cộng đồng người Chăm và người Thượng địa phương (Bahnar, Hré) giúp thành lập một đạo quân hùng mạnh tiến xuống Kauthara tấn công quân Nam Đảo. Trước uy lực của Satyavarman, quân Nam Đảo lên thuyền bỏ chạy ra khơi, tân vương dẫn hoàng gia về lại Virapura. Tại đây, nhà vua xây thêm một cung điện mới trong thành Krong Laa và không ngờ đã sáng chế ra một phong tục mới mà các đời vua sau bắt chước theo, đó là tục trồng cây Kraik, biểu tượng của hoàng gia, trước cung điện.

Đền Po Nagar, bị quân Nam Đảo phá hủy, được Satyavarman cho dựng lại bằng gạch, 10 năm sau (774-784) thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay. Năm 786, Satyavarman mất (được dân chúng thờ phượng dưới pháp danh Isvaraloka), em trai út của ông được hoàng tộc đưa lên ngôi, hiệu Indravarman I (786-801).

Hay tin Satyavarman từ trần, năm 787, quân Java từ ngoài khơi lại tràn vào Virapura cướp phá, sát hại rất nhiều binh sĩ và dân chúng, phá tháp Hòa Lai thờ thần Bhadradhipatisvara tại Virapura. Quân Nam Đảo chia ra làm hai nhóm, một nhóm bắt theo nhiều phụ nữ cùng báu vật chở về nước, một nhóm khác chiếm giữ Panduranga. Phải hơn mười năm vất vả Indravarman I mới đuổi được quân Nam Đảo ra khơi để khiến thiết lại xứ ở (năm 799).

Tại Virapura, nhà vua xây lại tháp Hòa Lai bằng ba tháp mới, gọi là Kalan Ba Tháp, thờ các thần Indrabhadresvara, Sankara và Narayana. Cũng vất vả lắm Indravarman I mới dẹp yên được một số giặc giã nổi lên từ khắp nơi, như tại Candra (phía bắc), Indra (đông-bắc), Agni (phía đông), Yama (đông-nam), quan trọng nhất là loạn Yakshas (phía nam). Yakshas là những bộ lạc Thượng cư ngụ trên lãnh thổ đế quốc Angkor chứ không phải là quân Khmer.

Đầu thế kỷ thứ 9, Indravarman I mất, em rể là hoàng thân Deva Rajadhiraja lên thay, hiệu Harivarman I, mở đầu một trang sử mới.

Trong hai năm đầu tân vương dồn mọi nổ lực xây dựng lại đất nước và phục hồi thế lực quân sự. Để nhận thêm sự ủng hộ của quần chúng, nhà vua sai tể tướng Senapati Pangro trùng tu lại tháp Po Nagar và xây thêm hai tháp mới cạnh tháp chính, một ở hướng nam và một ở hướng tây-bắc để dân chúng đến chiêm bái tượng nữ thần Bhagavati, được tạc lại bằng đá hoa cương.

Sau những cố gắng vượt bực, Hoàn Vương Quốc hưng thịnh trở lại, Harivarman I quyết định trả thù những quốc gia đã tấn công và cướp bóc đất nước của ông trước đó. Tháng 1 năm 803, quân Chăm tấn công châu Hoan (Tỷ Cảnh, nay là Thanh Hóa) và châu Ái (Hải Âm, nay là Nghệ Tĩnh), mang về rất nhiều phẩm vật. Với lượng lúa gạo mang về miền Bắc, thủy quân Hoàn Vương Quốc xuất dương trừng phạt vương quốc Kelantan ở Java và Patani ở Malaysia. Khi trở về, nhà vua cho người lên Tây Nguyên mộ thêm binh sĩ và được sự hưởng ứng nồng nhiệt của người thiểu số. Với đạo quân này, hai lần (năm 803 và 817), Harivarman I tiến vào cao nguyên Đồng Nai thượng, đánh bại quân Khmer và kiểm soát một vùng đất rộng lớn.

Để có thêm nguồn lương thực, năm 808, Harivarman I xua quân đánh chiếm châu Hoan và châu Ái lần nữa, nhưng bị thái thú Trương Châu đánh bại : 59 người trong hoàng tộc bị bắt sống, nhiều thớt voi, tàu chiến và quân trang quân dụng bị tịch thu, hơn 30.000 người bỏ xác tại trận.

Về con số ba vạn người bị chết này, tưởng cũng nên tương đối hóa nó vì thời đó người Hoa chưa phát minh ra số "không" (zéro) do đó cái gì nhiều quá, đếm không xuể đều được ghi là "vạn" ; con số ba vạn ở đây có thể do nhiều đơn vị khác nhau cùng báo cáo và cũng có thể được thổi phồng để được triều đình trung ương khen thưởng, vì qua năm sau, năm 809, Harivarman I tái chiếm châu Hoan và châu Ái một cách dễ dàng và mang về rất nhiều phẩm vật.

Không rõ Harivarman I mất năm nào nhưng con trai là tiểu vương (pulyan) đất Panduranga lên kế vị năm 817, hiệu Vikrantavarman III. Vì tân vương còn nhỏ tuổi, triều thần phong tể tướng Senapati Par, tiểu vương đất Manidhi (?), làm phụ chính. Viên tể tướng này đã tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Kambujas (Campuchia ngày nay), do vua Jayavarman II cai trị, phá nhiều thành trì khmer trên cao nguyên Đồng Nai thượng.

Để tạ ơn Bà Mẹ Xứ Sở, trong khuôn viên Po Nagar, Senapati Par cho xây thêm hai tháp mới về phía tây và tây-nam, thời gian sau xây thêm ba tháp khác : một tại khu trung tâm thờ Sri Shambu, một phía tây-bắc thờ Shandhaka và một phía nam thờ Ganesha. Mặc dù vậy, trung tâm chính trị và tôn giáo vẫn được duy trì tại Virapura, thủ phủ Panduranga.

Dưới thời Vikrantavarman III, Hoàn Vương Quốc trở nên giàu có, quân lực rất hùng mạnh. Một bia ký, tìm được tại tháp Po Nagar, mô tả Vikrantavarman III như sau :

"[Người] đeo những dây vàng có đính ngọc trai và ngọc bích, giống như mặt trăng tròn đầy đặn, che một chiếc lọng trắng bao phủ cả bốn phương trời bởi vì lọng còn sâu hơn cả đại dương, thân thể [Người] trang sức phủ kín bởi vương miện, đai, vòng, hoa tai, những tràng hồng ngọc... bằng vàng, từ đó phát ra ánh sáng giống như những cây leo [sáng lấp lánh]".

Thư tịch cổ Trung Hoa (Cựu Đường thư) mô tả thêm : "[Vua] mặc áo cổ bối bạch diệp... trên đeo thêm trân châu, dây chuyền vàng làm thành chuỗi...". Đẳng cấp quí tộc và phụ nữ cung đình cũng đeo trang sức quí : "Phu nhân mặc vải cổ bối triệu hà... mình trang sức dây chuyền vàng, chuỗi ngọc trai". "[...] Quân đội được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau...".

Với thời gian, Hoàn Vương Quốc trở thành nạn nhân của sự giàu có của mình, các thế lực lân bang liên tục tràn váo cướp phá. Trong suốt hơn 20 năm, từ 854 đến 875, quân của đế quốc Angkor đã nhiều lần tiến đánh Hoàn Vương Quốc, chiếm nhiều vùng đất rộng lớn dọc tả ngạn sông Đồng Nai, đôi khi còn băng cao nguyên Langbian đột nhập vào lãnh thổ Panduranga cướp phá.

Vikrantavarman III mất năm 854 (được thờ dưới pháp danh Vikrantasvara), không người kế tự, nội bộ triều đình xảy ra tranh chấp.

Triều vương thứ sáu (859-991) : vương triều Indrapura hay Chiêm Thành

Sống mãi trong xa hoa, triều vương Panduranga trở nên yếu đuối. Sau hơn 20 năm chinh chiến với đế quốc Angkor, quyền hành trong nước lọt dần vào tay các dòng vương tôn miền Bắc, chính họ đã chống trả lại các đợt xâm lăng của đế quốc Angkor.

Năm 859, một vương tôn mang nhiều chiến công, tên Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin, được triều thần đưa lên ngôi, hiệu Indravarman II.

Mặc dù là truyền nhân đích tôn của các đời vua trước (ông nội là Rudravarman II, cha là Bhadravarman II), Indravarman II lên ngôi do "dày công tu luyện, do sức mạnh của trí tuệ trong sáng", vì Indra là thần trên các vị thần. Sau khi qua đời ông được dân chúng thờ dưới tên Paramabuddhaloka.

Dưới thời Indravarman II, trung tâm quyền lực chính trị và tôn giáo được dời lên phía Bắc tại Indrapura - thành phố Sấm Sét (nay là Đồng Dương, cách Đà Nẵng hơn 50km về phía nam) trên bờ sông Ly Ly (một nhánh sông Thu Bồn, cách thánh địa Trà Kiệu 15 cây số). Vị trí của Indrapura rất thuận lợi trong việc phòng thủ chống lại những cuộc tiến công của quân Khmer và quân Nam Đảo.

Phật giáo Đại Thừa cũng phát triển mạnh trong giai đoạn này, nhiều nhà sư Trung Hoa được phép đến Indrapura truyền đạo, xây chùa chiền và thu nạp giáo đồ, nhưng không mấy thịnh hành. Indravarman II là người đã dung hòa được hai tôn giáo lớn nhất thời đó (Bà La Môn và Phật giáo) trong dân gian và xã hội : nhiều Phật viện (Vihara), Phật đường, tu viện, đền thờ được xây dựng khắp nơi lãnh thổ, một bảo tháp dài 1.330m tên Laksmindra Lokesvara được xây dựng cạnh đền thờ Bà La Môn (một tượng Buddha thời này, cao 1,14m, được tìm thấy tại Đồng Dương năm 1978).

Đẳng cấp tu sĩ (Brahman) rất được trọng vọng, đạo Bà La Môn rất thịnh hành. Indravarman II rất tự hào vì các đại thần dưới quyền đều là những người Brahman và Ksatriya, và chính nhà vua cũng là một Brahman.

Quốc hiệu Campapura (đất nước của người Chăm, theo tiếng Phạn cổ) được Indravarman II chính thức sử dụng khi tôn vinh đất nước mình. Sử sách Trung Hoa phiên âm là Chang Cheng (phiên âm từ chữ Campapura hay Campa mà ra), tiếng Việt là Chiêm Thành, tiếng phương Tây là Champa.

Trong thực tế, Campa là tên của một cây có hoa màu trắng, nhụy vàng, hương rất thơm. Tiếng Việt gọi là hoa đại hay bông sứ. Loài hoa này được trồng quanh cung điện của các vua Chăm và đền thờ của người Chăm ; sau này được trồng tại nhiều nơi thờ tự của các tôn giáo khác ở miền Trung và các gia trang có sân vườn rộng. Mỗi dịp lễ lạc người Chăm thường hái bông sứ dâng lên bàn thờ, mùi hương tỏa ngát không gian của đền thờ.

Campa cũng là tên một địa danh miền bắc Ấn Độ, trên con sông Hasdo, tỉnh Madhya Pradesh, gần thành phố Bhagalpur (Bilaspur). Thời đó, vì mến mộ văn minh và văn hóa Ấn Độ, các vị lãnh đạo Champa thường đặt tên triều vương, lãnh thổ và thành phố của mình theo tên các địa danh đã có tại Ấn Độ.

Chiêm Thành dưới thời Indravarman II rất là hùng mạnh, hai miền Nam-Bắc đã được thống nhất trong hòa bình. Trong những năm 861, 862 và 865, quân Chiêm Thành tổ chức nhiều cuộc tấn công vào phủ An Nam, mang về rất nhiều lương thực và của cải. Năm 889 vua Angkor là Yasovarman hai lần tiến quân vào Chiêm Thành nhưng đều bị đánh bại và chết trong rừng sâu (năm 890), một phần đất trên Đồng Nai thượng và lãnh thổ đông-bắc Angkor (cao nguyên Rattanakiri và Mondolkiri) đặt dưới quyền kiểm soát của Chiêm Thành.

Năm 890 Indravarman II mất, cháu là hoàng thân Jaya Sinhavarmadeva Campapura Paramesvara kế vị, hiệu Jaya Sinhavarman I. Tân vương được nhiều danh tướng Ajna Jayendrapati, Ajna Narendranpavitra, Sivacarya, Po Klun Pilih Rajadvara… tận tình giúp đỡ. Nhà vua tiếp tục cho xây thêm nhiều đền đài tráng lệ, tu viện Phật giáo quanh thánh địa Đồng Dương. Tượng nữ thần Bhagavati được cho đúc lại bằng vàng thờ trong chính điện tháp Yan Po Nagara.

Uy quyền của vương triều Indrapura nới rộng lên đến Tây Nguyên. Cao nguyên Darlac-Kontum do một tiểu vương người Thượng, tên Mahindravarman, cai trị. Nhiều đền đài Chăm được xây cất trong thung lũng sông Bla gần Kontum (đền Kon Kor được xây cất năm 914 thờ thần Mahindra Lokesvara).

Jaya Sinhavarman I mất năm 898, con là Jaya Saktivarman lên thay (899-901). Những vị vua tiếp theo - Bhadravarman II (901-918) và con là Indravarman III (918-959) - tiếp tục sự nghiệp của cha ông trong lãnh vực tôn giáo : đạo Bà La Môn trở thành quốc giáo.

Qua trung gian những gia đình hoàng tộc gốc Nam Đảo - Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqid Amr Ali - trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java, được tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận vào tị nạn, đạo Hồi chính thức được phổ biến trong chốn hoàng gia. Với thời gian, đạo Hồi được đông đảo quần chúng bình dân tin theo. Nhân cơ hội, những gia đình quí tộc tị nạn này truyền bá luôn văn minh và văn hóa Nam Đảo, đặc biệt là lối kiến trúc và cách điêu khắc, cho nghệ nhân Chăm. Vào thời này, người Chăm đã nắm vững kỹ thuật đi biển, biết buôn bán và giao hảo tốt với các quốc gia lân bang : Trung Hoa và Java.

Vừa lo ngại vừa ganh tị sức mạnh và sự giàu có của Chiêm Thành, năm 945 vua Khmer là Rajendravarman II cùng binh sĩ băng rừng từ Angkor vào Kauthara, cướp tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng - vị thần bảo vệ xứ sở và là biểu tượng uy quyền của Chiêm Thành - trong tháp Yan Po Nagara mang về nước ; từ sau ngày đó, vương triều Indravarman III suy yếu hẳn.

Dưới thời Indravarman III, biến cố quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn vong của vương quốc Chiêm Thành là sự hình thành một vương quốc độc lập phía Bắc : nước Đại Cồ Việt, nhưng chỉ thực sự để lại hậu quả qua các triều vua sau. Năm 959, Indravarman III từ trần, con là Jaya Indravarman I lên thay năm 960.

Việc làm đầu tiên của tân vương là cho tạc lại tượng nữ thần Bhagavati bằng đá hoa cương để dân chúng đến thờ, năm 965 mới xong. Năm 972, Jaya Indravarman Iraq từ trần, con là Phê Mi Thuế, Paramesvaravarman I (972-982), lên thay.

Sinh hoạt chính trị của Chiêm Thành trong giai đoạn này rất là hỗn độn. Năm 978, một người tên Kinan Tache mang phẩm vật sang Trung Hoa triều cống để được phong làm vua Chiêm Thành nhưng không được nhà Tống nhìn nhận. Trong lúc đó, lợi dụng tình trạng loạn lạc tại Đại Cồ Việt (loạn thập nhị sứ quân, từ 944 đến 972), quân Chiêm Thành nhiều lần tiến lên đánh phá những quận huyện ở phía nam, gây nhiều thiệt hại nhân mạng và tài sản cho Đại Cồ Việt.

Năm 979, hay tin Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Ngô Nhật Khánh, một sứ quân Đại Cồ Việt, thuyết phục vua Paramesvaravarman I, dẫn hơn một ngàn chiến thuyền từ Chiêm Thành vào chiếm Hoa Lư, nhưng không thành. Ngô Nhật Khánh bị giết, quân Chăm phải rút về.

Tình hình chính trị của Đại Cồ Việt trong giai đoạn này cũng không lấy gì làm sáng sủa : triều đình không có vua, Hạng Lang tức Đinh Vệ Vương còn quá nhỏ (6 tuổi), mẹ là thái hậu Dương Vân Nga không thể một mình đảm đương việc nước vì phía Bắc quân Tống lăm le tiến xuống, phía Nam quân Chiêm sẵn sàng tiến lên. Năm 980, Dương Vân Nga nhường cho Lê Hoàn làm vua Đại Cồ Việt, hiệu Lê Đại Hành hoàng đế. Tân vương sai sứ sang Trung Hoa báo tin, dâng vài tù binh Chiêm vừa bắt được làm quà biếu. Vua Tống nhận tặng phẩm nhưng lại muốn duy trì ảnh hưởng tốt với Chiêm Thành, sai thống đốc Quảng Châu cho những tù binh Chiêm ăn uống rồi thả về nước.

Bực mình trước tin này, Lê Đại Hành sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chiêm Thành yêu cầu vua Chiêm sang bái kiến. Paramesvaravarman I, sau khi nhận lại tù binh từ nhà Tống và tin chắc sẽ được Bắc triều bênh vực nếu bị Lê Đại Hành tấn công, đã không những không sang bái kiến mà còn bắt giam sứ giả. Lê Đại Hành rất giận nhưng chưa có phản ứng.

Sau khi đánh đuổi quân Tống ra khỏi lãnh thổ phía Bắc cuối năm 980, Lê Đại Hành củng cố lại lực lượng chuẩn bị tấn công Chiêm Thành. Đầu năm 982, nhà vua dẫn đại quân tiến vào Indrapura. Đây là cuộc Nam chinh đầu tiên của người Việt. Paramesvaravarman I tử trận ngay tại cửa thành, chấm dứt triều đại Indrapura.

Lê Đại Hành tiến vào kinh đô Indrapura (Đồng Dương), giết tướng giữ thành Tỳ My Thuế, bắt sống hàng trăm vũ nữ trong hậu cung, tịch thu rất nhiều báu vật mang về nước. Bên ngoài binh lính Việt đốt phá thành trì, san phẳng lăng tẩm các vị vua Chiêm, bắt theo hàng ngàn tù binh, trong đó một nhà sư Ấn Độ tên Thiền Trước Tăng (bhiksu). Lãnh thổ Bắc Chiêm Thành (Bình Trị Thiên) bị chiếm đóng từ 982 đến 983.

Sau chiến thắng này, văn hóa và nghệ thuật (nhất là âm nhạc) Chiêm Thành chính thức được du nhập vào đời sống cung đình và dân gian Việt. Đền đài, dinh thự tại Hoa Lư được trang trí bằng những chiến lợi phẩm do các thợ Chiêm Thành chạm trổ và sản xuất ra.

Indravarman IV (Xá Lợi Đà Ngô Nhựt Hoàn), được tôn lên làm vua khi Paramesvaravarman I vừa tử trận, chạy vào Panduranga lánh nạn và chịu triều cống nhà Lê mới được yên. Năm 985, Nhựt Hoàn sai pháp sư Kinkoma sang Trung Hoa xin nhà Tống cứu viện nhưng được khuyên là nên duy trì quan hệ tốt với Đại Cồ Việt.

Tranh cãi về quyền lãnh đạo lãnh thổ Bắc Chiêm Thành đã khá gay gắt trong nội bộ triều Lê cũng, người thì đề nghị cai trị trực tiếp, người thì khuyên tản quyền. Cuối cùng một giải pháp trung gian được áp dụng : nơi nào còn đông đảo người Chăm cư ngụ thì giao cho người địa phương quản lý, nơi nào đông dân cư gốc Kinh sinh sống thì triều đình Đại Cồ Việt đặt quan cai trị trực tiếp. Sự kiện này chứng tỏ sự cộng cư giữa các nhóm cư dân địa phương sau khi Lâm Ấp giành được độc lập vẫn còn khắng khít, nhưng từ khi người Kinh bắt đầu cai trị trực tiếp lãnh thổ Bắc Chiêm Thành chống đối bắt đầu xảy ra.

Năm 983, một quản giáp (trưởng làng) người Kinh sinh sống trên lãnh thổ Bắc Chiêm Thành tên Lưu Kỳ Tông nổi lên chém đầu một người con nuôi của Lê Đại Hành, lúc đó là một quan cai trị trực tiếp, rồi xây thêm thành lũy quanh Phật Thành (Fo Che) phòng thủ lãnh thổ Bắc Chiêm Thành, mộ hơn 10.000 người và nhiều voi ngựa đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành tiến quân xuống đánh nhưng cuộc chiến đã không xảy ra, vì sau khi vượt núi Đông Cổ và sông Bà Hòa (Thanh Hóa), đại quân của nhà Tiền Lê chịu không nổi sương lam chướng khí phải rút về.

Năm 986, hay tin vua Indravartman IV (Ngô Nhựt Hoàn) của người Chăm từ trần, Lưu Kỳ Tông liền tự xưng vương và xin nhà Tống thừa nhận. Sự tiếm quyền này xúc phạm đến tín ngưỡng của người Chăm vì Lưu Kỳ Tông không xuất thân từ vương tộc hay đẳng cấp tôn giáo nào, và là một đe dọa cho cộng đồng người Hoa địa phương. Một người Chăm gốc Hoa tên Poulo Ngo dẫn theo khoảng 150 người đổ bộ lên đảo Hải Nàm và vùng duyên hải nam Quảng Châu tị nạn. Năm 988, thêm 300 người khác do Ho Siuan dẫn đầu đổ bộ lên bờ biển Quảng Châu. Người Chăm gốc Nam Đảo còn lại theo Bằng Vương La (Cu-thì-lợi Hà-thanh-bài Ma-la), một người Champa sinh sống tại Phật Thành, kháng chiến chống Lưu Kỳ Tông.

Nguyễn Văn Huy

(2002)

Đọc thêm :

Người Chăm 1 - Tìm lại anh em, nhận lại bạn bè

Người Chăm 2 - Thời kỳ xác định bản thể 

Người Chăm 3 - Thời kỳ mở nước và dựng nước 

Người Chăm 4 - Thời vàng son

Người Chăm 5 - Thời kỳ xung đột

Người Chăm 6 - Bùng lên trước khi tàn lụi

Người Chăm 7 - Cố gắng tồn tại trong khó khăn

Người Chăm 8 - Cộng đồng người Chăm tại Campuchia

Người Chăm 9 - Thư tịch về người Chăm và người Thượng ở Việt Nam

Published in Tư liệu

Người Chăm tại Việt Nam

Bài 3

Thời kỳ mở nước và dựng nước

Từ sau nửa thế kỷ thứ hai sau công nguyên, phần lãnh thổ cực nam Giao Chỉ trở nên khó trị, dân cư bản địa liên tục nổi lên chống lại chính sách cai trị hà khắc của chính quyền đô hộ nhà Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành nơi tranh chấp thường trực giữa quan quân đô hộ và nhân dân địa phương.

Năm 190, người Tượng Lâm nổi lên giết thứ sử Chu Phù và chiếm huyện thành. Vài năm sau, năm 192, dân cư Tượng Lâm lại nổi lên giết huyện lệnh (huyện trưởng) và tôn Khu Liên, con một quan công tào (xã trưởng) địa phương, lên làm vua. Khu Liên tự tiện xén một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam - huyện Tượng Lâm – thành lập một vương quốc riêng : Lâm Ấp.

 

Lâm Ấp : một biến cố lịch sử

Cho đến nay gần như không một sử gia Việt Nam nào quan tâm đến biến cố Lâm Ấp. Có lẽ nhiều người cho rằng Lâm Ấp không quan trọng vì không dính líu gì, nếu không muốn nói là thù địch, với người Việt Nam. Tất cả đều rất lầm. Cuộc nổi dậy của người Lâm Ấp là của chính dân tộc Việt Nam, người Việt cổ, vào thời đó. Lâm Ấp là một biến cố lịch sử trọng đại, mở đầu giai đoạn đấu tranh giành độc lập của những dân tộc bị đặt dưới ách đô hộ của người Hán.

cham7

Lãnh thổ Lâm Ấp (dưới đèo Hải Vân) thời nhà Lý (thế kỷ 11) - Nguồn : nghiencuulichsu.com

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, một lãnh thổ đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của thiên triều đã tự tách ra và tuyên bố độc lập. Sự kiện này trái với nguyên tắc tổ chức tập quyền của người Hoa, vì từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên trở đi, dưới thời nhà Hán, nguyên tắc trung ương tập quyền đã là nền tảng của các chính sách cai trị của người Trung Hoa, do đó không có ngoại lệ.

Giao Chỉ thời đó là một phần lãnh thổ Trung Hoa, các quan cai trị đều do thiên triều trực tiếp chỉ định, mọi ý đồ ly khai hay tự trị đều bị trừng trị. Mục đích của chính sách trung ương tập quyền này là giữ gìn và bảo vệ sự toàn vẹn giống nòi, người Hán không chấp nhận bất cứ một pha trộn chủng tộc nào ngoài chủng tộc Hán với nhau.

Một lấn cấn khó chịu là trong suốt thời Bắc thuộc, đại bộ phận giới "quí tộc" Lạc Việt (Lạc hầu và Lạc tướng), và người Kinh - bị khuất phục bởi văn minh và văn hóa do người Hán mang lại - đã hợp tác với người Hán trong việc quản trị đất nước, đương nhiên ở những địa vị thấp hơn. Những cuộc nổi dậy chống lại chính sách cai trị hà khắc và muốn tách khỏi văn minh và văn hóa của người Hán, phần lớn đều do người Mường (hai Bà Trưng năm 42 và bà Triệu năm 248) và người Nam Đảo (Mai Thúc Loan năm 722) khởi xướng.

Những cuộc nổi dậy của người Kinh - Lý Bí, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử (thế kỷ 6 và 7), Phùng Hưng và Dương Thanh (thế kỷ 8), Khúc Thừa Mỹ và Dương Đình Nghệ (thế kỷ 10) - đều xuất phát từ động cơ bất mãn của những người cộng tác không được ưu đãi hơn là ý chí giành độc lập hay muốn tách khỏi ảnh hưởng của người Hoa. Chỉ đến thời Ngô Quyền ý chí độc lập của người Việt mới rõ ràng nhưng người Kinh lại xem người Chăm là đối thủ, nên đã không ngừng phân biệt đối xử vì văn hóa khác biệt và uy hiếp họ trong suốt thời kỳ tự chủ, quên hẳn quá khứ ruột thịt đã qua.

Trở về với Lâm Ấp, sau khi thành lập vương quốc riêng có lẽ Khu Liên không có ý định tách rời ảnh hưởng văn minh và văn hóa Trung Hoa, nhưng với thời gian quyết tâm tách khỏi quỹ đạo Trung Hoa ngày càng rõ nét. Sở dĩ có sự đoạn tuyệt này là vì tổ chức chính trị xã hội của người Hoa không còn phù hợp với nền tảng chính trị xã hội Lâm Ấp nữa.

Vào thời kỳ này, thương nhân và tu sĩ Ấn Độ đã giao tiếp mật thiết với người Chăm sinh sống ven biển miền Trung. Khi ở lại chờ thuận buồm xuôi gió trở về quê cũ, những người Ấn này đã truyền cho giới quí tộc địa phương văn minh và văn hóa của họ, và đương nhiên truyền luôn cả cách thức tổ chức xã hội. Khác với người Hoa, tổ chức xã hội của người Ấn dựa trên nguyên tắc tản quyền và phân quyền, phù hợp với nếp sống và ước nguyện tự trị của người địa phương nên rất được ưa chuộng. Đặc điểm của người Ấn là không dùng bạo lực để áp đặt văn hóa hay uy quyền chính trị của mình trên những xã hội khác, kém hơn, mà để các thân hào địa phương tự nguyện làm thay, sau khi hấp thụ văn minh và văn hóa của họ.

Tranh chấp văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ trong nội bộ Lâm Ấp ngã ngũ sau khi Khu Liên qua đời, chữ Phạn cổ (sanscrit, một loại chữ viết xuất phát từ miền nam Ấn Độ cách đây hơn 2.000 năm) trở thành chữ viết chính thức của các triều vương Lâm Ấp. Các bia ký tìm được trong giai đoạn này đều khắc bằng chữ Phạn. Quốc thư trao đổi của Lâm Ấp với Trung Hoa thời đó được viết bằng chữ "Hồ" (chữ của nước Hồ Tôn Tinh, tức chữ Phạn) thay vì chữ Hán. Văn hóa Ấn Độ, từ phía Nam đưa lên, trở thành văn hóa của toàn vương quốc Lâm Ấp. Đạo Bà La Môn và đạo Phật được phổ biến rộng rãi trong quần chúng, lấn át ảnh hưởng đạo Khổng và đạo Lão của văn hóa Trung Hoa để lại trong vương quốc. Cũng nên biết thờ cúng ông bà là tín ngưỡng dân gian của người bản địa, Kinh hay Chăm, do đó rất được kính trọng, giáo lý và nghi lễ các tôn giáo khác phải thích hợp theo nếu muốn được ủng hộ.

Về chính trị, các vị vua Lâm Ấp đều gán ghép tên mình với một thần linh, thường là với Siva (còn gọi là Isvara) để có độc quyền cai trị. Uy quyền vua thể hiện qua cái lọng màu trắng mà dân gian không được dùng. Phụ tá nhà vua là các quan lại trung ương và địa phương, được phân chia thành ba hạng : đứng đầu là hai vị tôn quan (senapati và tapatica-hai tể tướng võ và văn), kế là thuộc quan gồm ba hạng : luân đa đinh (dandavaso bhatah-tướng chỉ huy cấm vệ), ca luân trí đế (danay pinang, quan hầu trầu) và ất tha già lan (yuvaraja-kế vương), sau cùng là ngoại quan (quan lại địa phương). Quân lực Lâm Ấp khoảng từ 40 đến 50.000 người, gồm kỵ binh, tượng binh và thủy binh.

Triều đình Trung Hoa có lẽ cũng muốn chấm dứt tình trạng tranh chấp văn hóa và chính trị kéo dài quá lâu này nên đã chấp nhận sự ly khai một cách miễn cưỡng, họ đặt tên quốc gia mới này là Lâm Ấp, thay vì Hồ Tôn Tinh hay Tượng Lâm như trước kia, và duy trì mối quan hệ tốt để nhận càng nhiều phẩm vật triều cống càng tốt.

Về danh xưng, Lâm Ấp chỉ là sự biến nghĩa của chữ Tượng Lâm. Đối với nhà Đông Hán, danh xưng Lâm Ấp là một khinh miệt, vì đó chỉ là một phần đất nhỏ không quan trọng ở vùng cực nam để thiên triều phải quan tâm trực tiếp. Sách Thủy Kinh Chú giải thích : "Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chữ Tượng để chỉ còn chữ Lâm".

cham7

Địa danh Tượng Lâm (đèo Hải Vân) dưới thời nhà Hán (thế kỷ 2 sau công nguyên) - Nguồn : nghiencuulichsu.com

Cũng nên biết ngôn ngữ Trung Hoa trong thời kỳ này có nhiều hạn chế trong việc phiên âm các tên ngoại quốc : Lâm Ấp là cách phát âm Việt hóa từ chữ Lin-yi, phiên âm từ chữ "Hindi" hay "Indi", tức người Ấn. Có người nói đó là cách phiên âm từ chữ Phạn "Indirapura" (đất của người Ấn Độ). Về sau người Chăm đặt tên phần đất từ Quảng Bình đến Thừa Thiên là Indrapura (đất của Indra, thần sấm sét).

Lâm Ấp cũng có thể do sự phát âm Việt hóa từ chữ "Krom" hay "Prum" (hai tộc của người Việt cổ) mà ra. Bình dân hơn người ta giải thích : Lâm là rừng, Ấp là thôn nhỏ v.v... Nói chung, cho dù diễn giải thế nào Lâm Ấp là một định chế độc lập với vương triều Trung Hoa tại Giao Chỉ.

Về tên gọi Khu Liên cũng thế, có rất nhiều tranh cãi. Sử sách Trung Hoa viết tên vị vua đầu tiên của Lâm Ấp là Khu Liên, có sách viết là Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương. Nhiều sử gia cho rằng Khu Liên thuộc dòng dõi của bộ tộc Dừa ở phía Bắc…

Thật ra Khu Liên không là tên của người nào cả, đó chỉ là cách gọi một cách kính trọng một người có ngôi vị cao trong một định chế tập thể (làng, xã, huyện…). Đối với dân chúng địa phương, "Khu" không phải là tên riêng mà là tước vị của một tộc trưởng (lãnh chúa), phiên âm từ chữ "Kurung" (như các vua Hùng) của người Việt cổ – hay chữ "Varman" của người Chăm từ tiếng Phạn, có nghĩa là tước tộc trưởng, lãnh chúa hay vua.

Trước đó, năm 137, các quan đô hộ nhà Hán gọi quân phản loạn ở Tây Quyển (Quảng Bình) là "rợ Khu Liên". Như vậy Khu Liên chỉ là tên gọi chung những người không cùng văn hóa với người Hán ở phía nam Giao Chỉ. Tên gọi này không liên quan gì đến danh xưng Sri Mara (tên một vị vương tôn người Chăm khác cùng thời kỳ, con bà Lona Lavana ở Panduranga) tìm thấy trên một bia ký bằng đá hoa cương granít (ngang 1 mét, dày 1 mét, cao 2,5 mét) ở làng Võ Cạnh (nay thuộc xã Vĩnh Trung), Nha Trang.

Về địa lý, vương quốc Lâm Ấp ở đâu, rộng hẹp như thế nào ? Còn rất nhiều điểm tối, không ai rõ. Theo sử cổ Trung Hoa thì lãnh thổ vương quốc này là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, phía nam huyện Lô Dung (Thừa Thiên ngày nay). Đường Thư nói Lâm Ấp từ huyện Tây Quyển (Quảng Bình) trở xuống. Đại Nam Nhất Thống Chí nói Tượng Lâm là Bình Định và Phú Yên. Thủy Kinh Chú cho biết thủ phủ Lâm Ấp lúc đầu không biết ở đâu, sau được biết đặt tại Khu Lật (Huế, Thừa Thiên), phía Nam có sông Lô Dung (sông Hương) chảy qua. Một cách tóm lược, dựa vào sử sách xưa, lãnh thổ Lâm Ấp có thể đã trải dài từ Quảng Bình đến Quảng Nam.

Một số chuyên gia Champa cho rằng Lâm Ấp là lãnh thổ Indrapura (đất của thần Indra), từ mũi Hoành Sơn đến đèo Hải Vân, do vương triều Gangaraja, tức những người Ấn Độ đến từ sông Gange, khai sinh ra. Sự kiện này cần được ghi nhận với tất cả dè dặt vì cho đến nay chưa một dấu tích bia ký nào giải thích sự kiện này.

 

Các triều vương Lâm Ấp

 

Triều vương thứ nhất (192-366) : khai sinh vương quốc

Khu Liên lên ngôi năm 192, trị vì trong nhiều năm, nhưng không biết mất năm nào và ai là người kế vị. Sử cổ Trung Hoa (Lương thư) cho biết trong khoảng thập niên 220-230, con cháu Khu Liên có gởi phái bộ đến thống đốc Quảng Đông và các thái thú Giao Châu (Lã Đại và Lục Dận) triều cống và duy trì quan hệ ngoại giao.

Sự kiện nổi bật sau thời Khu Liên là cuộc dấy binh của bà Triệu năm 248 tại quận Cửu Chân chống lại quân Đông Ngô (Trung Hoa). Bà Triệu, còn gọi là Triệu Trinh Nương, là một thiếu nữ Mường cưỡi voi ra trận làm khiếp đảm quân địch. Bà Triệu cũng là mẫu người lý tưởng của chế độ mẫu hệ : thân hình nẩy nở (vú dài ba thước ta !?) và can đảm (dám đứng ra gánh vác việc nước). Có lẽ trong giai đoạn này con cái của Khu Liên gia nhập vào đội quân của bà Triệu rất đông vì cuộc khởi nghĩa này được sử Trung Hoa ghi nhận là cuộc nổi dậy của nhân dân Lâm Ấp.

Nhà Đông Ngô phong danh tướng Lục Dận tước An Nam hiệu úy, tức thứ sử, sang Giao Châu dẹp lọan. Lục Dận vừa dùng mưu vừa làm áp lực chiêu dụ các bộ lạc nổi loạn ; sau hơn 6 tháng cầm cự quân của Bà Triệu bị cô lập và bị đánh bại phải chạy về miền Nam lánh nạn. Lục Dận xua quân xuống chiếm Khu Lật (Huế), bắt theo hàng ngàn thợ khéo tay mang về Giao Châu rồi dâng cho nhà Đông Ngô năm 260. Những vùng đất bị nghĩa quân Lâm Ấp chiếm đóng đều bị lấy lại. Lãnh thổ Lâm Ấp trở về vị trí cũ, tức huyện Tượng Lâm, quân Đông Ngô không dám tiến xuống xa hơn.

Có lẽ truyền nhân đích tôn của Khu Liên đã chết trong cuộc khởi nghĩa này vì không còn được nhắc tới nữa. Sách Lương thư cho biết năm 270, cháu ngoại của Khu Liên là Phạm Hùng (Fan Hiong hay Fan Hsung) lên làm vua.

Cũng nên biết "Phạm" ở đây là cách phiên âm Hán hóa từ chữ "Po" (hay Pô, Phò, Pha) của người Chăm, tức là người đứng đầu, lãnh tụ hoặc là ngài, chứ không phải là cách phiên âm từ chữ "varman" của người Ấn, cũng có nghĩa là vua, vương, ngài, hay "họ Phạm" của người Việt Nam mà ra. Cũng nên biết người Lâm Ấp theo chế độ mẫu hệ, chỉ có tên chứ không có họ.

Dưới thời Phạm Hùng, lãnh thổ Lâm Ấp được nới rộng tới thành Khu Túc, cạnh sông Gianh, phía bắc và tới Khánh Hòa (Kauthara) phía nam. Phạm Hùng cũng đã chinh phục và thống nhất các tiểu vương quốc khác nằm trong các lõm đất dọc duyên hải miền Trung : Amavarati (Quảng Nam), Vijaya (Quảng Ngãi, Bình Định) và một phần lãnh thổ Aryaru (Phú Yên). Nhưng sau hơn 10 năm chinh chiến (271-282), Phạm Hùng bị quân Tây Tấn (do Đào Hoàng chỉ huy) đánh bại, năm 283 con là Phạm Dật (Fan Yi) lên ngôi thay. Năm 284, Phạm Dật gởi một sứ bộ sang Trung Hoa cầu hòa ; Lâm Ấp được thái hòa và Phạm Dật trị vì 52 năm thì qua đời.

 

Triều vương thứ hai (337-420) : mở rộng vương quốc

Phạm Dật qua đời năm 336, một tể tướng cướp ngôi vua tự xưng Phạm Văn (Fan Wen). Phạm Văn không phải là người Chăm mà là một người gốc Hoa quê ở Dương Châu, bị bán làm nô lệ cho một quan cai trị huyện Tây Quyển tên Phạm Tương. Năm 15 tuổi, vì phạm tội gian, Văn trốn theo một thương gia người Lâm Ấp sang Trung Hoa và Ấn Độ buôn bán, nhờ đó đã học hỏi được kỹ thuật luyện kim và xây thành lũy của người Hoa. Khi về lại Lâm Ấp năm 321, Văn trở thành người thân tín của Phạm Dật và được giao trọng trách xây thành, đắp lũy, dựng cung đài theo kiểu Trung Hoa, chế tạo chiến xa và vũ khí, chế biến dụng cụ âm nhạc v.v... và được thăng chức tể tướng.

Dưới thời Phạm Văn, kỹ thuật luyện sắt (rèn kiếm, đúc lao) đạt đến tột đỉnh. Nhà vua áp dụng văn minh Ấn Độ thẳng vào đời sống : cải tổ lại hệ thống quan lại theo khuôn mẫu Ấn Độ, nhờ đó guồng máy tổ chức chính quyền chạy đều và mang lại hiệu quả tốt ; xây dựng thủ phủ chính trị tại Khu Lật (K’iu-sou, hay Thành Lồi, tức Huế), hình chữ nhật, chu vi 2100 mét, tường cao 8 mét, có 16 cửa, dân chúng sống chung quanh chân thành, mỗi khi có loạn, các cửa thành đều đóng lại. Với thế mạnh này, Phạm Văn đánh thắng hai nước Đại Kỳ Giới và Tiểu Kỳ Giới (có thể đây là hai vương quốc trên đất Lào ngày nay), chinh phục nhiều bộ lạc khác như Che Phou, Siu Lang, Khiu Tou, Kan Lou và Fou Tan (có thể là những bộ lạc thiểu số gốc Thái trên dãy Trường Sơn), tăng cường số phụ nữ mang về từ các lãnh thổ đánh chiếm được và tăng nhân số trong quân đội (khoảng từ 40.000 đến 50.000 người).

cham9

Khu vực tranh chấp ở vùng cực Nam : Nhật Nam, Tượng Lâm, Lâm Ấp - Nguồn : nghiencuulichsu.com

Năm 340, Phạm Văn xin nhà Đông Tấn cho sát nhập quận Nhật Nam, gồm các huyện Tây Quyển, Tỷ Cảnh, Chu Ngô, Lô Dung và một phần đất phía nam quận Cửu Chân huyện Hàm Hoan (Thanh Hóa) vào lãnh thổ Lâm Ấp nhưng không được toại nguyện. Phạm Văn liền xua quân tiến công sâu vào nội địa Nhật Nam, chiếm huyện Tây Quyển, giết thứ sử Hạ Hầu Lâm, lấy mũi Hoành Sơn (nam Thanh Hóa) làm biên giới phía bắc, cho xây lại thành Khu Túc (cạnh sông Gianh) phòng giữ. Từ đó phần lãnh thổ từ đèo Ngang trở xuống thuộc về Lâm Ấp và cũng kể từ đó phía bắc đèo Ngang là nơi xảy ra những trận thư hùng giữa Lâm Ấp và Giao Châu trong suốt hai thế kỷ 4 và 5. Năm 349 nhà Đông Tấn phản công, quân Lâm Ấp bị đánh bại, Phạm Văn bị trọng thương và qua đời, con là Phạm Phật (Fan Fo) lên thay.

Phạm Phật là một vị tướng tài ba, được nhiều sử gia cho là người mở đầu vương triều Gangaraja (Bắc Chiêm Thành). Vừa lên ngôi, Phạm Phật tấn công quân Đông Tấn tại Nhật Nam và vây thành Cửu Chân. Năm 351, quân Lâm Ấp bị đánh bại phải bỏ chạy về phía tây tại Lãng Hồ, huyện Thọ Lãnh (Thanh Hóa), thành Khu Túc bị chiếm, ranh giới được thiết lập lại tại huyện Tỷ Cảnh gần sông Nhật Lệ (Quảng Bình). Năm 359, quân Đông Tấn chiếm huyện Thọ Lãnh và đánh bại quân Lâm Ấp tại vịnh Ôn Cấn, chiếm thành Khu Túc ; Phạm Phật xin hòa và gởi sứ bộ sang Trung Hoa triều cống (372 và 377). Phạm Phật mất năm 380 nhường ngôi cho con là Phạm Hồ Đạt.

Phạm Hồ Đạt (Fan Houta) được nhiều học giả cho là vua Dharmamaharaja, hiệu Bhadravarman I, người sáng lập vương triều Gangaraja. Dưới thời Phạm Hồ Đạt, Phật giáo tiểu thừa (Thevada) phát triển mạnh, nhiều nhà sư đến trực tiếp từ Ấn Độ sang truyền đạo.

Thành Khu Lật (Huế) vẫn là trung tâm chính trị nhưng đổi tên thành Kandapurpura, nghĩa là Phật Bảo Thành (vì là nơi có nhiều đền đài và hình tượng Phật và Siva). Bên cạnh đó nhà vua còn cho xây dựng thêm một trung tâm tôn giáo mới tại Amavarati, tức thánh địa Hào Quang (nay là Mỹ Sơn, một thung lũng cách Đà Nẵng 70 km về phía tây). Nhiều đền thờ Bà La Môn được xây dựng tại Mỹ Sơn để thờ thần Siva và tượng Linga, tượng trưng sức mạnh phái nam. Ngôi đền đầu tiên được xây bằng gỗ vào cuối thế kỷ 4 mang tên Bradresvara, kết hợp giữa tên vua Bradravarman I và thần Isvara (hay Siva). Kể từ thế kỷ thứ 4 trở đi lãnh tụ chính trị và tôn giáo tại Lâm Ấp là một : thờ thần tức thờ vua, vua thay mặt thần Siva cai quản muôn dân. Siva vừa là thần bảo hộ xứ sở vừa là vị thần giữ đền (Dvarapala) để dân chúng đến thờ phượng và dâng lễ vật.

Năm 399, Phạm Hồ Đạt mang quân chiếm quận Nhật Nam, giết thái thú Khổng Nguyên, tiến công quận Cửu Đức, bắt sống thái thú Tào Bính nhưng bị quân của thống chế Đỗ Viện đánh bại phải rút về dưới đèo Ngang. Năm 413, Phạm Hồ Đạt mang bộ binh chiếm đóng Nhật Nam, ra lệnh cho thủy binh đổ bộ vào Cửu Chân đốt phá các làng xã ven duyên. Thứ sử Đỗ Tuệ Độ mang quân ra nghinh chiến, chém được con của Phạm Hồ Đạt là Phạm Trân Trân (tiểu vương đất Giao Long) và tướng Phạm Kiện, bắt làm tù binh hơn 100 người, trong có một hoàng tử tên Na Neng, tất cả đều bị chém đầu. Phạm Hồ Đạt trốn vào rừng sâu rồi mất tích. Trong khi chưa tìm được một vị vua mới, triều đình Lâm Ấp tiếp tục triều cống Trung Hoa để được yên về chính trị.

Trong thời gian từ 413 đến 420, con cháu Phạm Hồ Đạt tranh giành ngôi vua, nội chiến xảy ra khắp nơi. Năm 413, một người con của Phạm Hồ Đạt là Địch Chớn (Ti Chen), đạo sĩ Bà La Môn, được triều thần đưa lên ngôi vua, hiệu Gangaraja (tức sông Gange bên Ấn Độ). Địch Chớn là người đam mê văn hóa Ấn Độ muốn nhường ngôi cho em là Địch Khải (Ti Kai) để sang Ấn Độ sống những ngày cuối đời, nhưng Địch Khải sợ bị triều thần ám hại, dẫn mẹ chạy trốn vào rừng. Ngôi báu đành nhường cho Manorathavarman, cháu Địch Chớn nhưng tể tướng Thiếu Lâm (Tsang Lin) chống lại vì người này không được sinh ra từ một người mẹ có dòng máu tinh khiết (tức đẳng cấp Brahman), nên bị Manorathavarman giết chết.

Triều vương thứ ba (420-530) : tranh chấp với Trung Hoa

Năm 420, con cháu của Thiếu Lâm ám sát vua Manorathavarman và đưa người em cùng mẹ khác cha của Địch Chớn là Văn Địch (Wen Ti) lên thay. Văn Địch xưng hiệu là Phạm Dương Mại I (Yan Mah hay Fan Yang Mai), có nghĩa là Hoàng tử Vàng, nhưng không trị vị lâu vì bị chết trong một cuộc tấn công của quân Đông Tấn. Con là thái tử Đốt, 19 tuổi, được nhà Đông Tấn phong vương năm 421, hiệu Dương Mại II.

Nhân tình thế loạn lạc bên Trung Hoa (nhà Tống dẹp nhà Đông Tấn), năm 431, Dương Mại II dẫn hơn 100 chiến thuyền tấn công các làng ven biển tại cửa Thọ Lãnh, Tứ Hội và Châu Ngô (quận Nhật Nam và Cửu Chân) nhưng bị đánh bại, quân Tống chiếm thành Khu Lật, Dương Mại II chạy trốn ra Cù Lao Chàm (Quảng Nam). Năm 433, Dương Mại II xin "lãnh" đất Giao Châu về cai trị nhưng vua Tống không chịu, chiến tranh lại xảy ra. Năm 443 vua Tống Du Long phong thống chế Đàn Hòa Chi làm thứ sử Giao Châu, cùng hai phó tướng là Tống Xác và Túc Canh Hiến, mang đại quân đánh Lâm Ấp, Phạm Dương Mại II chạy thoát được ra cửa Tượng Phổ, vịnh Bành Long (Bình Định), tổ chức lại lực lượng, tăng cường thêm nhiều đội tượng binh rồi ra lệnh tổng phản công nhưng không địch nổi quân Nam Tống. Những người sống sót chạy sang Láng Cháng (Luang Prabang tại Bắc Lào) tị nạn, một số chạy đến Champassak (Nam Lào) ẩn náu. Đàn Hòa Chi thu rất nhiều vàng bạc, châu báu, tượng đồng và đập phá rất nhiều đền đài.

Sử Trung Hoa (Tống Thư) chép rằng Đàn Hòa Chi lấy được nhiều tượng vàng (mười người mới ôm xuể), đem nấu chảy thâu được hơn 10 vạn cân (50.000 kí-lô vàng y ?). Từ đó Trung Hoa biết Lâm Ấp có nhiều vàng nên mỗi khi có dịp là tiến quân xuống đánh cướp. Trong thời này, nhiều nhà sư Phật giáo Trung Hoa ái mộ nét kiến trúc và tượng đài trong các đền thờ tại Mỹ Sơn sang Lâm Ấp tìm hiểu và học hỏi rất đông, nhiều tượng Bồ Tát của Phật giáo Đại Thừa Trung Hoa được tìm thấy trong các chùa (như chùa Quảng Khê) trong vùng.

Trong lúc chạy trốn về phía nam, Dương Mại II chinh phục luôn các tiểu vương tại Vijaya (Bình Định), Aryaru (Phú Yên), thống nhất lãnh thổ phía Bắc. Năm 443, Dương Mại II về lại Khu Lật, thấy cảnh hoang tàn, buồn rầu rồi mất năm 446. Lãnh thổ phía Bắc của Lâm Ấp bị đẩy lùi về huyện Lô Dung (Thừa Thiên), con cháu Dương Mại II lại tranh chấp quyền hành.

Năm 455, con Dương Mại II là Phạm Chút (Fan Tou) lên ngôi, hiệu Trần Thành (Devanika). Trung tâm chính trị vẫn tại Khu Lật, nhưng Trần Thành cho xây dựng thêm một trung tâm văn hóa và tôn giáo mới tại Amaravati, gọi là thánh địa Hào Quang (Mỹ Sơn, Quảng Nam). Vương quốc Lâm Ấp tiếp tục được nới rộng xuống phía nam đến tận sông Ba (Tuy Hòa), thuộc lãnh thổ Aryaru (Phú Yên) và vùng núi non phía tây lân cận (cao nguyên Kontum, Darlac), và phía tây tới Champassak (Nam Lào), nhiều bộ lạc Thượng sống trên dãy Trường Sơn cũng theo về triều cống. Phạm Trần Thành mất năm 472, Lâm Ấp không có vua, nội bộ triều đình có biến động.

Năm 484, một người Khmer tên Phạm Đăng Căn Thăng (Kieou Tcheou Lo), con vua Phù Nam Jayavarman tị nạn tại Lâm Ấp, cướp ngôi và cầm quyền trong gần 20 năm. Năm 492, con Phạm Trần Thành là Phạm Chư Nông giết Căn Thăng giành lại ngôi báu.

Phạm Chư Nông bị chết đuối năm 498, con cháu tiếp tục trị vì đến năm 527 : Phạm Văn Tổn (Fan Wen Kuoan) trị vì từ 498 đến 502, Phạm Thiên Khởi hiệu Devavarman (510-514) và Cao Thức Thắng Khởi hiệu Vijayavarman hay Bật Tôi Bật Ma (526-527).

 

Triều vương thứ tư (529-757) : củng cố và ổn định lãnh thổ

Năm 529, Vijayavarman mất không người kế tự. Triều đình Lâm Ấp phong Luật Đa La Bật Ma lên làm vua, hiệu Rudravarman I. Năm 577 Luật Đa La Bật Ma mất, con là Prasastadharma lên kế nghiệp, hiệu Phạm Phạn Chi (Sambhuvarman).

Dưới thời Phạm Phạn Chi, văn hóa Lâm Ấp tỏa rộng khắp Đông Nam Á. Năm 598, nhà Tùy chiếm dóng Lâm Ấp và phân chia thành ba châu : châu Hoan (Tỷ Cảnh), châu Ái (Hải Âm) và châu Trong (Khương). Năm 605, Phạm Phạn Chi dời kinh đô về Sinhapura, thành phố Sư Tử (nay là Trà Kiệu, cạnh sông Thu Bồn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam). Danh xưng Campa (Chiêm Thành) chính thức xuất hiện trong thời này.

Năm 629 Phạm Phạn Chi mất, con là Phạm Đầu Lê (Kandharpardharma) kế nghiệp. Năm 645 Phạm Đầu Lê qua đời, vương triều Lâm Ấp loạn lạc. Phạm Trấn Long (Prabhasadharma), con Đầu Lê, vừa giành được ngôi vua liền bị giết chết, dân chúng đưa con trai của một công chúa, em gái của Trấn Long, tên Chư Cát Địa lên làm vua, hiệu Bhadresvaravarman (là sự ghép tên giữa thần Bradresvara và vị tổ Bradravarman). Chư Cát Địa làm vua được một năm (646) thì bị triều thần lật đổ, công chúa Tchou Koti, con gái của chánh phi của Phạm Đầu Lê, được tôn lên làm nữ vương, hiệu Jagaddharma. Đức độ của bà Jagaddharma rất được dân chúng kính trọng. Sau khi qua đời, nữ vương Jagaddharma được dân chúng lập đền thờ tại tháp Po Nagar (Xóm Bóng, Nha Trang).

Năm 653 Tchou Koti nhường ngôi cho chồng (người Khmer) tên Prakasadharma (Po Kiachopamo), hiệu Vikrantavarman I. Năm 685, Vikrantavarman I qua đời, nhường ngôi cho con là Vikrantavarman II (Kientotamo).

Dưới thời Vikrantavarman II, văn hóa Lâm Ấp tỏa khắp Đông Nam Á, các quốc gia lân bang đều muốn kết thân.

Năm 731, Vikrantavarman II qua đời, con là Rudravarman II (Lutolo) trị vì đến năm 757 thì mất. Con là Bhadravarman II lên thay nhưng bị các vương tôn miền Nam hạ bệ, chấm dứt vai trò lãnh đạo của vương triều miền Bắc.

Nguyễn Văn Huy

(2002)

Đọc thêm :

Người Chăm 1 - Tìm lại anh em, nhận lại bạn bè

Người Chăm 2 - Thời kỳ xác định bản thể 

Người Chăm 3 - Thời kỳ mở nước và dựng nước 

Người Chăm 4 - Thời vàng son

Người Chăm 5 - Thời kỳ xung đột

Người Chăm 6 - Bùng lên trước khi tàn lụi

Người Chăm 7 - Cố gắng tồn tại trong khó khăn

Người Chăm 8 - Cộng đồng người Chăm tại Campuchia

Người Chăm 9 - Thư tịch về người Chăm và người Thượng ở Việt Nam

Published in Tư liệu
Trang 1 đến 2