Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Phần 4

Khu đô thị mới Thủ Thiêm

 

1. Khu đô thị Thủ Thiêm : quan Trung Quốc chỉ tay, quan Việt Nam thi hành

Nguyễn Văn Huy, Thông Luận, 06/05/2018

Những ngày gần đây, chính quyền và báo chí Việt Nam tất bật giải thích việc chiếm hữu toàn bộ đất đai trong khu vực Quận 2 Thủ Thiêm, Thành phố Hồ Chí Minh.

Thủ Thiêm trước kia chỉ là một vùng đất sình lầy đầy ruồi muỗi, dân cư rải rác, không ai muốn đến đó sinh sống. Những cư dân địa phương phần lớn chỉ dựng nhà và sinh sống dọc bờ sông. Vào nửa cuối thế kỷ 19, một vài giáo sĩ Công giáo đã đến lập chòi dựng nhà thờ và tu viện. Từ đó nhiều gia đình người Việt đã đến định cư và sống bằng nghề nông và đánh bắt cá.

Trong suốt thời gian xảy ra cuộc chiến tại miền Nam (1956-1975), phe cộng sản đã vào đây lập căn cứ và xây dựng cơ sở hậu cần (nhưng không quy mô bằng Củ Chi và Bình Dương) để tiếp tế những lực lượng du kích và chính quy đột nhập vào khu vực Sài Gòn-Gia Định. Trong thời gian này nhiều cư sĩ Phật giáo đến đây lập am dựng chùa, trong đó có một số cán bộ cộng sản nằm vùng đội lốt tu sĩ để bám trụ. Sau khi chiếm đóng Sài Gòn tháng 4/1975, tất cả những đơn vị du kích cộng sản đã rời bỏ khu vực này để vào thành phố ở trong những ngôi nhà tịch thu tiện nghi hơn và khang trang hơn.

Dưới thời quân quản, chính quyền Sài Gòn khuyến dụ cư dân đi vùng kinh tế mới. Rất nhiều gia đình, phần lớn là gia đình những cựu binh sĩ và công chức Việt Nam Cộng Hòa, đã tin theo và bán đổ bán tháo đồ đạc trong nhà để ra đi. Chỉ một thời gian ngắn sau, chưa đầy 6 tháng, những gia đình này đã trở về lại Sài Gòn nhưng nhà cửa đã vào tay người khác, tất cả đành phải nằm đường, ngủ bờ ngủ bụi và làm đủ mọi ngành nghề để kiếm sống, kể cả trộm cắp và bán thân. Nhiều gia đình đã phải vào những khu nghĩa địa cộng cư với người chết để có chỗ trú mưa gió và ăn ở qua ngày.

Sự hiện diện ồ ạt cư dân từ vùng kinh tế mới về lại Sài Gòn đã gây một làn sóng lo ngại trong thành phố, chính quyền đã tổ chức nhiều cuộc bố ráp xua đuổi số dân cư này ra khỏi nội thành. Từ đó nẩy sinh phong trào dân kinh tế mới di tản sang khu vực Thủ Thiêm chiếm đất, dựng nhà và canh tác nông nghiệp. Cho đến một ngày gần đây, đã có hơn 15.000 hộ dân đã đến đây lập nghiệp. Rất nhiều gia đình thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đã đến đây sinh sống và cũng đang trong tình trạng chờ bị đuổi đi. Hiện nay, theo thông báo của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, 12.000 hộ dân đã được đền bù và đã dọn nhà đi nơi khác, số phận những hộ còn lại, trong đó có Nhà thờ Thủ Thiêm và dòng nữ tu Mến Thánh Giá, chưa rõ ràng và thực sự không muốn đi.

Tại sao khu vực Thủ Thiêm trở nên sôi động ?

Đó là vì vùng đất này sẽ được xây dựng như một trung tâm đô thị lớn, rập theo khuôn mẫu Phố Đông ở Thượng Hải, Trung Quốc. Chính quyền Việt Nam muốn dọn sạch vùng đất này trước khi giao cho nhà đầu tư Trung Quốc thực hiện.

Ngày 04/05/2018, Tổng lãnh sự Trung Quốc tại thành phố Hồ Chí Minh, Trần Đức Hải, đã đến gặp và chào từ biệt Bí thư thành ủy Nguyễn Thiện Nhân nhân dịp kết thúc vai trò Tổng lãnh sự của mình. Ông Nguyễn Thiện Nhân đề nghị ông Trần Đức Hải giúp xây dựng khu đô thị sáng tạo ở phía Đông thành phố Hồ Chí Minh, tức khu vục Thủ Thiêm, giống như Phố Đông (Pudong) của Thượng Hải.

pudong

Ông Nguyễn Thiện Nhân muốn nhờ Trung Quốc biến cải khu đất Thủ Thiêm thành Phố Đông (Pudong) như Thượng Hải

Đề nghị này không phải tình cờ, nó đã manh nha từ nửa cuối thập niên 1990 nhưng bị cất vào tủ vì không ai muốn bỏ tiền ra xây dựng, Thủ Thiêm vào lúc đó vẫn còn là một vùng đất sình lầy. Rồi đùng một cái, trong suốt tháng 4/2018 khu vực đất Thủ Thiêm bỗng trở thành trung tâm điểm đánh bắt tham nhũng tại Sài Gòn do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi động. Ban chỉ đạo Phòng chống tham nhũng và báo chí nhà nước đem Ban bí thư thành ủy Sài Gòn ra làm dê tế thần, tố cáo phe "Hai Nhựt", bí danh của cựu Bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Lê Thanh Hải, đã bán rẻ khu đất này cho thân nhân và tay chân và muốn lấy lại.

thuthiem1

Khu đô thị kiến tạo Thủ Thiêm - Ảnh minh họa

Trong thực tế, mục đích chính của chiến dịch loại trừ phe Lê Thanh Hải là để Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam giành quyền quản trị và xử lý trực tiếp Thành phố Hồ Chí Minh. Lý do là phía Trung Quốc đang nóng rột muốn trực tiếp vào Sài Gòn xây dựng cơ sở chứ không muốn qua trung gian các công ty xây dựng bình phong của Việt Nam hay các công ty hợp doanh có vốn nước ngoài như trước. Trong khi phe nhóm của ông Lê Thanh Hải, có lẽ đã lỡ làm ăn gian dối trong việc quy hoạch truất hữu nhà đất của dân và lo sợ chuyên tham ô của họ bị phát giác nên đã cất giấu những bản đồ gốc, bây giờ mới phát giác.  Cũng có thể vụ mất bản đồ quy hoạch chỉ là hỏa mù để che giấu một âm mưu khác thâm hiểm hơn : Bắc Kinh muốn thiết đặt cơ sở lâu dài tại miền Nam trù phú.

Phải nhắc lại một quyết tâm của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh từ thời Võ Văn Kiệt, Trương Tấn Sang và Lê Thanh Hải, giới đầu tư đến trực tiếp từ Trung Quốc đã không có những đặc quyền như bây giờ. Tất cả các tập đoàn tài chánh cũng như đầu tư xây dựng Trung Quốc đều phải làm đơn đệ trình và chờ xét duyệt. Phần lớn những dự án đầu tư của Trung Quốc không đạt tiêu chuẩn và không được chấp thuận, giới đầu tư Trung Quốc đành phải mượn tên của tập đoàn địa phương Việt Nam để hiện diện. Thành ủy Sài Gòn dành ưu tiên cho những tập đoàn đầu tư Đông Á và phương Tây. Còn thành phần tư doanh Trung Quốc, đã có mặt rất đông tại Sài Gòn, đa số phải hành nghề chui. Nếu loại trừ được phe của lãnh chúa Lê Thanh Hải, tản đá cản đường bánh xe tài phiệt và thực dân kinh tế Trung Quốc lăn vào Thành phố Hồ Chí Minh được tháo gỡ, dân Sài Gòn sẽ biết thêm một ngày 30/4 mới. 

Từ đầu năm 2018 đến nay, đặc biệt là trong tháng 4 và tháng 5/2018, nhiều phái đoàn cao cấp của chính quyền Trung Quốc đã liên tục đến Thành phố Hồ Chí Minh làm việc với các cấp lãnh đạo địa phương nhằm "giúp" Việt Nam sửa đổi lại một số luật về quyền sử dụng đất đai và quyền được đưa người và vật tư trực tiếp từ Trung Quốc sang làm việc.

Phải hiểu đây là một chương trình thuộc địa hóa lãnh thổ Việt Nam. Không thể nói Đảng cộng sản hay chính quyền cộng sản Việt Nam ngây thơ không biết âm mưu này, cũng không thể nói Đảng cộng sản Việt Nam không muốn mượn bàn tay Trung Quốc để giúp Việt Nam phát triển đất nước. Trước Trung Quốc đã có rất nhiều quốc gia đến Việt Nam giúp phát triển đất nước nhưng đã lần lượt rút lui vì áp lực của Trung Quốc trên chính quyền Việt Nam. Bây giờ là thời điểm đã chín muồi để biến những thỏa thuận trong những Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc hay Trung Quốc-Việt Nam thành hiện thực, Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đang tự biến thành tay sai Bắc triều như dưới thời Bắc thuộc. 

Và đúng như vậy, Đảng cộng sản Việt Nam đang thi hành những mệnh lệnh đến từ Bắc Kinh, theo những thỏa thuận đã ghi trong những Tuyên bố chung Trung Quốc-Việt Nam 2015 và 2017. Theo một trong những thỏa thuận này, Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc 2015, Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam xây dựng hai Khu công nghiệp Long Giang (Tiền Giang) và An Dương (Hải Phòng). Nhưng gần đây, trước những biến động bất lợi trên Biển Đông vì sự hiện diện thường xuyên hơn của tàu chiến Hoa Kỳ và đồng minh, Bắc Kinh muốn tiến hành nhanh sự hiện diện của mình ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Để ước muốn biến thành sự thực, phía Trung Quốc muốn bổ túc thêm một đề mục mới (Điều 5, mục iv trong Tuyên bố chung Trung Quốc-Việt Nam 2015), đó là trực tiếp đầu tư xây dựng khu đô thị Thủ Thiêm, cảng sông Đồng Nai và vùng phụ cận (Long Thành, Long Hưng, Long Tân), nghĩa là những khu vực yết hầu của nền kinh tế Việt Nam.

Cách để Bắc Kinh đạt được mục tiêu một cách nhanh chóng mà không gặp chống đối là hứa giúp xây dựng những trung tâm phát triển kinh tế, tài chánh và kỹ thuật mà Việt Nam đang cần, đầu tiên là Sài Gòn và vùng phụ cận. Chuyện mất bản đồ gốc càng dễ cho phía Trung Quốc quy hoạch lại khu đô thị Thủ Thiêm mà không cần căn cứ vào những bản đồ gốc, đặc biệt là đồ án Thủ Thiêm của công ty Sasaki Asociates năm 1996, với những lôi thôi về qui định thế nào là đất xây dựng - đất nông nghiệp, đền bù xứng đáng hay không xứng đáng.

Trước yêu cầu mới này, Đảng cộng sản Việt Nam không những vâng lời mà còn quyết tâm thi hành triệt để mệnh lệnh đó. Vụ biển thủ bản đồ quy hoạch Khu đô thị Thủ Thiêm chỉ là lý cớ để phía Trung Quốc có toàn quyền quy hoạch lại công trình xây dựng, nghĩa là giảm bớt sự hiện diện của người Việt và tăng cường sự hiện diện của những đại công ty Trung Quốc trong khu đô thị : Thủ Thiêm sẽ thành một Phố Đông bis của Thượng Hải tại Việt Nam dành cho người Trung Quốc.

Theo như quy hoạch cũ trong những bản đồ được công bố trên báo chí ngoài luồng, Khu đô thị Thủ Thiêm được xây dựng để trở thành một trung tâm kinh tế và tài chánh lớn của Việt Nam, có thể cạnh tranh ngang hàng với các trung tâm kinh tế và tài chánh lớn của ASEAN (1). Ước muốn này không được phía Trung Quốc chấp nhận nên bản đồ của những hoạch định cũ phải bị biến mất.

Cái gì sẽ xảy ra tiếp ngay sau đó ? Sau vụ này, Ban chỉ đạo Phòng chống tham nhũng của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ mở thêm những hồ sơ tham nhũng khác về đất đai ở Đồng Nai và Biên Hòa (Long Thành, Long Hưng, Long Tân) nhằm loại trừ ảnh hưởng của những sứ quân địa phương để giao lại cho Trung Quốc. Vì tham vọng của Bắc Kinh không dừng ở Thủ Thiêm.

>thuthiem2

Biểu tượng hoa sen được chọn cho thiết kế nhà ga sân bay Long Thành - Ảnh minh họa

Tại sao Đồng Nai và tại sao Long Thành ? Rất dễ hiểu, nếu đổ tiền đổ của ra biến vùng đất sình lầy Thủ Thiêm thành một phố kiến tạo, Phố Đông bis (theo đề nghị của Bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân), người và hàng hóa sẽ vào Sài Gòn bằng cách nào ? Lấy Đồng Nai để xây dựng trạm xe lửa xuyên Việt từ Trung Quốc và lấy Long Thành để xây dựng phi cảng quốc tế. Trong những ngày sắp tới, người ta sẽ thấy giới đầu tư Trung Quốc sẽ lần lượt trúng các lô thầu xây dựng xa lộ và đường sắt siêu tốc Bắc-Nam, cảng sông Đồng Nai và phi cảng quốc tế Long Thành, các khu công nghiệp Long Tân và Long Hưng.

Cái gì đang xảy ra ở Việt Nam ? Quan trên Trung Quốc chỉ tay, quan dưới Việt Nam thi hành. Hơi hướm giống như thời Bắc thuộc.

Không biết nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam có đồng tình với nhận định này không.

Nguyễn Văn Huy

(1) Lại giả mù sa mưa : Hà Nội muốn thay đổi bản đồ quy hoạch Khu đô thị Thủ Thiêm 

*******************

2. Bắc Kinh gia tốc tiến trình thuộc địa hóa Việt Nam

Nguyễn Văn Huy, Thông Luận, 27/04/2019

Tình hình Biển Đông đang làm Bắc Kinh lo ngại. Chiến lược xoay trục của Hoa Kỳ vào khu vực Châu Á-Thái Bình Dương thời Barack Obama tưởng đâu đã bị bỏ rơi dưới thời Donald Trump, không ngờ đang được làm sống lại.

backinh1

Tình hình Biển Đông đang làm Bắc Kinh lo ngại.

Hiện trạng trên Biển Đông

Ban cố vấn an ninh diều hâu của Tổng thống Donald Trump đang khám phá sự chiếm hữu, cải tạo và xây dựng bất hợp pháp những căn cứ quân sự trên những bãi đá san hô ngoài khơi Biển Đông của Trung Quốc nhằm tăng cường và nới rộng sự kiểm soát của Bắc Kinh trên bầu trời và hải lộ giao thương chính ở vùng Tây Thái Bình Dương. Điều này có nghĩa là nếu im lặng để Trung Quốc thực hiện âm mưu chiếm hữu Biển Đông, các quốc gia cùng chia sẻ trục lộ giao thông hàng hải chính này là Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, các quốc gia ASEAN, Úc, Tân Tây Lan và Ấn Độ sẽ không còn quyền tự do giao thương và đi lại nữa.

Hoa Kỳ và các đồng minh khu vực đã lên tiếng tố cáo và yêu cầu Bắc Kinh ngưng các hoạt động phi pháp này. Thay vì hòa hoãn và tiếp tục trong âm thầm, Bắc Kinh đã không những lên gân khoe cơ bắp mà còn lớn tiếng đe dọa những ai xâm phạm vào lãnh hải thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Lực lượng hải quân và không quân Trung Quốc đã liên tiếp tập trận bắn đạn thật gần như hàng tháng trong khu vực "lưỡi bò" mà họ tự vẽ ra. Những hành động này trước hết là nhằm răn đe chính quyền Đài Loan không nên có ý đồ tuyên bố độc lập, kế là cảnh báo các quốc gia trong khu vực chớ nên thách thức sức mạnh của lực lượng hải và không quân Trung Quốc.

Hăm dọa này có lẽ đã thành công đối với các quốc gia nhỏ yếu trong khu vực như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Campuchia nhưng không hề làm Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Đài Loan, Úc và Ấn Độ lo ngại. Không những thế, tàu chiến của các cường quốc hải quân Châu Âu, Anh và Pháp, còn được gởi tới để tuần tra chung. Trước những phản ứng này, Bắc Kinh đã vô cùng bối rối, nhất là bộ tư lệnh hai Hạm đội Đông Hải và Nam Hải.

Bắc Kinh đã bỏ ra rất nhiều tiền để xây dựng, mở rộng và củng cố những bãi đá san hô thành những căn cứ rộng lớn, đã điều động gần như trọn bộ lực lượng tàu chiến và máy bay tiên tiến nhất vào khu vực này để gây tiếng vang và làm áp lực với các thế lực hàng hải quốc tế… Nhưng kết quả đã không như mong đợi. Áp lực của Trung Quốc trên Biển Đông và biển Hoa Đông đã thúc đẩy một cuộc chạy đua vũ trang qui mô chưa từng có trên toàn khu vực, và nếu càng để lâu lực lượng hải quân răn đe của Trung Quốc có thể lâm vào thế yếu.

Các quốc gia nhỏ bé và yếu kém hơn Trung Quốc như Singapore, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia đã trang bị những loại khí tài tối tân và hiện đại như tàu ngầm, tàu dẫn tên lửa, các loại máy bay tiêm kích đời mới… Các quốc gia hiếu hòa trước đây như Nhật Bản, Nam Hàn và Đài Loan buộc phải canh tân lại khả năng chiến đấu của các lực lượng võ trang phòng vệ để đối đầu với Trung Quốc. Chưa bao giờ sự hiện diện của lực lượng hải và không quân Hoa Kỳ tuần tra và tập trận ngay sát cạnh lãnh thổ và lãnh hải Trung Quốc như hiện nay.

Thêm vào đó, Lực lượng phòng vệ Nhật Bản đã được trang bị hai tàu chở trực thăng tự đóng, có khả năng trở thành hàng không mẫu hạm, và thành lập nhiều đơn vị tác chiến chuyên nghiệp có khả năng chiến đấu ngoài lãnh thổ. Nam Hàn cũng thế, lực lượng hải và không quân đã được trang bị thêm tàu chiến và các loại máy bay tiêm kích tiên tiến nhất, đủ khả năng tập trận chung ngang hàng với Hạm đội 7 Hoa Kỳ trong vùng biển Hoa Đông, sát cạnh thủ đô Bắc Kinh. Trong khi Đài Loan, một hòn đảo quốc gia độc lập với Trung Quốc, cũng đã canh tân và trang bị thêm những loại khí tài hiện đại đủ khả năng đẩy lùi và phản công lại bất cứ bất cứ cuộc tấn công nào đến từ lục địa.

Trước những chuẩn bị này, chỉ cần bật một que diêm là nồi thuốc súng sẽ nổ, bất cứ một tấn công nào vào tàu thuyền di chuyển trong vùng Biển Đông sẽ dẫn đến xung đột võ trang. Chính vì thế, mặc dù rất bực bội, Bắc Kinh chưa dám ra tay. Nhưng tình thế này không thể kéo dài mãi mãi. Càng để lâu, chi phí bảo trì các cơ sở vận hành và phương tiện di chuyển trên biển và trên không càng tăng cao mà không bên nào mong muốn.

Vấn đề của Trung Quốc là nếu càng để lâu tình hình sẽ ung thối, sự áp đảo của Trung Quốc về số lượng máy bay và tàu chiến sẽ mất hiệu lực răn đe, chủ quyền tuyên bố đơn phương của Trung Quốc trên Biển Đông không được tôn trọng, lượng tiền khổng lồ bỏ ra không thu đạt kết quả mong muốn.

Cũng nên biết số lượng dầu diesel và mazout tiêu thụ mỗi ngày cho tàu thuyền dân sự, tàu quân sự và máy bay có nhiệm tuần tra Biển Đông rất là cao, trong khi Trung Quốc chưa tìm được mỏ dầu nào đáng kể để cung cấp nhiên liệu cho đội tàu và máy bay sử dụng. Chỉ riêng tàu sân bay Liêu Ninh, lượng diesel tiêu thụ mỗi ngày hơn một triệu lít dầu, mỗi khi di chuyển phải có hai tàu chở nhiên liệu đi theo để luân phiên tiếp tế, chính vì thế khả năng phòng thủ của tàu Liêu Ninh rất yếu vì không thể ra khơi quá vài ngày hoặc một tuần ; nếu xảy ra xung đột, chỉ cần ngăn chặn hay đánh chìm những tàu tiếp tế thì coi như tàu Liêu Ninh bị vô hiệu, có thể bị bắt sống. Các loại tàu chiến và tàu hải cảnh Trung Quốc cũng đang ở trong tình trạng tương tự. Tiếp vận nguyên nhiên vật liệu cho đội tàu trên biển chính vì thế là ưu tiên hàng đầu của các bộ tư lệnh Hạm Đội Đông Hải và Nam Hải.

Gia tốc tiến trình thuộc địa hóa Việt Nam

Trước tình thế này, Bắc Kinh đang rất bối rối. Ra tay hay không ra tay ? Ra tay bằng cách nào, vào lúc nào, và nhắm vào ai ? Hậu quả nhận lại sẽ như thế nào ?

backinh2

Đảo Lý Sơn còn gọi là Cù Lao Ré. Ảnh từ Internet

Rất nhiều câu hỏi đã được đưa ra nhưng chưa có giải pháp nào thỏa đáng. Điều quan trọng mà Bắc Kinh có thể làm lúc này là chuẩn bị cho một tình huống xấu : chấp nhận xung đột võ trang.

Nhưng chấp nhận xung đột võ trang là một quyết định quan trọng, sự an nguy cũng như chỗ đứng của Trung Quốc đặt trên bàn cân mà được thì không có gì thêm, còn thua thì mất tất cả. Do đó, ngoài giải pháp ngoại giao, vận động dân vận và thông tin tuyên truyền, hai công tác mà Bắc Kinh đang tiến hành trong lúc này là :

1. Củng cố và trang bị những bãi đá nhân tạo ngoài khơi Biển Đông để dò tìm và phát hiện sự xâm nhập của đối phương, tiếp tục tuần tra và tập trận trên vùng biển với những tốn kém khó chịu đựng ;

2. Tăng cường xây dựng cơ sở hậu cần trên đất liền như nhà ở để bồi dưỡng nguồn nhân lực hậu cần và chuyên viên kỹ thuật quốc phòng đang công tác ngoài khơi Biển Đông khi xảy ra chiến tranh, quan trọng nhất là chiếm giữ những nguồn sản xuất đầu khí ngoài khơi Biển Đông, xây dựng những kho tồn trữ nguyên nhiên vật liệu và khí tài chiến tranh (xăng dầu, vũ khí, đạn dược, thiết bị quân sự, lương thực thực phẩm, dụng cụ y tế...) để tiếp tế ngoài khơi khi có xung đột. Cũng nên biết, kẻ thù chính ngoài khơi của các lực lượng quân sự là muối. Muối ăn mòn và làm rỉ sét sắt thép, nhôm kẻm, ximăng, tiêu diệt cây cỏ, do đó xây dựng nhà kho trên đất liền là điều bắt buộc để bảo trì cơ sở và vũ khí. Việt Nam nằm trong công tác thứ 2.

Theo lịch trình chiến lược đã được hoạch định trong những Tuyên bố chung 2015 và Tuyên bố chung 2017, phải chờ đến năm 2021 công tác họp tác toàn diện với Việt Nam trên mọi lãnh vực mới hoàn tất. Nhưng trước tình thế cấp bách như hiện nay trên Biển Đông, Bắc Kinh muốn đốt giai đoạn như dự trù trong Điểm 5, mục iii và iv của bản Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 2017  : gia tốc xây dựng cơ sở hạ tầng trên những vị trí trọng điểm chiến lược ở Việt Nam.

Một cách cụ thể : Trung Quốc muốn trực tiếp đứng ra xây dựng những đại công trình xây dựng cơ sở tại một số trọng điểm chiến lược trên lãnh thổ Việt Nam mà Bắc Kinh đã chọn, chứ không muốn giao cho người Việt Nam đứng tên như đã làm trong quá khứ. Những địa điểm chiến lược mà Bắc Kinh đang nhắm tới là vùng đất liền gần những căn cứ quốc phòng của Trung Quốc ở ngoài khơi Biển Đông : Quảng Nam-Đà Nẵng, Quảng Ngải cho Hoàng Sa, Phan Thiết, Vũng Tàu và Nhà Bè cho Trường Sa. Riêng tại Sài Gòn, hai địa danh chiến lược mà giới đầu tư Trung Quốc đang nhắm tới là Thủ Thiêm và Biên Hòa để giành độc quyền xây dựng những cao ốc cư ngụ, và đặc biệt là xây dựng giang cảng quốc tế trên sông Đồng Nai và phi cảng quốc tế Long Thành.

Để cụ thể hóa, ngày 24/04/2018 vừa qua, một phái đoàn cao cấp đã từ Thượng Hải đến Sài Gòn yêu cầu cấp lãnh đạo địa phương nhượng quyền xây dựng công khai và trực tiếp cho những công ty xây dựng Trung Quốc, đặc biệt là tại Sài Gòn và các tỉnh duyên hải miền Trung, trong thời hạn 99 năm. Điều đáng lưu ý là những phái đoàn đến từ Trung Quốc này không liên lạc trực tiếp với Hà Nội, tức Trung ương, mà với từng cấp ủy địa phương Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai.

Tại miền Trung, họ liên lạc trực tiếp với các cấp ủy Quảng Nam-Đà Nẵng, Quảng Ngãi để nhượng quyền xây dựng và khai thác bán đảo Sơn Trà và đảo Lý Sơn, hai vị trí gần quần đảo Hoàng Sa nhất, đương nhiên là với mục đích khai thác những bãi biển du lịch nhưng hậu ý là xây dựng cơ sở cho lực lượng chuyên viên kỹ thuật và hậu cần đồn trú khi xảy ra chiến tranh trên biển.

Sông Đồng Nai với thành phố Biên Hòa và Long Thành là hai địa điểm đầy triển vọng phát triển của nền kinh tế miền Nam : cảng sông lớn, đất đai rộng lớn, nguồn nhân lực trẻ và chuyên nghiệp. Nhưng Long Thành mới chính là địa điểm chiến lược mà các chuyên gia Trung Quốc đang nhắm tới. Một công ty xây dựng lớn của Trung Quốc đang vận động quyền được sử dụng và chuyển nhượng những cơ sở hạ tầng lớn ở Việt Nam do họ xây dựng (chẳng hạn như quyền xây dựng và khai thác độc quyền phi cảng quốc tế Long Thành, giang cảng Phú Đông trên sông Đồng Nai, hải cảng nước sâu Vũng Tàu, khu công nghiệp Long Hưng, Long Tân…) trong thời hạn 99 năm thay vì 50 năm như luật định. Cũng nên lưu ý, chính quyền cộng sản Việt Nam đã có kế hoạch xây dựng phi cảng quốc tế Long Thành từ rất lâu, nhưng "không hiểu vì sao" đã cất vào tủ và chỉ lo tập trung mở rộng phi cảng Tân Sơn Nhất về phía nam.

Sài Gòn cũng thế, địa điểm chiến lược đầy triển vọng phát triển trong những năm tới mà giới đầu tư Trung Quốc đang nhắm tới là Thủ Thiêm, Quận 2. Đây là một vùng còn hoang dã nên rất dễ xây dựng vì không phải bỏ ra những món tiền lớn để đền bù chuyển nhượng.

Hậu ý của chiến dịch "đốt lò" của Nguyễn Phú Trọng

Xâu chuổi lại những diễn biến xảy ra gần đây trên chính trường Việt Nam, và qua những mô tả vừa kể như trên, chúng ta thấy Đảng cộng sản Việt Nam đang thi hành đúng bài bản và lịch trình mà phía Trung Quốc đã hoạch định :

mặt này làm áp lực với Việt Nam để chia quyền khai thác các mỏ dầu ngoài khơi Biển Đông. Bằng chứng cụ thể là chính quyền cộng sản Việt Nam đã rút lui và ngừng dự án dò tìm dầu khí trong khu vực Cá rồng đỏ và Cá voi xanh ;

- mặt kia đưa người trực tiếp từ mẫu quốc vào Việt Nam để xây dựng những công trình muốn thực hiện, vừa nhanh vừa đảm bảo bí mật quốc phòng. Đầu tiên là tố giác và loại trừ những sứ quân bất động sản địa phương để giành lại quyền quyết định điều phối : ở Đà Nẵng qua vụ Phan Văn Anh Vũ và đồng nhóm, tiếp theo là tố giác tham nhũng bất động sản trên bán đảo Sơn Trà và đảo Lý Sơn, rồi đây trong những ngày sắp tới sẽ xảy ra những vụ việc liên quan đến quyền chuyển nhượng và khai thác bất động sản trên Cù lao Chàm ở Hội An, Hòn Yến ở Nha Trang, đảo Long Hải ở Phan Thiết, đảo Côn Sơn ở Vũng Tàu sẽ nổ ra, mà điểm cuối cùng là Sài Gòn. Tất cả đều nằm trong tiến trình chiếm hữu những vị trí chiến lược ngoài khơi bờ biển Việt Nam để những công ty Trung Quốc vào xây dựng cơ sở vừa kinh tế vừa quốc phòng.

Một cách cụ thể, hiện nay đang nổ ra cuộc điều tra các cấp lãnh đạo địa phương lạm quyền cung cấp giấy phép khai thác Quận 2 Thủ Thiêm, một dự án lớn nhằm biến Thủ Thiêm thành một trung tâm kinh tế tài chánh tầm cỡ khu vực và quốc tế. Vụ việc này đang nổ lớn vì đối tác chính là giới đầu tư Trung Quốc muốn thương lượng quyền khai thác.

Cũng nên chú ý, tham nhũng ở Việt Nam xảy ra gần như hàng ngày, ở khắp nơi và liên quan đến mọi cấp đảng, chính quyền, quân đội và công an. Chỉ cần chịu khó quan sát, tham nhũng bất động sản đã lộ mặt ngay trong nội thành và chung quanh Hà Nội, dọc bờ biển Quảng Ninh, Hải Phòng, và ngay trong Vịnh Hạ Long, rồi Thanh Hóa, Sơn Tây, trên vùng Trung Du, ở các tỉnh dọc vùng biên giới Trung Quốc, Lào và Campuchia, trên Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, tất cả đã được báo chí trong nước phanh phui nhưng đều chìm tắt trong im lặng.

Ngược lại tại sao tham nhũng bất động sản chỉ công khai nổ bùng ở vùng duyên hải miền Trung và vùng Sài Gòn-Đồng Nai ? Rất dễ trả lời, tất cả đều nằm trong ý đồ của Bắc Kinh : muốn đốt giai đoạn để nắm quyền kiểm soát trực tiếp. Việt Nam đang biến thành thuộc địa của Trung Quốc.

Về phía dư luận Việt Nam, có thể những tố giác và tố cáo tham nhũng gần đây tại Việt Nam mang hơi hướm của "trâu cột ghét trâu ăn" chứ không phải là muốn thực sự bài trừ tham nhũng. Điều này cũng đúng vì bất cứ cán bộ đảng viên nào có chức vụ đều tham nhũng, từ cấp trung ương đảng đến các cấp địa phương, từ công an đến quân đội. Phe Nguyễn Tấn Dũng đã ăn quá nhiều và không chừa gì cho người đi sau thì bây giờ người đi sau lên cầm quyền chỉ muốn đòi những người đã ăn quá lố trả lại để chia lẫn nhau.

Vấn đề là không ai thấy âm mưu thâm độc của Bắc Kinh là đang thuộc địa hóa Việt Nam. Những gì đang diễn ra hiện nay giống như thời những người Minh Hương đầu tiên đến khai thác vùng Sài Gòn-Gia Định thế kỷ 18. Khi lực lượng di dân nhà Minh này thành công, họ liền liên lạc với mẫu quốc để đưa gia đình và thân quyến đến định cư và khai thác. Điểm khác biệt là những người Minh Hương này là những người tị nạn chính trị, đã chọn miền Nam là quê hương thứ hai nên đã ra sức xây dựng và bảo vệ nó như chính quê hương mẹ của mình, và đã trở thành người Việt Nam trọn vẹn. Trong khi người Trung Quốc thì ngược lại, họ chỉ đến để khai thác và hủy hoại môi trường để người Việt Nam không thể ngóc đầu lên ngang hàng với họ. Những di dân Trung Quốc này là những thực dân kinh tế, không bao giờ họ muốn trở thành người Việt Nam. Thực dân phương Tây cho phép những hội đoàn tôn giáo và nhân đạo chăm sóc người cùng khổ, thực dân Trung Quốc chỉ bòn rút tiền trong xã hội Việt Nam để mang về nước hay để mở rộng địa bàn thu vét tài nguyên và tài sản cho mình và cho mẫu quốc. Chỉ cần nhìn những tổ chức cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt và thiên tai tại Việt Nam trong những năm qua thì sẽ rõ, đã có bao nhiêu tổ chức nhân đạo của Trung Quốc tham gia ? Zero.

Nhìn lại mẫu quốc của những di dân Trung Quốc, sau hơn 30 năm cố gắng để phát triển ngang bằng các quốc gia phương Tây, lục địa Trung Quốc ngày nay còn lại gì ? Cái nôi phát sinh nền văn minh Trung Hoa là lưu vực sông Hoàng Hà, ngày nay đang biến thành sa mạc trong khi phần còn lại của lãnh thổ Trung Quốc, đất đai cằn cổi, nguồn nước bị nhiễm độc, không khí ô nhiễm. Giữ gìn môi sinh, bảo vệ môi trường chưa bao giờ là một ưu tư đối với người Trung Hoa lục địa và cũng không là một giá trị của nền văn hóa Trung Hoa. Ngày nay giấc mơ của rất nhiều người Trung Quốc là được chạy ra nước ngoài định cư và xây dựng cuộc sống mới.

Nếu nhượng quyền canh tác cho người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam 99 năm, chắc chắn chỉ sau vài chục năm họ cũng sẽ bỏ đi vì sau lưng họ chỉ còn là một vùng đất ô trọc, không một sinh vật nào còn sống nổi. Không cần nhìn xa, kiểm nghiêm lại những dự án khai thác và sản xuất do phía Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam thì sẽ thấy : các nhà máy khai thác bô-xít Tây Nguyên, sinh vật, thực vật và cây cả nào còn sống sót chung quanh những hồ chứa thải ? Vụ nhà máy thép Formosa Hà Tĩnh, chỉ sau hai năm hoạt động còn sinh vật nào sống sót dưới lòng biển duyên hải phía bắc miền Trung ? Rồi các nhà máy điện than, nhà máy sản xuất giấy, chỉ sau vài tháng hoạt động bao nhiêu động vật, bao nhiêu tấn cá, bao nhiêu khu sinh thái và diện tích đất đai bị hủy hoại ? Với 99 năm nhượng quyền khai thác, phía Trung Quốc sẽ xây những bồn chứa và dự trữ xăng dầu khổng lồ để tiếp tế cho đội tàu viễn dương dọc vùng duyên hải miền Trung, những bãi biển xinh đẹp, con gà đẻ trứng vàng, nguồn lợi trời cho của Việt Nam còn lại gì nếu không bị hủy hoại bởi những vết dầu loang, chất thải độc thì cũng bị chiếm hữu những vùng cận biển đẹp ? Tương lai của vùng duyên hải miền Trung sẽ bị xấu xí hóa không ai muốn đến, các khu dân cư và khu sinh thái sẽ bị ô nhiễm và nguồn tôm cá bị hủy tiêu... Con cháu chúng ta sẽ làm gì với những đống bê tông mục rữa và những đống sắt phế liệu sét rỉ để lại sau 99 năm ?

Phải tố giác và cảnh báo người Việt Nam, trong và ngoài chính quyền, trong và ngoài đảng, nguy cơ mất nước là có thật. Trong nỗi bất hạnh này, đảng viên hay không đảng viên, mọi người Việt Nam đều cùng chia sẻ thân phận hẩm hiu chung của kiếp nô lệ.

Trước khi quá muộn, trách nhiệm cảnh tĩnh đầu tiên thuộc về giới làm báo, vì họ đã thấy, đã viết và đã thông tin. Nhưng trách nhiệm chính vẫn thuộc về những người hiểu biết, những người được gọi là trí thức. Hãy thông tin, hãy viết, hãy tố cáo và kêu gọi dân tộc Việt Nam phản ứng. Nếu không ai làm gì thì thôi đành vậy, tương lai của dân tộc Việt Nam đã được thấy trước : nô lệ cho đảng cộng sản cầm quyền và cho những chủ nhân ông Trung Quốc.

Kính mời quý độc giả tham khảo thêm những bài khảo luận về hiện tượng tham nhũng bất động sản tại Việt Nam của nhà báo Thiền Lâm, cộng tác viên nhật báo CaliToday News, phát hành tại Hoa Kỳ. 

Nguyễn Văn Huy

 

*********************

3. Việt Nam đang biến thành thuộc địa !

Nguyễn Văn Huy, Thông Luận 25/04/2018

Từ nhiều tháng qua, dư luận trong và ngoài nước dường như đã và đang bị choáng ngộp bởi lượng thông tin liên quan đến chống và bắt tham nhũng trong nước. Những quan tham trong các đại công ty nhà nước, đặc biệt là trong ngành công an và quân đội lần lượt bị bắt và truy tố. Mọi người đều hài lòng vì ít ra ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, đã dám làm những việc mà chính ông và những đồng nhiệm trước đó đã không dám làm vì sợ làm vỡ bình, nghĩa là dám đánh vào chính mình, dám làm sạch guồng máy cầm quyền. Có làm được hay không, đó là một chuyên đề khác.

Gần như mỗi ngày báo chí trong nước cung cấp những thông tin khá hấp dẫn liên quan đến chống và bắt tham nhũng ở cấp cao, không những trong ngành công an mà còn cả ở những các cấp chính quyền, từ trung ương đến địa phương. Như bị mê hoặc, dư luận rất khoái trá trước những thông tin về chức vụ và lượng tiền khổng lồ mà những quan tham đã chiếm dụng và số năm tù phạt quan tham. Ngoài chuyện đánh bắt tham nhũng, những gì đang xảy ra trong nước gần như không còn được báo chí trong nước quan tâm.

Nhưng lá không thể che lấp rừng. Tương lai và sự tồn vong của dân tộc và đất nước không phải chỉ là chống tham nhũng. Tất cả chỉ là hỏa mù để che lấp một âm mưu thâm độc hơn : Trung Quốc đang âm thầm thực hiện âm mưu biến Việt Nam thành thuộc địa.

Đây là cả một quy trình đã được chuẩn bị rất kỹ càng và có lớp lang, có thể đã bắt đầu từ thập niên 1970 dưới thời Chu Ân Lai và được cụ thể hóa từ sau năm 1990, qua Hội nghị Thành Đô. Chính sách thuộc địa hóa Việt Nam tuy tiệm tiến nhưng chắc chắn : cố vấn để khống chế Đảng cộng sản Việt Nam trong mọi lãnh vực, đặc biệt là ngoại giao và quốc phòng. Chuyên gia Trung Quốc trong những ban công tác đã phác thảo ra những chương trình hợp tác giữa hai nước trong chiến lược thuộc địa hóa này : mở đường ra biển về phía nam bằng cách chiếm các hải đảo trong quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ; xác định lại khu vực biên giới trên đất liền để bảo vệ an ninh lãnh thổ và làn ranh phân chia lãnh hải để mở rộng chủ quyền trên biển và chiếm giữ những nguồn tài nguyên dưới biển ; đưa người ồ ạt sang Việt Nam để khống chế sinh hoạt kinh tế và tìm kiếm những vùng đất tốt để xây dựng cơ sở khai thác và ở lại lâu dài trong mục tiêu nắm quyền điều khiển đất nước Việt Nam, đầu tiên là kinh tế tài chính và sau đó là chính trị và văn hóa. Tất cả đều diễn ra theo đúng bài bản của một chính sách thực dân nhằm biến Việt Nam thành một thuộc địa của Trung Quốc, với sự đồng lõa của Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam và đám quan lại trong guồng máy đảng và nhà nước. Cũng nên chú ý, hệ thống an ninh và luật pháp Việt Nam đã tỏ ra rất dễ dãi với những tội phạm hình sự nhưng rất hung bạo với những ai có hành vi chống Trung Quốc, dù là ông già bà cả, trẻ em hay phụ nữ có con thơ.

bds1

Mỗi ngày có hàng nghìn khách Trung Quốc là người cao tuổi nhập cảnh vào Việt

Kế hoạch thuộc địa hóa này đã và đang thực hiện một cách thành công, qua chương trình đầu tư bất động sản. Người Trung Quốc chỉ muốn vào ở những nơi có tiềm năng kinh tế cao, nghĩa là trong các trung thâm thành thị, cạnh những trục lộ giao thông và giao thương có tầm vóc (hải cảng, giang cảng, thương cảng đường bộ và đường sắt), những địa điểm du lịch có khả năng thu lợi cao, những địa danh có phong thủy tốt… để chỉ có thể phát tài thêm hơn.

Vì Việt Nam là một chế độ độc tài, kế hoạch thuộc địa hóa này rất dễ thực hiện : đầu tiên là móc nối với những quan chức đảng và nhà nước có quyền quyết định hay có quyền ký kết, đương nhiên là với những khoảng tiền lót bàn phải tính bằng chục triệu USD dưới bàn. Để tránh tai tiếng, những quan chức này (ít nhất là cấp Trung ương hay Bộ Chính trị) tháo khoáng cho những đàn em hay thân tín (cấp bộ trưởng hay cấp tướng) đảm nhiệm công tác giao dịch với người cung cấp tiền (phía Trung Quốc) và thương lượng với cơ quan hay các cấp chính quyền, quân đội và công an có quyền quyết định về truất hữu quyền sử dụng đất. Từ đó nảy sinh những đại gia bất động sản, rất nhiều người trở đã thành tỷ phú đô la, và cũng từ đó sản sinh những tiểu gia bất động sản (vài chục triệu USD) sẵn sàng chiếm dụng những vùng đất tốt bằng mọi giá để bán lại với giá cao hơn gấp nhiều lần.

Những đại gia trung gian bất động sản chỉ cho mượn danh và chẳng phải làm gì cả, nhiệm vụ duy nhất của những người này là không để người Việt gây xáo trộn, cản trở những công trình xây cất. Công tác và chi phí xây dựng những công trình quy mô phần lớn đều do phía Trung Quốc cung cấp và đài thọ, vì Việt Nam không đủ khả năng cung cấp : vật tư xây cất (dụng cụ dựng sàn, xe cần cẩu, cần trục, xe ủi đất...), nguyên vật liệu xây dựng (ximăng, sắt thép, dây điện, ống nước, linh kiện điện nước), nhân công từ cao cấp (từ kỹ sư, kiến trúc sư, thợ cả đến thợ nề, thợ mộc, thợ điện, thợ ống nước...), vật tư và vật liệu xây dựng đường sá...

Sự khôn ngoan của người cung cấp tiền (phía Trung Quốc) là không muốn người làm trung gian hợp tác vay tiền của các ngân hàng Việt Nam, vì sợ bị kiểm soát. Nếu bắt buộc phải vay để hợp thức hóa công trình xây dựng thì chỉ được vay với những số tiền nhỏ (tuy nhỏ nhưng cũng đủ gây khó khăn cho ngân hàng nếu trở thành nợ xấu, nghĩa là không đủ khả năng trả nợ, và thường là nợ xấu vì người vay tuyên bố phá sản và chuyển quyền khai thác cho nhà đầu tư bất động sản bản xứ khác).

Hiện nay ở Việt Nam đã và đang xuất hiện rất nhiều cao ốc và cơ ngơi sang trọng, với hàng trăm ngàn căn hộ trống chưa có người mua (ở trong và cạnh các trung tâm đô thị, cạnh các trục lộ giao thông chính, cạnh các bờ sông, xa lộ, phi cảng và hải cảng quốc tế…), mà lợi tức trung bình của một người Việt Nam lương thiện không thể mua nổi.

Vậy những căn hộ này bán cho ai ? Chỉ có một khách hàng duy nhất : người Trung Quốc.

Cũng nên biết không phải người Trung Quốc yêu mến gì thắng cảnh xinh đẹp của Việt Nam mà ồ ạt tràn vào Đà Nẵng, đảo Lý Sơn, Nha Trang, Cam Ranh, Phan Thiết, Cần Thơ, Phú Quốc và Sài Gòn tham quan. Những người này chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là bám trụ chờ khi được bật đèn xanh thì làm thủ tục mua nhà, làm việc trong những hãng xưởng thuộc khu kinh tế đặc biệt do người Trung Quốc lục địa làm chủ, hay xây dựng cơ sở buôn bán để ở lại Việt Nam lâu dài.

Vào thời điểm này (tháng 4/2018) đèn xanh đã được bật. Chính quyền cộng sản Việt Nam đã sửa đổi Luật đất đai 2013 cho phép người nước ngoài mua nhà đất ở Việt Nam (mà nhiều người tưởng dành riêng cho Việt kiều). Theo Luật nhà ở 2014, cá nhân người nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam và không thuộc diện được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự thì được quyền mua, thuê mua, tặng cho, nhận thừa kế nhà ở thương mại. Thời hạn sở hữu nhà theo thỏa thuận trong các hợp đồng giao dịch nhưng không quá 50 năm kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận và có thể được gia hạn. Thời hạn sở hữu nhà ghi rõ trong giấy chứng nhận... nhưng người Trung Quốc muốn gia hạn tới 99 năm, nghĩa là muốn ở lại lâu dài. 

Hiện nay số lượng cao ốc và những khu biệt cư đã và đang xây dựng ở Việt Nam đủ để cung cấp cho hơn một triệu người nước ngoài vào ở. Số Việt kiều và người có quốc tịch phương Tây muốn mua nhà ở Việt Nam cao lắm là vài ngàn, số còn lại không ai khác hơn là khách du lịch Trung Quốc (không chịu đi tham quan) đang nằm vùng chờ cơ hội công khai để lộ diện.

Bây giờ giới chủ nhân cung cấp vốn gốc Trung Quốc không muốn chuyển tiền cho những trung gian người bản xứ (Việt Nam) xây cất nữa mà muốn trực tiếp đảm nhiệm. Công tác mua chuộc các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương ở Việt Nam đã hoàn tất, những người này muốn bạch hóa lượng tiền bỏ ra, vì đã được tẩy trắng bởi những đại gia bất động sản Việt Nam. Thời gian đang chín muồi cho sự lộ diện ồ ạt của chủ nhân những nguồn tiền khổng lồ đó, dưới hình thức "đầu tư trực tiếp nước ngoài" (Foreign Direct Investment - FDI), đến từ Thượng Hải và Quảng Châu.

Hai tin ngắn dưới đây cho thấy âm mưu cụ thể hóa quyền chuyển nhượng nhà đất của chính quyền cộng sản Việt Nam vào tay người Trung Quốc. Hệ quả của sự chuyển nhượng này là quyền lãnh đạo đất nước sẽ được chuyển từ từ vào tay người Trung Quốc. Lý do rất dễ hiểu : sở hữu được nhà thì sẽ sở hữu luôn quyền quyết định sinh hoạt nơi cư trú. Trong những ngày sắp tới số người Trung Quốc này chỉ đông lên thêm chứ không thể giảm xuống. Họ đã mua chuộc hầu hết các cấp chính quyền, họ có đủ mọi mọi phương tiện để có mọi giấy tờ cần có để hợp lệ hóa sự hiện diện và họ còn có thêm những quyền mà người Việt Nam không có như không nói tiếng Việt, không học tiếng Việt, không hội nhập vào xã hội Việt, không cho người Việt, kể cả các cấp chính quyền Việt Nam, được vào những khu vực dành riêng cho người Trung Quốc... Nói chung họ chỉ muốn là những khách trú ưu đãi, được hưởng tất cả những hoa lợi thu được ở Việt Nam mà không có một trách nhiêm gì cả, kể cả đóng thuế. Một cách ngắn gọn, họ là giai cấp thực dân mới.

Hơn nữa, cũng nên biết người Trung Quốc ở Việt Nam không muốn bị người Việt Nam cai trị, họ chỉ muốn được tự trị và lệ thuộc vào chính quyền Bắc Kinh. Ngược lại họ có quyền điều khiển người Việt Nam, qua trung gian giai cấp tôi đòi đảng cộng sản Việt Nam, để nắm yết hầu dân tộc Việt Nam qua các sinh hoạt kinh tế, quốc phòng và văn hóa.

Người Việt trong nước ơi, hãy thức tĩnh và ngăn chặn bàn tay bán nước đang biến con cháu mình thành nô lệ. Chỉ người Việt mới có thể cứu người Việt, hãy mở mắt và lấy quyết định dấn thân.

Nguyễn Văn Huy

*******************

Đọc thêm :

 

Doanh nghiệp Trung Quốc đề xuất đưa lao động sang Việt Nam, và sở hữu nhà 100 năm (RFA, 24/04/2018)

Một doanh nghiệp bất động sản lớn của Trung Quốc vừa đề nghị thành phố Hồ Chí Minh cho phép người Trung Quốc sở hữu nhà với thời hạn tới 100 năm vì doanh nghiệp này có thể sẽ đưa nhân viên Trung Quốc sang làm việc.

bds2

Ban giám đốc điều hành của tập đoàn bất động sản E-House của Trung Quốc.  thanhnien.vn

Thông tin được đưa ra tại buổi làm việc giữa Chính Hiệp Thượng Hải Trung Quốc và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra hôm 24/4.

Tại buổi làm việc, ông Ding Zuyu, Tổng giám đốc tập đoàn E-House của Trung Quốc cho biết, tập đoàn này đang có kế hoạch mở rộng đầu tư bất động sản tại Thành phố Hồ Chí Minh và hiện nay tập đoàn đã tham gia một vài dự án tại đây và sẽ mở bán trong thời gian tới cùng với việc mở công ty tại Việt Nam.

Ngoài ra ông Ding Zuyu còn đề nghị đưa các nhân viên từ Trung Quốc sang Việt Nam để làm việc và việc sở hữu nhà dành cho người nước ngoài lên tới 100 năm thay vì sở hữu 50 năm như luật qui định.

Hiện nay, Trung Quốc có 202 dự án tại Thành phố Hồ Chí Minh với tổng vốn đầu tư các dự án lên tới hơn 150 triệu đô la và dự án lớn nhất lên tới 30 triệu đô la. Với tổng vốn đầu tư này Trung Quốc hiện xếp thứ 20 trong 96 quốc gia đầu tư tại đây.

Báo Thanh Niên trích lời bà Lê Huỳnh Mai, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cho biết theo luật Nhà ở, người nước ngoài được quyền mua nhà tại Việt Nam nhưng phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Bà nói việc xem xét kéo dài thời gian sở hữu chỉ áp dụng đối với những dự án đặc biệt quan trọng tới sự phát triển của Việt Nam và phải do Thủ tướng xem xét.

********************

Đoàn đại biểu cấp cao thành phố Thượng Hải Trung Quốc thăm Việt Nam (RFA, 23/04/2018)

Một đoàn cán bộ thành phố Thượng Hải của Trung Quốc vào ngày 23 tháng 4 được Tổng thư ký Ủy ban trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tiếp tại Hà Nội.

bds3

Ông Châu Hán Dân và ông Hầu A Lềnh tapchimattran.vn

Tin cho biết, ông Hầu A Lềnh, Phó Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt Trận Tổ Quốc đại diện phía Việt Nam tiếp đón đoàn thành phố Thượng Hải, và trình bày về tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng của Việt Nam trong năm 2017 cho phía đoàn Thượng Hải.

Đại diện đoàn đại biểu Thượng Hải do ông Châu Hán Dân, Phó chủ tịch Chính hiệp Thành phố Thượng Hải dẫn đầu.

 

---------------------------

Mc lục

 

Phần 0 - Tổng quan

Phần 1 - Nắm giữ miền Bắc

Phần 2 - Hai hành lang một vành đai kinh tế

Phần 3 - Muốn làm chủ luôn cả miền Nam

Phần 4 - Khu đô thị mới Thủ Thiêm

Phần 5 - Bằng chứng của một sự phản bội 

Published in Tư liệu

Phần 5

Bằng chứng của một sự phản bội

Những văn kiện chuyển nhượng chủ quyền đất nước

Lời giới thiệu : Từ nhiều năm qua, người Việt trong và ngoài nước đã bỏ ra nhiều công sức để tìm hiểu nội dung những thỏa thuận đã được ký kết giữa hai ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc trong Hội nghị Thành Đô tháng 9 năm 1990. Lý do là vì từ sau ngày đó Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã thay đổi cách quản trị đất nước của những bậc cha anh trước đó, nghĩa là nhu nhược và liên tục nhượng bộ Trung Quốc trước những đòi hỏi ngày càng quá đáng, kể cả muốn chiếm luôn quyền lãnh đạo đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam, nguy cơ mất nước ngày càng hiện thực.

tuyenbo1

"Sơn thủy tương liên, văn hóa tương thông, lý tưởng tương đồng, vận mệnh tương quan" trong quan hệ Việt Trung. Ảnh minh họa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong chuyến viếng thăm Việt Nam tháng 11/2015

Lo âu này thể hiện qua Kiến nghị của một số cựu sĩ quan Lực lượng vũ trang nhân dân gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 2/9/2014 yêu cầu : Đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam công bố những gì đã thỏa thuận với phía Trung Quốc qua Hội nghị Thành Đô tháng 9 năm 1990. Cho đến nay Kiến nghị này chưa bao giờ được trả lời và có lẽ đã bị chìm đắm trong lãng quên.

Mặc dù vậy, nếu chịu khó quan sát và cũng không cần phải viết thư, gởi kiến nghị yêu cầu Ban lãnh đạo Đảng và Chính phủ trả lời hay giải thích, chỉ cần đọc kỹ từng Tuyên bố chung, người ta sẽ thấy Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam đã thỏa thuận những gì với Trung Quốc từ sau Hội nghị Thành Đô 1990 đến nay.

Việt Nam là một thể chế chuyên chính, Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, theo Điều 4 Hiến pháp, thay mặt những định chế của Nhà nước để ký những thỏa thuận cấp quốc gia mà không cần phải thông qua sự phê duyệt của Quốc hội. Chính vì thế, văn khố của Quốc hội và Ngân hàng nhà nước không có văn bản gốc những thỏa thuận này để lưu trữ, do đó rất khó tìm.

Như vậy, nếu muốn biết Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã ký những gì với Trung Quốc sau Hội nghị Thành Đô thì phải yêu cầu công bố những thỏa thuận đã ký và được ghi trong từng Tuyên bố chung, hay Thông cáo chung. Để gợi ý, mỗi Tuyên bố chung đều có ghi phần tóm lược những thỏa thuận đã ký.

Từ sau năm 2000 đến 2015, Trung Quốc và Việt Nam đã công bố trên dưới 10 Tuyên bố chung và từ 2016 đến nay đã có ít nhất 5 Thông cáo chung cấp Đảng, Nhà nước và Chính phủ được phổ biến (tài liệu chưa đầy đủ, cần bổ túc thêm).

Sau khi tìm được và đọc những văn bản này, người đọc phải giữ cho mình một tinh thần sáng suốt, một thái độ bình tĩnh, một sự kiên nhẫn không phai để đọc nhiều lần, nhiều ngày và ghi chép những gì muốn tìm hiểu thêm, vì cách hành văn mang tính tuyên truyền, dài và luộm thuộm, và sử dụng những danh từ đầy ẩn ý như trong thi ca Hán tự. Chẳng hạn như "ngoài khơi Vinh Bắc bộ", phải hiểu là Biển Đông…

Mặc dù vậy, những Tuyên bố chung và Thông cáo chung này được ban soạn thảo trình bày theo một bố cục khá ổn định, không thay đổi nhiều theo thời gian và được sắp xếp theo một thứ tự nhất định :

Phần 1 nói về lý do của chuyến viếng thăm cùng với tên và chức vụ của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước để ra Tuyên bố chung.

Phần 2 nhắc lại phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt.

Phần 3 (dài nhất và quan trọng nhất) nhấn mạnh quyết tâm làm sâu sắc hợp tác chiến lược toàn diện trong từng lãnh vực :

- tóm lược những thành quả đã đạt được của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương (chương trình hành động triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược) trong từng giai đoạn ;

- tăng cường chỉ đạo vĩ mô, quy hoạch tổng thể và thúc đẩy toàn diện sự hợp tác đang hoặc sẽ thực hiện ("Chương trình hành động triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc") cấp Đảng trong tất cả các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh, tư pháp, kinh tế, tài chính, nông nghiệp, ngư nghiệp, văn hóa, giáo dục, khoa học, du lịch.

- ấn định lịch trình và nội dung hợp tác của từng giai đoạn về kinh tế (giao thông và vận tài, trị giá kim ngạch trao đổi), về tài chính (tạo điều kiện đầu tư, thanh quyết bằng đồng nhân dân tệ ở vùng biên giới).

- khuyến khích gặp gỡ hữu nghị giữa thanh niên Việt Nam và Trung Quốc, khuyến khích nghiên cứu sinh Việt Nam sang Trung Quốc thực tập.

- Từ năm 2013, Trung Quốc đề nghị tăng cường hợp tác giữa các tỉnh biên giới hai nước, cụ thể là 7 tỉnh của Việt Nam (Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh) với 4 tỉnh và khu tự trị của Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam và Vân Nam để tạo thành một đơn vị hành chính mới.

Phần 4 phác họa cách giải quyết những bất đồng về biên giới trên đất liền, và nhất là những bất đồng trên vùng biển chủ quyền. Nhóm công tác về vùng biển có nhiệm vụ soạn thảo những thỏa thuận về hợp tác khai thác trên và dưới mặt nước, trong và ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.

Phần 5 ủng hộ chính sách một nước Trung Quốc, không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan.

Phần 6 điều phối và phối hợp với Trung Quốc trên các diễn đàn quốc tế và khu vực.

Phần 7 tóm lược những thỏa thuận đã ký.

Phần 8 đề nghị lần gặp gỡ cấp cao để ra một Tuyên bố chung cho lần tới.

Có lẽ biết những thỏa thuận này là xấu, Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam luôn tìm cách che đậy và giấu giếm. Khi bị bắt buộc, vì là những văn bản ký kết giữa hai cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước, những Tuyên bố chung và Thông cáo chung này chỉ được phổ biến giới hạn trên các phương tiện truyền thông của Đảng, Đoàn, Quân đội, Công an, An ninh, Chính phủ…, không được báo đài nói đến nhiều và biến mất sau một vài ngày công bố. Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam có lẽ hiểu rõ hậu quả tai hại của những thỏa thuận này đối với dân tộc và đất nước nên đã tìm mọi cách ém nhẹm, vì đây là những bằng chứng cụ thể về sự phản bội, hành động bán nước của Đảng cộng sản Việt Nam.

Dưới đây là một số văn kiện của những thỏa thuận chuyển nhượng chủ quyền đất nước của Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam cho Trung Quốc mà chúng tôi đã sưu tầm được.

Nguyễn Văn Huy

******************

Những Tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 2000 đến nay

1. Tuyên bố chung 25/12/2000

Thứ hai 25/12/2000

Tuyên bố chung về Hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2000)

Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa (dưới đây gọi tắt là "hai bên") là hai nước láng giềng Xã hội Chủ nghĩa có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Trong 50 năm qua kể từ ngày thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ Việt – Trung đã không ngừng củng cố và phát triển.

tuyenbo02

Từ khi bình thường hóa quan hệ hai nước năm 1991, trên cơ sở những nguyên tắc được ghi nhận trong các "Thông cáo chung" năm 1991, năm 1992, năm 1994, năm 1995 và "Tuyên bố chung" năm 1999 nhân các cuộc gặp giữa các lãnh đạo cấp cao hai nước, quan hệ hữu nghị truyền thống, tin cậy lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi giữa hai nước đã phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực, giao lưu giữa các ngành, các cấp diễn ra thường xuyên.

Tháng 2 năm 1999, Tổng Bí thư hai Đảng đã xác định phương châm 16 chữ phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ 21 là "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Điều này phù hợp với lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, có lợi ích cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Hai bên khẳng định lại, tiếp tục căn cứ theo tôn chỉ và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình và các quan hệ quốc tế đã được thừa nhận, thúc đẩy quạn hệ giữa hai nước phát triển toàn diện. Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị trên cơ sở các nguyên tắc : độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Để thực hiện có hiệu quả phương châm chỉ đạo 16 chữ, không ngừng thúc đẩy quan hệ hai nước bước sang một giai đoạn phát triển mới trong thế kỷ 21, hai bên đồng ý tăng cường và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực sau :

I. Duy trì gặp gỡ cấp cao thường xuyên, tạo thêm động lực mới thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển ; tăng cường hơn nữa tiếp xúc hữu nghị và giao lưu hợp tác dưới nhiều hình thức giữa các ban ngành, các tổ chức quần chúng và các địa phương của hai nước.

II. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đối với thế hệ trẻ hai nước về truyền thống hữu nghị ; triển khai trao đổi, giao lưu hữu nghị giữa thanh thiếu niên hai nước, góp phần tăng cường sự tin cậy và tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, làm cho tình hữu nghị, sự tin cậy và hợp tác giữa nhân dân hai nước được kế tục và không ngừng phát triển.

III. Trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, coi trọng hiệu quả thực tế, bổ sung ưu thế cho nhau, hình thức đa dạng, cùng nhau phát triển, tiếp tục tăng cường và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật giữa hai nước. Vì vậy, hai bên đồng ý cùng nỗ lực hỗ trợ trong các lĩnh vực sau : 

1. Phát huy đầy đủ vai trò của Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế thương mại trong việc tăng cường quan hệ kinh tế thương mại và hợp tác đầu tư giữa hai nước. Thông qua nhiều hình thức đa dạng như phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của các công ty lớn, mở rộng buôn bán hàng hóa khối lượng lớn, khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp hai bên triển khai các dự án hợp tác lớn, mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai bên. Tạo dựng môi trường kinh doanh tốt đẹp, không ngừng khai thác tiềm năng, đảm bảo mậu dịch giữa hai bên tăng trưởng ổn định liên tục ; duy trì chính sách đầu tư ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư giữa các doanh nghiệp của hai bên ; tích cực quán triệt thực hiện "hiệp định về mua bán hàng hóa ở vùng biên giới", tăng cường phối hợp trong công tác quản lý, quy phạm hóa buôn bán biên giới giữa hai nước.

2. Phát huy vai trò điều tiết và chỉ đạo vĩ mô của Ủy ban liên chính phủ về hợp tác khoa học kỹ thuật, thúc đẩy hợp tác và trao đổi về khoa học kỹ thuật, hướng dẫn và khuyến khích các cơ quan hữu quan của chính phủ, các cơ sở và viện nghiên cứu khoa học, các trường đại học, các xí nghiệp phục vụ khoa học kỹ thuật của hai nước phát triển rộng rãi hợp tác khoa học kỹ thuật trong các lĩnh vực như thông tin, sinh học, nông nghiệp, khí tượng, hải dương, bảo vệ môi trường, sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình và các lĩnh vực mà hai bên cùng quan tâm.

3. Tích cực thúc đẩy hợp tác cùng có lợi giữa hai nước về nông, lâm, ngư nghiệp, khuyến khích và ủng hộ các xí nghiệp và các cơ quan hữu quan của hai nước tăng cường trao đổi và hợp tác trên các mặt như tạo ra các giống cây trồng nông nghiệp, giống gia súc gia cầm tốt, chế biến sản phẩm nông, lâm nghiệp, chế tạo máy móc công nghiệp, đánh bắt trên biển, nuôi trồng thủy sản.

4. Tăng cường trao đổi và hợp tác trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ và điều tiết kinh tế vĩ mô. 

5. Tăng cường hợp tác trên lĩnh vực giao thông vận tải, cùng nhau phát triển vận chuyển hành khách, hàng hóa qua tuyến đường sắt quốc tế giữa hai nước, mở rộng đường sắt liên vận quốc tế đến nước thứ 3, thúc đẩy ttrao đổi nhân viên và hàng hóa.

6. Khuyến khích ngành bưu điện hai nước tăng cường trao đổi và hợp tác trên các mặt hiện đại hóa mạng lưới bưu chính, viễn thông, ứng dụng kỹ thuật mới, khai thác nghiệp vụ mới. 

7. Mở rộng hợp tác du lịch, khuyến khích nghành du lịch giữa hai nước tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm trên các mặt như quản lý, quảng cáo tiếp thị, đào tạo nguồn nhân lực mới và tạo thuận lợi cho công nhân hai nước và công dân nước thứ ba đi du lịch hai nước.

8. Tăng cường trao đổi hợp tác thông tin trên các lĩnh vực như bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và khí tượng thủy văn ; cùng nỗ lực hợp tác và khai thác khu vực sông Mê Công. 

9. Mở rộng hợp tác, trao đổi kinh nghiệm trên các mặt như qui hoạch, xây dựng, quản lý, phát triển đô thị và đào tạo nguồn nhân lực.

IV. Hai bên tiếp tục tăng cường hợp tác, phối hợp giữa hai bên tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực như Liên Hợp quốc, ARF, Hợp tác Đông Á, ASEM, APEC, thúc đẩy sự đoàn kết và hợp tác giữa các nước đang phát triển, tiếp tục ra sức xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế mới công bằng, hợp lý, có đóng góp mới cho việc bảo vệ hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và tên thế giới.

Hai bên đánh giá cao vai trò tích cực của tổ chức ASEAN đối với sự ổn định và phát triển của khu vực, khẳng định lại sẽ tiếp tục dốc sức tăng cường quan hệ láng giềng, đối tác tin cậy giữa các nước ASEAN với Trung Quốc, nỗ lực tích cực vì ổn định và phồn vinh lâu dài của Châu Á, đặc biệt là khu vực Đông Á.

Tiếp tục tăng cường cơ chế trao đổi ý kiến hàng năm giữa quan chức cấp cao Bộ ngoại giao hai nước, trao đổi ý kiến về những vấn đề song phương, khu vực và quốc tế mà hai bên cùng quan tâm.

V. Thông qua việc triển khai qua lại quân sự ở các cấp và các lĩnh vực khác nhau, tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa các cơ quan quốc phòng và quân đội hai nước, mở rộng trao đổi và hợp tác trong lĩnh vực an ninh.

VI. Tăng cường trao đổi và hợp tác về văn hóa, thể dục thể thao, và các phương tiện thông tin đại chúng, bao gồm tăng cường thăm lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm, triển khai đào tạo nhân lực...

VII. Mở rộng hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, bao gồm trao đổi lưu học sinh, cán bộ giảng dạy, khuyến khích và ủng hộ các trường đại học, các ngành giáo dục và các cơ sở nghiên cứu của hai bên tăng cường hợp tác trực tiếp.

VIII. Tăng cường hợp tác trong các mặt phòng chống các loại tội phạm xuyên quốc gia cũng như trao đổi và hợp tác giữa các cơ quan tư pháp, công an, tòa án, viện kiểm sát của hai bên, tăng cường trao đổi kinh nghiệm giữa các cơ quan kỷ luật, kiểm sát, giám sát của hai bên về chống tham nhũng đề cao liêm khiết .

IX. Hai bên nhất trí cho rằng, việc hai nước ký kết "Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", "Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", "Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" có ý nghĩa lịch sử sâu rộng, sẽ thúc đẩy hơn nữa quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển mạnh hơn nữa trong thế kỷ 21. Hai bên cam kết sẽ nghiêm chỉnh thực hiện các thỏa thuận liên quan đã ký kết giữa hai nước, tích cực hợp tác, nỗ lực xây dựng biên giới hai nước thành biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài.

Hai bên khẳng định, tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán hiện có về vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hòa bình để tìm ra một giải pháp cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Trước khi vấn đề được giải quyết, với tinh thần dễ trước khó sau, hai bên tích cực bàn bạc, tìm kiếm khả năng và giải pháp triển khai hợp tác trên biển trong các lĩnh vực như : bảo vệ môi trường biển, khí tượng thủy văn, phòng chống thiên tai. Đồng thời, hai bên đều không tiến hành các hành động làm phức tạp thêm hoặc mở rộng tranh chấp, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Hai bên cần bàn bạc kịp thời và giải quyết những bất đồng nảy sinh với thái độ bình tĩnh xây dựng, không để bất đồng ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của quan hệ hai nước.

X. Hai bên khẳng định lại những nhận thức chung đã đạt được trong các Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc 10/11/1991, 22/11/1994, 2/12/1995 và tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc 27/2/1999 : phía Việt Nam khẳng định một nước Trung Quốc, Việt Nam công nhận Chính phủ nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa là Chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn Trung Quốc ; Đài Loan là một bộ phận lãnh thổ không thể chia cắt của Trung Quốc. Việt Nam chỉ giao lưu về kinh tế, thương mại phi chính phủ với Đài Loan, không phát triển quan hệ chính phủ với Đài Loan. Phía Trung Quốc tỏ sự hiểu biết và hoan nghênh lập trường trên đây của phía Việt Nam. Phía Trung Quốc khẳng định vấn đề Đài Loan hoàn toàn là vấn đề thuộc công việc nội bộ của Trung Quốc và kiên quyết phản đối các nước đã lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc có quan hệ chính phủ dưới bất cứ hình thức nào, hoặc có bất cứ sự đi lại nào mang tính Chính phủ với Đài Loan.

Tuyên bố chung được ký tại Bắc Kinh, ngày 25 tháng 12 năm 2000 thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt và tiếng Trung, cả hai văn bản đều có giá trị như nhau.

Đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên

Đại diện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đường Gia Triền

Nơi nhận

- Văn phòng Chủ tịch nước (để báo cáo), 

- Văn phòng Chính phủ (để báo cáo), 

- Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, 

- Bộ Tài chính, 

- Bộ Thương mại, 

- Bộ Nông nghiệp và PTNT, 

- Bộ Giao thông vận tải, 

- Bộ Giáo dục và Ðào tạo, 

- Bộ Công nghiệp, 

- Bộ Khoa học, CN – MT, 

- Bộ Thủy sản, 

- Bộ Quốc phòng, 

- Bộ Văn hóa - thông tin, 

- Bộ Tư pháp, 

- Bộ Xây dựng, 

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 

- Tòa án nhân dân tối cao, 

- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 

- Tổng cục Bưu điện, 

- Tổng cục Du lịch, 

- Tổng cục Khí tượng thủy văn, 

- Ðại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, 

- Vụ Châu Á 1, 

- Vụ LPQT, 

- Lưu trữ.

************************

2. Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 02/11/2005

Thứ Tư, 02/11/2005

1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào đã thăm hữu nghị chính thức Việt Nam từ ngày 31 tháng 10 đến ngày 2 tháng 11 năm 2005. Trong thời gian thăm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã tiến hành hội đàm với Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, lần lượt gặp Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An và đã nhận lời mời đến phát biểu tại Quốc hội Việt Nam. Trong không khí thân mật, hữu nghị, lãnh đạo hai bên đã đi sâu trao đổi và đạt được nhận thức chung rộng rãi về việc tăng cường và phát triển hơn nữa quan hệ giữa hai Đảng, hai nước và các vấn đề khu vực, quốc tế cùng quan tâm.

Hai bên cho rằng, chuyến thăm thành công lần này sẽ đưa quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước Việt-Trung phát triển lên một tầm cao mới, đồng thời sẽ có ảnh hưởng tích cực đối với hòa bình, ổn định, phát triển và hợp tác ở khu vực và thế giới.

2. Hai bên vui mừng trước những thành tựu mang tính lịch sử mà hai Đảng, hai nước giành được trong việc tìm tòi con đường phát triển xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình của mỗi nước. Phía Trung Quốc chân thành chúc và tin tưởng Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam sẽ giành được những thành tựu mới, to lớn hơn nữa trong sự nghiệp vĩ đại xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phía Việt Nam tin tưởng vững chắc rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ không ngừng giành được những thành tựu mới trong sự nghiệp vĩ đại xây dựng xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc.

3. Hai bên đã điểm lại và tổng kết những thành quả to lớn mà quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước đã giành được trong 55 năm qua kể từ khi hai nước Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao, đặc biệt là từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay, nhất trí cho rằng, tôn trọng lẫn nhau, hiểu biết lẫn nhau, ủng hộ lẫn nhau, tin cậy lẫn nhau và hợp tác cùng nhau là kinh nghiệm quan trọng để quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển ổn định, lành mạnh và thuận lợi. Tình hữu nghị Việt - Trung là tài sản quý báu của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước. Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai là phương châm chỉ đạo phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước trong thời kỳ mới. Mãi mãi là láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt là mục tiêu chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước.

Hai bên cho rằng, tăng thêm hữu nghị và tin cậy lẫn nhau, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi, thúc đẩy cùng phát triển là phù hợp với lợi ích căn bản của hai nước Việt - Trung. Vì vậy, hai bên quyết tâm xuất phát từ đại cục và tầm cao chiến lược, áp dụng các biện pháp có hiệu quả, làm sâu sắc và triển khai toàn diện quan hệ hai Đảng, hai nước, tiếp tục duy trì truyền thống tốt đẹp thăm viếng lẫn nhau ở cấp cao, tăng cường trao đổi và hợp tác giữa các ngành của Đảng và chính phủ, quốc hội, đoàn thể quần chúng và địa phương trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh, văn hóa, giáo dục, đi sâu trao đổi kinh nghiệm về xây dựng Đảng, quản lý đất nước cũng như lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội, củng cố và làm sâu sắc hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau và tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, đặt biệt là tăng cường tuyên truyền và giáo dục thanh niên hai nước về truyền thống hữu nghị Việt-Trung, để tình hữu nghị muôn đời Việt - Trung thấm sâu vào lòng nhân dân hai nước, thúc đẩy quan hệ giữa hai Đảng, hai nước không ngừng mở ra cục diện mới.

4. Hai bên hài lòng về sự phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước trong những năm gần đây. Hai bên nhất trí phấn đấu thực hiện trước thời hạn mục tiêu đưa kim ngạch thương mại hai nước đạt 10 tỷ USD vào năm 2010.

Hai bên bày tỏ mong muốn thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước phát triển hơn nữa, thực hiện bổ sung ưu thế cho nhau, hai bên cùng có lợi cùng thắng. Trên tinh thần tích cực, thực tế, hai bên nhất trí mở rộng hơn nữa quy mô thương mại, đồng thời cùng có biện pháp thúc đẩy thương mại song phương phát triển cân đối ; hai bên phối hợp chặt chẽ, tích cực thúc đẩy những dự án hợp tác kinh tế lớn giữa hai nước ; cùng khuyến khích và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước tiến hành hợp tác lâu dài, tích cực triển khai đầu tư hai chiều và hợp tác kinh tế cùng có lợi với nhiều hình thức ; tăng cường phối hợp cùng tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác giữa doanh nghiệp hai nước. Hai bên bày tỏ hài lòng trước những tiến triển đạt được trong việc nghiên cứu về hợp tác kinh tế "hai hành lang, một vành đai" và hết sức tin tưởng vào triển vọng hợp tác của dự án này.

Hai bên đánh giá cao việc hai nước hoàn thành thuận lợi đàm phán về mở cửa thị trường liên quan đến việc Việt Nam gia nhập WTO. Phía Trung Quốc bày tỏ kiên quyết ủng hộ Việt Nam sớm gia nhập WTO. Hai bên đồng ý tăng cường hợp tác trong các vấn đề kinh tế thương mại khu vực và quốc tế ; cùng nhau thúc đẩy tiến trình xây dựng Khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc.

Hai bên đã ký kết nhiều Thỏa thuận hợp tác kinh tế kỹ thuật. Phía Việt Nam cảm ơn sự giúp đỡ và ủng hộ nhất quán của Trung Quốc đối với công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam.

5. Hai bên cho rằng, công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền giữa hai nước đã đạt được tiến triển rõ rệt. Hai bên đồng ý phối hợp chặt chẽ, đẩy nhanh hơn nữa tiến trình công tác, bảo đảm thực hiện đúng thời hạn mục tiêu hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới và ký văn kiện mới về qui chế quản lý biên giới chậm nhất vào năm 2008, xây dựng biên giới hai nước trở thành biên giới hòa bình, hữu nghị và ổn định lâu dài.

Hai bên đánh giá tích cực tình hình thực hiện Hiệp định phân định và Hiệp định Hợp tác nghề cá Vịnh Bắc bộ, đồng ý tiếp tục thực hiện nghiêm túc hai Hiệp định này ; cùng giữ gìn an ninh trên biển và trật tự sản xuất nghề cá ; tích cực triển khai điều tra liên hợp nguồn lợi thủy sản trong vùng đánh cá chung ở Vịnh Bắc Bộ ; khởi động hợp tác thăm dò khai thác các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định ; sớm thực hiện việc tuần tra chung giữa Hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ. Hai bên đồng ý sớm bắt đầu đàm phán về phân định vùng biển ngoài cửa vịnh và trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển ở khu vực này.

Hai bên đánh giá cao "Thỏa thuận công tác địa chấn biển liên hợp 3 bên tại khu vực thỏa thuận ở biển Đông" do Công ty dầu khí 3 nước Việt Nam, Trung Quốc, Philipin ký tháng 3 năm nay, cho rằng việc ký kết Thỏa thuận này là đóng góp quan trọng thực hiện "Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), có ảnh hưởng tích cực đối với việc thúc đẩy hợp tác cùng phát triển và ổn định tình hình trên biển, tăng cường tình hữu nghị láng giềng và sự tin cậy lẫn nhau giữa các nước liên quan. Hai bên đồng ý tích cực ủng hộ các công ty liên quan, bảo đảm thực hiện Thỏa thuận một cách nghiêm chỉnh, làm cho việc hợp tác sớm đạt được thành quả cụ thể. Hai bên đồng ý tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hòa bình, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều chấp nhận được ; trong quá trình đó, hai bên sẽ nghiên cứu kỹ vấn đề hợp tác cùng phát triển để tìm được mô hình và khu vực hợp tác cùng phát triển phù hợp với Luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là "Công ước Luật biển" năm 1982 của Liên Hợp Quốc và "Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông" mà hai bên có thể chấp nhận được. Đồng thời, hai bên đồng ý nghiêm túc tuân thủ nhận thức chung cấp cao, tuân thủ tôn chỉ và nguyên tắc của "Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông", cùng giữ gìn ổn định tình hình biển Đông.

6. Phía Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức, hoàn toàn hiểu và ủng hộ Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc Trung Quốc thông qua "Luật chống chia cắt đất nước", hoan nghênh xu thế hòa dịu của quan hệ hai bờ trong những năm gần đây. Việt Nam không phát triển bất kỳ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.

7. Hai bên nhất trí cho rằng Việt Nam và Trung Quốc có lợi ích chiến lược chung trên nhiều vấn đề quan trọng. Mong muốn hòa bình, thúc đẩy phát triển và tìm kiếm hợp tác là nhịp điệu chính của thời đại hiện nay. Hai bên nhấn mạnh cần phải kiên trì chủ nghĩa đa phương trong các vấn đề quốc tế, thực hiện cùng phồn vinh, phát triển hợp tác nhiều bên trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, phản đối chủ nghĩa khủng bố dưới mọi hình thức.

Hai bên chủ trương tôn trọng văn hóa lịch sử, chế độ xã hội, mô hình phát triển của các nước cũng như tính đa dạng của nền văn minh thế giới, thúc đẩy dân chủ hóa quan hệ quốc tế, cùng nhau xây dựng một khu vực châu Á cũng như thế giới hòa hợp, hòa bình lâu dài, cùng thịnh vượng.

8. Hai bên hoan nghênh Văn kiện cuối cùng được thông qua tại Hội nghị cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc tháng 9 năm 2005 nhân 60 năm thành lập Liên hợp quốc và cho rằng việc cấp bách hiện nay là thực hiện Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, thiết thực giúp đỡ các nước đang phát triển giải quyết vấn đề phát triển. Hai bên nhất trí cho rằng cải tổ Liên Hợp quốc cần góp phần nâng cao vai trò, uy tín, hiệu quả và năng lực của Liên Hợp quốc trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, đối phó với những thách thức và đe dọa mới, thúc đẩy sự phát triển chung của các nước thành viên, phục vụ cho việc thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Hai bên cho rằng việc cải tổ Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc cần xuất phát từ lợi ích lâu dài của Liên Hợp quốc, tuân theo nguyên tắc dân chủ hóa quan hệ quốc tế và cần tăng thêm tính đại diện của các nước đang phát triển trên cơ sở hiệp thương rộng rãi, tìm kiếm giải pháp có tính đến lợi ích các bên. Trên tinh thần đó, hai bên sẽ tiếp tục tăng cường trao đổi ý kiến và hợp tác về vấn đề này.

Hai bên đồng ý tiếp tục tăng cường hợp tác và phối hợp trong khuôn khổ đa phương tại các diễn đàn Liên Hợp quốc, Trung Quốc-ASEAN, ASEAN+3, ACD, ARF, APEC, ASEM, GMS. Phía Trung Quốc khẳng định ủng hộ Việt Nam đăng cai Hội nghị không chính thức các nhà lãnh đạo APEC lần thứ 14 năm 2006.

9. Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào bày tỏ sự cảm ơn chân thành đối với sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và thắm tình hữu nghị của Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân Việt Nam, đồng thời mời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Trần Đức Lương sang thăm Trung Quốc vào thời gian thuận tiện. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Trần Đức Lương bày tỏ cảm ơn và vui vẻ nhận lời.

Phía Việt Nam nhắc lại lời mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào dự Hội nghị không chính thức các nhà lãnh đạo APEC lần thứ 14 tại Hà Nội vào cuối năm 2006. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã vui vẻ nhận lời./.

***********************

3. Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 17/11/2006

Thứ sáu, 17/11/2006

1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào đã sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam từ ngày 15 đến 17 tháng 11 năm 2006.

tuyenbo3

Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào cùng với Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết duyệt đội danh dự Việt Nam trong chuyến thăm tháng 11/2006.

Trong thời gian thăm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã hội đàm với Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, hội kiến với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng. Hai bên thông báo cho nhau tình hình mỗi Đảng, mỗi nước ; trao đổi ý kiến sâu rộng về quan hệ giữa hai Đảng, hai nước cũng như các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm và đã đạt được nhận thức chung rộng rãi. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm lần này đã thành công tốt đẹp, chắc chắn sẽ thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục phát triển. 

2. Hai bên bày tỏ vui mừng trước những thành tựu có tính chất lịch sử mà hai Đảng, hai nước đã giành được trong quá trình tìm tòi con đường phát triển xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình của mỗi nước. Việt Nam đánh giá cao những thành tựu vĩ đại mà Trung Quốc đã giành được trong sự nghiệp cải cách, mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ thực hiện được mục tiêu hùng vĩ xây dựng toàn diện xã hội khá giả và đẩy nhanh hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.

Trung Quốc đánh giá cao những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử mà Việt Nam đã giành được trong công cuộc đổi mới 20 năm qua, ủng hộ các phương châm và chính sách do Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra và tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ do Đại hội X của Đảng xác định, xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa hiện đại, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

3. Hai bên hài lòng nhận thấy quan hệ giữa hai Đảng, hai nước không ngừng được củng cố và phát triển, nhất trí cho rằng Trung Quốc và Việt Nam có lợi ích chiến lược chung trên nhiều vấn đề quan trọng. Trong bối cảnh tình hình quốc tế đang có những diễn biến sâu sắc, việc tiếp tục tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phù hợp với lợi ích căn bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Hai bên thỏa thuận sẽ tăng cường các cuộc chuyến thăm cấp cao, đi sâu trao đổi kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước cũng như xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế hợp tác giữa các ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh…, mở rộng hợp tác thiết thực trong các lĩnh vực kinh tế thương mại, khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục…, triển khai mạnh mẽ giao lưu hữu nghị giữa thanh thiếu niên hai nước, làm cho tình hữu nghị Việt Nam- Trung Quốc được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hai bên cùng nhau nỗ lực phát triển quan hệ Việt Nam-Trung Quốc "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và mãi mãi là "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt".

4. Hai bên đánh giá tích cực việc hai nước đã chính thức thành lập và tiến hành phiên họp đầu tiên của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt- Trung. Hai bên nhất trí cho rằng, sự kiện này có lợi cho việc tăng cường chỉ đạo vĩ mô, quy hoạch tổng thể và thúc đẩy toàn diện sự hợp tác trong tất cả các lĩnh vực giữa Việt Nam và Trung Quốc, điều phối giải quyết các vấn đề có thể nảy sinh trong quá trình hợp tác. Ủy ban này sẽ phát huy tác dụng quan trọng góp phần bảo đảm quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển lâu dài, ổn định, lành mạnh và bền vững.

5. Hai bên hài lòng về tiến triển đã đạt được trong lĩnh vực hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước. Hai bên đồng ý trên tinh thần "bổ sung ưu thế cho nhau, cùng có lợi và cùng thắng", mở rộng hơn nữa quy mô, nâng cao chất lượng và trình độ hợp tác kinh tế thương mại. Tích cực phát triển điểm tăng trưởng mới về thương mại, duy trì đà tăng trưởng nhanh chóng kim ngạch mậu dịch song phương, thực hiện mục tiêu mới là nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 15 tỷ USD vào năm 2010.

Từng bước cải thiện cơ cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện phát triển cân bằng và tăng trưởng bền vững thương mại hai chiều. Tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông…

Đẩy nhanh tiến trình xây dựng "Hai hành lang, một vành đai kinh tế", thúc đẩy vững chắc, hiệu quả các dự án hợp tác cụ thể. Tăng cường hợp tác trong các thể chế kinh tế khu vực, liên khu vực và quốc tế, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc.

Trung Quốc chúc mừng Việt Nam đã gia nhập WTO và tin tưởng rằng Việt Nam sẽ tích cực đóng góp phần mình vào các hoạt động của tổ chức này sau khi trở thành thành viên chính thức.

Hai bên đã ký và nhất trí sẽ nhanh chóng triển khai thực hiện "Hiệp định về mở rộng và đi sâu hợp tác kinh tế thương mại song phương", đề ra phương hướng tổng thể về hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước trong 5-10 năm tới, xác định các lĩnh vực hợp tác trọng điểm, phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước.

Hai bên còn ký kết Bản ghi nhớ về việc triển khai Hợp tác "hai hành lang, một vành đai kinh tế" và một số văn kiện hợp tác kinh tế khác. 

6. Hai bên đánh giá tích cực những tiến triển mà hai nước đã đạt được trong việc giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ. Hai bên đồng ý phối hợp chặt chẽ hơn nữa, áp dụng các biện pháp thiết thực và hiệu quả hơn, đẩy nhanh tiến độ phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền, bảo đảm hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên đất liền và ký văn bản mới về quy chế quản lý biên giới chậm nhất vào năm 2008.

Tiếp tục thực hiện tốt "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ", triển khai tốt tuần tra chung giữa hải quân hai nước, công tác điều tra liên hợp nguồn lợi cũng như kiểm tra liên hợp trong Vùng đánh cá chung, tích cực hợp tác đẩy nhanh việc thực hiện Thỏa thuận khung về hợp tác dầu khí trong Vịnh Bắc bộ, tiến hành công tác thăm dò chung các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định, giữ gìn trật tự sản xuất nghề cá bình thường, tích cực triển khai hợp tác trong các lĩnh vực khác như nghề cá, bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn trên biển…

Hai bên tiếp tục thúc đẩy một cách vững chắc đàm phán về phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực trao đổi ý kiến về vấn đề hợp tác cùng phát triển ở khu vực này. Hai bên đồng ý nghiêm chỉnh tuân thủ nhận thức chung liên quan của lãnh đạo cấp cao hai nước, tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hòa bình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều chấp nhận được. Hai bên cùng nhau cố gắng giữ gìn ổn định tình hình biển Đông, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng phát triển để tìm ra mô hình và khu vực phù hợp.

7. Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, ủng hộ "Luật chống chia cắt đất nước", kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức. Mong muốn Trung Quốc sớm thực hiện thống nhất đất nước. Việt Nam không phát triển bất kỳ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.

8. Hai bên hài lòng về hợp tác giữa hai nước trong công việc quốc tế và khu vực. Hai bên khẳng định sẽ tiếp tục tăng cường phối hợp và hợp tác trong khuôn khổ đa phương như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, ASEAN-Trung Quốc, ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), EAS, ARF, Tiểu vùng sông Mê-công mở rộng…, cùng nhau làm hết sức mình vì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Hai bên nhất trí cho rằng Liên hợp quốc cần góp phần nâng cao vai trò, hiệu quả trong việc đối phó với những thách thức và các mối đe dọa mới, duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, thúc đẩy sự phát triển chung của các thành viên, phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.

Trung Quốc bày tỏ ủng hộ Việt Nam trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009.

9. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào cảm ơn Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho đoàn sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị, và trân trọng mời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang thăm Trung Quốc vào thời gian thuận tiện. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bày tỏ cảm ơn và vui vẻ nhận lời. 

Ngày 17 tháng 11 năm 2006

******************

4. Tuyên bố chung Trung Quốc - Việt Nam 01/06/2008

Chủ nhật 01/06/2008

Ngày 1/6, Tuyên bố chung Trung Quốc-Việt Nam đã được ký kết tại thủ đô Bắc Kinh (Trung Quốc), nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh.

Tuyên bố chung viết :

"Hai bên đã đạt được nhận thức chung rộng rãi về quan hệ giữa hai Đảng, hai nước, cũng như về các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm đã thành công tốt đẹp, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng sâu rộng và tích cực đối với việc đi sâu phát triển toàn diện quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong thời kỳ mới, đối với hòa bình và phát triển của khu vực và thế giới.

Hai bên nhấn mạnh con đường phát triển xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm của mỗi nước là sự lựa chọn đúng đắn, đáp ứng lợi ích căn bản của nhân dân hai nước.

Phía Việt Nam đánh giá cao những thành tựu rực rỡ mà Trung Quốc giành được trong 30 năm cải cách mở cửa, tin tưởng vững chắc rằng, nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ giành được những thành tựu mới to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả.

Phía Trung Quốc đánh giá cao những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Việt Nam giành được trong sự nghiệp đổi mới, tin tưởng vững chắc rằng, nhân dân Việt Nam nhất định sẽ giành được những thành tựu mới to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Phía Việt Nam bày tỏ sự cảm thông sâu sắc và lời thăm hỏi chân thành đối với những mất mát to lớn về người và của do trận động đất nghiêm trọng ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, gây ra và tin tưởng nhân dân Trung Quốc anh em nhất định sẽ sớm khắc phục được hậu quả thiên tai, ổn định cuộc sống ; bày tỏ hoan nghênh đối với công tác chuẩn bị chu đáo của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc cho Đại hội Ôlimpích Bắc Kinh 2008 và sẽ tiếp tục ủng hộ mạnh mẽ những nỗ lực của phía Trung Quốc để tổ chức thành công Đại hội thể thao này. Phía Trung Quốc bày tỏ sự cảm ơn chân thành đối với tình cảm hữu nghị và sự ủng hộ nói trên của phía Việt Nam.

Hai bên bày tỏ hài lòng trước những thành quả to lớn đã đạt được trong quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước trong những năm qua ; khẳng định tình hữu nghị truyền thống Việt-Trung là tài sản quý báu của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, cần hết sức gìn giữ và không ngừng phát huy mạnh mẽ.

Hai bên nhất trí phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc theo phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" ; luôn luôn nắm vững phương hướng phát triển đúng đắn của quan hệ hai nước, đảm bảo chắc chắn cho quan hệ hai nước phát triển lâu dài, ổn định và lành mạnh.

Hai bên bày tỏ sẽ tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau trên các lĩnh vực, tăng cường tin cậy toàn diện lẫn nhau, đi sâu hợp tác cùng có lợi, thúc đẩy cùng nhau phát triển, thúc đẩy thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước.

Trên tinh thần coi trọng đại cục, hiệp thương hữu nghị, công bằng, hợp lý, cùng có lợi, cùng thắng, hai bên sẽ nghiêm chỉnh thực hiện các nhận thức chung mà lãnh đạo hai nước đã đạt được, tích cực hợp tác để xử lý và giải quyết thỏa đáng các vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước. Hai bên tăng cường phối hợp trong các công việc quốc tế và khu vực, cùng nhau thúc đẩy xây dựng hòa bình lâu dài, cùng phồn vinh ở châu Á và trên thế giới.

Hai bên nhấn mạnh sẽ tiếp tục duy trì truyền thống tốt đẹp tiếp xúc mật thiết giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước ; tuyên bố thiết lập đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam-Trung Quốc.

Hai bên nhất trí phát huy đầy đủ vai trò của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, quy hoạch tổng thể và thúc đẩy toàn diện sự hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực ; xây dựng cơ chế giao lưu và hợp tác giữa các cơ quan Trung ương hữu quan của hai Đảng ; đi sâu trao đổi về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và về xây dựng Đảng, quản lý đất nước ; tiếp tục tổ chức tốt các cuộc hội thảo lý luận giữa hai Đảng ; thúc đẩy hợp tác về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ; thúc đẩy cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa các bộ, ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh ; mở rộng hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, giáo dục ; triển khai mạnh mẽ giao lưu hữu nghị giữa thanh thiếu niên, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức nhân dân ; phối hợp tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Hai bên hài lòng trước đà phát triển tốt đẹp của mối quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước trong những năm gần đây ; nhất trí tiếp tục thực hiện tốt Hiệp định về mở rộng và đi sâu hợp tác kinh tế thương mại song phương ; khẩn trương bàn bạc, ký kết và thực hiện tốt "Quy hoạch phát triển 5 năm về hợp tác kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc", xác định các lĩnh vực và dự án hợp tác trọng điểm ; nâng cao hơn nữa quy mô và mức độ hợp tác kinh tế thương mại.

Hai bên đồng ý trên tinh thần bổ sung ưu thế cho nhau, cùng có lợi, cùng thắng, tích cực tìm kiếm những lĩnh vực tăng trưởng mậu dịch mới, duy trì kim ngạch mậu dịch song phương tăng trưởng nhanh ; đồng thời áp dụng những biện pháp thiết thực và có hiệu quả để cải thiện cơ cấu mậu dịch, thực hiện phát triển cân bằng mậu dịch song phương.

Hai bên tích cực ủng hộ và thúc đẩy các doanh nghiệp của hai nước hợp tác lâu dài cùng có lợi trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác.

Hai bên tăng cường hợp tác trong các dự án như Bôxít Đắk Nông, các dự án trong khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai kinh tế" và các dự án lớn khác. Hai bên khẳng định tăng cường hợp tác trong các cơ chế kinh tế khu vực, liên khu vực và quốc tế, như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về hợp tác trong lĩnh vực thú y và kiểm dịch động vật, và một số thỏa thuận kinh tế thương mại khác về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam tín dụng ưu đãi và cho vay ưu đãi bên mua.

Hai bên hài lòng đối với việc cơ bản hoàn thành công tác phân giới biên giới trên đất liền ; đồng ý phối hợp chặt chẽ hơn nữa, tích cực giải quyết các vấn đề còn lại và đẩy nhanh tiến độ công tác, đảm bảo thực hiện đúng thời hạn mục tiêu hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên đất liền trong năm 2008 và sớm ký văn bản mới về quy chế quản lý biên giới nhằm xây dựng đường biên giới trên đất liền giữa hai nước thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác.

Hai bên tiếp tục thực hiện tốt Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ ; thực hiện tốt công tác kiểm tra liên hợp cũng như điều tra liên hợp nguồn thủy sản trong Vùng đánh cá chung và việc tuần tra chung giữa hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ ; đẩy nhanh việc thực hiện "Thỏa thuận khung về hợp tác dầu khí trong vùng thỏa thuận tại Vịnh Bắc Bộ", phấn đấu sớm đạt kết quả thực chất trong hợp tác thăm dò, khai thác chung các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ ; giữ gìn trật tự sản xuất nghề cá bình thường, tích cực triển khai hợp tác nghề cá, bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn trên biển ở Vịnh Bắc Bộ.

Hai bên tiếp tục thúc đẩy một cách vững chắc đàm phán về phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực trao đổi ý kiến về vấn đề hợp tác cùng phát triển, sớm khởi động cùng khảo sát ở khu vực này. Hai bên đồng ý nghiêm chỉnh tuân thủ nhận thức chung liên quan của lãnh đạo cấp cao hai nước, cùng nhau giữ gìn ổn định tình hình Biển Đông ; tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hòa bình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều chấp nhận được ; đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng phát triển để tìm ra mô hình và khu vực phù hợp.

Phía Việt Nam khẳng định thực hiện nhất quán chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ Đài Loan độc lập dưới mọi hình thức ; Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.

Hai bên hài lòng về sự hợp tác giữa hai nước trong các công việc quốc tế và khu vực. Hai bên khẳng định sẽ tiếp tục tăng cường sự hợp tác và phối hợp tại các diễn đàn đa phương như Liên Hợp Quốc, APEC, Trung Quốc-ASEAN..., cùng nhau giữ gìn và thúc đẩy hòa bình, phồn vinh và phát triển của thế giới".

Theo TTXVN

********************

5. Tuyên bố chung Trung Quốc - Việt Nam 25/10/2008

Thứ Bảy 25/10/2008

1. Nhận lời mời của Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Ôn Gia Bảo, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc và dự Hội nghị cấp cao ASEM 7 từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 10 năm 2008.

Trong thời gian thăm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã hội đàm với Thủ tướng Ôn Gia Bảo và lần lượt hội kiến các đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Ðào, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Ðại hội Ðại biểu nhân dân toàn quốc Ngô Bang Quốc. Ngoài Bắc Kinh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thăm tỉnh Hải Nam.

Trong không khí chân thành, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau, lãnh đạo hai nước đã trao đổi ý kiến về quan hệ song phương, các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm, đạt được nhận thức chung quan trọng về việc làm phong phú nội hàm mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm đã thành công tốt đẹp, góp phần thúc đẩy quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt - Trung không ngừng phát triển lên một tầm cao mới vì lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

2. Phía Việt Nam đánh giá cao thành tựu rực rỡ mà nhân dân Trung Quốc anh em đạt được sau 30 năm cải cách mở cửa ; nhấn mạnh những thành công của Trung Quốc trong việc tổ chức Ô-lim-pích và Pa-ra-lim-pích Bắc Kinh, phóng tàu vũ trụ có người lái "Thần Châu 7" và tổ chức Hội nghị cấp cao ASEM 7 góp phần nâng cao thêm một bước vị thế và uy tín quốc tế của Trung Quốc ; bày tỏ tin tưởng chắc chắn nhân dân Trung Quốc sẽ đạt được thành tựu mới to lớn hơn nữa trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng xã hội khá giả toàn diện.

Phía Trung Quốc đánh giá cao thành tựu to lớn mà nhân dân Việt Nam giành được trong công cuộc đổi mới mở cửa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cải thiện đời sống nhân dân ; chúc mừng những thành công của Việt Nam trong hội nhập quốc tế và đảm nhiệm vai trò Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ; bày tỏ tin tưởng nhân dân Việt Nam sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

3. Hai bên hài lòng nhận thấy, quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác Việt - Trung có bước phát triển quan trọng, sự tin cậy lẫn nhau về chính trị giữa hai bên không ngừng được tăng cường, hợp tác kinh tế thương mại đạt thành quả to lớn, hợp tác giao lưu giữa các bộ ngành và các địa phương ngày một mở rộng, các vấn đề tồn tại từng bước được giải quyết ổn thỏa. Hai bên nhất trí cho rằng, trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị quốc tế đang diễn biến phức tạp hiện nay, việc tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc thêm mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung phù hợp lợi ích căn bản của hai Ðảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực cũng như thế giới.

4. Hai bên đạt được nhận thức chung quan trọng về những biện pháp triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc. Hai bên nhất trí duy trì tiếp xúc mật thiết giữa lãnh đạo cấp cao hai Ðảng, hai nước dưới các hình thức linh hoạt và đa dạng như các chuyến thăm song phương, trao đổi qua đường dây nóng, gặp gỡ tại các diễn đàn đa phương, kịp thời trao đổi ý kiến về những vấn đề quan trọng trong quan hệ hai nước ; phát huy hơn nữa vai trò của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt - Trung trong việc quy hoạch tổng thể và đẩy mạnh toàn diện hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực ; hoàn thiện cơ chế hợp tác giữa các bộ ngành, thực hiện tốt các thỏa thuận hợp tác giữa các ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh... ; mở rộng hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực khoa học công nghệ, văn hóa, giáo dục, y tế, du lịch... ; tăng cường giao lưu hữu nghị giữa thanh niên, thiếu niên, đoàn thể quần chúng, các tổ chức dân gian hai nước ; làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục về ý nghĩa quan trọng và nội hàm cụ thể của quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung, để tình hữu nghị của nhân dân hai nước mãi mãi lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hai bên thỏa thuận sẽ cùng nhau phối hợp tổ chức các hoạt động, với hình thức đa dạng, long trọng kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước.

5. Hai bên nhất trí làm sâu sắc hơn nữa hợp tác kinh tế mậu dịch, phấn đấu nâng kim ngạch mậu dịch hai bên đạt 25 tỷ USD vào năm 2010. Hai bên giao Ủy ban Hợp tác kinh tế thương mại Việt - Trung : Ðẩy mạnh thực hiện "Quy hoạch 5 năm phát triển hợp tác kinh tế mậu dịch Việt - Trung" mà hai bên đang thảo luận để ký kết ; Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp hai nước đầu tư tại nước kia ; Sớm thành lập tổ công tác hợp tác kinh tế thương mại để thông báo tình hình cho nhau và trao đổi ý kiến về các công việc cụ thể trong hợp tác kinh tế thương mại, tìm các biện pháp giải quyết những vấn đề tồn tại ; Tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp quản lý chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại..., bảo đảm các hoạt động mậu dịch biên giới phát triển lành mạnh.

Chính phủ hai nước tăng cường chỉ đạo và hỗ trợ về chính sách, thúc đẩy các doanh nghiệp hai nước thực hiện và chấp hành những thỏa thuận hợp tác và hợp đồng kinh tế đã ký kết theo quy tắc thị trường để tăng cường lòng tin trong hợp tác song phương ; tiếp tục trao đổi thỏa thuận về các dự án hợp tác lớn, khuyến khích các doanh nghiệp lớn của hai nước mở rộng hợp tác lâu dài, cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, điện lực, xây dựng nhà ở, tư vấn thiết kế, công nghiệp hóa chất, công nghiệp phụ trợ, đóng tàu... Hai bên nhất trí, tiếp tục thực hiện Bản ghi nhớ về triển khai hợp tác "Hai hành lang một vành đai", nghiên cứu nghiêm túc ý tưởng về khu kinh tế, thương mại, du lịch xuyên biên giới, thắt chặt mối quan hệ giữa các tỉnh biên giới hai nước.

Hai bên nhất trí tăng cường trao đổi kinh nghiệm giữa chuyên gia kinh tế hai nước, đề xuất các kiến nghị về chính sách ứng phó với những biến động của tình hình kinh tế quốc tế.

6. Hai bên bày tỏ hài lòng đối với việc cơ bản hoàn thành công tác phân giới trên bộ, đồng ý tiếp tục cùng phối hợp chặt chẽ, tích cực giải quyết vấn đề còn lại, bảo đảm thực hiện mục tiêu kết thúc công việc phân giới cắm mốc toàn tuyến biên giới trên bộ đúng thời hạn trong năm nay ; sớm ký kết Nghị định thư phân giới cắm mốc và Hiệp định quy chế quản lý biên giới mới nhằm xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác, hữu nghị lâu dài giữa hai nước. Hai bên đồng ý tổ chức lễ mừng công hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc tại cặp cửa khẩu mà hai bên nhất trí.

Hai bên khẳng định tiếp tục phối hợp chặt chẽ, thực hiện tốt "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ", làm tốt công tác kiểm tra liên hợp và điều tra liên hợp nguồn lợi thủy sản trong vùng đánh cá chung và việc tuần tra chung giữa hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ ; thúc đẩy hợp tác thăm dò, khai thác cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ đạt được những tiến triển thực chất. Hai bên tiếp tục thúc đẩy một cách vững chắc đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển, sớm khởi động khảo sát chung ở khu vực này.

Hai bên đã trao đổi ý kiến một cách thẳng thắn và hữu nghị về việc gìn giữ hòa bình ổn định ở Biển Ðông ; khẳng định tuân thủ nghiêm túc nhận thức chung giữa lãnh đạo cấp cao hai nước và tinh thần "Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Ðông", duy trì cơ chế đàm phán vấn đề trên biển, căn cứ nguyên tắc và chế độ pháp lý được xác định bởi luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Luật Biển của LHQ năm 1982 tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu và bàn bạc về hợp tác cùng phát triển để tìm ra mô hình và khu vực thích hợp. Trong quá trình đó, hai bên cùng nỗ lực gìn giữ tình hình ổn định ở Biển Ðông, không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở rộng thêm tranh chấp. Hai bên đồng ý, với nguyên tắc dễ trước khó sau, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực như nghiên cứu khoa học hải dương, bảo vệ môi trường, dự báo khí tượng thủy văn, thăm dò khai thác dầu khí, tìm kiếm cứu hộ trên biển, tàu hải quân đi thăm lẫn nhau, xây dựng cơ chế trao đổi thông tin trực tiếp giữa quân đội hai nước.

7. Phía Việt Nam một lần nữa khẳng định việc kiên định thực hiện chính sách một Trung Quốc, ủng hộ sự nghiệp thống nhất của Trung Quốc, kiên quyết phản đối hoạt động "Ðài Loan độc lập" dưới bất kỳ hình thức nào. Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Ðài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của Việt Nam.

8. Hai bên trao đổi và đạt nhận thức chung về các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm, bày tỏ sự hài lòng về sự phối hợp chặt chẽ trong các công việc quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, WTO, APEC, ASEM, ASEAN+1, ASEAN+3, đồng ý tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đa phương, góp phần thúc đẩy xây dựng một thế giới hòa bình lâu dài và cùng phát triển phồn vinh.

9. Trong thời gian thăm, hai bên đã ký 8 Hiệp định và Thỏa thuận, trong đó có Hiệp định về thiết lập đường dây nóng ; Hiệp định về kiểm dịch y tế biên giới ; Hiệp định khung về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ; Thỏa thuận về xây dựng khu kinh tế - thương mại Trung Quốc tại thành phố Hải Phòng ; Thỏa thuận về hợp tác chiến lược giữa Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và Công ty Dầu khí Hải dương quốc gia Trung Quốc và một số thỏa thuận hợp đồng kinh tế khác.

10. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ cảm ơn chân thành Thủ tướng Ôn Gia Bảo, Ðảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc về sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị, mời Thủ tướng Ôn Gia Bảo thăm lại Việt Nam, Thủ tướng Ôn Gia Bảo bày tỏ sự cảm ơn.

Bắc Kinh, ngày 25/10/2008

********************

6. Tuyên bố chung Trung Quốc - Việt Nam 15/10/2011

Thứ Bảy 15/10/2011

Ngày 15/10, tại thủ đô Bắc Kinh, Việt Nam và Trung Quốc đã ra Tuyên bố chung về chuyến thăm chính thức Cộng hòa nhân dân Trung Hoa của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam.

Nội dung tuyên bố chung như sau :

1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã thăm chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ ngày 11 đến ngày 15 tháng 10 năm 2011. 

Trong thời gian chuyến thăm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào ; lần lượt hội kiến với Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc Ngô Bang Quốc ; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Thủ tướng Quốc vụ viện Ôn Gia Bảo ; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc Giả Khánh Lâm. Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ tịch nước Tập Cận Bình, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Thủ tướng Quốc Vụ viện Lý Khắc Cường cũng đã tham gia các hoạt động liên quan. 

Trong bầu không khí chân thành, hữu nghị, hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước ; đi sâu trao đổi ý kiến về việc tăng cường hơn nữa quan hệ giữa hai Đảng, hai nước trong tình hình mới, cũng như về các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm, đạt được nhận thức chung rộng rãi. Ngoài Bắc Kinh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thăm tỉnh Quảng Đông.

Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thành công tốt đẹp, thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển ổn định, lành mạnh và đi vào chiều sâu, đồng thời có ảnh hưởng tích cực thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. 

2. Hai bên vui mừng trước những thành tựu mang tính lịch sử mà nhân dân hai nước, dưới sự lãnh đạo của hai Đảng Cộng sản, đã đạt được trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, trong đổi mới của Việt Nam và cải cách mở cửa của Trung Quốc. 

Phía Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc và sự mở đầu thuận lợi trong thực hiện Quy hoạch 5 năm lần thứ 12 của Trung Quốc ; tin tưởng vững chắc Đảng Cộng sản Trung Quốc nhất định sẽ đoàn kết chặt chẽ và dẫn dắt nhân dân Trung Quốc thực hiện thắng lợi mục tiêu vĩ đại xây dựng toàn diện xã hội khá giả và đẩy nhanh hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. 

Phía Trung Quốc chúc mừng thành công của Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam và tin tưởng vững chắc rằng, nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ mà Đại hội XI đã đề ra, xây dựng Việt Nam thành nước xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

3. Hai bên đã nhìn lại và tổng kết những thành tựu to lớn đã giành được trong quá trình phát triển quan hệ hai nước 61 năm qua kể từ khi Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao, đặc biệt là 20 năm kể từ khi bình thường hóa quan hệ, và nhất trí cho rằng, quan hệ hai nước đã phát triển nhanh và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. 

Hai bên nhấn mạnh tôn trọng lẫn nhau, hiểu biết lẫn nhau, ủng hộ lẫn nhau, tin cậy lẫn nhau, hợp tác với nhau là kinh nghiệm quan trọng cho quan hệ hai nước phát triển ổn định, lành mạnh ; khẳng định tình hữu nghị đời đời Việt-Trung là tài sản quý báu chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần được không ngừng củng cố, phát triển, truyền mãi cho các thế hệ mai sau.

Hai bên khẳng định, Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục kiên trì phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt", từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn toàn cục, sẽ tăng cường giao lưu hữu nghị giữa hai nước, mở rộng hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, trân trọng, giữ gìn, phát triển tốt quan hệ hai Đảng, hai nước Việt-Trung, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển một cách ổn định, lành mạnh, lâu dài. 

Hai bên nhất trí cho rằng, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến sâu sắc, phức tạp, việc hai Đảng, hai nước Việt Nam-Trung Quốc tăng cường hơn nữa sự tin cậy chiến lược, hợp tác chặt chẽ toàn diện, xử lý thỏa đáng các vấn đề còn tồn tại hay mới nảy sinh giữa hai nước, là phù hợp với lợi ích căn bản và lâu dài của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho sự nghiệp chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, có lợi cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

4. Hai bên nhất trí áp dụng các biện pháp hữu hiệu, thiết thực để mở rộng toàn diện và đi sâu hợp tác hữu nghị trên các lĩnh vực giữa hai nước : 

Một là, duy trì truyền thống tốt đẹp các chuyến thăm và tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao thông qua các hình thức linh hoạt, đa dạng như thăm song phương, trao đổi qua đường dây nóng, gặp gỡ tại các diễn đàn đa phương, cử đặc phái viên…, kịp thời trao đổi ý kiến về tình hình quốc tế, khu vực và các vấn đề quan trọng trong quan hệ song phương, tăng cường trao đổi chiến lược, nắm chắc phương hướng thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển lâu dài, lành mạnh, ổn định. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên chính thức khai thông đường dây nóng giữa lãnh đạo cấp cao hai nước.

Hai là, phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc trong việc đi sâu hợp tác thực chất, thúc đẩy quan hệ song phương, tăng cường hơn nữa sự chỉ đạo và quy hoạch chính sách đối với hợp tác trong các lĩnh vực, thúc đẩy tổng thể sự hợp tác, phối hợp xử lý vấn đề phát sinh, thúc đẩy hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực đạt thành quả phong phú hơn nữa, không ngừng làm phong phú nội hàm quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện hai nước.

Ba là, thắt chặt giao lưu hợp tác giữa hai Đảng, thực hiện có hiệu quả "Kế hoạch hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2011-2015". 

Tổ chức tốt Hội thảo lý luận giữa hai Đảng, tăng cường trao đổi kinh nghiệm xây dựng Đảng, quản lý đất nước ; mở rộng và đi sâu hợp tác đào tạo cán bộ Đảng, chính quyền ; tổ chức các cuộc gặp gỡ cấp Trưởng Ban theo cơ chế giao lưu, hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại và hai Ban Tuyên truyền hai Đảng vào thời điểm thích hợp.

Bốn là, đi sâu hợp tác giữa hai quân đội, tăng cường tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao quân đội hai nước ; tiếp tục tổ chức tốt Đối thoại Chiến lược cấp Thứ trưởng Quốc phòng ; thúc đẩy thiết lập đường dây điện thoại trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng hai nước ; tăng cường hợp tác đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ ; triển khai thí điểm tuần tra chung biên giới đất liền vào thời điểm thích hợp ; tiếp tục tổ chức tuần tra chung giữa hải quân hai nước trong Vịnh Bắc Bộ ; tăng cường hợp tác trong các mặt như tàu hải quân hai nước thăm nhau.

Năm là, đi sâu hơn nữa hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh ; tổ chức tốt Hội nghị cấp Bộ trưởng Hợp tác phòng chống tội phạm lần thứ 3 giữa hai Bộ Công an hai nước ; thúc đẩy triển khai các hoạt động chung chống xuất nhập cảnh trái phép ở khu vực biên giới ; tăng cường phối hợp có hiệu quả trong các lĩnh vực phòng chống tội phạm kiểu mới như tấn công tội phạm lừa đảo viễn thông. 

Tăng cường giao lưu và hợp tác giữa các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, công an, hành chính tư pháp ; cùng phòng ngừa và tấn công các hoạt động vi phạm pháp luật, tội phạm xuyên biên giới ; tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn định trong nước của mình.

Sáu là, tăng cường và mở rộng hợp tác thiết thực giữa hai nước theo các nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, chú trọng hiệu quả thực tế, bổ sung thế mạnh lẫn nhau, bằng nhiều hình thức đa dạng, cùng nhau phát triển :

- Phát huy đầy đủ vai trò của Ủy ban hợp tác kinh tế-thương mại, Ủy ban liên hợp hợp tác khoa học kỹ thuật giữa Chính phủ hai nước trong việc chỉ đạo, điều phối tổng thể, đôn đốc thực hiện hợp tác thiết thực giữa hai nước trong các lĩnh vực liên quan. Thực hiện tốt "Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế-thương mại Việt Nam-Trung Quốc" vừa được ký kết trong chuyến thăm này.

- Tích cực thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng, nông lâm nghiệp, giao thông, điện lực, công nghệ thông tin, khoáng sản, năng lượng, du lịch..., tăng cường trao đổi về thúc đẩy cân bằng thương mại song phương, khuyến khích và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp của hai nước mở rộng hợp tác lâu dài cùng có lợi, xây dựng khu hợp tác kinh tế biên giới và hợp tác "hai hành lang, một vành đai"... 

- Tiếp tục thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực như khoa học kỹ thuật, giáo dục, phát triển nguồn nhân lực, văn hóa, y tế, thể thao, báo chí… Tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như bảo vệ môi trường, quản lý nguồn nước và ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực hiện tốt "Thỏa thuận trao đổi giáo dục 2011-2015", mở rộng số lượng lưu học sinh cử sang nhau.

- Tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động giao lưu nhân dân, như Diễn đàn Nhân dân Việt-Trung, Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung, đẩy mạnh tuyên truyền tình hữu nghị Việt-Trung, tăng cường định hướng dư luận và quản lý báo chí, thúc đẩy tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, giữ gìn đại cục quan hệ hữu nghị hai nước, làm cho tình hữu nghị Việt-Trung được kế thừa và phát huy rạng rỡ.

- Mở rộng hơn nữa sự giao lưu, hợp tác giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh giáp biển, giáp biên giới của hai nước như Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, Quảng Ninh, Điện Biên, Hà Giang, Lai Châu của Việt Nam với Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Hải Nam của Trung Quốc. 

- Tiếp tục thực hiện tốt các văn kiện có liên quan đến biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc, "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ" ; tích cực tìm tòi mô hình mới trong kiểm tra liên hợp khu vực đánh cá chung ở Vịnh Bắc Bộ ; thúc đẩy thiết lập đường dây nóng liên lạc giữa cơ quan ngư nghiệp hai nước.

- Đẩy nhanh tiến trình đàm phán, sớm ký kết "Hiệp định tàu thuyền qua lại tự do khu vực cửa sông Bắc Luân" và "Hiệp định hợp tác khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc", cùng nhau duy trì ổn định và phát triển ở khu vực biên giới.

Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký "Kế hoạch hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc (2011-2015)", "Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế-thương mại giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 2012-2016", "Thỏa thuận trao đổi giáo dục 2011-2015 giữa Bộ Giáo dục và đào tạo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Giáo dục nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", "Nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc về sửa đổi Hiệp định vận tải ôtô giữa Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc", "Nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc về thực hiện Hiệp định vận tải ôtô giữa Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc", "Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa". 

5. Hai bên đã trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển ; nhấn mạnh ý chí và quyết tâm chính trị thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị để giải quyết tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định tại Biển Đông ; cho rằng điều này phù hợp với lợi ích căn bản của hai nước và nguyện vọng chung của nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, hợp tác và phát triển tại khu vực. 

Lãnh đạo hai Đảng, hai nước sẽ duy trì trao đổi và đối thoại thường xuyên về vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, từ tầm cao chính trị và chiến lược, kịp thời chỉ đạo xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển.

Hai bên đánh giá tích cực việc hai nước ký kết "Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển" ; cho rằng việc ký kết Thỏa thuận này có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng đối với việc xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, sẽ cùng nỗ lực thực hiện nghiêm chỉnh Thỏa thuận này.

Căn cứ vào nhận thức chung đã có giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước và "Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển", hai bên đẩy mạnh đàm phán vấn đề trên biển, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực trao đổi tìm kiếm giải pháp có tính quá độ, tạm thời, không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển.

Hai bên thúc đẩy vững chắc đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển ở khu vực này. Hai bên tích cực thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên biển, thăm dò khai thác dầu khí, phòng chống thiên tai…

Trước khi giải quyết dứt điểm tranh chấp trên biển, hai bên cùng giữ gìn hòa bình, ổn định trên Biển Đông, giữ thái độ bình tĩnh và kiềm chế, không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở rộng thêm tranh chấp, không để các thế lực thù địch phá hoại quan hệ hai Đảng, hai nước, xử lý các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để ảnh hưởng tới quan hệ hai Đảng, hai nước và hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

6. Phía Việt Nam khẳng định thực hiện nhất quán chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức. 

Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.

7. Hai bên khẳng định tiếp tục mở rộng giao lưu và hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao hai nước, tổ chức tốt trao đổi chính trị giữa Bộ Ngoại giao hai nước, tăng cường trao đổi và hợp tác tại các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị cấp cao Á-Âu (ASEM), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), ASEAN+1, ASEAN+3, Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Hợp tác tiểu vùng Mekong mở rộng…, cùng giữ gìn và thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và phồn vinh của khu vực và thế giới.

8. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng chân thành cảm ơn Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ, nhân dân Trung Quốc về sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị. 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trân trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào sớm sang thăm lại Việt Nam. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào bày tỏ cảm ơn về lời mời.

********************

7. Tuyên bố chung Trung Quốc - Việt Nam 21/06/2013

Thứ sáu, 21/06/2013

1. Nhận lời mời của Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trương Tấn Sang đã thăm cấp Nhà nước nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 6 năm 2013.

Trong thời gian chuyến thăm, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã hội đàm với Chủ tịch nước Tập Cận Bình ; lần lượt hội kiến Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Khắc Cường, Ủy viên trưởng Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trương Đức Giang. Trong không khí thẳng thắn, hữu nghị, Lãnh đạo hai nước đã đi sâu trao đổi ý kiến và đạt nhận thức chung rộng rãi về việc làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung trong tình hình mới, cũng như về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. 

Ngoài Bắc Kinh, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã thăm tỉnh Quảng Đông.

2. Hai bên đã nhìn lại quá trình phát triển quan hệ Việt-Trung, nhất trí cho rằng tình hữu nghị Việt-Trung là tài sản chung quý báu của nhân dân hai nước, khẳng định sẽ tuân theo các nhận thức chung quan trọng mà Lãnh đạo hai nước đã đạt được trong những năm qua về phát triển quan hệ hữu nghị Việt-Trung, tiếp tục kiên trì phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt", không ngừng tăng cường tin cậy chiến lược, làm sâu sắc thêm hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, xử lý thỏa đáng các vấn đề còn tồn tại, tăng cường điều phối và phối hợp trong các vấn đề quốc tế và khu vực, thúc đẩy quan hệ Việt-Trung phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài.

3. Việt Nam và Trung Quốc đều đang ở trong thời kỳ then chốt của công cuộc phát triển kinh tế-xã hội. Hai bên coi sự phát triển của nước kia là cơ hội phát triển của nước mình, nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện với trọng tâm là các lĩnh vực dưới đây :

(i) Duy trì tiếp xúc cấp cao thông qua các hình thức linh hoạt, đa dạng như thăm song phương, điện đàm qua đường dây nóng, gặp gỡ bên lề các diễn đàn đa phương... để tăng cường trao đổi chiến lược, nắm vững phương hướng đúng đắn phát triển quan hệ hai nước. Phía Việt Nam hoan nghênh lãnh đạo Trung Quốc sớm sang thăm Việt Nam, phía Trung Quốc hoan nghênh Lãnh đạo Việt Nam sang thăm và tham dự các Hội nghị tại Trung Quốc. 

(ii) Hai bên đánh giá tích cực kết quả Phiên họp lần 6 Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, nhất trí tiếp tục sử dụng tốt cơ chế quan trọng này, thúc đẩy tổng thể hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, mang lại nhiều lợi ích hơn cho nhân dân hai nước. Hai bên nhất trí cùng nhau thực hiện tốt "Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc" được ký kết trong chuyến thăm này, thúc đẩy hợp tác thực chất giữa hai nước đạt được tiến triển mới.

(iii) Hai bên hài lòng trước sự phát triển của quan hệ hai Đảng trong những năm qua, nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác giữa hai Đảng, thúc đẩy cơ chế giao lưu hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại và Ban Tuyên giáo, Tuyên truyền của hai Đảng vận hành thuận lợi, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đào tạo cán bộ Đảng và Nhà nước. Hai bên nhất trí phối hợp chặt chẽ, cùng nhau tổ chức tốt Hội thảo lý luận hai Đảng lần thứ 9, tăng cường hơn nữa trao đổi kinh nghiệm về xây dựng Đảng và quản lý đất nước, thúc đẩy xây dựng Đảng và đất nước ở mỗi nước.

(iv) Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác giữa Bộ Ngoại giao hai nước, thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao, duy trì trao đổi thường xuyên giữa lãnh đạo hai Bộ Ngoại giao, tổ chức Tham vấn Ngoại giao thường niên và tăng cường giao lưu cấp Cục, Vụ giữa hai Bộ Ngoại giao.

(v) Hai bên đánh giá tích cực kết quả Đối thoại chiến lược quốc phòng cấp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng lần thứ 4, nhất trí duy trì tiếp xúc cấp cao giữa quân đội hai nước, phát huy tốt vai trò của cơ chế Đối thoại chiến lược quốc phòng và đường dây điện thoại trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng để tăng cường tin cậy lẫn nhau. Đi sâu trao đổi kinh nghiệm công tác Đảng và chính trị trong quân đội, tăng cường đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ. Thực hiện tốt "Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam-Trung Quốc" (sửa đổi) ký kết trong chuyến thăm này, tiếp tục triển khai tuần tra chung biên giới trên đất liền. Làm sâu sắc thêm hợp tác biên phòng trên đất liền và trên biển, trong năm nay triển khai hai đợt tuần tra chung giữa hải quân hai nước trong Vịnh Bắc Bộ. Tăng cường trao đổi và điều phối trong các vấn đề an ninh đa phương khu vực. Trao đổi nghiên cứu hình thức mới, nội dung mới trong triển khai hợp tác quốc phòng, làm sâu sắc thêm hợp tác giữa quân đội hai nước.

(vi) Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác trong lĩnh vực thực thi pháp luật và an ninh, phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm giữa Bộ Công an hai nước, tăng cường các chuyến thăm cấp cao và đơn vị nghiệp vụ của cơ quan thực thi pháp luật hai bên, thúc đẩy hợp tác thực chất trong các lĩnh vực như phòng chống tội phạm xuyên biên giới, giữ gìn trật tự trị an xã hội cũng như xây dựng năng lực thực thi pháp luật, sớm triển khai các hoạt động thực thi pháp luật chung trên các lĩnh vực, duy trì an ninh và ổn định khu vực biên giới hai nước. Hai bên nhất trí thúc đẩy triển khai giao lưu hợp tác giữa cơ quan cảnh sát biển hai nước. Hai bên nhất trí sớm khởi động đàm phán về "Hiệp định dẫn độ Việt-Trung" trong nửa cuối năm nay.

(vii) Hai bên nhất trí tăng cường điều phối chiến lược về phát triển kinh tế, thực hiện tốt "Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai đoạn 2012-2016" và Danh mục các dự án hợp tác trọng điểm, thúc đẩy hơn nữa hợp tác trong các lĩnh vực như nông nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng, khoáng sản, công nghiệp chế tạo và phụ trợ, dịch vụ cũng như hợp tác khu vực "Hai hành lang, một vành đai".

Hai bên sẽ sử dụng tốt cơ chế Ủy ban Hợp tác kinh tế-thương mại song phương, thực hiện tốt "Bản ghi nhớ hợp tác song phương trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản giữa Bộ Công Thương Việt Nam với Bộ Thương mại Trung Quốc" ; hai bên nhất trí tích cực áp dụng các biện pháp hữu hiệu, quyết liệt để thúc đẩy cân bằng thương mại song phương trên cơ sở đảm bảo thương mại song phương tăng trưởng ổn định, cố gắng hoàn thành trước thời hạn mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch thương mại hai chiều đạt 60 tỷ USD. Tiếp tục thúc đẩy xây dựng các dự án hợp tác kinh tế - thương mại quan trọng trong các lĩnh vực năng lượng, khu công nghiệp, kết nối giao thông trên bộ, trong đó ưu tiên thúc đẩy xây dựng các dự án đường bộ và đường sắt kết nối khu vực biên giới trên bộ hai nước như tuyến đường bộ cao tốc Lạng Sơn-Hà Nội... 

Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, tích cực tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức tài chính hai bên hỗ trợ dịch vụ tài chính cho các dự án hợp tác song phương. Tiếp tục thúc đẩy tiện lợi hóa thương mại và đầu tư song phương, bao gồm khuyến khích thanh quyết toán bằng đồng bản tệ trong trao đổi mậu dịch tại khu vực biên giới. Khuyến khích doanh nghiệp nước mình sang nước kia đầu tư, tạo điều kiện an toàn và thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư. 

(viii) Hai bên nhất trí tiếp tục làm sâu sắc thêm hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương về nông nghiệp, tăng cường giao lưu khoa học kỹ thuật nông nghiệp và nâng cao năng lực trong lĩnh vực nông nghiệp, nhân rộng các loại giống cây trồng nông nghiệp sản lượng cao và chất lượng tốt, bao gồm các loại giống lúa lai, thúc đẩy ngành chế biến và thương mại hàng nông sản phát triển, tập trung thúc đẩy xây dựng hệ thống phòng chống dịch bệnh động thực vật xuyên biên giới và an toàn thực phẩm xuất nhập khẩu, nâng cao khả năng dự báo và mức độ chia sẻ thông tin.

(ix) Tăng cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh vực văn hóa, thực hiện tốt "Thỏa thuận hợp tác giáo dục giai đoạn 2011 - 2015", "Kế hoạch hành động thực hiện Hiệp định Văn hóa Việt-Trung giai đoạn 2013-2015", sớm hoàn thành việc xây dựng Trung tâm văn hóa của nước này ở nước kia, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực sản nghiệp văn hóa, nguồn nhân lực. Hai bên nhất trí tổ chức Liên hoan Thanh niên Việt-Trung lần thứ 2 vào nửa cuối năm nay tại Trung Quốc, đồng thời tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động như Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung, Diễn đàn nhân dân Việt-Trung…, tăng cường tuyên truyền về tình hữu nghị Việt-Trung để gia tăng tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

(x) Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm giao lưu hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ, phát huy hơn nữa vai trò của Ủy ban hợp tác về khoa học công nghệ giữa Chính phủ hai nước, khuyến khích và ủng hộ giới nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ hai nước triển khai hợp tác với nhiều hình thức như cùng nghiên cứu và phát triển, cùng xây dựng phòng thí nghiệm chung, chuyển giao công nghệ… trong các lĩnh vực hai bên quan tâm như nông nghiệp, công nghệ thông tin, năng lượng mới, bảo vệ môi trường, quản lý, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước…

(xi) Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam ; phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước ; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại, cơ sở hạ tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế… ; thúc đẩy các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển. 

(xii) Hai bên nhất trí thực hiện nghiêm túc Kế hoạch công tác năm 2013 của Ủy ban Liên hợp biên giới trên đất liền hai nước ; đánh giá tích cực việc hai nước thành lập Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới trong chuyến thăm lần này ; đồng ý thúc đẩy việc tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam ; phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước ; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại, cơ sở hạ tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế… ; thúc đẩy các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển vào nửa cuối năm nay, cố gắng sớm đạt được tiến triển thực chất. Hai bên sẽ tăng cường trao đổi và hợp tác kỹ thuật trong các lĩnh vực quản lý sông suối biên giới, phòng chống thiên tai lũ lụt, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước trên sông suối xuyên biên giới.

(xiii) Hai bên sẽ tiếp tục thực hiện tốt "Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ" ; tích cực nghiên cứu phương thức kiểm tra liên hợp mới tại khu vực đánh cá chung ở Vịnh Bắc Bộ. Hai bên đánh giá cao "Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển" được ký kết trong chuyến thăm lần này, xử lý thỏa đáng các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển giữa hai nước phù hợp với quan hệ hai nước.

4. Hai bên trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhất trí việc Lãnh đạo hai Đảng, hai nước duy trì trao đổi và đối thoại thường xuyên về vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc, chỉ đạo và thúc đẩy giải quyết ổn thỏa vấn đề trên biển xuất phát từ tầm cao chiến lược và đại cục quan hệ hai nước. Hai bên sẽ nghiêm túc thực hiện "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc", sử dụng tốt các cơ chế như đàm phán biên giới lãnh thổ cấp Chính phủ..., kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng phát triển.

Hai bên nhất trí dựa trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm tiến, gia tăng cường độ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này, trong năm nay khởi động khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, sớm xác định khu vực và lĩnh vực hợp tác để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Hai bên hoan nghênh Thỏa thuận sửa đổi liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước, nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung đối với cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ sớm đạt được tiến triển tích cực. 

Hai bên nhất trí gia tăng mật độ đàm phán của Nhóm công tác chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển Việt-Trung, trong năm nay thực hiện một đến hai dự án hợp tác trong số ba dự án đã thỏa thuận, bao gồm Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ và Dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocene khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang ; tiếp tục thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.

Trước khi tranh chấp trên biển được giải quyết dứt điểm, hai bên nhất trí giữ bình tĩnh và kiềm chế, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, đồng thời sử dụng tốt đường dây nóng quản lý, kiểm soát khủng hoảng trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước, xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để các vấn đề này ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Việt-Trung cũng như hòa bình, ổn định tại Biển Đông. Hai bên nhất trí thực hiện toàn diện, có hiệu quả "Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông. 

5. Phía Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc hoan nghênh lập trường trên của Việt Nam.

6. Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc cùng là hai nước đang phát triển, có lập trường tương tự và gần nhau trong nhiều vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. Hai bên nhất trí tăng cường điều phối và phối hợp tại các diễn đàn đa phương như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội nghị cấp cao ASEAN và Trung Quốc, Hội nghị cấp cao ASEAN và Trung-Nhật-Hàn, Hội nghị cấp cao Đông Á..., cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của thế giới.

Hai bên nhất trí lấy năm nay - năm kỷ niệm 10 năm ASEAN và Trung Quốc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, làm cơ hội để thực hiện toàn diện nhận thức chung mà Lãnh đạo các nước ASEAN và Lãnh đạo Trung Quốc đã đạt được, tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 10 năm, không ngừng mở rộng và làm sâu sắc thêm hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc trong các lĩnh vực kinh tế-thương mại, kết nối giao thông, hải dương, xã hội nhân văn..., đóng góp nhiều hơn nữa cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực. 

7. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký "Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc", "Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam - Trung Quốc" (sửa đổi), "Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển", "Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Tổng cục giám sát chất lượng, kiểm nghiệm, kiểm dịch Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực kiểm nghiệm, kiểm dịch động thực vật xuất nhập khẩu", "Điều lệ công tác của Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc", "Bản ghi nhớ giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc thành lập Trung tâm văn hóa tại hai nước", "Bản ghi nhớ về kế hoạch hợp tác giai đoạn 2013-2017 giữa Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc", "Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4 giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ" và nhiều văn kiện hợp tác kinh tế khác.

8. Hai bên hài lòng trước những kết quả đạt được trong chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, nhất trí cho rằng chuyến thăm có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cảm ơn sự đón tiếp nhiệt tình, hữu nghị của phía Trung Quốc và mời Chủ tịch nước Tập Cận Bình thăm Việt Nam. Chủ tịch nước Tập Cận Bình bày tỏ cảm ơn.

Bắc Kinh, ngày 21 tháng 6 năm 2013

***********************

8. Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 15/10/2013

Thứ Ba, 15/10/2013

1. Nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lý Khắc Cường đã thăm chính thức nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 10 năm 2013.

Trong thời gian chuyến thăm, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã hội đàm với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ; hội kiến với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.

Trong không khí chân thành, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau, hai bên đã đi sâu trao đổi ý kiến và đạt nhận thức chung rộng rãi về việc làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung trong tình hình mới, cũng như tình hình quốc tế, khu vực hiện nay và các vấn đề cùng quan tâm.

2. Hai bên đã nhìn lại và đánh giá cao sự phát triển quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, khẳng định sẽ tuân theo những nhận thức chung quan trọng mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc theo phương châm "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt".

Hai bên nhất trí cho rằng, trong tình hình kinh tế, chính trị quốc tế diễn biến phức tạp hiện nay, việc hai bên tăng cường trao đổi chiến lược, làm sâu sắc thêm hợp tác thực chất, xử lý thỏa đáng các vấn đề còn tồn tại, tăng cường điều phối và phối hợp trong các vấn đề quốc tế và khu vực, thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài phù hợp lợi ích căn bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực cũng như thế giới.

3. Hai bên đánh giá cao vai trò quan trọng không thể thay thế của tiếp xúc cấp cao giữa hai nước, nhất trí tiếp tục duy trì tiếp xúc và thăm viếng cấp cao, xuất phát từ tầm cao chiến lược nắm vững phương hướng phát triển quan hệ hai nước trong thời kỳ mới.

Đồng thời, thúc đẩy trao đổi cấp cao qua nhiều hình thức như gặp gỡ bên lề các diễn đàn đa phương, sử dụng tốt đường dây nóng giữa Lãnh đạo cấp cao để đi sâu trao đổi các vấn đề trọng đại trong quan hệ song phương cũng như các vấn đề cùng quan tâm.

4. Hai bên nhất trí tiếp tục sử dụng tốt cơ chế của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, thúc đẩy tổng thể hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực ; thực hiện tốt "Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc" ; sử dụng tốt các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa các ngành Ngoại giao, Quốc phòng, Kinh tế, Thương mại, Công an, An ninh, Báo chí hai nước và giữa Ban Đối ngoại Trung ương, Ban Tuyên giáo của hai Đảng ; tổ chức tốt Phiên họp Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm, Phiên họp Ủy ban hợp tác kinh tế thương mại, Hội thảo lý luận giữa hai Đảng ; làm tốt các công tác như Tham vấn Ngoại giao thường niên, Tham vấn An ninh-Quốc phòng, đào tạo mở rộng cho cán bộ Đảng và Nhà nước ; sử dụng hiệu quả đường dây điện thoại trực tiếp giữa Bộ Quốc phòng, tăng cường định hướng đúng đắn báo chí và dư luận... góp phần quan trọng cho việc tăng cường sự tin cậy giữa hai bên, duy trì phát triển ổn định quan hệ hai nước. 

5. Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng và đối tác quan trọng của nhau, đều đang ở trong thời kỳ then chốt của công cuộc phát triển kinh tế-xã hội, xuất phát từ nhu cầu và lợi ích chung của hai nước, trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện với trọng tâm là các lĩnh vực dưới đây :

a. Về hợp tác trên bộ :

(i) Hai bên nhất trí nhanh chóng thực hiện "Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai đoạn 2012-2016" và Danh mục các dự án hợp tác trọng điểm ; thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng giữa hai nước để quy hoạch và chỉ đạo thực hiện các dự án cụ thể ; sớm đạt nhất trí về phương án thực hiện và huy động vốn đối với dự án đường bộ cao tốc Lạng Sơn-Hà Nội nhằm sớm khởi công xây dựng.

Hai bên sẽ tích cực thúc đẩy dự án đường bộ cao tốc Móng Cái-Hạ Long, phía Trung Quốc ủng hộ các doanh nghiệp có thực lực của Trung Quốc tham gia dự án này theo nguyên tắc thị trường, đồng thời sẵn sàng hỗ trợ về huy động vốn trong khả năng. Các bộ, ngành hữu quan hai nước đẩy nhanh công tác, sớm khởi động nghiên cứu khả thi dự án đường sắt Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng.

Hai bên nhất trí thực hiện tốt "Bản ghi nhớ về việc xây dựng các khu hợp tác kinh tế qua biên giới", tích cực nghiên cứu đàm phán ký kết "Hiệp định thương mại biên giới Việt-Trung" (sửa đổi) nhằm phát huy vai trò tích cực thúc đẩy hợp tác và phồn vinh ở khu vực biên giới hai nước.

(ii) Hai bên đồng ý tăng cường điều phối chính sách kinh tế thương mại, thực hiện tốt "Bản ghi nhớ hợp tác song phương trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản" và "Hiệp định về việc mở Cơ quan xúc tiến Thương mại nước này tại nước kia", để thúc đẩy cân bằng thương mại song phương trên cơ sở bảo đảm thương mại tăng trưởng ổn định, phấn đấu hoàn thành trước thời hạn mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch thương mại hai chiều đạt 60 tỷ USD.

Phía Trung Quốc khuyến khích doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng nhập khẩu hàng hóa có tính cạnh tranh của Việt Nam, ủng hộ doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam đầu tư kinh doanh, đồng thời sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp Việt Nam sang Trung Quốc mở rộng thị trường.

Phía Việt Nam sẽ tạo thuận lợi, hỗ trợ sớm hoàn thành Khu công nghiệp Long Giang và Khu công nghiệp An Dương. Hai bên sẽ đẩy nhanh thi công, thúc đẩy sớm hoàn thành dự án Cung Hữu nghị Việt-Trung.

(iii) Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm giao lưu hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học công nghệ, giáo dục, văn hóa, thể thao, du lịch, y tế…

(iv) Hai bên nhất trí tiếp tục phát huy vai trò của Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền giữa hai nước, thực hiện nghiêm túc Kế hoạch công tác hằng năm ; tiến hành Hội nghị lần thứ nhất Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu giữa hai nước, thúc đẩy công tác mở cửa, nâng cấp một số cặp cửa khẩu biên giới trên bộ, sớm chính thức mở cặp cửa khẩu quốc gia Hoành Mô-Động Trung ; thúc đẩy đàm phán về "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc" sớm đạt được tiến triển thực chất, sớm khởi động vòng đàm phán mới và đạt nhất trí về "Hiệp định tàu thuyền tự do đi lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân", sớm hoàn thành xây dựng các cầu qua biên giới như cầu đường bộ Bắc Luân 2, cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu, tạo nền tảng cho sự ổn định và phát triển của khu vực biên giới hai nước.

Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các địa phương, nhất là giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước ; phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước.

b. Về hợp tác tiền tệ :

Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, tích cực tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức tài chính hai bên hỗ trợ dịch vụ tài chính cho các dự án hợp tác song phương về thương mại và đầu tư. Trên cơ sở Hiệp định thanh toán bằng đồng bản tệ song phương trong thương mại biên giới ký giữa ngân hàng Trung ương hai nước năm 2003, tiếp tục nghiên cứu việc mở rộng phạm vi thanh toán bằng đồng bản tệ, thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư hai bên.

Hai bên quyết định thành lập Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ giữa hai nước, để nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro tài chính tiền tệ của hai bên, duy trì ổn định và phát triển kinh tế hai nước và khu vực. Tăng cường điều phối và phối hợp đa phương, cùng nhau thúc đẩy hợp tác tài chính tiền tệ khu vực Đông Á.

c. Về hợp tác trên biển :

Hai bên nhất trí tuân thủ nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc", sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển. Theo tinh thần đó, hai bên đồng ý thành lập Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc.

Hai bên nhất trí tăng cường chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán và tham vấn hiện có, gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này và trong năm nay khởi động khảo sát chung ở khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ. Nhanh chóng thực hiện các Dự án hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ ; nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocene khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.

Hai bên nhất trí kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, sử dụng tốt đường dây nóng quản lý, kiểm soát tranh chấp trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước, đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển giữa Bộ Nông nghiệp hai nước, xử lý kịp thời, thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, đồng thời tiếp tục tích cực trao đổi và tìm kiếm các biện pháp có hiệu quả để kiểm soát tranh chấp, duy trì đại cục quan hệ Việt-Trung và hòa bình, ổn định trên Biển Đông.

6. Hai bên nhất trí tổ chức tốt các hoạt động như Liên hoan Thanh niên Việt-Trung lần thứ hai ; Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung ; Liên hoan nhân dân Việt-Trung… nhằm bồi dưỡng ngày càng nhiều thế hệ tiếp nối sự nghiệp hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc. Hai bên nhất trí thành lập Viện Khổng Tử tại Việt Nam và đẩy nhanh việc thành lập Trung tâm văn hóa của nước này ở nước kia, thiết thực tăng cường tuyên truyền về quan hệ hữu nghị Việt-Trung, làm sâu sắc sự hiểu biết và hữu nghị giữa người dân hai nước.

7. Phía Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc hoan nghênh lập trường trên của Việt Nam.

8. Hai bên nhất trí tăng cường điều phối và phối hợp tại các diễn đàn đa phương như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại thế giới, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, Diễn đàn Hợp tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc, Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 với Trung-Nhật-Hàn, Hội nghị Cấp cao Đông Á… cùng nhau nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của thế giới.

Hai bên đánh giá cao những thành tựu to lớn đạt được trong phát triển quan hệ ASEAN-Trung Quốc, nhất trí lấy dịp kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc làm cơ hội tăng cường hơn nữa tin cậy chiến lược. Phía Việt Nam hoan nghênh đề xuất của Trung Quốc về việc ký kết "Điều ước hợp tác láng giềng hữu nghị giữa các nước ASEAN và Trung Quốc", nâng cấp Khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc, thành lập Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á. Việc ASEAN và Trung Quốc triển khai hợp tác rộng rãi có vai trò hết sức quan trọng đối với thúc đẩy hòa bình, ổn định, tôn trọng và tin cậy lẫn nhau tại khu vực Đông Nam Á.

Hai bên nhất trí thực hiện đầy đủ, hiệu quả "Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, theo tinh thần và nguyên tắc của "Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), trên cơ sở đồng thuận, nỗ lực hướng tới thông qua "Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông" (COC).

9. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký "Hiệp định về việc mở Cơ quan Xúc tiến thương mại nước này tại nước kia", "Bản ghi nhớ về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới", "Bản ghi nhớ về việc thành lập Nhóm công tác hỗn hợp hỗ trợ các dự án do doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện tại Việt Nam", "Hiệp định về việc xây dựng cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu" và Nghị định thư kèm theo, "Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ", "Dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang", "Thỏa thuận về việc thành lập Viện Khổng Tử tại Trường Đại học Hà Nội" và một số văn kiện hợp tác kinh tế. 

10. Hai bên bày tỏ hài lòng về kết quả chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường, nhất trí cho rằng chuyến thăm lần này có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển và hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực.

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2013

***************************

9. Thông cáo chung Trung Quốc - Việt Nam 09/04/2015

Thứ Năm 09/04/2015

1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tiến hành thăm chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ ngày 7 đến ngày 10/4/2015.

Trong thời gian chuyến thăm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình ; hội kiến với Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Khắc Cường (Li Keqiang) ; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trương Đức Giang (Zhang Dejiang) ; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc Du Chính Thanh (Yu Zhengsheng). Trong không khí hữu nghị, chân thành, hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước ; đi sâu trao đổi ý kiến và đạt nhận thức chung rộng rãi về việc tăng cường quan hệ hai Đảng, hai nước trong tình hình mới và về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. Ngoài Bắc Kinh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm tỉnh Vân Nam (Yunnan).

Hai bên nhất trí cho rằng chuyến thăm đã thành công tốt đẹp, góp phần quan trọng thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển ổn định, lành mạnh vì lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, đồng thời góp phần thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.

2. Hai bên bày tỏ vui mừng trước những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của mỗi nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhấn mạnh kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con đường phát triển xã hội chủ nghĩa đặc trưng của mỗi nước là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với lợi ích căn bản của nhân dân hai nước. Hai bên sẽ tiếp tục nỗ lực, học hỏi lẫn nhau, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của Việt Nam và sự nghiệp cải cách, mở cửa của Trung Quốc phát triển về phía trước, không ngừng tạo sức sống mới cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Phía Trung Quốc đánh giá cao những thành tựu to lớn mà nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã giành được trong việc thúc đẩy toàn diện sự nghiệp đổi mới từ Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, chân thành chúc và tin tưởng rằng nhân dân Việt Nam sẽ thực hiện được những nhiệm vụ mục tiêu mà Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Phía Việt Nam đánh giá cao những tiến triển to lớn trong các lĩnh vực mà Trung Quốc đạt được từ Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XVIII đến nay, chân thành chúc và tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo kiên định của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ thúc đẩy hài hòa xây dựng toàn diện xã hội khá giả, đi sâu cải cách toàn diện, quản lý đất nước theo pháp luật toàn diện, quản lý Đảng nghiêm minh toàn diện, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng thành công nhà nước hiện đại xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa.

3. Nhân dịp 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc, hai bên nhìn lại truyền thống tốt đẹp kề vai sát cánh, ủng hộ lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau của nhân dân hai nước trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và trong tiến trình thúc đẩy sự nghiệp cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng quan trọng của nhau, nhất trí cho rằng hai nước có chế độ chính trị tương đồng, có con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ vận mệnh tương quan, sự phát triển của nước này là cơ hội quan trọng cho nước kia.

Hai bên đã tổng kết những kinh nghiệm và gợi mở quan trọng về sự phát triển của quan hệ Việt - Trung : tình hữu nghị truyền thống Việt - Trung do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông (Mao Zedong) cùng các nhà lãnh đạo tiền bối hai nước đích thân vun đắp là tài sản quý báu của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần được quý trọng, gìn giữ và phát huy ; hai nước Việt Nam - Trung Quốc có lợi ích chung rộng rãi làm cơ sở cho đại cục quan hệ hai nước, hai bên cần luôn kiên trì tôn trọng lẫn nhau, hiệp thương chân thành, cầu đồng tồn dị, kiểm soát bất đồng ; tin cậy chính trị Việt - Trung là cơ sở cho quan hệ song phương phát triển lành mạnh, ổn định, hai bên cần tăng cường thăm viếng và trao đổi cấp cao, từ tầm cao chiến lược, đưa quan hệ song phương phát triển về phía trước ; hợp tác cùng có lợi giữa Việt Nam và Trung Quốc mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, góp phần thúc đẩy hòa bình, phát triển và phồn vinh của khu vực, cần tăng cường và làm sâu sắc toàn diện.

4. Hai bên nhấn mạnh, Việt Nam và Trung Quốc sẽ tiếp tục kiên trì nỗ lực thực hiện tốt phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt", luôn nắm vững phương hướng phát triển của quan hệ Việt - Trung, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung không ngừng phát triển lên phía trước. 

Hai bên nhất trí chú trọng đi sâu hợp tác trong các lĩnh vực sau đây :

- Tiếp tục duy trì truyền thống tốt đẹp tiếp xúc mật thiết cấp cao giữa hai Đảng, hai nước bằng các hình thức linh hoạt, kịp thời trao đổi ý kiến về tình hình quốc tế, khu vực và những vấn đề quan trọng trong quan hệ song phương, không ngừng đi sâu trao đổi chiến lược, củng cố tin cậy chính trị, tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo đối với sự phát triển của quan hệ Việt - Trung. 

- Tiếp tục phát huy tốt vai trò của các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa hai Đảng, hai nước như Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt - Trung ; thúc đẩy tổng thể hợp tác, điều phối giải quyết các vấn đề, phục vụ cho lợi ích của nhân dân hai nước. Thực hiện tốt "Chương trình hành động triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc", thúc đẩy hợp tác thực chất trên các lĩnh vực giữa hai nước đạt tiến triển mới.

- Thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng, tiếp tục tổ chức tốt các hội thảo lý luận, thúc đẩy giao lưu hợp tác giữa các cơ quan tương ứng của hai Đảng, tăng cường trao đổi kinh nghiệm về xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội, quản lý đất nước..., đi sâu hợp tác về bồi dưỡng, đào tạo cán bộ Đảng và chính quyền. Tích cực thúc đẩy giao lưu hợp tác hữu nghị giữa Quốc hội Việt Nam với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc.

- Thực hiện tốt "Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung giai đoạn 2012 - 2016", thúc đẩy thực hiện Danh mục các dự án hợp tác trọng điểm và các thỏa thuận hợp tác kinh tế thương mại mà hai bên đã ký kết. Thúc đẩy thương mại song phương tăng trưởng ổn định, cân bằng, bền vững ; phía Trung Quốc khuyến khích doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng nhập khẩu các mặt hàng có sức cạnh tranh của Việt Nam ; hai bên tích cực nghiên cứu việc đàm phán, ký kết Hiệp định sửa đổi về thương mại biên giới Việt - Trung. Sớm bàn bạc và xác định phương án tổng thể chung về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới ; thiết thực thúc đẩy các dự án kết nối cơ sở hạ tầng. Thúc đẩy hợp tác trong các ngành nghề nông nghiệp, chế tạo, dịch vụ và các lĩnh vực khoa học công nghệ, y tế, kiểm nghiệm, kiểm dịch, v.v... Phía Trung Quốc ủng hộ doanh nghiệp Trung Quốc sang Việt Nam đầu tư phát triển và sẵn sàng tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam đến Trung Quốc khai thác mở rộng thị trường. Phía Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cần thiết cho các doanh nghiệp Trung Quốc sang đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

Hai bên tuyên bố chính thức thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ, đồng ý tăng cường điều hành, phối hợp giữa các nhóm này và Nhóm Công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển, cùng nhau thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực phát triển toàn diện.

- Tăng cường giao lưu, hợp tác trong các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, thực thi pháp luật và an ninh. Tiếp tục tổ chức tốt tham vấn ngoại giao thường niên, mở rộng giao lưu hợp tác giữa bộ Ngoại giao hai nước. Duy trì tiếp xúc cấp cao giữa quân đội hai nước và đối thoại quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh giao lưu hữu nghị giữa hai lực lượng biên phòng, quản lý thỏa đáng bất đồng, đi sâu trao đổi kinh nghiệm về công tác Đảng và công tác chính trị trong quân đội ; tăng cường hợp tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ ; tiếp tục tổ chức tuần tra chung trong vịnh Bắc Bộ và tàu hải quân hai bên thăm nhau. Đi sâu hợp tác trong lĩnh vực an ninh và thực thi pháp luật, tăng cường đối thoại an ninh, triển khai có hiệu quả các cơ chế hợp tác và thỏa thuận hợp tác đã ký kết ; tăng cường hợp tác về chống khủng bố, phòng chống tội phạm ma túy, tội phạm lừa đảo viễn thông, quản lý xuất nhập cảnh, quản lý biên giới, an ninh mạng... ; bảo đảm an toàn cho các cơ quan, doanh nghiệp và công dân nước này tại nước kia.

- Mở rộng giao lưu và hợp tác hữu nghị giữa hai bên trong các lĩnh vực báo chí, văn hóa, giáo dục, du lịch và giữa các địa phương hai nước ; tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động giao lưu nhân dân như Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt - Trung, diễn đàn nhân dân Việt - Trung ; tích cực thúc đẩy công tác thành lập trung tâm văn hóa nước này tại nước kia, tăng cường giao lưu báo chí và thăm viếng lẫn nhau giữa phóng viên hai nước ; đi sâu giao lưu hữu nghị giữa các cơ quan nghiên cứu và học giả ; thiết thực đẩy mạnh tuyên truyền về tình hữu nghị Việt - Trung, không ngừng tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

- Tiếp tục phát huy tốt vai trò của Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền Việt - Trung, thực hiện tốt các văn kiện về biên giới trên đất liền giữa hai nước ; sớm ký "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực Thác Bản Giốc" và "Hiệp định về quy chế tàu thuyền tự do đi lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân" ; cùng duy trì bảo vệ sự ổn định và phát triển của khu vực biên giới. Phát huy tốt vai trò của Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt - Trung ; tăng cường xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng cửa khẩu biên giới hai bên, nâng cao mức độ mở cửa hợp tác của các cửa khẩu biên giới hai nước. Tăng cường hợp tác giữa các tỉnh/khu biên giới hai bên, thúc đẩy cùng phát triển khu vực biên giới hai nước.

5. Hai bên trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn mạnh tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc" ; sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt - Trung, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển. Cùng kiểm soát tốt bất đồng trên biển, thực hiện đầy đủ có hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) trên cơ sở hiệp thương thống nhất, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp ; xử lý kịp thời, thỏa đáng vấn đề nảy sinh, duy trì đại cục quan hệ Việt - Trung và hòa bình, ổn định ở Biển Đông. 

Hai bên nhất trí thúc đẩy hoạt động của Nhóm bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này, sớm khởi động khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ trong năm nay.

6. Phía Việt Nam khẳng định kiên trì chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ Đài Loan độc lập dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của Việt Nam. 

7. Hai bên đồng ý tiếp tục tăng cường phối hợp trong khuôn khổ đa phương như Liên hợp quốc, Diễn đàn Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) - Trung Quốc ; cùng duy trì, bảo vệ và thúc đẩy hòa bình, phồn vinh và phát triển của thế giới. Phía Trung Quốc ủng hộ Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao APEC 2017, Việt Nam chúc mừng Trung Quốc tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao APEC 2014. Hai bên đồng ý tăng cường hợp tác xây dựng kết nối khu vực, thúc đẩy cùng phát triển trong khu vực.

8. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký kết "Kế hoạch hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016-2020" ; "Hiệp định về hợp tác dẫn độ giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" ; "Thỏa thuận về các vấn đề về thuế đối với Dự án thăm dò chung tài nguyên dầu khí tại vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc" giữa Bộ Tài chính nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Tài chính nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ; "Bản ghi nhớ giữa Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về hợp tác trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc" ; "Bản ghi nhớ về việc thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng trên bộ" (MOU) giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc ; "Điều khoản Tham chiếu Nhóm công tác hợp tác tài chính tiền tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc" ; và "Bản ghi nhớ về hợp tác làm phim truyền hình chuyên đề giữa Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc".

9. Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng chân thành cảm ơn Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc về sự đón tiếp trọng thị, chân tình và hữu nghị, trân trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình sớm sang thăm chính thức Việt Nam ; Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình chân thành cảm ơn và vui vẻ nhận lời./. 

Bắc Kinh, ngày 8 tháng 4 năm 2015

****************************

10. Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 06/11/2015

Thứ Sáu 06/11/2015

 

1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trương Tấn Sang, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình tiến hành chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 5 đến ngày 6/11/2015.

Trong thời gian chuyến thăm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã có các cuộc hội đàm với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, hội kiến với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.

Trong không khí hữu nghị, chân thành, thẳng thắn, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước đã đi sâu trao đổi ý kiến và đạt được nhận thức chung quan trọng về việc làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai nước, về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm.

Hai bên nhất trí cho rằng chuyến thăm đã thành công tốt đẹp, góp phần quan trọng vào việc củng cố tình hữu nghị truyền thống, làm sâu sắc quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung, thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.

2. Hai bên vui mừng trước những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của mỗi nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình mỗi nước ; nhất trí tăng cường giao lưu và tham khảo kinh nghiệm của nhau, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của Việt Nam và sự nghiệp cải cách, mở cửa của Trung Quốc không ngừng phát triển, tạo sức sống mới cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi nước.

Phía Việt Nam chân thành chúc và tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ thúc đẩy hài hòa xây dựng toàn diện xã hội khá giả, đi sâu cải cách toàn diện, quản lý đất nước theo pháp luật toàn diện, quản lý đảng nghiêm minh toàn diện, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng thành công nhà nước hiện đại xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa.

Phía Trung Quốc chân thành chúc Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức thành công Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII vào đầu năm 2016 ; tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra, xây dựng Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

3. Hai bên nhìn lại chặng đường phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước trong 65 năm qua kể từ khi Việt Nam - Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao, nhất trí cho rằng tình hữu nghị Việt - Trung do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các nhà lãnh đạo tiền bối đích thân xây dựng và dày công vun đắp là tài sản chung quý báu của nhân dân hai nước cần được gìn giữ, kế thừa và phát huy ;

Thực hiện tốt phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" ;

Nắm vững phương hướng đúng đắn của tình hữu nghị Việt - Trung, tăng cường trao đổi chiến lược, củng cố tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác các lĩnh vực trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi, kiểm soát tốt và giải quyết thỏa đáng bất đồng, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung phát triển lành mạnh, ổn định.

4. Hai bên cho rằng, việc duy trì tiếp xúc cấp cao thường xuyên giữa hai Đảng, hai nước có vai trò quan trọng trong việc tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy phát triển quan hệ song phương ; nhất trí duy trì trao đổi cấp cao thông qua các hình thức linh hoạt, đa dạng như thăm lẫn nhau, cử Đặc phái viên, điện thoại qua đường dây nóng, gặp gỡ thường niên và gặp gỡ bên lề các diễn đàn đa phương để kịp thời trao đổi ý kiến về các vấn đề quan trọng trong quan hệ hai Đảng, hai nước.

5. Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc đều đang trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội quan trọng, hai bên coi sự phát triển của nước này là cơ hội phát triển cho nước kia, nhất trí phát huy tốt vai trò điều phối tổng thể của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt - Trung, tập trung thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực dưới đây :

(i) Thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng và làm sâu sắc các hoạt động giao lưu hợp tác giữa các tổ chức Đảng ở Trung ương và địa phương, nhất là các địa phương có chung đường biên giới ; tiếp tục tổ chức tốt Hội thảo lý luận, thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ hai Đảng giai đoạn 2016 - 2020 được ký trong chuyến thăm này. 

Tích cực thúc đẩy giao lưu hợp tác hữu nghị giữa Quốc hội Việt Nam với Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân toàn quốc Trung Quốc ; thúc đẩy giao lưu hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

(ii) Thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác giữa Bộ Ngoại giao hai nước, duy trì trao đổi thường xuyên giữa lãnh đạo hai Bộ, tiếp tục tổ chức Tham vấn Ngoại giao thường niên, tăng cường giao lưu giữa các Vụ/Cục tương ứng, thực hiện tốt công tác bồi dưỡng cán bộ giữa hai Bộ.

Phía Việt Nam sẵn sàng tạo thuận lợi để Trung Quốc thành lập Tổng Lãnh sự quán tại Đà Nẵng, Việt Nam.

(iii) Duy trì trao đổi cấp cao giữa hai quân đội, sử dụng tốt cơ chế Đối thoại chiến lược Quốc phòng, Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt - Trung và đường dây thông tin điện thoại trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng ; tăng cường giao lưu hợp tác giữa quân đội hai nước trên các lĩnh vực như giao lưu hữu nghị biên phòng, đào tạo cán bộ, nghiên cứu học thuật quân sự, tuần tra chung trên Vịnh Bắc Bộ và tàu hải quân thăm lẫn nhau ; đi sâu trao đổi kinh nghiệm về hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc và công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội ; tăng cường hợp tác thực thi pháp luật trên biển giữa Cảnh sát biển hai nước, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định trong vùng biển Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy ký kết Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam với Cục Cảnh sát biển Trung Quốc.

Đi sâu hợp tác trong lĩnh vực an ninh và thực thi pháp luật, tiếp tục tổ chức tốt Hội nghị hợp tác phòng, chống tội phạm giữa hai Bộ Công an và Đối thoại an ninh chiến lược cấp Thứ trưởng giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc ; tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực như chống khủng bố, chống tội phạm ma túy, tội phạm lừa đảo qua mạng viễn thông, quản lý xuất nhập cảnh, quản lý biên giới, an ninh mạng, trao đổi kinh nghiệm về bảo đảm an ninh tại mỗi nước, phối hợp điều tra và truy bắt tội phạm bỏ trốn, ngăn chặn lao động bất hợp pháp...

(iv) Tăng cường kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước ; thúc đẩy kết nối giữa khuôn khổ "hai hành lang, một vành đai" với sáng kiến "một vành đai, một con đường" ; tăng cường hợp tác về năng lực sản xuất trên các lĩnh vực như vật liệu xây dựng, công nghiệp phụ trợ, máy móc thiết bị, điện lực, năng lượng tái tạo... 

Khẩn trương thành lập Nhóm công tác, tích cực bàn bạc, ký kết Phương án tổng thể chung xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới, thúc đẩy việc xây dựng và tích cực thu hút đầu tư đối với hai Khu Công nghiệp Long Giang (Tiền Giang) và An Dương (Hải Phòng) ở Việt Nam, đôn đốc và chỉ đạo doanh nghiệp hai nước thực hiện tốt các dự án hợp tác như gang thép và phân đạm do doanh nghiệp Trung Quốc nhận thầu xây dựng tại Việt Nam.

Sử dụng hiệu quả cơ chế Ủy ban hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung, tích cực nghiên cứu ký tiếp "Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung", khẩn trương sửa đổi "Hiệp định thương mại biên giới Việt - Trung", thực hiện thương mại song phương phát triển cân bằng, vững chắc và bền vững, phấn đấu thực hiện mục tiêu kim ngạch thương mại song phương đạt 100 tỷ USD vào năm 2017.

Tăng cường hợp tác trong khuôn khổ "Bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản" ; khuyến khích các doanh nghiệp hai bên mở rộng hợp tác thương mại đối với các mặt hàng nông sản, hoan nghênh các cơ quan chức năng và địa phương liên quan của hai nước trao đổi thành lập Cơ quan xúc tiến thương mại.

Tăng cường vai trò Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực liên quan không ngừng có tiến triển tích cực.

Thực hiện tốt dự án Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông ; khẩn trương lập quy hoạch tuyến đường sắt tốc độ cao Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, thúc đẩy hợp tác kết nối cơ sở hạ tầng như tuyến đường bộ cao tốc Móng Cái - Vân Đồn.

Đi sâu hợp tác hải quan, cùng chống các hành vi buôn lậu qua biên giới, tiếp tục tìm kiếm các biện pháp hợp tác thúc đẩy tiện lợi hóa thông quan, tăng cường xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng, nâng cao mức độ hợp tác mở cửa khu vực cửa khẩu biên giới giữa hai nước.

(v) Mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục, văn hóa, du lịch và báo chí... Sử dụng tốt cơ chế Ủy ban liên hợp về hợp tác khoa học công nghệ giữa hai nước, tích cực thúc đẩy hợp tác về chuyển giao công nghệ, giao lưu giữa các nhà khoa học, trao đổi về việc xây dựng Phòng thí nghiệm chung.

Phấn đấu hoàn thành việc xây dựng và đưa vào sử dụng Cung Hữu nghị Việt - Trung vào năm 2017, sớm thành lập Trung tâm Văn hóa nước này tại nước kia, vận hành có hiệu quả Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội.

Tăng cường giao lưu báo chí hai nước, gia tăng mức độ tuyên truyền về tình hữu nghị Việt - Trung. Tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động như Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt - Trung, Diễn đàn Nhân dân, tổ chức Liên hoan thanh niên Việt - Trung lần thứ 3 tại Việt Nam vào năm 2016.

6. Tiếp tục phát huy tốt vai trò của Ủy ban liên hợp về biên giới trên đất liền Việt - Trung, thực hiện tốt "Hiệp định về tàu thuyền đi lại tại khu vực tàu thuyền đi lại tự do ở cửa sông Bắc Luân" và "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc" được ký kết trong chuyến thăm này ; tiến hành tổng kết tình hình 05 năm thực hiện 03 văn kiện về quản lý biên giới trên đất liền giữa hai nước.

Tăng cường hợp tác giữa các tỉnh/khu biên giới, thúc đẩy sự phát triển của khu vực biên giới hai nước.

7. Hai bên đã trao đổi chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn mạnh nghiêm túc tuân thủ những nhận thức chung quan trọng đạt được giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước ; nghiêm túc thực hiện "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc", sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt - Trung, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển.

Hai bên tuyên bố khởi động hoạt động khảo sát chung trên thực địa tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ vào trung tuần tháng 12 năm 2015, cho rằng đây là bước khởi đầu quan trọng cho việc hai bên triển khai hợp tác trên biển ; thúc đẩy vững chắc đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này ;

Nhất trí gia tăng cường độ đàm phán Nhóm công tác cấp chuyên viên về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, tiếp tục thúc đẩy công việc của Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm, tuyên bố khởi động dự án hợp tác nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang.

Hai bên nhất trí cùng nhau kiểm soát tốt bất đồng trên biển, thực hiện đầy đủ và có hiệu quả "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), thúc đẩy sớm đạt được "Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông" (COC) trên cơ sở hiệp thương thống nhất, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp ; xử lý kịp thời, thỏa đáng vấn đề nảy sinh, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và quan hệ Việt - Trung.

8. Phía Việt Nam khẳng định kiên trì chính sách một Trung Quốc, ủng hộ quan hệ hai bờ phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hoạt động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức.

Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của Việt Nam.

9. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường phối hợp trong khuôn khổ đa phương như Liên hợp quốc, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) - Trung Quốc ; cùng duy trì, bảo vệ và thúc đẩy hòa bình, phồn vinh và phát triển của thế giới. Phía Trung Quốc ủng hộ Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao APEC 2017.

10. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký các văn kiện hợp tác : "Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016-2020", "Hiệp định về tàu thuyền đi lại tại khu vực tàu thuyền đi lại tự do ở cửa sông Bắc Luân giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", "Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc thành lập Trung tâm Văn hóa nước này tại nước kia", "Công hàm trao đổi giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc khả thi tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng", "Bản ghi nhớ về việc thúc đẩy hợp tác năng lực sản xuất giữa Bộ Công Thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", "Bản ghi nhớ về việc ưu hóa thiết kế dự án Cung Hữu nghị Việt - Trung giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Thương mại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", "Bản thỏa thuận giữa Tỉnh ủy Quảng Ninh, Đảng Cộng sản Việt Nam với Khu ủy Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Đảng Cộng sản Trung Quốc về thiết lập giao lưu hữu nghị giữa các tổ chức cơ sở Đảng địa phương", "Thỏa thuận triển khai giao lưu hữu nghị Đảng bộ địa phương giữa Tỉnh ủy Lào Cai, Đảng Cộng sản Việt Nam và Tỉnh ủy Vân Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc"...

11. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình chân thành cảm ơn sự đón tiếp trọng thị, thân tình và hữu nghị của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Đảng Cộng sản, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

*************************

11. Thông cáo chung Trung Quốc - Việt Nam 15/09/2016

Thứ Năm 15/09/2016

1. Nhận lời mời của Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lý Khắc Cường, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã thăm chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ ngày 10 đến ngày 15/9/2016.

Trong thời gian chuyến thăm, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã hội kiến với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình ; hội đàm với Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Khắc Cường ; có các cuộc gặp với Ủy viên trưởng Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trương Đức Giang, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc Du Chính Thanh.

Trong không khí hữu nghị, chân thành, thẳng thắn hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước ; đi sâu trao đổi ý kiến và đạt nhận thức chung rộng rãi về việc làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung trong tình hình mới, cũng như về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm.

Ngoài Bắc Kinh, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã tham dự Hội chợ Trung Quốc - ASEAN và Hội nghị thượng đỉnh thương mại và đầu tư Trung Quốc - ASEAN lần thứ 13 tại Nam Ninh, thăm Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây và Khu hành chính đặc biệt Hong Kong.

2. Hai bên bày tỏ vui mừng trước những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Phía Trung Quốc chân thành chúc Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu đổi mới và xây dựng Chủ nghĩa xã hội mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, xây dựng Việt Nam sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Phía Việt Nam chân thành chúc Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Nhà nước hiện đại xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa.

3. Hai bên cho rằng, tình hữu nghị Việt - Trung là tài sản quý báu của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần cùng nhau kế thừa, gìn giữ và phát huy. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp hiện nay, hai bên sẽ kiên trì tôn trọng lẫn nhau, tăng cường trao đổi chiến lược, gia tăng tin cậy chính trị, làm sâu sắc hợp tác cùng có lợi, kiểm soát và xử lý thỏa đáng các bất đồng còn tồn tại và các vấn đề nảy sinh, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục phát triển lành mạnh, ổn định, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, góp phần tích cực thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực.

4. Hai bên nhất trí duy trì truyền thống tiếp xúc mật thiết giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước bằng các hình thức linh hoạt, kịp thời trao đổi ý kiến về những vấn đề lớn và quan trọng trong quan hệ song phương và tình hình quốc tế, khu vực, tăng cường định hướng và chỉ đạo đối với sự phát triển của quan hệ Việt - Trung ; phát huy tốt vai trò của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt - Trung trong việc điều phối, thúc đẩy thực hiện nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước ; triển khai hiệu quả Kế hoạch hợp tác hai Đảng giai đoạn 2016 - 2020, tăng cường trao đổi kinh nghiệm về xây dựng Đảng và quản lý nhà nước, tổ chức tốt Hội thảo lý luận hai Đảng, thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai Đảng (2016 - 2020) ; tăng cường giao lưu, hợp tác giữa các Ban Đảng ở Trung ương và các tổ chức Đảng địa phương, nhất là các địa phương khu vực biên giới ; tăng cường giao lưu, hợp tác hữu nghị giữa Quốc hội Việt Nam với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc.

5. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường giao lưu, hợp tác trong các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh và thực thi pháp luật. Triển khai tốt các cơ chế và thỏa thuận hợp tác hiện có ; thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao, duy trì giao lưu thường xuyên giữa Lãnh đạo và trao đổi giữa các Cục/Vụ của hai Bộ ; tăng cường giao lưu về nghiệp vụ, chuyên môn giữa quân đội và lực lượng thực thi pháp luật hai nước ; tổ chức các hoạt động tuần tra chung trong Vịnh Bắc Bộ và huấn luyện chung về tìm kiếm cứu nạn, chống cướp biển, chống khủng bố trên biển ; phòng chống các loại tội phạm ; thực hiện tốt "Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam và Cục Cảnh sát biển Trung Quốc" ; triển khai hợp tác tìm kiếm cứu nạn trên biển ; gia tăng tần suất kiểm tra liên hợp nghề cá tại khu vực đánh cá chung Vịnh Bắc Bộ ; căn cứ nhận thức chung về nguyên tắc đã đạt được tại cuộc gặp làm việc lần thứ nhất giữa Cảnh sát biển Việt Nam - Trung Quốc, xử lý thỏa đáng các vụ việc nảy sinh về nghề cá trên biển phù hợp với quan hệ hữu nghị hai nước.

6. Hai bên cho rằng, hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước có tiềm năng lớn. Thời gian qua, nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc bước đầu có dấu hiệu cải thiện. Hai bên nhất trí áp dụng các biện pháp hữu hiệu thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư song phương tiếp tục phát triển ổn định, lành mạnh, mang lại lợi ích cho phát triển kinh tế và cải thiện đời sống người dân hai nước :

(i) Thực hiện tốt "Thỏa thuận gia hạn và bổ sung Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế, thương mại giữa Chính phủ hai nước Việt - Trung" ; sớm xác định danh mục các dự án hợp tác trọng điểm phù hợp với nhu cầu và lợi ích của hai bên, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, mở rộng lĩnh vực và nâng cao mức độ hợp tác.

(ii) Phát huy vai trò Ủy ban Hợp tác kinh tế thương mại Việt - Trung và các cơ chế hợp tác liên quan, áp dụng các biện pháp thiết thực cải thiện hơn nữa tình trạng mất cân bằng thương mại hai nước ; thực hiện tốt "Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản", ủng hộ doanh nghiệp hai nước hợp tác trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, trong đó có gạo, các sản phẩm sữa, hoa quả đã chế biến sau khi nhanh chóng hoàn tất công tác kiểm nghiệm kiểm dịch ; sớm phê chuẩn và thực hiện "Hiệp định Thương mại biên giới" (sửa đổi) ; đẩy nhanh nghiên cứu, bàn bạc thống nhất "Phương án tổng thể xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới" theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với quy định pháp luật của mỗi bên. Phía Trung Quốc khuyến khích doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng nhập khẩu các mặt hàng có sức cạnh tranh của Việt Nam ; tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam thành lập thêm các Văn phòng xúc tiến thương mại tại một số địa phương của Trung Quốc.

(iii) Thúc đẩy hợp tác đầu tư và kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước. Phát huy vai trò Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng, tích cực nghiên cứu và thúc đẩy các dự án hợp tác kết nối trong khuôn khổ "hai hành lang, một vành đai" và "một vành đai, một con đường" ; khẩn trương lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ; ủng hộ doanh nghiệp hai bên đẩy nhanh giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong các dự án hợp tác liên quan giữa hai bên ; tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào các dự án phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam.

(iv) Tăng cường hợp tác tài chính và tiền tệ. Thực hiện tốt các công việc tiếp theo sau Phiên họp lần thứ 2 Nhóm công tác hợp tác về tài chính - tiền tệ ; đồng thời, phối hợp chặt chẽ sử dụng hiệu quả các khoản tín dụng và các khoản viện trợ không hoàn lại Trung Quốc dành cho Việt Nam.

7. Hai bên đồng ý đẩy mạnh hơn nữa hợp tác về nông nghiệp, môi trường, khoa học công nghệ, giao thông vận tải. Tích cực thúc đẩy triển khai đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của các hoạt động nghề cá trên biển, duy trì trao đổi về cách thức xử lý thỏa đáng các vấn đề liên quan ; tăng cường hợp tác trong việc tạo các giống lúa, giống cây trồng thích nghi với điều kiện hạn hán, nhiễm mặn và hợp tác trồng rừng ; triển khai tốt hợp tác sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong - Lan Thương, chia sẻ dữ liệu thủy văn sông suối khu vực biên giới ; thực hiện tốt kết quả Phiên họp lần thứ 9 Ủy ban hỗn hợp khoa học và công nghệ Việt Nam - Trung Quốc ; tích cực nghiên cứu và bàn bạc ký kết "Hiệp định vận tải đường sắt biên giới mới", đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác hàng không giữa hai bên.

8. Hai bên nhất trí mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thể thao, du lịch. Tăng cường giao lưu báo chí hai nước ; tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động giao lưu hữu nghị nhân dân, nhất là giữa thế hệ trẻ hai nước, tổ chức tốt Liên hoan thanh niên Việt - Trung lần thứ 3 tại Việt Nam trong năm nay.

9. Hai bên nhất trí tăng cường chỉ đạo và ủng hộ giao lưu hữu nghị, hợp tác cùng có lợi giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh/khu biên giới ; thúc đẩy các địa phương liên quan phát huy tốt vai trò của các cơ chế hiện có, mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực trọng điểm như kinh tế, thương mại, du lịch, kết nối cơ sở hạ tầng giao thông ; tích cực nghiên cứu giải quyết vấn đề lao động thời vụ khu vực biên giới hai nước.

10. Hai bên nhất trí tiếp tục phát huy tốt vai trò của Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền Việt - Trung, thực hiện tốt các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền giữa hai nước ; tăng cường công tác quản lý, giữ gìn trật tự xã hội, an ninh khu vực biên giới ; tiếp tục thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cặp cửa khẩu, áp dụng các biện pháp tiện lợi hóa thông quan, tạo thuận lợi cho phát triển của khu vực biên giới hai nước.

11. Hai bên đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhất trí tiếp tục tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc" ; sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt - Trung, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được.

Hai bên nhất trí làm tốt các công việc tiếp theo sau khi hoàn thành khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy vững chắc đàm phán phân định khu vực vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này ; tiếp tục thúc đẩy công việc của Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển ; triển khai hiệu quả các dự án hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm đã thỏa thuận.

Hai bên nhất trí tiếp tục thực hiện toàn diện và hiệu quả "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), trên cơ sở hiệp thương thống nhất, sớm xây dựng "Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông" (COC) ; kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

12. Phía Việt Nam khẳng định thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ quan hệ hai bờ phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hoạt động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức, không phát triển bất kỳ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của Việt Nam.

13. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường phối hợp trong các công việc đa phương, cùng nhau giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới. Phía Trung Quốc ủng hộ Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC 2017. Phía Việt Nam ủng hộ và sẵn sàng tích cực tham gia các hội nghị quốc tế liên quan tổ chức tại Trung Quốc.

14. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký kết "Hiệp định gia hạn và bổ sung Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2021" ; "Hiệp định thương mại biên giới (sửa đổi) giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" ; "Bản ghi nhớ về Danh mục các dự án hợp tác năng lực sản xuất giữa Bộ Công Thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" ; "Bản ghi nhớ về cùng xây dựng Kế hoạch hợp tác cơ sở hạ tầng trên bộ giai đoạn 2016 - 2020 giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" ; "Thỏa thuận hợp tác về giáo dục giai đoạn 2016 - 2020 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Giáo dục nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" và một số văn kiện hợp tác khác.

15. Hai bên hài lòng về các kết quả đạt được trong chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ; nhất trí cho rằng chuyến thăm có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển quan hệ hai nước. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chân thành cảm ơn Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc về sự đón tiếp thân tình và hữu nghị, trân trọng mời Thủ tướng Lý Khắc Cường sang thăm lại Việt Nam. Thủ tướng Lý Khắc Cường bày tỏ cảm ơn về lời mời./.

Bắc Kinh, ngày 15/09/2016

*******************

12. Thông cáo chung Trung Quốc - Việt Nam 14/01/2017

Thứ Bảy 14/01/2017

1. Nhận lời mời của Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Tập Cận Bình, Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã thăm chính thức nước CHND Trung Hoa từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 01 năm 2017.

Trong thời gian chuyến thăm, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hội đàm với Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình ; lần lượt hội kiến với Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Khắc Cường ; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trương Đức Giang ; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc Du Chính Thanh ; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Vương Kỳ Sơn.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc Du Chính Thanh cùng tham dự gặp gỡ hữu nghị nhân dịp chào mừng kỷ niệm 67 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc và đón Xuân 2017.

Trong bầu không khí thân tình, hữu nghị, hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước ; đi sâu trao đổi ý kiến và đạt được nhận thức chung rộng rãi về việc làm sâu sắc, phát triển hơn nữa quan hệ hai Đảng, hai nước trong thời kỳ mới, về các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm. Ngoài Bắc Kinh, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thăm tỉnh Chiết Giang.

Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm đã thành công tốt đẹp, tăng cường tin cậy lẫn nhau, củng cố hơn nữa tình hữu nghị truyền thống Việt-Trung, làm sâu sắc thêm quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước và góp phần tích cực vào việc thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.

2. Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời, đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có chế độ chính trị tương đồng, con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung ; sự phát triển bền vững của mỗi nước và quan hệ hữu nghị, hợp tác tốt đẹp giữa hai nước có ý nghĩa quan trọng đối với cả hai nước.

Trong điều kiện lịch sử mới với tình hình quốc tế, khu vực thay đổi sâu sắc, phức tạp, việc kiên định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con đường xã hội chủ nghĩa là lựa chọn đúng đắn phù hợp với lợi ích căn bản, lâu dài của hai nước và nhân dân hai nước.

Phía Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng thành công tốt đẹp của Hội nghị Trung ương 6 khóa 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc ; đánh giá cao những tiến triển to lớn mà Trung Quốc đạt được trong các lĩnh vực từ sau Đại hội 18 đến nay ; chân thành chúc và tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo kiên cường của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc với đồng chí Tập Cận Bình là hạt nhân, Đảng Cộng sản Trung Quốc và nhân dân các dân tộc Trung Quốc nhất định sẽ thúc đẩy hài hòa xây dựng toàn diện xã hội khá giả, đi sâu cải cách toàn diện, quản lý đất nước theo pháp luật toàn diện, quản lý Đảng nghiêm minh toàn diện, thực hiện thắng lợi mục tiêu phấn đấu "hai 100 năm" là xây dựng toàn diện xã hội khá giả, xây dựng Trung Quốc trở thành quốc gia hiện đại xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa ; chúc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 19 Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ thành công tốt đẹp.

Phía Trung Quốc nhiệt liệt chúc mừng thành công tốt đẹp của Hội nghị Trung ương 4 khóa 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam ; đánh giá cao những thành quả quan trọng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã giành được kể từ Đại hội 12 đến nay trong các mặt đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ; chân thành chúc và bày tỏ tin tưởng rằng, nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, nhất định sẽ thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội 12 Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Hai bên bày tỏ sẽ tăng cường hơn nữa giao lưu, học hỏi lẫn nhau, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình mỗi nước không ngừng phát triển, cùng không ngừng nỗ lực vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại.

3. Hai bên đã nhìn lại quá trình phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước Việt-Trung ; nhất trí cho rằng, tình hữu nghị truyền thống Việt-Trung do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các thế hệ lãnh đạo tiền bối đích thân gây dựng và dày công vun đắp là tài sản quý báu của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần phải kế thừa, gìn giữ và phát huy tốt hơn nữa trong tình hình mới.

Hai bên khẳng định, Việt Nam và Trung Quốc sẽ tiếp tục kiên trì phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" ; luôn nhìn nhận và phát triển quan hệ song phương từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn lâu dài ; luôn nắm chắc phương hướng lớn của tình hữu nghị Việt-Trung ; kiên trì tôn trọng lẫn nhau, tăng cường trao đổi chiến lược, tăng cường tin cậy chính trị, xử lý thỏa đáng bất đồng, làm sâu sắc thêm hợp tác cùng có lợi, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển liên tục, lành mạnh, ổn định, đem lại nhiều lợi ích hơn nữa cho hai nước và nhân dân hai nước, có những đóng góp mới to lớn hơn cho việc thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực và thế giới.

4. Hai bên cho rằng, việc lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, đặc biệt là lãnh đạo cao nhất duy trì tiếp xúc thường xuyên, có vai trò định hướng chiến lược rất quan trọng đối với việc thúc đẩy quan hệ song phương phát triển.

Hai bên nhất trí sẽ tiếp tục thông qua các hình thức như thăm viếng song phương, cử Đặc phái viên, đường dây nóng, gặp gỡ thường niên và gặp gỡ bên lề các diễn đàn đa phương, duy trì và tăng cường truyền thống tốt đẹp trao đổi cấp cao Việt Nam-Trung Quốc, kịp thời trao đổi ý kiến về các vấn đề trọng đại trong quan hệ hai Đảng, hai nước và tình hình quốc tế, khu vực ; từ tầm cao chiến lược định hướng và chỉ đạo quan hệ Việt-Trung không ngừng phát triển trong thời kỳ mới.

5. Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc đều đang ở trong thời kỳ quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của nước này là cơ hội quan trọng của nước kia, cần thiết thực phát huy tốt vai trò điều phối tổng thể của các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa hai Đảng, hai nước như Cơ chế gặp gỡ cấp cao hai Đảng, Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương, tập trung thúc đẩy nâng cao hiệu quả hợp tác trong các lĩnh vực sau :

(i) Thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng giai đoạn 2016-2020, phát huy tốt vai trò điều phối, thúc đẩy của cơ quan đối ngoại hai Đảng, tiếp tục tổ chức tốt Hội thảo lý luận, thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai Đảng giai đoạn 2016-2020 ; tăng cường giao lưu hợp tác giữa các cơ quan Trung ương của hai Đảng, giữa tổ chức Đảng các địa phương đặc biệt là các tỉnh/khu biên giới ; tăng cường trao đổi kinh nghiệm xây dựng Đảng, quản lý đất nước như xây dựng tư tưởng, xây dựng tổ chức, xây dựng tác phong, xây dựng thể chế, xây dựng liêm khiết, phòng chống tham nhũng, đi sâu cải cách và đổi mới toàn diện, quản lý đất nước theo pháp luật..., cùng nâng cao năng lực và trình độ cầm quyền. Tích cực thúc đẩy giao lưu, hợp tác hữu nghị giữa Quốc hội Việt Nam với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc.

(ii) Làm sâu sắc thêm giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh và thực thi pháp luật. Thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác giữa Bộ Ngoại giao hai nước, duy trì tiếp xúc thường xuyên giữa hai Bộ Ngoại giao và giao lưu giữa các cơ quan tương ứng của hai Bộ.

Duy trì tiếp xúc cấp cao giữa quân đội hai nước ; sử dụng tốt các kênh như cơ chế Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, đối thoại chiến lược quốc phòng và đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng ; thực hiện hiệu quả Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đến năm 2025 ; tăng cường hợp tác giữa quân đội hai nước trên các lĩnh vực như giao lưu hữu nghị biên phòng, đào tạo cán bộ, nghiên cứu học thuật quân sự ; tiếp tục tiến hành tuần tra chung trong Vịnh Bắc Bộ và hoạt động tàu quân sự thăm viếng lẫn nhau.

Tăng cường giao lưu, hợp tác trong lĩnh vực an ninh và thực thi pháp luật ; triển khai có hiệu quả các cơ chế và thỏa thuận hợp tác hai bên đã ký kết ; tăng cường hợp tác và trao đổi kinh nghiệm trên các lĩnh vực như chống khủng bố, phòng chống các loại tội phạm, quản lý xuất nhập cảnh, quản lý biên giới, an ninh mạng, xây dựng năng lực thực thi pháp luật. Tăng cường hợp tác thực thi pháp luật và an ninh trên biển giữa cảnh sát biển hai nước ; tích cực triển khai hợp tác thực chất như giao lưu giữa sỹ quan cảnh sát trẻ, tàu thuyền thăm viếng lẫn nhau, huấn luyện chung tìm kiếm cứu nạn ; tiếp tục tổ chức gặp mặt công tác giữa cảnh sát biển hai nước ; cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định trên vùng biển Vịnh Bắc Bộ.

Căn cứ theo nhận thức chung về nguyên tắc mà hai bên đã đạt được, tích cực thúc đẩy thực hiện đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển, xử lý thỏa đáng các vấn đề liên quan phù hợp với quan hệ hữu nghị hai nước.

(iii) Tăng cường hơn nữa hợp tác thực chất về kinh tế thương mại. Làm tốt quy hoạch chiến lược tổng thể trong hợp tác song phương. Tích cực thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước, bao gồm kết nối khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai" với sáng kiến"Một vành đai, một con đường". Tăng cường trao đổi về hợp tác năng lực sản xuất giữa hai nước, triển khai thực hiện có hiệu quả "Bản ghi nhớ về danh mục các dự án hợp tác năng lực sản xuất giữa Bộ Công thương Việt Nam với Ủy ban Phát triển và Cải cách Nhà nước Trung Quốc". Tích cực bàn bạc thống nhất để sớm ký kết "Phương án tổng thể xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt Nam-Trung Quốc".

Phát huy tốt vai trò của Ủy ban Hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung và các cơ chế hợp tác liên quan ; thực hiện tốt các văn kiện hợp tác kinh tế thương mại song phương như "Hiệp định gia hạn và bổ sung Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc", "Hiệp định thương mại biên giới" (sửa đổi năm 2016) ; tích cực triển khai hợp tác kinh tế, thương mại trên các lĩnh vực song phương, đa phương.

Áp dụng các biện pháp thiết thực nhằm cải thiện hơn nữa tình trạng mất cân bằng thương mại hai nước. Thực hiện tốt "Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản" ; ủng hộ doanh nghiệp hai nước căn cứ theo yêu cầu, tiêu chuẩn của quy định pháp luật về kiểm nghiệm, kiểm dịch, triển khai hợp tác trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, trong đó có gạo, sắn, các sản phẩm sữa, hoa quả đã chế biến.

Thực hiện tốt "Bản ghi nhớ về cùng xây dựng Kế hoạch hợp tác cơ sở hạ tầng trên bộ giai đoạn 2016-2020 giữa Bộ Kế hoạch-Đầu tư Việt Nam với Ủy ban Phát triển và Cải cách Nhà nước Trung Quốc".

Thực hiện tốt dự án đường sắt đô thị Cát Linh-Hà Đông ; khẩn trương thúc đẩy hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng, kết nối giao thông, thực hiện hiệu quả quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng.

Tăng cường hơn nữa giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực như nông nghiệp, môi trường, khoa học công nghệ, giao thông vận tải. Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực lai tạo các giống lúa, giống cây trồng thích nghi với điều kiện hạn hán, nhiễm mặn và trồng rừng. Triển khai tốt hợp tác sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công-Lan Thương ; tăng cường hơn nữa giao lưu và hợp tác kỹ thuật giữa Việt Nam và Trung Quốc trong việc quản lý, bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước.

Phát huy tốt cơ chế Ủy ban hỗn hợp Khoa học và Công nghệ Việt Nam-Trung Quốc. Tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác hàng không giữa hai bên. Phối hợp chặt chẽ, sử dụng tốt các khoản tín dụng và viện trợ không hoàn lại của Trung Quốc dành cho Việt Nam.

Phát huy vai trò Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng, Nhóm công tác hợp tác về tài chính - tiền tệ, cùng thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực không ngừng giành được những tiến triển mới.

Phía Trung Quốc khuyến khích các doanh nghiệp tiêu biểu cho công nghệ tiên tiến và trình độ phát triển của Trung Quốc sang Việt Nam đầu tư vào các dự án phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam ; khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng nhập khẩu các mặt hàng có sức cạnh tranh của Việt Nam, đồng thời sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của Việt Nam sang Trung Quốc đầu tư kinh doanh ; phía Việt Nam bày tỏ hoan nghênh về điều này và sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi tăng cường hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam-Trung Quốc.

Hai bên ủng hộ doanh nghiệp hai nước đẩy nhanh giải quyết các khó khăn và vướng mắc trong các dự án hợp tác liên quan. Phía Trung Quốc nhất trí việc Việt Nam thành lập Văn phòng xúc tiến thương mại tại Hàng Châu (Trung Quốc), sẵn sàng tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam thành lập thêm các cơ quan xúc tiến thương mại tại các địa phương liên quan của Trung Quốc.

(iv) Thúc đẩy giao lưu sôi động, gắn kết mật thiết giữa nhân dân hai nước, đặc biệt là giữa thế hệ trẻ thông qua các hình thức linh hoạt, đa dạng nhằm tăng cường hiểu biết và tình hữu nghị giữa hai bên. Mở rộng hơn nữa giao lưu, hợp tác trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, du lịch, báo chí.

Tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động giao lưu nhân dân như Liên hoan thanh niên Việt - Trung và Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt - Trung. Thực hiện tốt "Kế hoạch thực hiện Hiệp định Văn hóa Việt Nam-Trung Quốc giai đoạn 2016-2018", "Thỏa thuận hợp tác giáo dục Việt Nam-Trung Quốc giai đoạn 2016-2020" ; khuyến khích hai bên cử nhiều hơn nữa lưu học sinh sang nước nhau học tập.

Đẩy nhanh thành lập Trung tâm Văn hóa nước này tại nước kia ; vận hành tốt Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội. Tăng cường giao lưu giữa các cơ quan truyền thông, báo chí và cơ quan nghiên cứu của hai nước. Hoàn thành việc xây dựng Cung Hữu nghị Việt-Trung trong năm 2017. Khuyến khích các địa phương hai nước, đặc biệt là các tỉnh/khu biên giới triển khai giao lưu hữu nghị và hợp tác cùng có lợi.

(v) Phát huy tốt vai trò của cơ chế Ủy ban liên hợp về biên giới trên đất liền Việt-Trung và Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt-Trung ; thực hiện tốt các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền giữa hai nước ; nâng cao mức độ hợp tác về xây dựng, quản lý và mở cửa các cửa khẩu biên giới hai nước ; tiếp tục áp dụng các biện pháp tiện lợi hóa thông quan ; tích cực nghiên cứu giải quyết vấn đề lao động thời vụ khu vực biên giới hai nước ; giữ bình yên lâu dài và cùng phát triển tại khu vực biên giới.

6. Hai bên đã trao đổi thẳng thắn, chân thành về vấn đề trên biển ; nhấn mạnh cần tuân thủ nhận thức chung quan trọng mà lãnh đạo hai Đảng, hai nước đã đạt được và "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc" ; sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt-Trung ; kiên trì thông qua đàm phán, hiệp thương hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được ; tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển.

Hai bên nhất trí làm tốt các công việc tiếp theo sau khi hoàn thành khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy vững chắc đàm phán phân định khu vực vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này ; tiếp tục thúc đẩy công việc của Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển ; triển khai hiệu quả các dự án hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm đã thỏa thuận.

Hai bên nhất trí tiếp tục thực hiện toàn diện và hiệu quả "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), trên cơ sở hiệp thương thống nhất, sớm xây dựng "Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông" (COC) ; kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

7. Phía Việt Nam khẳng định kiên trì chính sách một nước Trung Quốc ; ủng hộ quan hệ hai bờ phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc ; kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất kỳ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.

8. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường điều phối và phối hợp tại các khuôn khổ đa phương như Liên Hợp quốc, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)-Trung Quốc, Mê Công-Lan Thương ; cùng nhau giữ gìn hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực và thế giới. Phía Trung Quốc ủng hộ Việt Nam tổ chức thành công và sẵn sàng tích cực tham gia Hội nghị cấp cao APEC 2017 tại Việt Nam.

Phía Việt Nam ủng hộ Trung Quốc tổ chức thành công và sẵn sàng tích cực tham gia Diễn đàn Thượng đỉnh Hợp tác quốc tế về "Một vành đai, một con đường" do Trung Quốc tổ chức trong năm 2017.

9. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký kết các văn kiện hợp tác : Thỏa thuận hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2017-2020 ; Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đến năm 2025 ; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Hội Chữ thập đỏ Việt Nam và Hội Chữ thập đỏ Trung Quốc ; Hiệp định khung về hợp tác cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc giữa Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng cục Hải quan nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ; Công thư trao đổi về việc Trung Quốc hỗ trợ kỹ thuật lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng ; Bản ghi nhớ về hợp tác triển khai viện trợ không hoàn lại chuyên về lĩnh vực y tế công cộng giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Thương mại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ; Bản ghi nhớ về triển khai hợp tác thả giống nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong Vịnh Bắc Bộ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Nông nghiệp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Công thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng cục Giám sát chất lượng, kiểm nghiệm kiểm dịch quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về an toàn thực phẩm trong thương mại song phương giữa Việt Nam-Trung Quốc ; Bản ghi nhớ về việc hợp tác làm phim truyền hình chuyên đề giữa Đài truyền hình Việt Nam và Đài truyền hình trung ương Trung Quốc ; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ban Kinh tế Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung tâm nghiên cứu phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc ; Kế hoạch hợp tác du lịch giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cục Du lịch Quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa giai đoạn 2017-2019 ; Bản ghi nhớ về kế hoạch hợp tác giai đoạn 2017- 2021 giữa Liên hiệp Các Tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội Hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc ; Thỏa thuận hợp tác giữa Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc ; Biên bản ghi nhớ giữa Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam và Ngân hàng phát triển Trung Quốc về việc hợp tác tài trợ dự án và cho vay song phương trung dài hạn giai đoạn 2017 - 2019 ; Thỏa thuận hợp tác giữa Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Sự thật Việt Nam và Nhà xuất bản Nhân dân Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2021.

10. Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng chân thành cảm ơn Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc về sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị ; trân trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình thăm lại Việt Nam và dự Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ 25. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình chân thành cảm ơn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về lời mời và vui vẻ nhận lời.

Trước thềm Tết Đinh Dậu, lãnh đạo hai bên chúc nhân dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc năm mới an khang, thịnh vượng và hạnh phúc.

Bắc Kinh, ngày 14 tháng 01 năm 2017.

****************************

13. Thông cáo chung Trung Quốc  - Việt Nam 15/05/2017

Thứ Hai 15/05/2017

1. Nhận lời mời của Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đại Quang đã thăm cấp Nhà nước tới nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và dự Diễn đàn cấp cao hợp tác quốc tế "Vành đai và Con đường" từ ngày 11 đến ngày 15 tháng 5 năm 2017.

Trong thời gian chuyến thăm, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã hội đàm với Chủ tịch nước Tập Cận Bình ; hội kiến với Thủ tướng Quốc Vụ viện Lý Khắc Cường, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trương Đức Giang, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Du Chính Thanh, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Lưu Vân Sơn. Trong không khí hữu nghị, thẳng thắn, chân thành, hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước ; đi sâu trao đổi ý kiến về quan hệ song phương và các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm ; đạt nhận thức chung quan trọng về việc không ngừng làm sâu sắc quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc. Ngoài Bắc Kinh, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã thăm tỉnh Phúc Kiến.

2. Hai bên bày tỏ vui mừng trước những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Trung Quốc chân thành chúc Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội Đảng lần thứ XII, xây dựng Việt Nam sớm trở thành nước công nghiệp hiện đại, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Việt Nam chân thành chúc Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức thành công Đại hội lần thứ XIX ; tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu đã đề ra, xây dựng Trung Quốc trở thành đất nước hiện đại xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa.

3. Hai bên cho rằng, tình hữu nghị Việt - Trung là tài sản quý báu của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần không ngừng kế thừa, gìn giữ và phát huy. Trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực biến chuyển sâu sắc, phức tạp, hai bên cần kiên trì tôn trọng lẫn nhau, duy trì trao đổi chiến lược, tăng cường tin cậy chính trị, không ngừng đi sâu hợp tác cùng có lợi, kiểm soát và xử lý thỏa đáng các bất đồng còn tồn tại và các vấn đề nảy sinh, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục phát triển lành mạnh, ổn định, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, góp phần tích cực thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực.

4. Hai bên nhất trí duy trì truyền thống tiếp xúc mật thiết giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước bằng các hình thức linh hoạt, kịp thời trao đổi ý kiến về những vấn đề lớn và quan trọng trong quan hệ song phương và tình hình quốc tế, khu vực, tăng cường định hướng và chỉ đạo đối với sự phát triển của quan hệ Việt - Trung ; phát huy tốt vai trò của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc trong việc điều phối, thúc đẩy thực hiện nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước ; triển khai hiệu quả Kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng giai đoạn 2016 - 2020, tổ chức tốt Cuộc gặp Đại diện hai Bộ Chính trị, Hội thảo lý luận hai Đảng ; thúc đẩy các hoạt động trao đổi đoàn, hợp tác đào tạo cán bộ kênh Đảng ; tiếp tục thúc đẩy giao lưu, hợp tác giữa các tổ chức Đảng địa phương ; tăng cường giao lưu, hợp tác hữu nghị giữa Quốc hội Việt Nam với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc.

5. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường giao lưu, hợp tác trong các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh và thực thi pháp luật. Thực hiện tốt Thỏa thuận về tăng cường hợp tác trong tình hình mới giữa Bộ Ngoại giao hai nước ký kết trong chuyến thăm lần này ; duy trì tiếp xúc thường xuyên giữa Lãnh đạo Bộ và giao lưu giữa các đơn vị tương ứng của hai Bộ Ngoại giao. Thực hiện tốt Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng đến năm 2025, sử dụng hiệu quả đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng, tổ chức tốt Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, Đối thoại chiến lược quốc phòng. Phát huy vai trò Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm Việt Nam - Trung Quốc, Đối thoại an ninh chiến lược, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực chống khủng bố, phòng chống các loại tội phạm xuyên biên giới, quản lý xuất nhập cảnh, an ninh mạng ; phối hợp bảo đảm an ninh các hội nghị quốc tế, sự kiện chính trị lớn diễn ra tại mỗi nước ; thúc đẩy "Hiệp định dẫn độ Việt Nam - Trung Quốc" sớm có hiệu lực ; tổ chức tốt các hoạt động tuần tra chung trong Vịnh Bắc Bộ và tàu thuyền thăm viếng lẫn nhau, huấn luyện chung tìm kiếm cứu nạn giữa Hải quân và Cảnh sát biển hai nước ; tăng cường giao lưu về nghiệp vụ, chuyên môn giữa quân đội và lực lượng thực thi pháp luật hai nước.

6. Hai bên nhất trí tăng cường phối hợp, áp dụng các biện pháp hữu hiệu, cùng nhau thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế - thương mại, năng lực sản xuất và đầu tư, cơ sở hạ tầng, tài chính - tiền tệ phát triển ổn định, lành mạnh, bền vững.

(i) Phát huy vai trò của Ủy ban hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung và các cơ chế hợp tác liên quan trong việc thúc đẩy thương mại song phương phát triển cân bằng ; thực hiện tốt "Bản ghi nhớ hợp tác song phương trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản" ; ưu tiên triển khai công tác đánh giá tiêu chuẩn gia nhập thị trường Trung Quốc đối với sữa và các sản phẩm từ sữa của Việt Nam ; đẩy nhanh tiến độ hoàn tất các thủ tục pháp lý mở cửa thị trường đối với một số loại hoa quả của Việt Nam ; triển khai hợp tác trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, trong đó có gạo, sắn,... ; đẩy nhanh nghiên cứu, bàn bạc, ký kết "Thỏa thuận tổng thể chung về xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc" theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, phù hợp với quy định pháp luật của mỗi bên và thông lệ quốc tế. Phía Trung Quốc sẵn sàng tạo thuận lợi triển khai hoạt động của các Văn phòng xúc tiến thương mại Việt Nam tại Trùng Khánh, Hàng Châu và tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam thành lập thêm các cơ quan xúc tiến thương mại tại các địa phương liên quan của Trung Quốc.

(ii) Thúc đẩy hợp tác về đầu tư, năng lực sản xuất sớm đạt tiến triển mới ; khuyến khích các doanh nghiệp tiêu biểu cho công nghệ tiên tiến và trình độ phát triển của Trung Quốc sang Việt Nam đầu tư vào các dự án phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam.

(iii) Khẩn trương bàn bạc, ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác kết nối giữa khuôn khổ "hai hành lang, một vành đai" và sáng kiến "Vành đai và Con đường" phù hợp với lợi ích, khả năng, điều kiện của mỗi nước ; phát huy vai trò của Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng trên bộ trong việc tăng cường kết nối giữa hai nước ; tích cực thúc đẩy công tác nghiên cứu và xây dựng kế hoạch hợp tác 5 năm trong lĩnh vực giao thông và năng lượng trong hợp tác cơ sở hạ tầng trên bộ, thúc đẩy khánh thành dự án đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 2 (Cát Linh - Hà Đông) theo kế hoạch, sớm hoàn thành lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ; chỉ đạo doanh nghiệp hai bên nhanh chóng giải quyết các vấn đề tồn tại, vướng mắc của các dự án hợp tác.

(iv) Phát huy vai trò của Nhóm công tác hợp tác về tài chính - tiền tệ, khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính hai bên hỗ trợ dịch vụ tài chính cho các chương trình, dự án hợp tác đủ điều kiện nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa hai nước. Hai bên tạo điều kiện để Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) cung cấp các nguồn vốn cho các dự án đầu tư kết nối cơ sở hạ tầng, trong đó khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân. Phía Trung Quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi của Trung Quốc và các nguồn vốn khác theo các quy định liên quan.

7. Hai bên nhất trí đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực nông nghiệp, nguồn nước, môi trường, khoa học công nghệ, giao thông vận tải. Căn cứ theo nhận thức chung hai bên đã đạt được, tích cực thúc đẩy thực hiện đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển, xử lý thỏa đáng các vấn đề liên quan phù hợp với quan hệ hữu nghị hai nước. Tăng cường hợp tác nghiên cứu lai tạo các giống lúa thích hợp với điều kiện hạn hán và xâm nhập mặn. Triển khai hiệu quả hợp tác sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công - Lan Thương, tăng cường hơn nữa giao lưu và hợp tác kỹ thuật trong các lĩnh vực quản lý, bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước. Tổ chức tốt Kỳ họp Ủy ban hỗn hợp hợp tác khoa học công nghệ Việt - Trung, thúc đẩy hiệu quả hợp tác trong các dự án nghiên cứu chung, giao lưu các nhà khoa học trẻ, chuyển giao công nghệ, tăng cường đào tạo nhân lực khoa học kỹ thuật ; thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực quản lý, giám sát an toàn hạt nhân. Tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hợp tác kết nối cơ sở hạ tầng giao thông giữa hai bên.

8. Hai bên nhất trí mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch, giáo dục, y tế. Tăng cường định hướng dư luận, đẩy mạnh giao lưu báo chí, mở rộng mức độ tuyên truyền về tình hữu nghị giữa hai nước ; tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động giao lưu nhân dân như Gặp gỡ Hữu nghị Thanh niên lần thứ 17, Diễn đàn Nhân dân Việt - Trung, hoàn thành việc xây dựng Cung Hữu nghị Việt - Trung trong năm 2017.

9. Hai bên nhất trí tăng cường chỉ đạo và ủng hộ giao lưu hữu nghị, hợp tác cùng có lợi giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh/khu biên giới ; phát huy tốt vai trò của các cơ chế hiện có giữa các địa phương, tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại, du lịch ; tích cực nghiên cứu các biện pháp tăng cường quản lý và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho lao động thời vụ tại khu vực biên giới hai nước.

10. Hai bên nhất trí tiếp tục phát huy tốt vai trò của cơ chế Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền Việt - Trung, thực hiện tốt các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc ; tăng cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới ; tiếp tục thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cặp cửa khẩu, áp dụng các biện pháp tiện lợi hóa thông quan, trao đổi, bàn bạc về quy phạm hoạt động mở các đường qua lại tại khu vực biên giới, ngăn ngừa và chống các hành vi vi phạm pháp luật như buôn lậu, xuất nhập cảnh trái phép, giữ gìn an ninh, trật tự xã hội tại khu vực biên giới.

11. Hai bên đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhất trí tiếp tục tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc" ; sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được.

Hai bên nhất trí làm tốt công việc tiếp theo sau khi hoàn thành khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy vững chắc đàm phán phân định khu vực vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này ; tiếp tục thúc đẩy công việc của Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển ; triển khai hiệu quả các dự án hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm đã thỏa thuận. Hai bên đánh giá cao hoạt động thả giống thủy sinh và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong Vịnh Bắc Bộ.

Hai bên nhất trí tiếp tục thực hiện toàn diện, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), trên cơ sở hiệp thương thống nhất, sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) ; kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

12. Phía Việt Nam khẳng định kiên trì chính sách một nước Trung Quốc ; ủng hộ quan hệ hai bờ phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc ; kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất kỳ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.

13. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường điều phối và phối hợp tại các khuôn khổ đa phương như Liên Hợp quốc, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) - Trung Quốc, ASEAN và Trung, Nhật, Hàn (10+3), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), hợp tác Mê Công - Lan Thương ; cùng thúc đẩy các tiến trình liên kết và hội nhập khu vực, ủng hộ đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình, cùng đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực và thế giới. Phía Trung Quốc ủng hộ Việt Nam tổ chức thành công và sẵn sàng tích cực tham gia Hội nghị cấp cao APEC 2017 tại Việt Nam. Phía Việt Nam chúc mừng Diễn đàn cấp cao hợp tác "Vành đai và Con đường" thành công tốt đẹp, tin tưởng điều này sẽ mang lại lợi ích chung cho tất cả các nước.

14. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký kết các văn kiện hợp tác, trong đó có Thỏa thuận về tăng cường hợp tác trong tình hình mới giữa Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Bản ghi nhớ về hợp tác thương mại điện tử giữa Bộ Công Thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Thương mại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Bản ghi nhớ hợp tác giữa Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

15. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm thành công tốt đẹp, tăng cường tin cậy lẫn nhau, củng cố hơn nữa tình hữu nghị truyền thống Việt - Trung, làm sâu sắc thêm quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc và góp phần tích cực vào việc thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển bền vững của khu vực và thế giới. Chủ tịch nước Trần Đại Quang chân thành cảm ơn Chủ tịch Tập Cận Bình và Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc về sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị ; trân trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình thăm lại Việt Nam và dự Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ 25. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình chân thành cảm ơn và vui vẻ nhận lời.

Bắc Kinh, ngày 15 tháng 05 năm 2017

*******************

14. Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 13/11/2017

Thứ Hai 13/11/2017

1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đại Quang, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình tiến hành thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam và tham dự Hội nghị các Nhà lãnh đạo kinh tế Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 25 từ ngày 10 đến ngày 13 tháng 11 năm 2017.

Trong thời gian chuyến thăm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã có các cuộc hội đàm với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trần Đại Quang ; đồng thời, hội kiến với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Lãnh đạo hai Đảng, hai nước đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước, đi sâu trao đổi ý kiến về quan hệ song phương và các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm ; đạt nhận thức chung quan trọng về việc làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung trong tình hình mới.

2. Hai bên bày tỏ vui mừng trước những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hai Đảng, hai nước trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình mỗi nước, nhất trí cho rằng Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời, đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, chế độ chính trị tương đồng, con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung, sự phát triển bền vững của mỗi nước và quan hệ hữu nghị, hợp tác tốt đẹp giữa hai nước có ý nghĩa quan trọng đối với cả hai nước. Trong điều kiện lịch sử mới, việc kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con đường phát triển xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc của mỗi nước là lựa chọn đúng đắn, phù hợp với lợi ích căn bản của nhân dân hai nước. Hai bên sẽ tham khảo kinh nghiệm lẫn nhau, cùng phát triển, tiếp thêm sức sống mới cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước, không ngừng nỗ lực vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại.

Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc thành công tốt đẹp, đánh giá cao thành quả sáng tạo lý luận quan trọng của Đại hội về xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới, chân thành chúc và tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc do đồng chí Tập Cận Bình là hạt nhân, nhân dân Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy đồng bộ bố cục tổng thể "5 trong 1", thúc đẩy nhịp nhàng bố cục chiến lược "bốn toàn diện", tiến tới thực hiện "hai mục tiêu 100 năm", xây dựng Trung Quốc trở thành quốc gia hiện đại xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa và tươi đẹp.

Trung Quốc đánh giá cao những thành quả quan trọng mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã giành được trên các lĩnh vực tăng cường xây dựng Đảng, thúc đẩy đổi mới toàn diện, cải thiện đời sống nhân dân kể từ Đại hội XII đến nay ; chân thành chúc và tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo kiên cường của Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, nhân dân Việt Nam sẽ thực hiện thắng lợi những mục tiêu do Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, sớm xây dựng Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

3. Hai bên cho rằng, tình hữu nghị Việt - Trung do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các nhà lãnh đạo tiền bối đích thân gây dựng và dày công vun đắp là tài sản chung quý báu của nhân dân hai nước, hai bên cần cùng nhau kế thừa, gìn giữ và phát huy tốt. Hai bên sẽ luôn nhìn nhận và phát triển quan hệ Việt - Trung từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn lâu dài, kiên định thực hiện chính sách hữu nghị đối với nhau. Hai bên sẵn sàng cùng nhau nỗ lực, nắm vững phương hướng lớn phát triển quan hệ Việt - Trung, tăng cường trao đổi chiến lược, gia tăng tin cậy chính trị, làm sâu sắc hợp tác cùng có lợi, xử lý thỏa đáng bất đồng, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung tiếp tục phát triển lành mạnh, ổn định, mang lợi ích thiết thực cho hai nước và nhân dân hai nước, góp phần tích cực thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực.

4. Hai bên cho rằng, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước đặc biệt là lãnh đạo cao nhất duy trì tiếp xúc thường xuyên có vai trò định hướng quan trọng đối với việc phát triển quan hệ song phương ; nhất trí thông qua các hình thức linh hoạt, đa dạng như thăm song phương, cử đặc phái viên, đường dây nóng, gặp gỡ thường niên và tại các diễn đàn đa phương để duy trì và tăng cường truyền thống tốt đẹp về giao lưu cấp cao, kịp thời trao đổi ý kiến về các vấn đề lớn và quan trọng trong quan hệ hai Đảng, hai nước và các vấn đề cùng quan tâm.

5. Hai bên cho rằng, hai nước Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng và đối tác hợp tác quan trọng của nhau, đều đang trong giai đoạn then chốt của cải cách phát triển, sự phát triển của nước này là cơ hội của nước kia. Hai bên cần thiết thực phát huy vai trò điều phối tổng thể của các cơ chế giao lưu hợp tác giữa hai Đảng, hai nước như cuộc gặp Đại diện hai Bộ Chính trị, Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt - Trung ; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực sau :

5.1. Tăng cường trao đổi kinh nghiệm về quản lý đất nước, tăng cường giao lưu kênh Đảng, triển khai hiệu quả Kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng giai đoạn 2016 - 2020, tổ chức tốt Cuộc gặp Đại diện hai Bộ Chính trị, Hội thảo lý luận hai Đảng, làm sâu sắc giao lưu trao đổi đoàn và hợp tác đào tạo cán bộ kênh Đảng, tiếp tục tăng cường giao lưu hợp tác giữa các cơ quan trung ương hai Đảng và các tổ chức Đảng địa phương, đặc biệt là các tỉnh (khu) giáp biên. Tích cực thúc đẩy giao lưu, hợp tác hữu nghị giữa Quốc hội Việt Nam với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân toàn quốc Trung Quốc.

5.2. Thực hiện tốt Thỏa thuận về tăng cường hợp tác trong tình hình mới giữa hai Bộ Ngoại giao, duy trì tiếp xúc thường xuyên giữa lãnh đạo hai Bộ, tiếp tục tổ chức tốt tham vấn ngoại giao hằng năm, tăng cường giao lưu giữa các Cục/Vụ tương ứng, thực hiện tốt kế hoạch đào tạo cán bộ, ủng hộ và tạo thuận lợi cho việc cải thiện điều kiện trụ sở và nhà ở của cơ quan đại diện ngoại giao hai bên.

5.3. Tăng cường hợp tác về quốc phòng, an ninh và thực thi pháp luật, thực hiện tốt Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng đến năm 2025, sử dụng hiệu quả đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng, tổ chức tốt Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, Đối thoại chiến lược quốc phòng. Tổ chức tốt các hoạt động mang tính cơ chế như tuần tra liên hợp ở Vịnh Bắc Bộ giữa hải quân, cảnh sát biển hai nước và tàu thuyền thăm lẫn nhau, tăng cường hợp tác đào tạo cán bộ, chia sẻ kinh nghiệm trong các lĩnh vực công tác Đảng, công tác chính trị, y học, gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc giữa hai quân đội. Phát huy tốt vai trò của các cơ chế như Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm, đối thoại an ninh chiến lược ; tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực như chống khủng bố, ma túy, tiền giả, lừa đảo qua mạng, quản lý xuất nhập cảnh, quản lý biên giới, an ninh mạng ; triển khai giao lưu kinh nghiệm trong các lĩnh vực như bảo vệ an ninh trong nước, phối hợp truy bắt tội phạm bỏ trốn. Thúc đẩy Hiệp định dẫn độ Việt Nam - Trung Quốc sớm có hiệu lực.

5.4. Áp dụng các biện pháp hiệu quả, cùng thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực như kinh tế thương mại, năng lực sản xuất, đầu tư, cơ sở hạ tầng, tài chính tiền tệ không ngừng đạt tiến triển thực chất.

(i) Việt Nam hoan nghênh và ủng hộ việc triển khai sáng kiến "Vành đai và Con đường" nhằm thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, liên kết kinh tế giữa các nước và kết nối khu vực, đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng của khu vực và thế giới ; sẵn sàng cùng Trung Quốc thực hiện tốt văn kiện hợp tác về kết nối "hai hành lang, một vành đai" và "Vành đai và Con đường" đã ký kết, sớm xác định các lĩnh vực ưu tiên, phương hướng trọng điểm và dự án hợp tác cụ thể, phù hợp với lợi ích, khả năng và điều kiện của mỗi nước ; thúc đẩy kết nối về chính sách, hạ tầng, thương mại, vốn và con người, tạo điều kiện để nâng cao chất lượng hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.

(ii) Sử dụng hiệu quả cơ chế hợp tác về năng lực sản xuất, tăng cường hơn nữa việc kết nối giữa doanh nghiệp hai nước, thực hiện tốt các dự án hợp tác trọng điểm đã xác định, thúc đẩy hợp tác năng lực sản xuất đạt tiến triển thực chất. Tiếp tục triển khai trao đổi về chính sách đầu tư, nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy hợp tác đầu tư phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của mỗi bên. Trung Quốc khuyến khích các doanh nghiệp tiêu biểu cho công nghệ tiên tiến và trình độ phát triển của Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam.

(iii) Cùng nhau thực hiện tốt "Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt - Trung giai đoạn 2017-2021", ký kết và thực hiện danh mục các dự án hợp tác trọng điểm. Thúc đẩy hoàn thành dự án đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 2 (Cát Linh - Hà Đông) theo kế hoạch. Chỉ đạo doanh nghiệp hai bên nhanh chóng giải quyết các vấn đề tồn tại, vướng mắc của các dự án hợp tác.

(iv) Phát huy vai trò của Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng trên bộ đối với việc tăng cường kết nối giữa hai nước ; xây dựng tốt kế hoạch hợp tác trong lĩnh vực giao thông và năng lượng trong khuôn khổ hợp tác cơ sở hạ tầng trên bộ, hoàn thành việc lập quy hoạch xây dựng dự án đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng theo kế hoạch.

(v) Phát huy vai trò của Ủy ban hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung và các cơ chế hợp tác liên quan, thúc đẩy đi sâu phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư hai nước, thực hiện cùng có lợi cùng thắng giữa hai bên. Thúc đẩy thương mại song phương tiếp tục phát triển cân bằng, ổn định ; thực hiện tốt "Bản ghi nhớ hợp tác song phương trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản". Trung Quốc sẵn sàng mở rộng nhập khẩu từ Việt Nam, ưu tiên triển khai công tác đánh giá tiêu chuẩn gia nhập thị trường Trung Quốc đối với sữa và sản phẩm từ sữa của Việt Nam ; đẩy nhanh tiến độ hoàn tất các thủ tục pháp lý, mở cửa thị trường đối với một số loại hoa quả của Việt Nam ; triển khai hợp tác trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, trong đó có gạo, sắn. 

Trên cơ sở "Bản ghi nhớ về đẩy nhanh tiến độ đàm phán Thỏa thuận khung xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt - Trung" ký kết trong chuyến thăm lần này, tích cực bàn bạc Thỏa thuận khung về xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới, thúc đẩy phát triển khu vực biên giới hai nước, nâng cao mức độ kết nối giữa hai bên. Phía Trung Quốc tuyên bố hoàn thành thủ tục phê duyệt Văn phòng xúc tiến thương mại Việt Nam tại Hàng Châu ; sẵn sàng tạo thuận lợi để các Văn phòng xúc tiến thương mại Việt Nam tại Trùng Khánh, Hàng Châu triển khai công việc.

(vi) Sử dụng tốt cơ chế Nhóm công tác hợp tác về tài chính - tiền tệ, tiếp tục trao đổi, nghiên cứu việc sử dụng đồng bản tệ trong thương mại và đầu tư song phương ; tăng cường chia sẻ kinh nghiệm về chính sách tiền tệ và ổn định tài chính ; tiếp tục ủng hộ các tổ chức tài chính của nhau triển khai các nghiệp vụ liên quan tại nước mình theo pháp luật mỗi bên. Phía Việt Nam tuyên bố chấp thuận nguyên tắc thành lập Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc tại Hà Nội ; khuyến khích các tổ chức tài chính của hai bên ủng hộ việc huy động vốn cho các dự án hợp tác đủ điều kiện. Triển khai tốt các khoản tín dụng Trung Quốc cung cấp, tạo điều kiện để sử dụng các nguồn vốn của Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) để triển khai các dự án kết nối cơ sở hạ tầng. Phía Trung Quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi của Trung Quốc và các nguồn vốn khác theo các quy định liên quan.

5.5. Thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực nông nghiệp, nguồn nước, môi trường, khoa học công nghệ, giao thông vận tải. Tăng cường hợp tác nghiên cứu lai tạo các giống lúa thích hợp với điều kiện hạn hán và xâm nhập mặn. Căn cứ theo nhận thức chung hai bên đã đạt được, tích cực thúc đẩy thực hiện đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển, xử lý thỏa đáng vấn đề liên quan phù hợp với quan hệ hữu nghị hai nước. Tích cực triển khai hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và quản lý, bảo vệ, sử dụng bền vững các nguồn nước trong khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương, trong đó có cơ chế hợp tác Mê Công - Lan Thương. Tăng cường giao lưu và hợp tác kỹ thuật trong các lĩnh vực phòng chống lũ lụt, thiên tai. Sử dụng tốt cơ chế Hội nghị Ủy ban hỗn hợp hợp tác khoa học công nghệ Việt - Trung, thúc đẩy hiệu quả các dự án nghiên cứu chung, giao lưu các nhà khoa học trẻ, hợp tác chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. Thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực giám sát an toàn hạt nhân. Tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác kết nối giao thông và cơ sở hạ tầng đường bộ, đường sắt, đường sông, hàng không giữa hai bên.

5.6. Mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực văn hóa, báo chí, y tế, giao lưu nhân dân. Triển khai tốt Kế hoạch thực hiện hàng năm Hiệp định văn hóa Việt - Trung và Bản ghi nhớ hợp tác về công nghiệp văn hóa, vận hành tốt Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội, thúc đẩy sớm đưa vào sử dụng Trung tâm Văn hóa Trung Quốc tại Hà Nội và Cung hữu nghị Việt - Trung. Tăng cường giao lưu, hợp tác giữa cơ quan báo chí hai nước, mở rộng mức độ tuyên truyền về tình hữu nghị giữa hai nước. Triển khai tốt Kế hoạch hợp tác y tế Việt - Trung. Trên cơ sở các văn kiện liên quan ký kết trong chuyến thăm lần này, đẩy nhanh nghiên cứu khả thi Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam, sớm triển khai các dự án về giáo dục, y tế tại khu vực phía Bắc Việt Nam do Trung Quốc viện trợ. Tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động giao lưu nhân dân như Gặp gỡ Hữu nghị Thanh niên, Liên hoan Nhân dân biên giới, Diễn đàn Nhân dân Việt - Trung.

5.7. Tăng cường chỉ đạo và ủng hộ giao lưu hữu nghị, hợp tác cùng có lợi giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh/khu biên giới ; phát huy tốt vai trò của các cơ chế hiện có giữa các địa phương, tăng cường hợp tác thực chất về kinh tế, thương mại, du lịch ; tích cực nghiên cứu các biện pháp tăng cường quản lý và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho lao động thời vụ tại khu vực biên giới hai nước.

5.8. Phát huy tốt vai trò của cơ chế Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền Việt - Trung, thực hiện nghiêm túc các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc ; tăng cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới. Tăng cường hợp tác về cửa khẩu giữa hai nước và cửa khẩu giữa các địa phương, tiếp tục thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cặp cửa khẩu biên giới, áp dụng các biện pháp nâng cao mức độ tiện lợi hóa thông quan, trao đổi, bàn bạc về quy phạm hoạt động mở các đường qua lại tại khu vực biên giới, ngăn ngừa và chống các hành vi vi phạm pháp luật như buôn lậu, giữ gìn an ninh, trật tự khu vực biên giới.

6. Hai bên đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhất trí tiếp tục tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước và "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc" ; sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được.

Hai bên nhất trí làm tốt công việc tiếp theo sau khi khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy vững chắc đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này ; tiếp tục thúc đẩy công việc của Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển ; triển khai hiệu quả các dự án hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm đã thỏa thuận. Hai bên đánh giá cao hoạt động thả giống thủy sinh và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong vịnh Bắc Bộ.

Hai bên nhất trí tiếp tục thực hiện toàn diện, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), trên cơ sở hiệp thương thống nhất, sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) ; kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

7. Phía Việt Nam khẳng định kiên trì chính sách một nước Trung Quốc ; ủng hộ quan hệ hai bờ phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc ; kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất kỳ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.

8. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường phối hợp tại các khuôn khổ đa phương và khu vực như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) - Trung Quốc, hợp tác Mê Công - Lan Thương, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực và trên thế giới. Trung Quốc chúc mừng Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị các Nhà Lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 25. Việt Nam chúc mừng Trung Quốc tổ chức thành công Diễn đàn cấp cao hợp tác "Vành đai và Con đường", tin tưởng điều này sẽ mang lại lợi ích chung cho các nước.

9. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký Thỏa thuận về hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc, Bản ghi nhớ về thúc đẩy kết nối giữa khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai" với sáng kiến "Vành đai và Con đường", Biên bản ghi nhớ về việc tăng cường hợp tác trong lĩnh vực điện lực và năng lượng tái tạo, Bản ghi nhớ về danh mục dự án hợp tác năng lực sản xuất năm 2017, Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực quản lý pháp quy an toàn hạt nhân, Bản ghi nhớ về việc đẩy nhanh tiến độ đàm phán thỏa thuận khung về xây dựng các khu hợp tác kinh tế qua biên giới, Bản ghi nhớ về việc thành lập nhóm công tác hợp tác thương mại điện tử, Bản ghi nhớ về việc xác định danh mục các dự án hợp tác trọng điểm của Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2017- 2021, Bản ghi nhớ về hợp tác phát triển nguồn nhân lực, Công thư trao đổi về việc nghiên cứu tính khả thi trước khi lập dự án về Dự án viện trợ xây mới cơ sở 2 Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam, Bản ghi nhớ về hợp tác và trao đổi thông tin thanh tra, giám sát ngân hàng, Bản ghi nhớ về hợp tác công nghiệp văn hóa, Kế hoạch hành động về hợp tác y tế, Thỏa thuận hợp tác về trao đổi khoa học giữa Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Thỏa thuận khung hợp tác giữa Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Việt Nam và Cục Sự nghiệp xuất bản - phát hành Ngoại văn Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2022, Thỏa thuận giao lưu và hợp tác báo chí giữa Hội nhà báo Việt Nam và Hội nhà báo toàn quốc Trung Quốc, Thỏa thuận về hợp tác đào tạo cán bộ giữa Tỉnh ủy Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Đảng Cộng sản Việt Nam và Khu ủy Khu tự trị Dân tộc Choang Quảng Tây, Đảng Cộng sản Trung Quốc và một số thỏa thuận hợp tác giữa doanh nghiệp, tổ chức tài chính.

10. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Tập Cận Bình đã thành công tốt đẹp, góp phần quan trọng trong việc củng cố tình hữu nghị truyền thống, làm sâu sắc hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới, mang ý nghĩa dấu mốc quan trọng.

Tổng Bí thư, Chủ tịch Tập Cận Bình chân thành cảm ơn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Trần Đại Quang, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam về sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị ; trân trọng mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trần Đại Quang thăm lại Trung Quốc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trần Đại Quang bày tỏ cảm ơn.

Hà Nội, ngày 13 tháng 11 năm 2017

******************

15. Bộ Quốc phòng Việt Nam và Trung Quốc ký nhiều văn bản hợp tác 27/05/2019

Thứ Hai 27/05/2019

TTO - Chiều 27/5, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đã đón tiếp đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước CHND Trung Hoa, hội đàm cùng Thượng tướng Ngụy Phượng Hòa, bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc.

Sau lễ đón trọng thị lúc 14g30, hai bộ trưởng đã bước vào hội đàm tại phòng họp Quân ủy Trung ương ở trụ sở Bộ Quốc phòng.

Sau hội đàm, hai bộ trưởng đã chứng kiến cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng hai nước ký kết hàng loạt văn bản hợp tác, như bản ghi nhớ hợp tác y tế quân sự ; thỏa thuận giữa hai bộ quốc phòng về đào tạo nhân viên quân sự năm học 2019 - 2020 ; bản ghi nhớ hợp tác giáo dục quân sự giữa Học viện Quốc phòng Việt Nam và Đại học Quốc phòng Trung Quốc ; lễ bàn giao trang bị vật tư y tế, tìm kiếm cứu nạn do Bộ Quốc phòng Trung Quốc trao tặng.

Cũng trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Việt Nam, đoàn đại biểu quân sự cấp cao của Trung Quốc đã vào lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến chào xã giao Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và thăm Học viện Quốc phòng, Bệnh viện Trung ương quân đội 108.

Theo thông cáo báo chí của Bộ Quốc phòng, tại buổi hội đàm, hai bộ trưởng đã trao đổi về tình hình thế giới, khu vực, tình hình mỗi nước và quan hệ quốc phòng song phương.

Trong đó tập trung đánh giá kết quả triển khai nghị định thư về hợp tác quốc phòng song phương năm 2003, tuyên bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng đến năm 2025 của bộ quốc phòng hai nước đã ký năm 2017.

Hai bên thống nhất với kết quả hợp tác được triển khai tương đối toàn diện, từng bước được cơ chế hóa với nội dung thiết thực phù hợp với nhu cầu và khả năng đáp ứng của mỗi bên. Nổi bật là hoạt động tiếp xúc cấp cao và các chuyến thăm của lãnh đạo quân đội hai nước được thúc đẩy duy trì thường xuyên ; một số cơ chế hợp được thiết lập, mở rộng về nội dung và hình thức.

Hai bộ trưởng cũng khẳng định quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian qua đã có sự phát triển, xứng đáng là trụ cột quan trọng của hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước, thể hiện được sự tin cậy chính trị cao.

Về vấn đề tồn tại giữa hai nước, hai bên nhất trí cần kiên trì giải quyết vướng mắc bằng biện pháp hòa bình, tạo sự tin cậy vững chắc. Quyết tâm cùng nhau xây dựng môi trường hòa bình trên Biển Đông.

Khẳng định môi trường hòa bình trên Biển Đông mà hai bên cùng nhau xây dựng không chỉ dành riêng cho Trung Quốc hay Việt Nam, mà còn cho các đối tác có thiện chí hợp tác với hai nước để cùng nhau phát triển.

Tại hội đàm, bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đại tướng Ngô Xuân Lịch cũng thông báo và mời bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc tham dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng, cũng như cử tàu hải quân tham dự diễn tập an ninh hàng hải và lễ duyệt binh tàu quốc tế vào năm 2020 khi Việt Nam là chủ tịch ASEAN.

Đức Bình

----------------------

Quan hệ quốc phòng Việt Nam - Trung Quốc 26/05/2019

(Quân đội nhân dân, 26/05/2019)

Dấu ấn và những định hướng mới, tiếp tục là một trong những trụ cột trong quan hệ giữa hai nước

Nhân dịp đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Thượng tướng Ngụy Phượng Hòa, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc dẫn đầu thăm chính thức Việt Nam từ ngày 27 đến 29/5/2019, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã có bài viết về kết quả hợp tác quốc phòng song phương Việt Nam-Trung Quốc những năm gần đây và phương hướng hợp tác thời gian tới. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu nội dung bài viết.

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có quan hệ truyền thống lâu đời, có nhiều điểm tương đồng. Vượt qua những khác biệt, thử thách, hai nước tiếp tục gìn giữ, củng cố quan hệ hòa bình, hợp tác và phát triển, vì lợi ích của mỗi nước và hòa bình, ổn định của khu vực. Trong đó, quan hệ quốc phòng là một trụ cột, điểm sáng, đóng góp tích cực cho quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam-Trung Quốc.

Trong những năm qua, hợp tác quốc phòng giữa hai nước không ngừng được mở rộng theo hướng tích cực, đi vào chiều sâu, thực chất. Bộ Quốc phòng hai nước đã ký Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng đến năm 2025. Các nội dung trong Tuyên bố Tầm nhìn chung được lãnh đạo hai Bộ Quốc phòng quan tâm, chỉ đạo, triển khai một cách toàn diện, hiệu quả. Trước hết là tăng cường tiếp xúc, giao lưu cấp cao về quốc phòng, trao đổi chiến lược ; chỉ riêng năm 2018, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam và Trung Quốc đã 3 lần gặp nhau. Thông qua các chuyến thăm, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, hợp tác quốc phòng song phương được đẩy lên một bước, đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tăng cường hiểu biết, lòng tin, duy trì môi trường hòa bình, định hướng đúng đắn cho quan hệ hai nước.

Lực lượng bảo vệ biên giới hai nước đã tích cực triển khai các hình thức hợp tác, như : Giao lưu, thường xuyên thăm hỏi lẫn nhau, tuần tra liên hợp, gặp gỡ trao đổi thông tin, diễn tập chung… Nổi bật là hoạt động Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam và Trung Quốc. Trải qua 5 kỳ, giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới thực sự là điểm sáng, một hình mẫu, đóng góp tích cực vào việc xây dựng, bảo vệ đường biên giới trên bộ hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới không chỉ giới hạn trong lực lượng vũ trang mà mở rộng, lan tỏa, thu hút sự tham gia của chính quyền, các ngành chức năng và nhân dân địa phương hai bên biên giới ; khơi dậy nguồn lực to lớn trong hợp tác biên giới ; tạo thêm động lực mới cho hợp tác giữa hai nước, hai quân đội trên các lĩnh vực, khu vực khác.

Hợp tác giữa hải quân, cảnh sát biển và các lực lượng chức năng trên biển của hai nước vẫn được duy trì thông qua hoạt động tuần tra chung ; tiếp tục tìm kiếm những nội dung, hình thức hợp tác mới. Lãnh đạo hai Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo triển khai hợp tác trong nhiều lĩnh vực, như : Đào tạo cán bộ, hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm tham gia hoạt động Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, hợp tác báo chí, tuyên truyền, quân y, công nghiệp quốc phòng… Hai Bộ Quốc phòng cũng đã phối hợp trong quan hệ, hợp tác quốc phòng đa phương như : Diễn đàn Hương Sơn, Bắc Kinh, Diễn đàn Shangri-La, ADMM+, xây dựng khung Quy tắc ứng xử giữa Trung Quốc và ASEAN trên Biển Đông… Phía Trung Quốc khẳng định sẵn sàng hỗ trợ, ủng hộ Việt Nam đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020 và cùng nhau có các sáng kiến thúc đẩy quan hệ hai nước. Việt Nam khẳng định ủng hộ vai trò quan trọng của Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề toàn cầu, đặc biệt là trong việc củng cố hòa bình, ổn định, phát triển chung của khu vực và trên thế giới.

Bên cạnh những kết quả tốt đẹp, hai nước và quân đội hai nước cũng còn những việc phải tiếp tục cùng nhau giải quyết và ứng phó với những diễn biến phức tạp, nhanh chóng của tình hình, các thách thức an ninh của khu vực và thế giới, trong đó có vấn đề Biển Đông. Hai nước có những nhận thức khác nhau trong vấn đề Biển Đông, nhưng đều thấy rõ tầm quan trọng của việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác giải quyết tranh chấp, bất đồng trên tinh thần hòa bình, hữu nghị, tuân thủ thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước, phù hợp với luật pháp quốc tế ; phấn đấu xây dựng vùng biển “Hòa bình-hợp tác-phát triển”. Điều đó không chỉ vì lợi ích của hai nước mà còn đóng góp quan trọng cho hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới.

Trên tinh thần đó, sự kiện đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Thượng tướng Ngụy Phượng Hòa, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc dẫn đầu thăm chính thức Việt Nam từ ngày 27 đến 29/5/2019 có ý nghĩa rất quan trọng. Chuyến thăm sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, những nội dung đã thỏa thuận, nhất là trong chuyến thăm Trung Quốc của đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu tháng 10/2018 ; đồng thời mở ra phương hướng hợp tác quốc phòng mới, làm sâu sắc quan hệ, hợp tác giữa quân đội hai nước, trong đó có những nội dung quan trọng, như : Tăng cường đoàn kết, hợp tác xây dựng quân đội mỗi nước ; tăng cường hợp tác trong lĩnh vực công tác đảng, công tác chính trị, nhất là công tác thông tin, báo chí nhằm xây dựng không khí hòa bình, hữu nghị, làm cho nhân dân hiểu đúng về quan hệ hai nước, hai quân đội ; xử lý thỏa đáng những bất đồng, tuân thủ thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước ; tổng kết, rút kinh nghiệm giao lưu quốc phòng hữu nghị biên giới, tổ chức tốt giao lưu lần thứ sáu và nhân rộng ra các khu vực khác ; cụ thể hóa nội dung hợp tác, nâng cao chất lượng, mở rộng loại hình và quy mô hợp tác đào tạo, nghiên cứu chiến lược, quân y, công nghiệp quốc phòng, hỗ trợ đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm tham gia hoạt động Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc…

Thực tiễn chứng tỏ, quan hệ quốc phòng giữa hai nước không ngừng được củng cố, phát triển ; tuân thủ thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước ; xứng đáng là một trong những trụ cột quan trọng trong tổng thể quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc. Đó là nền tảng cho sự phát triển quan hệ giữa hai nước, hai quân đội trong những năm tới. Việc củng cố, phát triển quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam và Trung Quốc là một đòi hỏi khách quan, không chỉ vì lợi ích của hai nước mà còn vì hòa bình, ổn định của khu vực. Khó khăn vẫn còn, nhưng tương lai trong tay chúng ta, phụ thuộc vào nỗ lực của cả hai bên.

Trong bối cảnh đó, chuyến thăm chính thức Việt Nam lần này của Thượng tướng Ngụy Phượng Hòa và đoàn đại biểu quân sự cấp cao Trung Quốc sẽ góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị giữa nhân dân và quân đội hai nước, phát triển quan hệ tốt đẹp giữa hai Đảng, hai nước và hai quân đội ; là đòn bẩy tạo chuyển biến mạnh mẽ hơn trong quan hệ hợp tác quốc phòng song phương, nhất là việc triển khai các cam kết mà lãnh đạo Bộ Quốc phòng hai nước đã đạt được. Chúng ta chúc mừng, chào mừng và tin tưởng chuyến thăm sẽ thành công tốt đẹp.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh 

Ủy viên Trung ương ĐảngỦy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng 

--------------------

Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Trung Quốc thăm chính thức Việt Nam

(Quân đội nhân dân, 27/05/2019)

QĐND Online - Nhận lời mời của Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Thượng tướng Ngụy Phượng Hòa, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc dẫn đầu thăm chính thức Việt Nam từ ngày 27 đến 29/5/2019.

Chiều 27/5, tại Trụ sở Bộ Quốc phòng, Đại tướng Ngô Xuân Lịch đã chủ trì Lễ đón Thượng tướng Ngụy Phượng Hòa và Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngay sau Lễ đón, hai Bộ trưởng đã tiến hành hội đàm.

Tại hội đàm, hai bên trao đổi về tình hình thế giới, khu vực, tình hình mỗi nước và quan hệ quốc phòng song phương. Trong đó, tập trung đánh giá kết quả triển khai Nghị định thư về hợp tác quốc phòng song phương năm 2003, Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng đến năm 2025 của Bộ Quốc phòng hai nước đã ký năm 2017.

Hai bên thống nhất với kết quả hợp tác được triển khai tương đối toàn diện, từng bước được cơ chế hóa với nội dung thiết thực phù hợp với nhu cầu và khả năng đáp ứng của mỗi bên. Nổi bật là hoạt động tiếp xúc cấp cao và các chuyến thăm của lãnh đạo quân đội hai nước được thúc đẩy duy trì thường xuyên ; một số cơ chế hợp tác được thiết lập, mở rộng về nội dung và hình thức như : Đối thoại chiến lược quốc phòng, giao lưu sĩ quan trẻ, tuần tra liên hợp trên Vịnh Bắc Bộ, giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, hợp tác công tác đảng, công tác chính trị, đào tạo, hợp tác giữa các quân khu giáp biên…

Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch và Bộ trưởng Ngụy Phượng Hòa khẳng định, quan hệ hợp tác quốc phòng Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian qua đã có sự phát triển, xứng đáng là trụ cột quan trọng của quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước, thể hiện được sự tin cậy chính trị cao.

Hai bên xác định năm 2019 là năm bản lề mang tính đột phá trong quan hệ giữa hai quân đội, hướng tới kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào năm 2020. Hai bên cũng thống nhất thời gian tới tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng trên các lĩnh vực công tác đảng, công tác chính trị ; hoàn thành các công trình nghiên cứu khoa học lịch sử, phim tài liệu ; tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực quân y, hợp tác giữa các quân chủng Hải quân, Phòng không - Không quân, lực lượng bảo vệ biên giới, công nghiệp quốc phòng, gìn giữ hòa bình Liên Hợp quốc. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới Chương trình Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới và quan hệ giữa các quân khu, Biên phòng, Hải quân, Không quân/Việt Nam với Chiến khu Miền Nam/Trung Quốc…

Về vấn đề tồn tại giữa hai nước, hai bên nhất trí cần kiên trì giải quyết vướng mắc bằng biện pháp hòa bình, tạo sự tin cậy vững chắc ; quyết tâm cùng nhau xây dựng môi trường hòa bình trên Biển Đông ; đồng thời khẳng định môi trường hòa bình trên Biển Đông mà hai bên cùng nhau xây dựng không chỉ dành riêng cho Trung Quốc hay Việt Nam, mà còn cho các đối tác có thiện chí hợp tác với hai nước để cùng nhau phát triển.

Kết thúc hội đàm, Đại tướng Ngô Xuân Lịch và Thượng tướng Ngụy Phượng Hòa đã chứng kiến cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng hai nước ký các văn bản hợp tác, bao gồm : Bản ghi nhớ Hợp tác y tế quân sự giữa hai Bộ Quốc phòng ; Thỏa thuận giữa hai Bộ Quốc phòng về đào tạo nhân viên quân sự năm học 2019 - 2020 ; Bản ghi nhớ hợp tác giáo dục quân sự giữa Học viện Quốc phòng Việt Nam và Đại học Quốc phòng/Trung Quốc ; Lễ bàn giao trang bị vật tư y tế, tìm kiếm cứu nạn do Bộ Quốc phòng Trung Quốc tặng Bộ Quốc phòng Việt Nam.

Nhân dịp này, Đại tướng Ngô Xuân Lịch trân trọng cảm ơn Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã tặng Bộ Quốc phòng Việt Nam một số trang bị, vật tư y tế, tìm kiếm cứu nạn ; coi đây là biểu tượng có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ giữa quân đội hai nước.

Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch thông báo và mời Bộ trưởng Ngụy Phượng Hòa tham dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) cũng như cử tàu Hải quân tham dự Diễn tập an ninh hàng hải và Lễ duyệt binh tàu quốc tế vào năm 2020 khi Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN.

Tin, ảnh : VIỆT CƯỜNG - VŨ HÙNG

* Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Việt Nam, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Trung Quốc vào viếng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ; thăm Học viện Quốc phòng và Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.

***********************

16. Quy hoạch phát triển của khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020

Chủ nhật 21/08/2006

Thủ tướng chính phủ         Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

                                        Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


                                -------

Số : 1107/QĐ-TTg              

Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2006

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001 ;
Căn cứ Nghị định số 36/CP ngày 24 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ ban hành Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư,

QUYẾT ĐỊNH :

Điều 1. Phê duyệt Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 với những nội dung chủ yếu sau đây :

1. Mục tiêu :

a) Mục tiêu tổng quát :

Mục tiêu phát triển các khu công nghiệp tại Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là hình thành hệ thống các khu công nghiệp chủ đạo có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hình thành các khu công nghiệp có quy mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp.

Đưa tỷ lệ đóng góp của các khu công nghiệp vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp từ trên 24% hiện nay lên khoảng 39 – 40% vào năm 2010 và tới trên 60% vào giai đoạn tiếp theo. Tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp của các khu công nghiệp từ 19,2% giá trị xuất khẩu toàn quốc hiện nay lên khoảng 40% vào năm 2010 và cao hơn vào các giai đoạn tiếp theo.

b) Mục tiêu cụ thể :

- Giai đoạn đến năm 2010 :

+ Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản lấy đầy các khu công nghiệp đã được thành lập ; thành lập mới một cách có chọn lọc các khu công nghiệp với diện tích tăng thêm khoảng 15.000 ha – 20.000 ha, nâng tổng diện tích các khu công nghiệp đến năm 2010 lên khoảng 45.000 ha – 50.000 ha.

+ Đầu tư đồng bộ, hoàn thiện các công trình kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp hiện có, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải và đảm bảo diện tích trồng cây xanh trong các khu công nghiệp theo quy hoạch xây dựng được duyệt nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

- Giai đoạn đến năm 2015 :

+ Đầu tư đồng bộ để hoàn thiện các khu công nghiệp hiện có, thành lập mới một cách có chọn lọc các khu công nghiệp với tổng diện tích tăng thêm khoảng 20.000 ha – 25.000 ha ; nâng tổng diện tích các khu công nghiệp đến năm 2015 khoảng 65.000 ha – 70.000 ha. Phấn đấu đạt tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp bình quân trên toàn quốc khoảng trên 60%.

+ Có các biện pháp, chính sách chuyển đổi cơ cấu các ngành công nghiệp trong các khu công nghiệp đã và đang xây dựng theo hướng hiện đại hóa phù hợp với tính chất và đặc thù của các địa bàn lãnh thổ.

+ Xây dựng các công trình xử lý rác thải công nghiệp tập trung quy mô lớn ở những khu vực tập trung các khu công nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm.

+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp, phấn đấu thu hút thêm khoảng 6.500 – 6.800 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng trên 36 – 39 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư thực hiện khoảng 50%.

- Giai đoạn đến năm 2020 :

+ Quản lý tốt và có quy hoạch sử dụng hợp lý diện tích đất dự trữ cho xây dựng khu công nghiệp.

+ Hoàn thiện về cơ bản mạng lưới khu công nghiệp trên toàn lãnh thổ với tổng diện tích các khu công nghiệp đạt khoảng 80.000 ha vào năm 2020.

+ Quản lý, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phát triển các khu công nghiệp đã được thành lập theo hướng đồng bộ hóa.

2. Việc hình thành các khu công nghiệp trên các địa bàn lãnh thổ phải đáp ứng các điều kiện và tiêu chí sau :

- Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và tình hình phát triển kinh tế - xã hội ; quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của từng địa phương.

- Có các điều kiện thuận lợi hoặc có khả năng xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, triển khai đồng bộ và kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất với quy hoạch phát triển đô thị, phân bố dân cư, nhà ở và các công trình xã hội phục vụ công nhân trong khu công nghiệp, khu chế xuất.

- Có quỹ đất dự trữ để phát triển và có điều kiện liên kết thành cụm các khu công nghiệp ; riêng đối với các địa phương thuần túy đất nông nghiệp, khi phát triển các khu công nghiệp để thực hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế cần tiến hành phân kỳ đầu tư chặt chẽ nhằm đảm bảo sử dụng đất có hiệu quả.

- Có khả năng thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.

- Có khả năng cung cấp và đáp ứng nhu cầu về lao động.

- Đảm bảo các yêu cầu về an ninh, quốc phòng.

- Đối với các địa phương đã phát triển khu công nghiệp, việc thành lập mới các khu công nghiệp chỉ được thực hiện khi tổng diện tích đất công nghiệp của các khu công nghiệp hiện đại có đã được cho thuê ít nhất là 60%.

- Việc mở rộng các khu công nghiệp hiện có chỉ được thực hiện khi tổng diện tích đất công nghiệp của khu công nghiệp đó đã được cho thuê ít nhất là 60% và đã xây dựng xong công trình xử lý nước thải tập trung.

- Đối với khu công nghiệp có quy mô diện tích trên 500 ha và có nhiều chủ đầu tư tham gia đầu tư xây dựng – kinh doanh kết cấu hạ tầng, phải tiến hành lập quy hoạch chung xây dựng khu công nghiệp theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng trước khi lập quy hoạch chi tiết khu công nghiệp để đảm bảo tính thống nhất và tính đồng bộ của hệ thống hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp.

- Trong khu công nghiệp, khu chế xuất không có khu dân cư. Trong khu công nghiệp có thể có khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất.

3. Ban hành kèm theo Quyết định này Danh mục 117 khu công nghiệp dự kiến ưu tiên thành lập mới đến năm 2015 (Phụ lục 1) và Danh mục 27 khu công nghiệp dự kiến mở rộng (Phụ lục II). Các danh mục này không bao gồm các khu công nghiệp thuộc các khu kinh tế được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch chung.

Điều 2. Tổ chức thực hiện

1. Phổ biến quy hoạch :

Công bố công khai Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 sau khi được phê duyệt.

2. Bổ sung, điều chỉnh quy hoạch :

Căn cứ vào các điều kiện và tiêu chí về việc thành lập mới và mở rộng khu công nghiệp được quy định tại Quyết định này và trên cơ sở đề nghị của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành liên quan xem xét và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định bổ sung việc thành lập mới và mở rộng các khu công nghiệp vào Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp.

3. Phân công trách nhiệm :

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, triển khai thực hiện và báo cáo Thủ tướng Chính phủ về bổ sung, điều chỉnh quy hoạch trong trường hợp cần thiết.

- Các Bộ, ngành theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện quy hoạch.

- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm công bố danh mục các khu công nghiệp trên địa bàn lãnh thổ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo triển khai thực hiện các bước tiếp theo theo quy định hiện hành.

- Các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm lập quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào khu công nghiệp đồng bộ với việc xây dựng các khu công nghiệp.

Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng

   
   

Nơi nhận : 
- Ban Bí thư Trung ương Đảng ;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ ; 
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP ;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW ;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng ;
- Văn phòng Chủ tịch nước ;
- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của QH ; 
- Văn phòng Quốc hội ;
- Toà án nhân dân tối cao ; 
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể ; 
- Học viện Hành chính quốc gia ;
- VPCP : BTCN, các PCN 
 Website Chính phủ, Ban Điều hành 112, 
 Người phát ngôn của Thủ tướng Chính phủ,
 các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo ;
- Lưu : Văn thư, CN.

PHỤ LỤC 1

DANH MỤC CÁC KHU CÔNG NGHIỆP DỰ KIẾN ƯU TIÊN THÀNH LẬP MỚI ĐẾN NĂM 2015

(Ban hành kèm theo Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020)

STT Tên khu công nghiệp Địa phương Dự kiến diện tích đến năm 2015 (ha)
I. Trung du miền núi phía Bắc  
1. KCN Song Khê - Nội Hoàng Bắc Giang 150
2. KCN Lương Sơn Hòa Bình 72
3. KCN Mai Sơn Sơn La 150
4. KCN Lương Sơn Thái Nguyên 150
5. KCN Sông Công 2 Thái Nguyên 250
6. KCN Phù Ninh Phú Thọ 100
7. KCN Long Bình An Tuyên Quang 200
8. KCN Đông Phố Mới Lào Cai 100
9. KCN phía Đông Nam Điện Biên 60
10. KCN Thanh Bình Bắc Kạn 70
11. KCN Bình Vàng Hà Giang 100
12. KCN phía Nam Yên Bái Yên Bái 100
13. KCN Đồng Bành Lạng Sơn 207
14. KCN Đề Thám Cao Bằng 100
 
II. Vùng đồng bằng sông Hồng  
15. KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh Bắc Ninh 200
16. KCN Yên Phong II Bắc Ninh 300
17. KCN Quế Võ II Bắc Ninh 200
18. KCN Thuận Thành Bắc Ninh 200
19. KCN Việt Hòa Hải Dương 47
20. KCN Phú Thái Hải Dương 72
21. KCN Cộng Hòa Hải Dương 300
22. KCN Tàu thủy Lai Vu Hải Dương 212
23. KCN thị xã Hưng Yên Hải Dương 60
24. KCN Minh Đức Hưng Yên 200
25. KCN Vĩnh Phúc Hưng Yên 200
26. KCN Đò Nống - Chợ Hỗ Hải Phòng 150
27. KCN Nam Cầu Kiền Hải Phòng 100
28. KCN Tràng Duệ Hải Phòng 150
29. KCN Tàu thủy An Hồng Hải Phòng 30
30. KCN Đông Mai Quảng Ninh 200
31. KCN Tàu thủy Cái Lân Quảng Ninh 70
32. KCN Đông Anh Hà Nội 300
33. KCN Sóc Sơn Hà Nội 300
34. KCN Khai Quang Vĩnh Phúc 262
35. KCN Chấn Hưng Vĩnh Phúc 80
36. KCN Bá Thiện Vĩnh Phúc 327
37. KCN An Hòa Thái Bình 400
38. KCN Châu Sơn Hà Nam 170
39. KCN Mỹ Trung Nam Định 150
40. KCN Bảo Minh Nam Định 150
41. KCN Thành An Nam Định 105
42. KCN Hồng Tiến (Ý Yên I) Nam Định 150
43. KCN Nghĩa An (Nam Trực) Nam Định 150
44. KCN Ý Yên II Nam Định 200
45. KCN Tam Điệp Nam Định 200
 
III Duyên hải Trung Bộ  
46. KCN Bỉm Sơn Thanh Hóa 450
47. KCN Lam Sơn Thanh Hóa 200
48. KCN Cửa Lò Nghệ An 50
49. KCN Hạ Vàng Hà Tĩnh 100
50. KCN Gia Lách Hà Tĩnh 100
51. KCN Bắc Đồng Hới Quảng Bình 150
52. KCN Quán Ngang Quảng Trị 140
53. KCN Tứ Hạ Thừa Thiên-Huế 100
54. KCN Phong Thu Thừa Thiên-Huế 100
55. KCN Hòa Cầm 2 Đà Nẵng 150
56. KCN Hòa Ninh Đà Nẵng 200
57. KCN Thuận Yên Quảng Nam 230
58. KCN Đông Quế Sơn Quảng Nam 200
59. KCN Phổ Phong Quảng Ngãi 140
60. KCN Nhơn Hòa Bình Định 320
61. KCN Hòa Hội Bình Định 340
62. KCN Đông Bắc Sông Cầu Phú Yên 105
63. KCN An Phú Phú Yên 100
64. KCN Hòa Tâm Phú Yên 150
65. KCN Nam Cam Ranh Khánh Hòa 200
66. KCN Bắc Cam Ranh Khánh Hòa 150
67. KCN Du Long Ninh Thuận 410
68. KCN Hàm Kiệm Bình Thuận 580
 
IV Tây Nguyên  
69. KCN Hòa Phú Đắk Lắk 400
70. KCN Tây Pleiku Gia Lai 200
71. KCN Hòa Bình Kon Tum 100
72. KCN Phú Hội Lâm Đồng 174
73. KCN Nhân Cơ Đắc Nông 100
 
V. Đông Nam bộ  
74. KCN Tân Phú Đồng Nai 60
75. KCN Ông Kèo Đồng Nai 300
76. KCN Bàu Xéo Đồng Nai 500
77. KCN Lộc An – Bình Sơn Đồng Nai 500
78. KCN Long Đức Đồng Nai 450
79. KCN Long Khánh Đồng Nai 300
80. KCN Giang Điền Đồng Nai 500
81. KCN Dâu Giấy Đồng Nai 300
82. KCN Mỹ Phước 3 Bình Dương 1000
83. KCN Xanh Bình Dương Bình Dương 200
84. KCN An Tây Bình Dương 500
85. KCN Nam Đồng Phú Bình Phước 150
86. KCN Tân Khai Bình Phước 700
87. KCN Minh Hưng Bình Phước 700
88. KCN Đồng Xoài Bình Phước 650
89. KCN Bắc Đồng Phú Bình Phước 250
90. KCN Long Hương Bà Rịa-Vũng Tàu 400
91. KCN Phú Hữu TP. Hồ Chí Minh 162
92. KCN Trâm Vàng Tây Ninh 375
 
VI. Đồng bằng sông Cửu Long  
93. KCN Cầu Tràm (Cầu Đước) Long An 80
94. KCN Mỹ Yên-Tân Bửu-Long Hiệp (Bến Lức) Long An 340
95. KCN Nhật Chánh Long An 122
96. KCN Đức Hòa III Long An 2300
97. KCN Thạnh Đức Long An 256
98. KCN An Nhật Tân Long An 120
99. KCN Long Hậu Long An 142
100. KCN Tân Thành Long An 300
101. KCN Nam Tân Tập Long An 200
102. KCN Bắc Tân Tập Long An 100
103. KCN Tàu thủy Soài Rạp Tiền Giang 290
104. KCN An Hiệp Bến Tre 72
105. KCN Sông Hậu Đồng Tháp 60
106. KCN Bình Minh Vĩnh Long 162
107. KCN Hưng Phú 2 Cần Thơ 226
108. KCN Bình Long An Giang 67
109. KCN Bình Hòa An Giang 150
110. KCN Thạnh Lộc Kiên Giang 100
111. KCN Rạch Vượt Kiên Giang 100
112. KCN Sông Hậu Hậu Giang 150
113. KCN Trần Đề Sóc Trăng 140
114. KCN Đại Ngãi Sóc Trăng 120
115. KCN Trà Kha Bạc Liêu 66

PHỤ LỤC 2

DANH MỤC CÁC KHU CÔNG NGHIỆP DỰ KIẾN MỞ RỘNG ĐẾN NĂM 2015

(Ban hành kèm theo Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020)

STT Tên khu công nghiệp Địa phương Dự kiến diện tích mở rộng (ha)
1. KCN Quế Võ Bắc Ninh 300
2. KCN Tiên Sơn Bắc Ninh 100
3. KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn Bắc Ninh 300
4. KCN Đại An Hải Dương 470
5. KCN Phố Nối B Hưng Yên 155
6. KCN Đình Vũ Hải Phòng 200
7. KCN Nomura Hải Phòng 200
8. KCN Phú Cát Hà Tây 500
9. KCN Quang Minh Vĩnh Phúc 362
10. KCN Đình Hương Thanh Hóa 121
11. KCN Nam Cấm Nghệ An 100
12. KCN Hòn La Quảng Bình 203
13. KCN Phú Bài Thừa Thiên Huế 120
14. KCN Quảng Phú Quảng Ngãi 48
15. KCN Long Mỹ Bình Định 100
16. KCN Hòa Hiệp Phú Yên 221
17. KCN Định Quán Đồng Nai 150
18. KCN Việt Hương II Bình Dương 140
19. KCN Chơn Thành Bình Phước 255
20. KCN Mỹ Xuân A2 Bà Rịa-Vũng Tàu 90
21. KCN Mỹ Xuân B1 (Đại Dương) Bà Rịa-Vũng Tàu 146
22. KCN Hiệp Phước TP. Hồ Chí Minh 630
23. KCN Tây Bắc Củ Chi TP. Hồ Chí Minh 170
24. KCN Trảng Bàng Tây Ninh 163
25. KCN Thuận Đạo Long An 200
26. KCN Tân Kim Long An 56
27. KCN Tân Hương Tiền Giang 59

 

****************************

17. Toàn văn Tuyên bố chung Trung Quốc - Việt Nam 01/11/2022

Nhân Dân online, 01/11/2022

Lời giới thiệu : Chúng tôi giới thiệu sau đây Toàn văn Tuyên bố chung Việt Nam và Trung Quốc tại Bắc Kinh ngày 01/11/2022. Từ nhiều năm qua, ban lãnh đạo hai Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc đã ký nhiều thỏa thuận quan trọng như đã được thỏa thuận sau Hội nghị Thành Đô tháng 9 năm 1990. Bản Tuyên bố chung ngày hôm nay nằm trong tiến trình đó. Nội dung bản tuyên bố lần này không có nhiều khác biệt so với những tuyên bố chung đã công bố từ năm 2000 đến nay. Quý độc giả sẽ dễ dàng nhận thấy Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc và phá tan hy vọng thoát Trung của Việt Nam. (NVH)

tuyenbochung0

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chụp ảnh chung ngày 01/11/2022 (vào dịp Halloween). (Ảnh : TTXVN)

Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc về việc tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc

1. Nhận lời mời của Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã thăm chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ ngày 30/10 đến ngày 1/11.

Trong chuyến thăm, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hội đàm với Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình ; nhận Huân chương Hữu nghị nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình thay mặt Đảng, Chính phủ Trung Quốc trao tặng ; hội kiến Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Khắc Cường, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Nhân đại toàn quốc Lật Chiến Thư, Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc Uông Dương.

Tại các cuộc hội đàm, hội kiến, hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước ; đi sâu trao đổi ý kiến và đạt được nhiều nhận thức chung quan trọng về quan hệ hai Đảng, hai nước Việt-Trung và tình hình quốc tế, khu vực hiện nay.

2. Phía Trung Quốc đã thông báo cho phía Việt Nam những kết quả chủ yếu về Đại hội XX Đảng cộng sản Trung Quốc. Phía Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng Đại hội XX Đảng cộng sản Trung Quốc thành công tốt đẹp, đánh giá cao những thành quả chiến lược to lớn mà Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc do đồng chí Tập Cận Bình làm hạt nhân đã đoàn kết, dẫn dắt nhân dân Trung Quốc đạt được trong quá trình kiên trì và phát triển chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy Trung Quốc hóa, thời đại hóa chủ nghĩa Mác, hoàn thành mục tiêu phấn đấu 100 năm thứ nhất, xây dựng thành công toàn diện xã hội khá giả, đánh thắng trận chiến công kiên thoát khỏi đói nghèo, không ngừng phát triển và hoàn thiện nền dân chủ nhân dân toàn quá trình, phát triển kinh tế và phòng, chống dịch, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, là thực tiễn sinh động, kinh nghiệm quý báu cho các nước đang phát triển tham khảo.

Phía Việt Nam chúc và bày tỏ tin tưởng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc do đồng chí Tập Cận Bình làm hạt nhân, Đảng cộng sản Trung Quốc, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ tiếp tục mở rộng và làm phong phú con đường hiện đại hóa kiểu Trung Quốc, thúc đẩy mạnh mẽ công trình vĩ đại mới về xây dựng Đảng, hoàn thành đúng thời hạn các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội XX Đảng cộng sản Trung Quốc đề ra, thực hiện thắng lợi mục tiêu phấn đấu 100 năm thứ hai, xây dựng Trung Quốc trở thành một cường quốc xã hội chủ nghĩa hiện đại giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp.

Phía Việt Nam thông báo cho phía Trung Quốc về những kết quả chủ yếu của Đại hội XIII Đảng cộng sản Việt Nam. Phía Trung Quốc đánh giá cao những thành tựu to lớn, chưa từng có mà Việt Nam đã đạt được sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Đặc biệt, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đạt nhiều kết quả tích cực, giữ vững ổn định chính trị-xã hội ; kinh tế tăng trưởng duy trì ở mức khá cao ; kiểm soát thành công đại dịch Covid-19 ; đời sống mọi mặt của người dân không ngừng được cải thiện ; vị thế quốc tế ngày càng nâng cao, thể hiện tiềm lực và tương lai tươi sáng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.

Phía Trung Quốc chúc và tin tưởng dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ to lớn mà Đại hội XIII Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra, sớm đưa Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa ; có vai trò quan trọng hơn nữa đối với hòa bình, ổn định và phồn vinh ở khu vực và thế giới.

3. Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc vừa là láng giềng tốt, bạn bè tốt, núi sông liền một dải, vừa là đồng chí tốt, đối tác tốt cùng chung chí hướng, chia sẻ vận mệnh chung, cùng dốc sức vì nhân dân hạnh phúc, đất nước giàu mạnh và sự nghiệp cao cả hòa bình và phát triển của nhân loại.

Hai bên đã nhìn lại quá trình phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước Việt Nam-Trung Quốc. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập và giải phóng dân tộc, Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước đã dành cho nhau sự giúp đỡ quý báu và trong sáng. Trong thời kỳ đổi mới và cải cách mở cửa, hai bên đẩy mạnh trao đổi kinh nghiệm, hợp tác cùng có lợi, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình mỗi nước, đạt được những thành tựu phát triển mang tính lịch sử.

Hai bên nhất trí cho rằng tình hữu nghị truyền thống vừa là đồng chí, vừa là anh em do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo tiền bối đích thân gây dựng và dày công vun đắp là tài sản quý báu của nhân dân hai nước, cần tiếp tục được kế thừa tốt, bảo vệ tốt và phát huy tốt.

Hướng tới tương lai, hai Đảng, hai nước cần kiên trì phương hướng tiến lên, thúc đẩy chủ nghĩa xã hội không ngừng phát triển, thể hiện ưu thế và tương lai tươi sáng của thể chế xã hội chủ nghĩa.

Hai bên nhấn mạnh, kiên định sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm tình hình mỗi nước, cần tăng cường đoàn kết hợp tác, giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng làm sâu sắc nhận thức đối với quy luật cầm quyền của Đảng cộng sản, quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội và quy luật phát triển của xã hội loài người ; kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng Đảng và xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi Đảng không ngừng phát triển, cùng nỗ lực vì sự nghiệp hòa bình, tiến bộ của nhân loại.

4. Hai bên đánh giá tình hình thế giới đang trải qua những biến đổi mang tính lịch sử, sâu sắc, khó lường, bước vào thời kỳ biến động mới. Hai Đảng, hai nước cần kiên trì thực hiện mục tiêu, lý tưởng và sứ mệnh vì hạnh phúc nhân dân, vì tiến bộ nhân loại ; kiên trì nhìn nhận và phát triển quan hệ song phương trên tầm cao chiến lược và tầm nhìn dài hạn ; kiên trì phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt", thúc đẩy quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển lâu dài, lành mạnh, ổn định trong thời đại mới.

Để làm được điều đó, hai bên cần tăng cường trao đổi chiến lược, tin cậy chính trị, kiên trì bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, nắm chắc phương hướng tiến lên đúng đắn của quan hệ Việt-Trung ; đi sâu hợp tác cùng có lợi, thúc đẩy hài hòa lợi ích giữa hai nước, góp phần mang lại hạnh phúc và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân ; phát huy truyền thống hữu nghị, tăng cường giao lưu giữa nhân dân hai nước, đặc biệt là kết nối gặp gỡ, gia tăng hiểu biết và gắn kết tình cảm giữa thế hệ trẻ ; xử lý thỏa đáng bất đồng liên quan trên cơ sở hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, giữ gìn cục diện quan hệ Việt-Trung và hòa bình, ổn định ở khu vực, tạo môi trường bên ngoài tốt đẹp cho sự phát triển của hai nước ; tăng cường phối hợp trên các vấn đề quốc tế, chung tay ứng phó các thách thức mang tính khu vực và toàn cầu, đóng góp tích cực vào duy trì hòa bình, thúc đẩy cùng phát triển ở khu vực và trên thế giới.

5. Hai bên cho rằng, việc Lãnh đạo cao nhất của hai Đảng duy trì trao đổi thường xuyên, định hướng, dẫn dắt quan hệ Việt-Trung, có vai trò định hướng chiến lược quan trọng đối với sự phát triển của quan hệ hai Đảng, hai nước.

Hai bên nhất trí, tiếp tục duy trì và tăng cường truyền thống tốt đẹp giao lưu cấp cao giữa hai Đảng, hai nước thông qua các hình thức như thăm lẫn nhau, cử đặc phái viên, điện thoại đường dây nóng, trao đổi thư điện, gặp gỡ thường niên và tiếp xúc tại các diễn đàn đa phương, kịp thời trao đổi ý kiến về các vấn đề quan trọng trong quan hệ hai nước cũng như tình hình quốc tế, khu vực ; định hướng và chỉ đạo tầm cao chiến lược đối với sự phát triển ổn định, lành mạnh của quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc trong thời đại mới.

6. Hai bên cho rằng, Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc đảm đương sứ mệnh lãnh đạo trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tại mỗi nước, phát huy vai trò định hướng chính trị đối với quan hệ Việt-Trung. Trong tình hình mới, hai Đảng cần củng cố ưu thế hợp tác truyền thống, khuyến khích các cơ quan, tổ chức, địa phương của hai Đảng, hai nước đi sâu giao lưu, hợp tác, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước và giữ cho quan hệ Việt-Trung tiến vững, tiến xa.

Hai bên nhất trí phát huy tốt vai trò chỉ đạo, điều phối tổng thể của cơ chế gặp gỡ cấp cao hai Đảng và vai trò điều phối, thúc đẩy của cơ quan đối ngoại hai Đảng, tiếp tục thực hiện tốt "Kế hoạch hợp tác giai đoạn 2021-2025 giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc", "Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giai đoạn 2021-2025 giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc", tổ chức tốt Hội thảo lý luận giữa hai Đảng, tăng cường giao lưu, hợp tác giữa các cơ quan tương ứng của hai Đảng ở Trung ương và tổ chức Đảng các địa phương, nhất là các tỉnh/khu biên giới, tiếp tục triển khai giao lưu, học hỏi lẫn nhau về lý luận và kinh nghiệm xây dựng Đảng, quản lý đất nước, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ; tích cực khuyến khích giao lưu, hợp tác hữu nghị giữa Chính phủ, Quốc hội Việt Nam với Chính phủ, Nhân đại toàn quốc Trung Quốc và giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc.

Hai bên nhất trí phát huy tốt vai trò của cơ chế Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, quy hoạch tổng thể và thúc đẩy giao lưu, hợp tác trong các lĩnh vực như ngoại giao, quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật. Triển khai tốt Thỏa thuận về tăng cường hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao trong tình hình mới, duy trì tiếp xúc thường xuyên giữa lãnh đạo hai Bộ và trao đổi giữa các Vụ/Cục tương ứng.

Hợp tác quốc phòng là một trong những trụ cột của quan hệ hai nước. Tiếp tục tăng cường tiếp xúc cấp cao giữa quân đội hai nước ; triển khai giao lưu, hợp tác như hoạt động Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, Đối thoại chiến lược quốc phòng, Tuần tra liên hợp trên Vịnh Bắc Bộ giữa hải quân, đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng ; làm sâu sắc hợp tác biên phòng, thúc đẩy tuần tra chung biên giới trên đất liền giữa lực lượng bảo vệ biên giới hai nước.

Tăng cường giao lưu cấp cao giữa cơ quan thực thi pháp luật hai nước, làm sâu sắc hợp tác về an ninh chính trị và thực thi pháp luật trên các lĩnh vực ; điều phối, phối hợp chặt chẽ trong các vấn đề an ninh đa phương. Phát huy tốt vai trò của các cơ chế như Hội nghị cấp Bộ trưởng về phòng, chống tội phạm, Đối thoại an ninh chiến lược cấp Thứ trưởng, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực chống khủng bố, chống "diễn biến hòa bình", "cách mạng màu", tội phạm ma túy, chống lừa đảo trên mạng và viễn thông, đánh bạc qua biên giới, mua bán người, tội phạm sử dụng công nghệ cao, quản lý xuất nhập cảnh, truy bắt tội phạm truy nã…

Thúc đẩy đàm phán, ký kết Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù Việt Nam-Trung Quốc, Hiệp định hợp tác phòng chống tội phạm Việt Nam-Trung Quốc, Kế hoạch tổ chức cao điểm phòng, chống xuất nhập cảnh trái phép giữa Bộ Công an Việt Nam với Cơ quan Quản lý di dân Trung Quốc. Hai bên nhất trí tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác về pháp luật và tư pháp giữa hai nước nhằm tạo cơ sở pháp lý tăng cường hợp tác toàn diện trong các lĩnh vực giữa Việt Nam và Trung Quốc. Làm sâu sắc hợp tác thực thi pháp luật trên biển giữa Cảnh sát biển hai nước, xử lý thỏa đáng các vụ việc phát sinh đột xuất trên biển, cùng nhau duy trì an ninh, ổn định trên biển.

7. Hai bên nhấn mạnh hai nước Việt Nam và Trung Quốc kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu căn bản là mang lại sự phát triển phồn vinh và hạnh phúc cho nhân dân ; cần phát huy ưu thế gần gũi về địa lý và bổ sung lẫn nhau về ngành nghề, tăng cường hợp tác thực chất, hiệu quả hơn nữa trên các lĩnh vực, đáp ứng tốt hơn lợi ích của nhân dân hai nước.

(1) Hai bên nhất trí tích cực thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển hai nước, đẩy nhanh trao đổi, ký kết Kế hoạch hợp tác giữa Chính phủ hai nước về thúc đẩy kết nối giữa Khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai" với Sáng kiến "Vành đai và Con đường", triển khai hợp tác năng lực sản xuất, hợp tác xây dựng kết cấu hạ tầng và kết nối giao thông, sớm hoàn thiện đánh giá Quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng.

(2) Hai bên cho rằng thương mại điện tử là lĩnh vực quan trọng trong hợp tác kinh tế-thương mại song phương, tiếp tục thực hiện tốt "Bản ghi nhớ về tăng cường hợp tác thương mại điện tử giữa Bộ Công thương Việt Nam và Bộ Thương mại Trung Quốc", phát huy vai trò của Nhóm Công tác hợp tác về thương mại điện tử, tăng cường trao đổi chính sách và chia sẻ kinh nghiệm về phát triển thương mại điện tử qua biên giới, thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp về logistic, nghiên cứu thúc đẩy hợp tác giữa các ngân hàng, tổ chức chuyển mạch quốc gia hai nước về thanh toán điện tử, nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ để mở rộng các kênh thương mại, đầu tư mới thông qua thương mại điện tử.

Trung Quốc sẽ tiếp tục mở rộng tiêu thụ các sản phẩm đặc sắc, chất lượng cao của Việt Nam thông qua các hoạt động xúc tiến tiêu dùng bằng thương mại điện tử.

(3) Hai bên nhất trí áp dụng các biện pháp thiết thực nhằm giảm bớt vấn đề mất cân bằng thương mại giữa hai nước, thúc đẩy xuất nhập khẩu nhiều hơn nữa các sản phẩm nông sản, thực phẩm chất lượng cao của cả hai nước. Phía Trung Quốc sẽ tích cực thúc đẩy tiến trình mở cửa thị trường cho khoai lang, các loại hoa quả có múi, tổ yến và một số nông thủy sản của Việt Nam. Phía Việt Nam sẽ tích cực thúc đẩy tiến trình mở cửa thị trường cho sữa của Trung Quốc.

Hai bên cho rằng, bảo đảm phòng, chống dịch chính là bảo đảm thông quan hàng hóa, nhất trí phát huy vai trò của Cơ chế liên hợp giải quyết ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới và hợp tác phòng, chống dịch, duy trì hoạt động thương mại thông suốt tại các cửa khẩu với tiền đề bảo đảm công tác phòng chống dịch, nhằm bảo đảm chuỗi cung ứng hàng hóa và tạo thuận lợi thông quan ; tiếp tục tăng cường hợp tác phòng chống ma túy và buôn bán trái phép các loại động vật có nguy cơ tuyệt chủng, triển khai chương trình thực thi pháp luật liên hợp "Con rồng Mê Công", bảo đảm thương mại song phương phát triển an toàn, lành mạnh, cân bằng, thuận lợi.

Phía Trung Quốc ủng hộ các văn phòng xúc tiến thương mại Việt Nam tại Trùng Khánh và Hàng Châu phát huy vai trò tích cực trong hợp tác kinh tế-thương mại giữa hai nước. Trung Quốc nhất trí ủng hộ Việt Nam thành lập các văn phòng xúc tiến thương mại khác tại Trung Quốc ; hoan nghênh Việt Nam tham gia Hội chợ nhập khẩu quốc tế Trung Quốc lần thứ 5.

(4) Phía Việt Nam sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác đầu tư và kinh tế-thương mại. Trung Quốc khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc đủ điều kiện, đầu tư vào Việt Nam trên nguyên tắc thị trường và thương mại.

(5) Hai bên sẵn sàng triển khai tốt "Bản ghi nhớ về tăng cường hợp tác bảo đảm chuỗi cung ứng giữa Bộ Công thương Việt Nam và Bộ Thương mại Trung Quốc", thúc đẩy an toàn, ổn định chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng giữa hai nước.

(6) Nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa, nâng cao kim ngạch thương mại giữa hai nước, hai bên nhất trí thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác trong lĩnh vực vận tải hàng không, đường bộ và đường sắt ; sớm trao đổi, đàm phán sửa đổi Hiệp định đường sắt biên giới Việt Nam-Trung Quốc ký năm 1992 ; ủng hộ doanh nghiệp đường sắt hai nước tăng cường hợp tác về nâng cao lượng vận chuyển hàng hóa Việt Nam quá cảnh qua Trung Quốc.

(7) Hai bên sẽ tiếp tục phát huy vai trò của Ủy ban liên hợp về hợp tác nông nghiệp Việt-Trung và Ủy ban liên hợp về hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ, tăng cường hợp tác thực chất trong các lĩnh vực như trồng trọt, chế biến nông sản, kiểm soát dịch bệnh tổng hợp các loại sâu bệnh, triển khai hợp tác thả giống và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong Vịnh Bắc Bộ, làm sâu sắc hợp tác đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp. Hai bên nhất trí thúc đẩy sớm đàm phán ký kết Hiệp định mới về hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ ; đạt nhất trí về Thỏa thuận tìm kiếm cứu nạn trên biển, Thỏa thuận thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển Việt Nam-Trung Quốc và đồng ý sớm tiến hành ký kết.

Tăng cường hợp tác chia sẻ số liệu khí tượng, thủy văn trên sông Hồng- sông Nguyên, sông Kỳ Cùng-Tả Giang, sông Mê Công-Lan Thương và các dòng sông quốc tế nhằm bảo đảm nâng cao năng lực phòng ngừa hạn hán, lũ lụt. Đẩy mạnh hợp tác sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước cân bằng hợp lý trong cơ chế hợp tác Mê Công-Lan Thương, cùng nhau nâng cao trình độ sử dụng an toàn, hiệu quả, bền vững tài nguyên nước.

(8) Hai bên sẽ tiếp tục thúc đẩy đàm phán, tiến tới ký kết Hiệp định hợp tác y tế Việt-Trung, hợp tác chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về y sinh, dược phẩm phòng chống dịch Covid-19, thực thi tốt dự án hợp tác phòng, chống dịch bệnh lây lan qua biên giới khu vực sông Mê Công-Lan Thương.

(9) Hai bên sẵn sàng phát huy tốt vai trò của các cơ chế Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền, Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới Việt Nam-Trung Quốc, tiếp tục thực hiện tốt các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc ; tăng cường quản lý an ninh trật tự khu vực biên giới, bảo đảm đồng bộ phòng chống dịch bệnh và tạo thuận lợi thông quan tại khu vực biên giới ; tiếp tục đẩy mạnh mở cửa cửa khẩu/lối mở biên giới, thúc đẩy xây dựng kết cấu hạ tầng qua biên giới, trong đó tập trung trao đổi thống nhất phương án kết nối đoạn đường sắt giữa ga Lào Cai (Việt Nam) - ga Hà Khẩu Bắc (Trung Quốc) ; giữ gìn trật tự tốt đẹp và thúc đẩy phát triển ở khu vực biên giới.

Hai bên nhất trí thúc đẩy triển khai Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch Thác Bản Giốc (Việt Nam) - Đức Thiên (Trung Quốc), nỗ lực thúc đẩy sớm đưa vào vận hành thí điểm cho du khách hai nước, qua đó xây dựng mô hình kiểu mẫu về du lịch qua biên giới, du lịch xanh.

(10) Hai bên nhất trí tích cực tìm tòi giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực như phát triển xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu, kinh tế số v.v... ; tạo thêm nhiều điểm tăng trưởng cho hợp tác Việt-Trung.

(11) Hai bên nhất trí tiếp tục phát huy tốt vai trò của Ủy ban hỗn hợp hợp tác về khoa học và công nghệ Việt Nam-Trung Quốc ; tích cực thúc đẩy triển khai hợp tác khoa học và công nghệ, nghiên cứu chung và trình diễn công nghệ ; thúc đẩy giao lưu trao đổi đoàn các cấp nhằm làm sâu sắc quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực nêu trên.

(12) Hai bên nhất trí tiếp tục tập trung bám sát thực hiện nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao và Sáng kiến Phát triển toàn cầu, tích cực nghiên cứu có thêm nhiều dự án hợp tác nhằm thúc đẩy kinh tế, làm lợi cho đời sống của nhân dân.

8. Hai bên nhất trí về việc tăng cường giao lưu hữu nghị giữa nhân dân hai nước, tăng cường triển khai giáo dục về tình hữu nghị Việt-Trung tới người dân, nâng cao hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Hai bên nhất trí thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác văn hóa và du lịch Việt Nam-Trung Quốc, trên cơ sở phù hợp với chính sách phòng chống dịch của hai nước, thúc đẩy giao lưu trao đổi đoàn các cấp về văn hóa và du lịch, thúc đẩy ngành du lịch phục hồi và phát triển lành mạnh, tăng cường hợp tác về công nghiệp văn hóa. Phía Trung Quốc hoan nghênh, ủng hộ Việt Nam thành lập Trung tâm Văn hóa tại Trung Quốc ; phía Việt Nam tích cực ủng hộ hoạt động của Trung tâm Văn hóa Trung Quốc tại Hà Nội.

Hai bên nhất trí thực hiện tốt Hiệp định hợp tác giáo dục Việt Nam-Trung Quốc ; khuyến khích cử lưu học sinh sang học tập ở mỗi nước. Phía Trung Quốc coi trọng việc lưu học sinh Việt Nam quay trở lại Trung Quốc học tập, hoan nghênh lưu học sinh Việt Nam có nguyện vọng đều có thể trở lại trường trên cơ sở làm tốt công tác phòng chống dịch ; tuyên bố trong 5 năm tới cung cấp cho Việt Nam không dưới 1.000 suất học bổng Chính phủ Trung Quốc, và không dưới 1.000 suất học bổng dành cho giáo viên tiếng Trung Quốc ; giúp đỡ Việt Nam bồi dưỡng nhân tài chất lượng cao và giáo viên tiếng Trung Quốc.

Hai bên tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động giao lưu hữu nghị, giao lưu văn hóa như Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung, Diễn đàn nhân dân Việt-Trung, Liên hoan nhân dân biên giới…, khuyến khích các địa phương hai nước, đặc biệt là các tỉnh/khu giáp biên giao lưu hữu nghị và hợp tác cùng có lợi. Hai bên sẵn sàng tăng cường giao lưu báo chí, truyền thông và phóng viên hai nước thăm lẫn nhau, tăng cường tình hữu nghị Việt-Trung, tạo nền tảng xã hội và không khí dư luận tốt đẹp cho sự phát triển của quan hệ song phương.

9. Hai bên đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển ; cho rằng kiểm soát thỏa đáng bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông vô cùng quan trọng ; nhất trí xử lý ổn thỏa vấn đề trên biển, đóng góp tích cực cho hòa bình, an ninh lâu dài ở khu vực.

Hai bên nhất trí tiếp tục tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa lãnh đạo hai Đảng, hai nước và "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", sử dụng hiệu quả cơ chế đàm phán biên giới cấp Chính phủ Việt Nam-Trung Quốc, kiên trì thông qua hiệp thương, đàm phán hữu nghị, tích cực bàn bạc về các biện pháp giải quyết mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường, chủ trương của mỗi bên ; tìm kiếm giải pháp cơ bản lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được.

Hai bên nhất trí tích cực thúc đẩy bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển và bàn bạc về phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy hai việc trên sớm đạt tiến triển thực chất. Hai bên sẵn sàng tiếp tục tích cực triển khai hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển ; tích cực trao đổi về đi sâu, mở rộng hợp tác trên biển tại Vịnh Bắc Bộ trên cơ sở đáp ứng lợi ích thiết thực của cả hai bên.

Hai bên đồng ý tiếp tục thúc đẩy thực hiện toàn diện, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), trên cơ sở hiệp thương, nhất trí, sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu quả, có nội dung thực chất, phù hợp luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 ; kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp tình hình và mở rộng tranh chấp, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và thúc đẩy hợp tác trên biển.

10. Phía Việt Nam tái khẳng định kiên trì chính sách "Một Trung Quốc", ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức và nhất quán ủng hộ nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ của các nước. Việt Nam không phát triển quan hệ cấp Nhà nước nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ đánh giá cao lập trường của phía Việt Nam.

11. Hai bên cho rằng, cục diện thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, căng thẳng tại các điểm nóng gia tăng, thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đan xen, chủ nghĩa đa phương, toàn cầu hóa kinh tế, hòa bình và phát triển của thế giới đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Cộng đồng quốc tế cần cùng nhau nỗ lực, dốc sức vì hòa bình, hợp tác và phát triển, tiếp thêm tính ổn định và năng lượng tích cực cho thế giới.

Hai bên nhấn mạnh, phát triển là sự bảo đảm của an ninh, là then chốt để giải quyết các vấn đề khó, thực hiện hạnh phúc cho nhân dân. Phía Việt Nam ủng hộ và sẵn sàng tham gia Sáng kiến Phát triển toàn cầu, theo nội dung và cách thức phù hợp, nỗ lực cùng các bên góp phần thực hiện Chương trình phát triển bền vững 2030 của Liên hợp quốc.

Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong các khuôn khổ quốc tế và khu vực như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Trung Quốc-ASEAN, Mê Công-Lan Thương ; thực hiện tốt Hiệp định quan hệ đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) ; thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực, thúc đẩy các nước cùng phát triển.

Phía Việt Nam ủng hộ Trung Quốc nộp đơn gia nhập Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và có đóng góp vào việc thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Hai bên nhấn mạnh, an ninh là tiền đề của phát triển. Việt Nam ghi nhận tích cực Sáng kiến An ninh toàn cầu của Trung Quốc trên cơ sở mục tiêu, nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc. Việt Nam sẵn sàng cùng Trung Quốc và các đối tác liên quan cùng duy trì hòa bình và an ninh lâu dài trên thế giới.

Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong khuôn khổ Liên hợp quốc, duy trì trao đổi và phối hợp chặt chẽ trong những vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. Kiên trì thực hiện và đề cao chủ nghĩa đa phương, cùng bảo vệ công bằng, chính nghĩa quốc tế, tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Hai bên chủ trương, các nước triển khai giao lưu và hợp tác trong vấn đề nhân quyền trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, thúc đẩy đối thoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền, không chính trị hóa vấn đề nhân quyền.

12. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên ký kết :

- Thỏa thuận hợp tác giữa Ban Đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và Ban Liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc ;

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ban Nội chính Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và Ủy ban Chính pháp Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc ;

- Bản ghi nhớ hợp tác hữu nghị giai đoạn 2022-2027 giữa Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội Hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc ;

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Tư pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Tư pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực sinh thái và môi trường giữa Bộ Tài nguyên và môi trường nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Sinh thái và môi trường nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Công thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Thương mại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tăng cường hợp tác bảo đảm chuỗi cung ứng Việt-Trung ;

- Kế hoạch hợp tác văn hóa và du lịch giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Văn hóa và Du lịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa giai đoạn 2023-2027 ;

- Bản ghi nhớ giữa Tổng Cục Hải quan, Bộ Tài chính nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng Cục Hải quan nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về xây dựng lĩnh vực ưu tiên hợp tác ;

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Công Thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng Cục Hải quan nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về an toàn thực phẩm trong thương mại song phương Việt Nam-Trung Quốc ;

- Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với quả chuối tươi xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng cục Hải quan nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Thành phố Hà Nội, Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Thành phố Bắc Kinh, Thủ đô nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Công thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính quyền nhân dân tỉnh Vân Nam nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực kinh tế-thương mại ;

- Bản ghi nhớ về tăng cường giao lưu, hợp tác trong lĩnh vực tài sản nhà nước và doanh nghiệp nhà nước giữa Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Quản lý và Giám sát tài sản nhà nước nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

13. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thành công tốt đẹp, góp phần tích cực trong việc phát huy tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống Việt Nam-Trung Quốc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc trong thời đại mới, thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng của khu vực và thế giới. Hai Đảng và nhân dân hai nước rất vui mừng về những thành quả này.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cảm ơn Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình, Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc về sự đón tiếp trọng thị, thân tình và hữu nghị ; trân trọng mời Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình sớm thăm lại Việt Nam. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình bày tỏ cảm ơn và vui vẻ nhận lời.

Bắc Kinh, ngày 01 tháng 11 năm 2022"

Nguồn : Nhân Dân online, 01/11/2022

****************************

18. Thông cáo chung Việt Nam-Trung Quốc (29/06/2023)

Chính phủ online, 30/06/2023

Lời giới thiệu : Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu Thông cáo báo chí chung Việt Nam - Trung Quốc nhân chuyến thăm chính thức Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và tham dự Hội nghị thường niên các nhà tiên phong lần thứ 14 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) tại Thiên Tân từ ngày 25-28/6 của Thủ tướng Phạm Minh Chính theo lời mời của Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lý Cường.

thongcao-29062023

Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường chủ trì Lễ đón chính thức Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam được tổ chức trọng thể tại Đại lễ đường Nhân dân ở Thủ đô Bắc Kinh - Ảnh : VGP/Nhật Bắc

1. Nhận lời mời của Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lý Cường, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính đã thăm chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và dự Hội nghị thường niên các nhà tiên phong lần thứ 14 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) tại Thiên Tân từ ngày 25 đến ngày 28/6/2023.

Trong thời gian chuyến thăm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã hội kiến với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ; hội đàm với Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Cường ; lần lượt có các cuộc gặp với Ủy viên trưởng Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Triệu Lạc Tế, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị chính trị hiệp thương nhân dân Trung Quốc Vương Hộ Ninh. 

Trong không khí hữu nghị, chân thành, tin cậy, hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước, đi sâu trao đổi ý kiến và đạt nhiều nhận thức chung quan trọng về việc tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung trong tình hình mới và các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm. 

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính còn đi khảo sát Khu mới Hùng An, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc).

2. Hai bên nhất trí cho rằng, hiện nay quan hệ hai Đảng, hai nước Việt - Trung phát triển tốt đẹp, hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước thu được thành quả thiết thực. 

Hai bên nhất trí tiếp tục thực hiện tốt "Tuyên bố chung về việc tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc" trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng năm 2022, duy trì chặt chẽ giao lưu cấp cao, tăng cường giao lưu kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội Việt Nam và Nhân đại toàn quốc Trung Quốc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc ; tăng cường giao lưu học hỏi lẫn nhau trong tiến trình sự nghiệp thúc đẩy xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi nước và tìm tòi hiện đại hóa mang đặc sắc của mỗi nước. 

Phát huy tốt vai trò điều phối tổng thể của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt - Trung, làm sâu sắc giao lưu hợp tác trong các lĩnh vực trọng điểm như ngoại giao, quốc phòng, thực thi pháp luật, kinh tế thương mại, nhân văn.

3. Hai bên nhấn mạnh, Việt Nam và Trung Quốc núi sông liền một dải, cùng chung chí hướng, chia sẻ vận mệnh chung, đều nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân, sự giàu mạnh của đất nước, nỗ lực cho sự nghiệp cao cả vì hòa bình và phát triển của nhân loại. 

Việt Nam coi phát triển quan hệ với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược và ưu tiên hàng đầu, Trung Quốc coi Việt Nam là phương hướng ưu tiên của ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. 

Việt Nam đánh giá cao Cộng đồng chung vận mệnh nhân loại, Sáng kiến Phát triển toàn cầu, Sáng kiến An ninh toàn cầu và Sáng kiến Văn minh toàn cầu do Trung Quốc đưa ra, hai bên sẽ đi sâu trao đổi về các biện pháp cụ thể.

4. Hai bên nhất trí tích cực thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước, đẩy nhanh hợp tác cùng xây dựng "Vành đai và Con đường" chất lượng cao ; tăng cường kết nối đường bộ, đường sắt khu vực biên giới, xây dựng hệ thống logistics đa phương thức, hiệu quả cao, bền bỉ ; bảo đảm thông suốt cửa khẩu biên giới, đẩy nhanh việc nâng cấp mở cửa và kết nối cơ sở hạ tầng cửa khẩu, thúc đẩy hợp tác cửa khẩu thông minh, đẩy nhanh thực hiện phát triển hài hòa chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng. 

Tăng cường giao lưu học hỏi lẫn nhau giữa các doanh nghiệp nhà nước, tích cực tìm kiếm khả năng tăng cường hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực khoáng sản then chốt. Phía Việt Nam sẽ tiếp tục tạo môi trường kinh doanh tốt đẹp cho doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam.

5. Hai bên nhất trí tăng cường giao lưu hữu nghị và hợp tác cùng có lợi giữa các địa phương hai nước, đặc biệt là các tỉnh khu biên giới ; tăng cường giáo dục về tình hữu nghị Việt - Trung cho nhân dân hai nước đặc biệt là thế hệ trẻ ; tổ chức tốt các hoạt động giao lưu hữu nghị như Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt - Trung, Liên hoan nhân dân biên giới Việt - Trung, Diễn đàn nhân dân Việt - Trung.

6. Hai bên sẽ thực hiện nghiêm túc nhận thức chung quan trọng liên quan đạt được giữa lãnh đạo hai Đảng, hai nước và "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc", kiểm soát thỏa đáng bất đồng trên biển, tăng cường hợp tác trên biển, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

Hai bên nhất trí tiếp tục thúc đẩy thực hiện toàn diện, hiệu quả "Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), trên cơ sở hiệp thương nhất trí, sớm đạt được "Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông" (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.

7. Phía Việt Nam nhất quán kiên định chính sách "một Trung Quốc", tái khẳng định Đài Loan là bộ phận không thể tách rời của Trung Quốc, kiên quyết phản đối các hoạt động chia rẽ đòi "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức ; không phát triển bất cứ quan hệ cấp Nhà nước nào với Đài Loan.

8. Hai bên chủ trương các nước trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau triển khai giao lưu, hợp tác về vấn đề nhân quyền, thúc đẩy tăng cường đối thoại và hợp tác quốc tế trong vấn đề nhân quyền, kiên quyết phản đối chính trị hóa vấn đề nhân quyền.

9. Hai bên đồng ý kiên trì chủ nghĩa đa phương chân chính, cùng bảo vệ công bằng chính nghĩa quốc tế, tăng cường phối hợp trong các vấn đề lớn và quan trọng của quốc tế, khu vực ; tiếp tục tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong các khuôn khổ quốc tế và khu vực như Liên Hợp Quốc, Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), ASEAN - Trung Quốc, Mekong - Lan Thương. 

Thực hiện tốt Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Việt Nam ủng hộ Trung Quốc gia nhập Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trên cơ sở phù hợp với các tiêu chuẩn và trình tự của Hiệp định.

10. Trong thời gian chuyến thăm, hai Thủ tướng đã chứng kiến việc ký kết các văn kiện hợp tác trong lĩnh vực giám sát thị trường, cửa khẩu thông minh, lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển…

Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thành công tốt đẹp, làm sâu sắc quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cảm ơn sự đón tiếp hữu nghị, nhiệt tình của phía Trung Quốc, trân trọng mời Thủ tướng Lý Cường thăm Việt Nam. Thủ tướng Lý Cường vui vẻ nhận lời.

Bắc Kinh, ngày 29 tháng 6 năm 2023

Nguồn : xaydungchinhsach.chinhphu.vn, 30/06/2023

 ********************************

19. Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc

Nhân Dân online, 13/12/2023

Lời giới thiệu : Tuyên bố chung nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược

tcbnpt1

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. (Ảnh : Đăng Khoa)

1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Võ Văn Thưởng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình đã thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 12 đến ngày 13/12/2023.

Trong thời gian chuyến thăm, Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có các cuộc hội đàm với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, các cuộc hội kiến với Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ.

Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốclà láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, chế độ chính trị tương đồng, lý tưởng niềm tin tương thông, con đường phát triển gần gũi, cùng chung chí hướng, chia sẻ tương lai chung, đều nỗ lực vì nhân dân hạnh phúc và đất nước giàu mạnh, nỗ lực vì sự nghiệp cao cả hòa bình và tiến bộ của nhân loại.

Nhằm kế thừa và phát huy truyền thống hữu nghị "mối tình thắm thiết Việt-Hoa, vừa là đồng chí, vừa là anh em", tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, hai bên nhất trí xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại.

Phía Việt Nam ủng hộ việc xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai nhân loại, Sáng kiến Phát triển toàn cầu, Sáng kiến An ninh toàn cầu và Sáng kiến Văn minh toàn cầu. Các sáng kiến nêu trên có mục tiêu đề ra là nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn nhân loại, vì sự nghiệp hòa bình, chính nghĩa và tiến bộ của nhân dân thế giới, đáp ứng mong muốn xây dựng thế giới tốt đẹp của nhân dân các nước.

Hai bên nhất trí cho rằng, phát triển quan hệ giữa các nước cần tuân theo Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và chuẩn mực cơ bản của quan hệ quốc tế, kiên trì tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi, hợp tác cùng thắng, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, kiên trì giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình.

Theo các định hướng trên, hai bên đồng ý thúc đẩy quan hệ Việt Nam-Trung Quốc bước vào giai đoạn mới với tin cậy chính trị cao hơn, hợp tác quốc phòng-an ninh thực chất hơn, hợp tác thực chất sâu sắc hơn, nền tảng xã hội vững chắc hơn, phối hợp đa phương chặt chẽ hơn, bất đồng được kiểm soát và giải quyết tốt hơn, chung tay thúc đẩy sự nghiệp xã hội chủ nghĩa thế giới phát triển, đóng góp tích cực cho sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại.

2. Trong bầu không khí hữu nghị, thẳng thắn, hai bên thông báo cho nhau tình hình của mỗi Đảng, mỗi nước, cũng như lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ; vui mừng trước những thành tựu to lớn, mang tính lịch sử mà mỗi Đảng, mỗi nước đã đạt được trong sự nghiệp phát triển đất nước, thực hiện hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình đất nước mình ; cho rằng điều này thể hiện đầy đủ sức sống và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Trung Quốc.

Phía Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng và đánh giá cao những thành tựu to lớn mà Đảng, Chính phủ và Nhân dân Trung Quốc đạt được trong 10 năm thời đại mới và những thành quả quan trọng đã đạt được trong việc quán triệt thực hiện tinh thần Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc. Phía Việt Nam chúc và tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo kiên cường của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc với đồng chí Tập Cận Bình là hạt nhân, dưới sự định hướng của tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới, Đảng, Chính phủ và Nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ tiếp tục làm phong phú và mở mang con đường hiện đại hóa kiểu Trung Quốc, không ngừng hoàn thiện nền dân chủ nhân dân toàn quá trình, thúc đẩy mạnh mẽ công trình vĩ đại mới về xây dựng Đảng, hoàn thành đúng thời hạn các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra, thực hiện thắng lợi mục tiêu phấn đấu 100 năm thứ hai, xây dựng Trung Quốc thành cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa và tươi đẹp.

Phía Trung Quốc ủng hộ và đánh giá cao những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong gần 40 năm đổi mới, 10 năm thực hiện "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung sửa đổi năm 2011)", đặc biệt là những thành quả quan trọng, toàn diện kể từ sau Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, thúc đẩy sức mạnh tổng hợp và ảnh hưởng quốc tế của Việt Nam đạt tới tầm cao chưa từng có.

Phía Trung Quốc chúc và tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ lớn mà Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, xây dựng Việt Nam thành nước phát triển có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045. Phía Trung Quốc khẳng định ủng hộ Việt Nam phát triển phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, xây dựng nền kinh tế lớn mạnh, độc lập, tự chủ, thúc đẩy đồng bộ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế toàn diện, phát triển quan hệ đối ngoại rộng mở, hữu nghị, phát huy vai trò ngày càng quan trọng hơn cho hòa bình, ổn định, phát triển và phồn vinh của khu vực và thế giới.

3. Hai bên đã nhìn lại quá trình phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước Việt Nam-Trung Quốc ; trân trọng sự giúp đỡ quý báu và vô tư mà hai Đảng, hai nước và Nhân dân hai nước dành cho nhau trong các thời kỳ ; nhất trí cho rằng tình hữu nghị truyền thống "vừa là đồng chí, vừa là anh em" do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các nhà lãnh đạo tiền bối đích thân gây dựng và dày công vun đắp là tài sản quý báu của nhân dân hai nước, cần phải kế thừa tốt, bảo vệ tốt, phát huy tốt. Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam luôn đánh giá cao và trân trọng sự ủng hộ mạnh mẽ và giúp đỡ to lớn của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Trung Quốc trong sự nghiệp giành độc lập dân tộc và giải phóng đất nước, cũng như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển đất nước.

Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã xác lập phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt". 15 năm kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện vào năm 2008 đến nay, hợp tác trên các lĩnh vực đã đạt được tiến triển tích cực, toàn diện. Bước vào thời đại mới, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu, đặc biệt là Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sau khi bế mạc Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc đã mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiến hành chuyến thăm mang tính lịch sử tới Trung Quốc, thúc đẩy quan hệ Việt Nam-Trung Quốc lên tầm cao mới.

Hướng tới tương lai, phía Trung Quốc nhấn mạnh kiên trì chính sách hữu nghị với Việt Nam, coi Việt Nam là hướng ưu tiên trong ngoại giao láng giềng. Phía Việt Nam khẳng định luôn coi quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam. Đây là lựa chọn chiến lược của hai bên.

Hai bên nhấn mạnh, kiên định ủng hộ hai Đảng, hai nước và Nhân dân hai nước kiên trì tự chủ chiến lược, tự chủ lựa chọn con đường phát triển phù hợp với tình hình đất nước mình ; kiên trì xử lý thỏa đáng và tích cực giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau, phù hợp với luật pháp quốc tế, duy trì đà phát triển tốt đẹp của quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, đóng góp tích cực hơn nữa cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.

Trên cơ sở những nhận thức chung nêu trên, trong bối cảnh tình hình thế giới trải qua những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường và chưa từng có tiền lệ, hai bên đồng ý kiên trì định hướng chính trị của Lãnh đạo cao nhất hai Đảng, hai nước, nhìn nhận và phát triển quan hệ Việt Nam-Trung Quốc từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn lâu dài, tuân theo phương châm "16 chữ" và tinh thần "4 tốt", lấy dịp 15 năm thiết lập quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện làm thời cơ, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại.

4. Để tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, thúc đẩy vững chắc việc xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc, hai bên nhất trí phát huy tốt vai trò điều phối tổng thể của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, tích cực thúc đẩy hợp tác trong thời gian tới, tập trung vào 6 phương hướng hợp tác lớn dưới đây, xác định mục tiêu, hoàn thiện cơ chế, đưa ra biện pháp, đôn đốc thực hiện :

4.1. Tin cậy chính trị cao hơn

Để tập trung nắm bắt phương hướng phát triển của quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, hai bên nhất trí tăng cường trao đổi chiến lược, kiên trì đối xử bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, củng cố hơn nữa tin cậy chính trị.

(1) Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường hơn nữa giao lưu mật thiết giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước thông qua các hình thức như thăm song phương, cử đặc phái viên, đường dây nóng, trao đổi thư điện, gặp gỡ thường niên và tiếp xúc tại các diễn đàn đa phương, kịp thời trao đổi chiến lược về các vấn đề quan trọng trong quan hệ song phương và tình hình khu vực, quốc tế mà hai bên cùng quan tâm, định hướng và chỉ đạo chiến lược đối với sự phát triển ổn định, lành mạnh của quan hệ hai Đảng, hai nước trong thời kỳ mới.

(2) Hai bên nhất trí phát huy đầy đủ vai trò đặc biệt của kênh Đảng, tăng cường hơn nữa sự chỉ đạo, điều phối của cơ chế Gặp gỡ cấp cao hai Đảng và vai trò thúc đẩy, điều phối của các cơ quan đối ngoại của hai Đảng ; nâng cao hiệu quả giao lưu, hợp tác giữa các cơ quan tương ứng của hai Đảng ở Trung ương, các tổ chức đảng địa phương hai nước, đặc biệt là các tỉnh (khu) giáp biên ; thông qua cơ chế Hội thảo lý luận giữa hai Đảng, kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ, trao đổi đoàn kênh Đảng, tăng cường giao lưu, tham khảo lẫn nhau về xây dựng Đảng và quản lý đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong các lĩnh vực như tổ chức, tuyên giáo/tuyên truyền, kiểm tra kỷ luật, phòng chống tham nhũng, cải cách tư pháp, dân vận/mặt trận thống nhất, kinh tế-xã hội. Tăng cường hơn nữa giao lưu, hợp tác hữu nghị giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc, Quốc hội Việt Nam và Nhân đại toàn quốc Trung Quốc, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc.

(3) Hai bên nhất trí triển khai tốt Thỏa thuận về làm sâu sắc hơn nữa hợp tác trong thời kỳ mới giữa Bộ Ngoại giao hai nước ; duy trì tiếp xúc thường xuyên giữa lãnh đạo hai Bộ Ngoại giao ; tiếp tục tổ chức tốt tham vấn ngoại giao thường niên, tăng cường giao lưu cấp Vụ (Cục) tương ứng, thực hiện tốt kế hoạch đào tạo cán bộ, ủng hộ và tạo thuận lợi cho việc cải thiện điều kiện trụ sở và nhà ở của cơ quan đại diện ngoại giao hai nước.

(4) Phía Việt Nam tái khẳng định kiên định thực hiện chính sách "một Trung Quốc", công nhận Đài Loan là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ "Đài Loan độc lập" dưới mọi hình thức, ủng hộ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, không phát triển bất cứ quan hệ cấp Nhà nước nào với Đài Loan. Phía Việt Nam cho rằng các vấn đề Hồng Công, Tân Cương, Tây Tạng là công việc nội bộ của Trung Quốc, tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ Trung Quốc, các khu vực trên sẽ duy trì ổn định và phát triển thịnh vượng. Phía Trung Quốc bày tỏ đánh giá cao điều này. Phía Trung Quốc ủng hộ các nỗ lực của phía Việt Nam trong việc duy trì ổn định xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia và thúc đẩy đoàn kết dân tộc.

4.2. Hợp tác quốc phòng-an ninh thực chất hơn

Hợp tác quốc phòng-an ninh là một trong những trụ cột của quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, có vai trò quan trọng trong việc củng cố tin cậy chiến lược giữa hai Đảng, hai nước. Để bảo vệ an ninh của nước mình, góp phần duy trì hòa bình, an ninh, ổn định của khu vực và thế giới, hai bên nhất trí tăng cường các cơ chế hợp tác về quốc phòng, công an, an ninh, tòa án tối cao, viện kiểm sát tối cao, nghiên cứu xây dựng cơ chế giao lưu giữa các cơ quan tư pháp tương ứng của hai nước, thúc đẩy các hợp tác trọng điểm sau :

(1) Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa giao lưu cấp cao giữa quân đội hai nước ; phát huy tốt vai trò của các kênh như Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, Đối thoại chiến lược quốc phòng và Đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng ; triển khai hiệu quả "Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng đến năm 2025" giữa Bộ Quốc phòng hai nước. Tăng cường giao lưu, hợp tác giữa quân đội hai nước trong các lĩnh vực như công tác chính trị, đào tạo cán bộ, nghiên cứu chung ; tăng cường hơn nữa hợp tác về công nghiệp quốc phòng, diễn tập và huấn luyện chung, y tế hậu cần, gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc và lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Tiếp tục đi sâu hợp tác biên phòng, thúc đẩy triển khai tuần tra chung biên giới trên đất liền, khuyến khích các đồn trạm biên phòng của hai nước thiết lập quan hệ hữu nghị, tăng cường phối hợp về quản lý và bảo vệ biên giới. Tiếp tục triển khai tốt tuần tra chung trên Vịnh Bắc Bộ và hoạt động tàu quân sự thăm nhau ; làm sâu sắc cơ chế giao lưu, hợp tác giữa hải quân và cảnh sát biển hai nước.

(2) Hai bên nhất trí tăng cường trao đổi cấp cao giữa các cơ quan thực thi pháp luật hai nước ; phát huy tốt vai trò của các cơ chế Hội nghị cấp Bộ trưởng về phòng chống tội phạm, Đối thoại an ninh chiến lược ; thiết lập cơ chế Đối thoại cấp Thứ trưởng về An ninh chính trị và Đường dây nóng giữa Bộ Công an hai nước. Tăng cường hợp tác giữa Bộ Công an của Việt Nam và cơ quan an ninh, thực thi pháp luật của Trung Quốc trong các lĩnh vực an ninh, tình báo, đặc biệt là đi sâu hợp tác về bảo vệ an ninh chính quyền và an ninh chế độ ; tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực an ninh truyền thống và phi truyền thống như phòng chống khủng bố, phòng chống tội phạm lừa đảo qua mạng, an ninh mạng, quản lý xuất nhập cảnh, di dân, vượt biên trái phép, truy bắt tội phạm bỏ trốn ra nước ngoài.

Đi sâu hợp tác, trao đổi kinh nghiệm trong các lĩnh vực an ninh kinh tế, an ninh lương thực, năng lượng, nguồn nước, cải cách mở cửa. Tăng cường giao lưu tình báo giữa hai bên và phối hợp chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác trong các vấn đề chống can thiệp, chống ly khai, phòng chống "diễn biến hòa bình", "cách mạng màu" của các thế lực thù địch, phản động. Tăng cường hợp tác trong việc phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật về tôn giáo, quản lý các tổ chức phi chính phủ nước ngoài ; thúc đẩy hợp tác đào tạo cán bộ. Tăng cường hợp tác bảo vệ an toàn của các cơ quan, doanh nghiệp và công dân của nước này ở nước kia.

(3) Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc trên các lĩnh vực ; tích cực thực hiện nghĩa vụ của các điều ước quốc tế mà hai bên là thành viên. Triển khai có hiệu quả "Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự", "Hiệp định dẫn độ giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" ; thúc đẩy "Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về chuyển giao người bị kết án tù" đi vào thực hiện có hiệu quả ; thúc đẩy Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Tư pháp hai nước đạt kết quả thực chất, cùng nhau hoàn thiện cơ chế tương trợ về tư pháp giữa hai bên ; nghiên cứu việc thiết lập các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự và thương mại biên giới ; thúc đẩy hợp tác pháp luật và tư pháp địa phương có chung đường biên giới với các hình thức phù hợp.

4.3. Hợp tác thực chất sâu sắc hơn

Nhằm kiên trì hợp tác cùng thắng, phục vụ sự phát triển của hai nước, thúc đẩy kinh tế khu vực và thế giới phục hồi, tăng trưởng bền vững, hai bên sẽ tăng cường các cơ chế hợp tác tương ứng trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đầu tư ngành nghề, thương mại, nông nghiệp, tài chính tiền tệ ; nghiên cứu xây dựng cơ chế hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước, cơ quan giao thông vận tải, thúc đẩy các hợp tác trọng điểm sau :

(1) Cùng xây dựng "Hai hành lang, một vành đai" và "Vành đai và Con đường"

Hai bên nhất trí thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước, thực hiện tốt "Kế hoạch hợp tác kết nối giữa khuôn khổ Hai hành lang, một vành đai với Sáng kiến Vành đai và Con đường giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa". Thúc đẩy kết nối đường sắt khổ tiêu chuẩn qua biên giới Việt Nam- Trung Quốc, nghiên cứu thúc đẩy xây dựng đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng, nghiên cứu về các tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Đồng Đăng-Hà Nội, Móng Cái-Hạ Long-Hải Phòng vào thời điểm phù hợp. Đẩy nhanh việc thúc đẩy kết nối xây dựng cơ sở hạ tầng biên giới, trong đó có xây dựng Cầu đường bộ qua sông Hồng thuộc khu vực biên giới Bát Xát (Việt Nam)-Bá Sái (Trung Quốc). Khuyến khích doanh nghiệp hai nước triển khai hợp tác trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng đường bộ, cầu, đường sắt, điện sạch, viễn thông, logistics ; tiếp tục phối hợp mật thiết, thúc đẩy và tạo thuận lợi cho hợp tác vận tải đường bộ, hàng không, đường sắt, tăng cường hợp tác logistics.

(2) Đầu tư

Hai bên nhất trí triển khai tốt khu hợp tác kinh tế-thương mại, trọng điểm tăng cường hợp tác đầu tư trong các lĩnh vực như nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, năng lượng, kinh tế số, phát triển xanh. Khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp có thực lực, uy tín, công nghệ tiên tiến sang đầu tư tại nước kia trong lĩnh vực phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của mỗi nước, tạo môi trường kinh doanh công bằng, thuận lợi cho các doanh nghiệp này. Đẩy nhanh triển khai các dự án sử dụng viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Trung Quốc cho Việt Nam, trong đó có Dự án Xây dựng mới cơ sở 2 Bệnh viện Y dược cổ truyền.

Hai bên nhất trí đi sâu trao đổi kinh nghiệm cải cách doanh nghiệp nhà nước và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, hợp tác đào tạo nhân lực giữa hai nước, nhất là nhân lực quản lý cấp cao của các doanh nghiệp nhà nước ; khuyến khích cơ quan quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp của hai nước triển khai trao đổi, kết nối, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác cùng có lợi. Tích cực tìm kiếm khả năng tăng cường hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực khoáng sản then chốt trên nguyên tắc thị trường và tinh thần thực chất, bền vững, bảo đảm an ninh chuỗi sản xuất và cung ứng năng lượng.

(3) Thương mại

Hai bên nhất trí áp dụng các biện pháp thiết thực nhằm mở rộng quy mô thương mại song phương theo hướng cân bằng, bền vững. Phát huy tốt vai trò của Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Khu thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc ; tăng cường hợp tác trên các nền tảng như Hội chợ Nhập khẩu quốc tế Trung Quốc (CIIE), Hội chợ triển lãm ASEAN-Trung Quốc (CAEXPO), Hội chợ hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc (Canton Fair) ; mở rộng xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh của nước này sang nước kia. Hai bên nhất trí, tăng cường hợp tác trên lĩnh vực tiêu chuẩn hóa, bảo đảm hài hòa về tiêu chuẩn đối với hàng hóa và sản phẩm của Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác thương mại song phương.

Phía Trung Quốc sẽ tích cực thúc đẩy tiến trình mở cửa thị trường đối với nông sản của Việt Nam như dừa tươi, sản phẩm trái cây đông lạnh, hoa quả có múi, bơ, na, roi, dược liệu đông y có nguồn gốc thực vật, thịt trâu, thịt bò, thịt lợn, sản phẩm từ thịt gia súc, gia cầm. Phía Việt Nam sẽ tích cực thúc đẩy nhập khẩu các loại cá tầm của Trung Quốc, tăng cường giao lưu, trao đổi giữa các tổ chức ngành nghề của hai bên, thúc đẩy các ngành nghề liên quan của hai nước phát triển lành mạnh.

Hai bên nhất trí áp dụng các biện pháp hiệu quả bảo đảm thông suốt chuỗi cung ứng hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng giữa hai nước và trong khu vực. Nâng cao hiệu suất thông quan, thúc đẩy xây dựng thí điểm cửa khẩu thông minh tại đường chuyên dụng vận chuyển hàng hóa qua khu vực mốc 1088/2-1089 và đường chuyên dụng vận chuyển hàng hóa tại cửa khẩu Tân Thanh-Pò Chài (khu vực mốc 1090-1091) thuộc cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Việt Nam) - Hữu Nghị Quan (Trung Quốc) ; phân luồng hợp lý hàng hóa xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu biên giới, bảo đảm các cửa khẩu biên giới trọng điểm vận hành thông suốt.

Hai bên nhất trí sẽ tích cực phát huy vai trò của Nhóm công tác thuận lợi hóa thương mại Việt Nam-Trung Quốc, tiếp tục khai thác tiềm năng thương mại song phương ; thúc đẩy thực hiện "Bản ghi nhớ giữa Bộ Công thương Việt Nam và Bộ Thương mại Trung Quốc về tăng cường bảo đảm chuỗi cung ứng hàng hóa Việt Nam-Trung Quốc", duy trì an toàn, ổn định chuỗi sản xuất và cung ứng giữa hai nước. Hai bên nhất trí, phát huy vai trò của Nhóm công tác hợp tác về thương mại điện tử, thúc đẩy doanh nghiệp hai nước triển khai hợp tác thương mại điện tử.

Hai bên nhất trí phát huy tốt vai trò của các cơ chế Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền, Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới Việt Nam-Trung Quốc, tiếp tục thực hiện tốt 3 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc và các thỏa thuận liên quan ; tăng cường quản lý an ninh trật tự khu vực biên giới ; tích cực thúc đẩy mở mới, nâng cấp cửa khẩu biên giới. Tiếp tục triển khai hiệu quả "Hiệp định về tàu thuyền đi lại tại khu vực tàu thuyền đi lại tự do ở cửa sông Bắc Luân". Nghiên cứu triển khai hợp tác cấp "Chứng nhận Doanh nghiệp ưu tiên" (AEO) của nhau, tăng cường giao lưu, hợp tác "một cửa", tiếp tục làm sâu sắc hợp tác về thực thi pháp luật chống buôn lậu, thúc đẩy Hành động phối hợp thực thi pháp luật quốc tế "Con rồng Mê Công" đạt được nhiều thành quả hơn nữa.

Phía Trung Quốc ủng hộ việc mở Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Trùng Khánh, các Văn phòng xúc tiến thương mại Việt Nam tại Trùng Khánh và Hàng Châu (Trung Quốc) phát huy vai trò tích cực trong hợp tác kinh tế-thương mại giữa hai nước ; sẵn sàng tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho phía Việt Nam sớm mở thêm các văn phòng xúc tiến thương mại tại các địa phương liên quan của Trung Quốc.

Hai bên ủng hộ chính quyền các địa phương hai nước thiết lập cơ chế phối hợp công tác, nhất là các địa phương có quy mô kinh tế và dân số tương đối lớn trong nội địa, cùng nhau tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của mỗi bên, tạo động lực tăng trưởng mới cho hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước. Tiếp tục ủng hộ các doanh nghiệp đường sắt hai nước tăng cường hợp tác nâng hiệu suất hàng hóa Việt Nam quá cảnh Trung Quốc.

(4) Tài chính, tiền tệ

Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường giao lưu, hợp tác giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và giữa các cơ quan giám sát, quản lý tài chính của hai nước. Phát huy vai trò của Nhóm công tác hợp tác về tài chính - tiền tệ, nhằm thúc đẩy hợp tác tiền tệ giữa hai nước. Ủng hộ hai bên đi sâu hợp tác tại Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á, cung cấp hỗ trợ về vốn cho các dự án liên quan theo chiến lược, chính sách và quy trình của Ngân hàng.

(5) An ninh lương thực và phát triển xanh

Hai bên nhất trí tích cực thúc đẩy hợp tác về kỹ thuật nông nghiệp và trao đổi chính sách nông nghiệp, nghiên cứu triển khai hợp tác trong các lĩnh vực như nông nghiệp các-bon thấp, nông nghiệp số, nông nghiệp xanh, bảo vệ đất và nguồn nước, thúc đẩy các sản phẩm xanh, phát thải các-bon thấp, phát triển bền vững ; tăng cường trao đổi, điều phối chính sách về bảo đảm an ninh lương thực.

Hai bên nhất trí tích cực tham gia và xây dựng quan hệ đối tác hợp tác năng lượng sạch toàn cầu. Làm sâu sắc hợp tác trong các lĩnh vực như bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó biến đổi khí hậu, ô-tô năng lượng mới, bao gồm quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên Châu Á, bảo tồn các loài hoang dã di cư, kiểm soát loài ngoại lai xâm hại giữa khu vực biên giới. Phía Trung Quốc hoan nghênh Việt Nam tham gia vào các hoạt động liên quan của Liên minh quốc tế phát triển xanh "Vành đai và Con đường".

Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực trồng trọt, chế biến nông sản ; triển khai hợp tác nghiên cứu quản lý tổng hợp môi trường biển và hải đảo, triển khai hợp tác thả cá giống và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong Vịnh Bắc Bộ. Sớm ký kết Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ ; thực hiện tốt Thỏa thuận thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển Việt Nam-Trung Quốc.

Hai bên nhất trí trao đổi số liệu thủy văn mùa lũ, triển khai hợp tác trong các lĩnh vực như quản lý tổng hợp tài nguyên nước, ngăn ngừa thiên tai lũ lụt, hạn hán, nước uống an toàn khu vực nông thôn, tưới tiêu tiết kiệm, khoa học kỹ thuật thủy lợi. Tổ chức đối thoại chính sách cấp cao về sử dụng bền vững tài nguyên nước xuyên biên giới ; tăng cường phối hợp về phòng, chống hạn hán, ngập lụt và bảo đảm an toàn đập thủy điện. Tăng cường trao đổi thông tin dự báo khí tượng, thời tiết, thời tiết nguy hiểm và hợp tác phát triển dịch vụ khí tượng khu vực Châu Á.

4.4. Nền tảng xã hội vững chắc hơn

Nhằm tăng cường hiểu biết và tình hữu nghị, thúc đẩy giao lưu và hiểu biết, gắn bó lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, củng cố nền tảng xã hội của quan hệ hai Đảng, hai nước, hai bên sẽ tăng cường các cơ chế giao lưu giữa cơ quan tuyên giáo/tuyên truyền của hai Đảng, truyền thông chủ lực và các nhà xuất bản, giữa các cơ quan văn hóa, du lịch, thanh niên và địa phương ; nghiên cứu xây dựng cơ chế hợp tác giữa các cơ quan giáo dục, y tế, y học cổ truyền, hàng không dân dụng, thúc đẩy các hợp tác trọng điểm sau :

(1) Tuyên truyền

Cơ quan tuyên giáo/tuyên truyền của hai Đảng đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về tình hữu nghị truyền thống giữa hai Đảng, hai nước và hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc. Khuyến khích hai nước triển khai hợp tác truyền thông, xuất bản báo chí, phát thanh, điện ảnh, truyền hình, tăng cường sự hiểu biết và tình cảm hữu nghị lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, nhất là thế hệ trẻ.

(2) Văn hóa và du lịch

Phía Việt Nam ủng hộ Trung Quốc xây dựng Trung tâm Văn hóa tại Việt Nam ; phía Trung Quốc hoan nghênh Việt Nam thiết lập Trung tâm Văn hóa tại Trung Quốc, vận hành tốt Cung Hữu nghị Việt-Trung. Phía Việt Nam tích cực ủng hộ Trung tâm Văn hóa Trung Quốc tại Hà Nội triển khai hoạt động. Hai bên ủng hộ các tổ chức văn hóa, đoàn nghệ thuật, trường đào tạo văn hóa-nghệ thuật của hai nước triển khai giao lưu, hợp tác. Tăng cường phối hợp, trao đổi chính sách du lịch giữa hai nước, phối hợp khai thác các tuyến du lịch, xây dựng các sản phẩm du lịch.

Thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác Văn hóa và Du lịch Việt Nam-Trung Quốc giai đoạn 2023-2027, tăng cường giao lưu trao đổi đoàn các cấp về văn hóa và du lịch, thúc đẩy ngành du lịch nhanh chóng phục hồi và phát triển lành mạnh. Vận hành tốt thí điểm Khu cảnh quan thác Bản Giốc (Việt Nam)-Đức Thiên (Trung Quốc) an toàn, hiệu quả, tạo nền tảng để vận hành chính thức, khuyến khích các du khách hai bên tham quan Khu cảnh quan. Ủng hộ doanh nghiệp vận tải hàng không của hai bên tăng thêm chuyến bay giữa Việt Nam và Trung Quốc căn cứ theo nhu cầu thị trường.

(3) Giáo dục, thể thao, nguồn nhân lực và khoa học công nghệ

Hai bên nhất trí thực hiện tốt Hiệp định hợp tác giáo dục Việt Nam-Trung Quốc ; khuyến khích tăng cường trao đổi lưu học sinh, cán bộ quản lý giáo dục, cán bộ giảng dạy hai nước ; tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên Việt Nam thông qua các chương trình học bổng du học tại Trung Quốc ; thúc đẩy giao lưu, hợp tác giữa các cơ sở giáo dục hai nước ; tích cực phát huy vai trò của Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội, làm sâu sắc hợp tác giáo dục dạy nghề, giáo dục số và thể thao. Tăng cường giao lưu giữa các trường đại học, cơ quan nghiên cứu của hai nước.

Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực lao động trên cơ sở triển khai hiệu quả các thỏa thuận về quản lý lao động qua biên giới của các tỉnh/khu biên giới hai nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của lao động vùng biên giới hai nước. Thúc đẩy các chương trình giao lưu, hợp tác phát triển nguồn nhân lực và kỹ năng, an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của hai nước.

Hai bên nhất trí tiếp tục phát huy tốt vai trò của Ủy ban hỗn hợp hợp tác về khoa học công nghệ Việt Nam-Trung Quốc ; tích cực tăng cường hợp tác kết nối trong các lĩnh vực về quy định quản lý pháp quy an toàn hạt nhân, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng ; tăng cường giao lưu trao đổi đoàn các cấp nhằm làm sâu sắc hợp tác trong các lĩnh vực trên.

(4) Y tế sức khỏe và phòng, chống thiên tai

Hai bên nhất trí tiếp tục triển khai hợp tác, giao lưu trong các lĩnh vực y tế, sức khỏe, bao gồm bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm, y học cổ truyền, phòng chống thiên tai. Ủng hộ địa phương hai nước triển khai hợp tác về cùng chia sẻ thông tin và liên hợp phòng, chống dịch bệnh qua biên giới.

(5) Giao lưu địa phương, nhân dân và thanh niên

Hai bên nhất trí ủng hộ các địa phương hai nước, đặc biệt là các tỉnh/khu biên giới triển khai giao lưu, hợp tác. Nâng cao hiệu quả của các cơ chế giao lưu định kỳ giữa các tổ chức đoàn thể Việt Nam-Trung Quốc như công đoàn, phụ nữ, thanh niên ; tổ chức tốt các hoạt động như Gặp gỡ Hữu nghị thanh niên Việt Nam-Trung Quốc, Diễn đàn nhân dân Việt Nam-Trung Quốc, Liên hoan Nhân dân biên giới ; tăng cường giao lưu giữa lãnh đạo trẻ, doanh nghiệp trẻ, tình nguyện viên trẻ hai nước.

4.5. Phối hợp đa phương chặt chẽ hơn

Để bảo vệ công bằng, chính nghĩa và lợi ích chung quốc tế, thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển phồn vinh của khu vực, kiến tạo môi trường bên ngoài có lợi cho sự phát triển của mỗi nước và quan hệ Việt-Trung, hai bên nhất trí kiên trì phát huy chủ nghĩa đa phương, tăng cường phối hợp và hợp tác đa phương, cùng nhau bảo vệ hệ thống quốc tế lấy Liên hợp quốc làm hạt nhân và trật tự quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế.

(1) Hai bên nhất trí tăng cường cơ chế tham vấn về nhân quyền, chính sách giữa hai Bộ Ngoại giao và giao lưu không định kỳ giữa Cơ quan đại diện thường trú tại hai nước, cũng như Phái đoàn/Văn phòng đại diện của hai nước thường trú tại nước thứ ba hoặc tổ chức quốc tế.

(2) Phía Việt Nam hoan nghênh quan điểm xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai nhân loại mà phía Trung Quốc đưa ra nhằm thúc đẩy những giá trị chung về hòa bình, phát triển, công bằng, chính nghĩa, dân chủ, tự do ; ủng hộ và sẵn sàng chủ động tham gia các dự án hợp tác cụ thể trong khuôn khổ Sáng kiến Phát triển toàn cầu phù hợp với khả năng, điều kiện, nhu cầu của Việt Nam ; cùng thực hiện tốt Chương trình phát triển bền vững đến năm 2030 ; trao đổi, điều phối chính sách, ủng hộ lẫn nhau và triển khai hợp tác thực chất trong khuôn khổ Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.

(3) Hai bên khẳng định tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, nỗ lực vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Phía Việt Nam hoan nghênh và ủng hộ Sáng kiến An ninh toàn cầu, hai bên sẽ nghiên cứu triển khai hợp tác phù hợp trong khuôn khổ Sáng kiến An ninh toàn cầu. Tiếp tục duy trì trao đổi, phối hợp mật thiết trên các vấn đề an ninh khu vực và toàn cầu.

(4) Hai bên cho rằng, các nước có tiền đồ vận mệnh liên quan chặt chẽ với nhau, các nền văn minh khác nhau chung sống bao dung, giao lưu học hỏi lẫn nhau. Phía Việt Nam ủng hộ Sáng kiến Văn minh toàn cầu, vì hòa bình, phát triển, công bằng, chính nghĩa và tiến bộ của nhân loại, sẵn sàng nghiên cứu triển khai hợp tác trong khuôn khổ Sáng kiến này.

(5) Hai bên chủ trương các nước triển khai giao lưu và hợp tác trong vấn đề nhân quyền trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, thúc đẩy việc tăng cường đối thoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền, không chính trị hóa vấn đề nhân quyền, không dùng vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.

(6) Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong các tổ chức và cơ chế quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị Á-Âu (ASEM), ủng hộ nhau ứng cử các vị trí tại các tổ chức quốc tế.

(7) Hai bên ủng hộ ASEAN duy trì vai trò trung tâm trong cấu trúc khu vực Châu Á-Thái Bình Dương đang không ngừng diễn biến, thay đổi. Trung Quốc ủng hộ ASEAN xây dựng Cộng đồng ASEAN đoàn kết, thống nhất, tự cường và phát triển. Đẩy nhanh xây dựng Khu thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN phiên bản 3.0, làm sâu sắc quan hệ đối tác chiến lược toàn diện ASEAN-Trung Quốc.

(8) Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác Mê Công-Lan Thương, nỗ lực thúc đẩy xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai vì hòa bình và thịnh vượng giữa các quốc gia Mê Công-Lan Thương. Tăng cường hợp tác trong khuôn khổ Hợp tác kinh tế khu vực tiểu vùng sông Mê Công (GMS).

(9) Hai bên nhất trí, nỗ lực bảo vệ các nguyên tắc cơ bản và giá trị cốt lõi của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thúc đẩy cải cách cần thiết trong WTO, đặc biệt là khôi phục hoạt động bình thường cơ chế giải quyết tranh chấp xét xử hai cấp và có sức ràng buộc. Tăng cường hợp tác trong khuôn khổ WTO, hai bên cùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên đang phát triển, thúc đẩy WTO phát huy vai trò hiệu quả hơn.

(10) Phía Việt Nam ủng hộ Trung Quốc gia nhập Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trên cơ sở phù hợp với các tiêu chuẩn và trình tự của Hiệp định. Hai bên sẵn sàng cùng thực hiện tốt Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực.

4.6. Bất đồng được kiểm soát và giải quyết tốt hơn

Hai bên đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn mạnh cần kiểm soát tốt hơn và tích cực giải quyết bất đồng trên biển, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực.

(1) Hai bên nhất trí tiếp tục tuân thủ nhận thức chung quan trọng giữa Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, tăng cường cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc và các nhóm công tác trực thuộc ; tích cực tìm kiếm các biện pháp giải quyết cơ bản, lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được, phù hợp với "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc", luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).

(2) Hai bên nhất trí tích cực thúc đẩy bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển và bàn bạc về phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy hai việc trên sớm đạt tiến triển thực chất. Hai bên sẽ tiếp tục tích cực triển khai hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Tăng cường hợp tác thực thi pháp luật nghề cá và hợp tác nuôi trồng, bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật trên Biển Đông. Tăng cường hợp tác tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển.

(3) Hai bên nhất trí tiếp tục thực hiện toàn diện, hiệu quả "Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), trên cơ sở hiệp thương, nhất trí, sớm đạt được "Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông" (COC) thực chất, hiệu lực, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982. Thực hiện cơ chế Cuộc họp quan chức cao cấp (SOM) và Cuộc họp nhóm công tác chung ASEAN-Trung Quốc về triển khai "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC) ; kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp tình hình và mở rộng tranh chấp, cùng duy trì ổn định trên biển.

(4) Hai bên nhất trí trong năm 2024 cùng nhau kỷ niệm 25 năm phân định biên giới trên đất liền và 15 năm ký kết 3 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc.

5. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thành công tốt đẹp, là dấu mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ hai Đảng, hai nước, góp phần quan trọng vào phát huy tình hữu nghị truyền thống Việt Nam-Trung Quốc, nâng tầm quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong thời kỳ mới, thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.

Lãnh đạo cao nhất hai Đảng, hai nước nhất trí chỉ đạo các ban, bộ ngành hữu quan và địa phương hai nước Việt Nam-Trung Quốc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế giao lưu tương ứng, xác định rõ đơn vị có trách nhiệm và phương hướng thực hiện, căn cứ theo phân công nhiệm vụ và tình hình thực tế, xây dựng phương án triển khai chi tiết, kịp thời báo cáo tiến triển hợp tác với Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc. Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương phụ trách công tác đánh giá, giám sát, đôn đốc, điều phối các công việc giai đoạn tiếp theo, báo cáo Lãnh đạo cấp cao mỗi bên về tình hình tiến triển hợp tác. Căn cứ theo nhu cầu, hai bên trao đổi, kết nối, rà soát tình hình triển khai và giải quyết các vấn đề phát sinh thông qua hiệp thương hữu nghị.

Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trân trọng cảm ơn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, các đồng chí Lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước Việt Nam và Nhân dân Việt Nam về sự tiếp đón hết sức trọng thị, thân tình và hữu nghị ; trân trọng mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng sớm thăm lại Trung Quốc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng bày tỏ cảm ơn và vui vẻ nhận lời.

Hà Nội, ngày 13 tháng 12 năm 2023

Nhân Dân online, 13/12/2023

****************************

Phụ lục

Việt Nam - Trung Quốc ký kết 36 văn kiện hợp tác

VoV.vn, 12/12/2023

36 văn bản thỏa thuận hợp tác đã được các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương ký kết trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam lần này của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình

tcb3

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình cùng xem và nghe giới thiệu các văn bản thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực đã được ký kết giữa các ban, bộ, ngành, địa phương của hai nước.

Chiều 12/12, tại Trụ sở Trung ương Đảng, ngay sau khi kết thúc hội đàm, Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình nghe báo cáo về 36 văn bản thỏa thuận hợp tác đã được các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương ký kết trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam lần này của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình, bao gồm :

- Thỏa thuận hợp tác giữa Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2024 -2028.

- Bản Ghi nhớ giữa Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc về việc dịch và xuất bản các tác phẩm kinh điển.

- Kế hoạch triển khai Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ban Nội chính Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và Ủy ban Chính pháp Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2023-2027.

- Thỏa thuận về làm sâu sắc hơn nữa hợp tác trong thời kỳ mới giữa Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

- Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

- Hiệp định về phòng, chống tội phạm giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc về Tuần tra liên hợp trên vùng biển Vịnh Bắc Bộ.

- Kế hoạch hợp tác cùng nhau thúc đẩy kết nối giữa khuôn khổ "Hai hành lang, Một vành đai" với sáng kiến "Vành đai và Con đường" giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

- Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc cùng xây dựng cầu đường bộ qua sông Hồng khu vực biên giới Bát Xát, Lào Cai, Việt Nam - Bá Sái, Vân Nam, Trung Quốc.

- Nghị định thư giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc đơn giản hóa thủ tục xuất nhập cảnh cho nhân viên, phương tiện giao thông vận tải, thiết bị thi công và vật liệu xây dựng qua cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu để cùng xây dựng cầu đường bộ qua sông Hồng biên giới Bát Xát, Việt Nam - Bá Sái, Trung Quốc.

- Bản ghi nhớ (MoU) giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng cục hợp tác phát triển quốc tế quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc tăng cường hợp tác phát triển và thúc đẩy thực hiện Sáng kiến phát triển toàn cầu.

- Thỏa thuận hợp tác tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

- Thỏa thuận thiết lập đường dây nóng thông tin về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển.

- Bản ghi nhớ về thúc đẩy hợp tác đầu tư trong lĩnh vực phát triển xanh giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Bộ Thương mại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

- Thỏa thuận triển khai giao lưu hữu nghị Đảng bộ địa phương giữa Thành ủy Hải Phòng, Đảng cộng sản Việt Nam và Tỉnh ủy Vân Nam, Đảng cộng sản Trung Quốc.

- Kế hoạch hành động giai đoạn 2023 – 2026 triển khai Bản ghi nhớ giữa Bộ Công thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính quyền nhân dân tỉnh Vân Nam, Trung Quốc về tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại.

- Kế hoạch hành động giai đoạn 2024-2026 giữa Tỉnh ủy Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Đảng cộng sản Việt Nam và Khu ủy Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Đảng cộng sản Trung Quốc về làm phong phú hơn nữa nội hàm của quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc.

- Kế hoạch hành động giai đoạn 2024 - 2026 triển khai Bản ghi nhớ trong lĩnh vực kinh tế thương mại giữa Bộ Công thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính quyền Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc.

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Giao thông vận tải nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tăng cường hợp tác đường sắt Việt Nam - Trung Quốc.

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Giao thông vận tải nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng cục Hợp tác phát triển quốc tế nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tăng cường hợp tác viện trợ phát triển đường sắt qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam với Bộ Thương mại Trung Quốc về hợp tác đầu tư trong lĩnh vực kinh tế số.

- Biên bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực viễn thông, công nghệ thông tin, truyền thông và chuyển đổi số giữa Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam và Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin Trung Quốc.

- Biên bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực truyền thông số giữa Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam và Tổng cục phát thanh truyền hình Nhà nước Trung Quốc.

- Biên bản ghi nhớ về trao đổi hợp tác truyền thông giữa Bộ Thông tin và Truyền thông nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Văn phòng Báo chí Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

- Biên bản ghi nhớ về tăng cường hợp tác kinh tế số và dữ liệu số giữa Bộ Thông tin và Truyền thông nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cục Quản lý Dữ liệu quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

- Chương trình hợp tác năm 2024-2025 giữa Bộ Tư pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Tư pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Tổng Cục hợp tác phát triển quốc tế quốc gia Trung Quốc về việc tăng cường hợp tác phát triển nguồn nhân lực.

- Thỏa thuận hợp tác giữa Ủy ban Dân tộc Việt Nam và Ủy ban Dân tộc Nhà nước Trung Quốc.

- Bản ghi nhớ các yêu cầu đối với việc xây dựng vùng sạch bệnh lở mồm long móng có sử dụng vaccine.

- Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với dưa hấu xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc.

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Tài nguyên nước nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về trao đổi số liệu thủy văn mùa lũ.

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về Phát triển xanh, Biến đổi khí hậu và Bảo vệ môi trường.

- Bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền liên quan giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng Cục Bản quyền Quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

- Thỏa thuận hợp tác giữa Đài tiếng nói Việt Nam (VOV) và Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc (CMG).  

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Đài truyền hình Việt Nam (THVN) và Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc (CMG).

Nguồn : VoV.vn, 12/12/2023

Hết

 

---------------------------

Mc lục

 

Phần 0 - Tổng quan

Phần 1 - Nắm giữ miền Bắc

Phần 2 - Hai hành lang một vành đai kinh tế

Phần 3 - Muốn làm chủ luôn cả miền Nam

Phần 4 - Khu đô thị mới Thủ Thiêm

Phần 5 - Bằng chứng của một sự phản bội

Published in Tư liệu

Chạy đâu cho thoát bàn tay Trung Quốc ?

Lời người viết : Những ngày gần đây, hai Đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cử nhiều phái đoàn cao cấp qua lại giữa hai nước nhằm chuẩn bị chuyến viếng thăm Việt Nam của Tập Cận Bình, đồng thời để trấn an Bắc Kinh về việc Việt Nam đã ký với Hoa Kỳ, nội bộ và Úc những thỏa thuận về quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.

Trong thực tế lý do trên chỉ là bề mặt, lý do chính đây là thời điểm để hai nước Việt Nam và Trung Quốc hiện thực hóa những thỏa thuận đã ký kết qua những Tuyên bố chung giữa hai Đảng cộng sản trong những năm trước đó. Trong chuyến viếng thăm của ông Tập Cận Bình sắp tới, chắc chắn hai Đảng cộng sản sẽ ra một Tuyên bố chung cụ thể hóa những gì phải làm trong thời gian tới. Trước mắt là đề cao khái niệm Cộng đồng chia sẻ tương lai chung Việt Nam-Trung Quốc, kế là nâng cấp xây dựng những tuyến đường sắt Trung Quốc-Việt Nam, cụ thể là tuyến đường Côn Minh - Hải Phòng, và hợp tác chống tham nhũng. Không phải tình cờ Trung Quốc đề nghi nâng cấp tuyến đường sắt này, vì đoạn đường này chạy qua khu vực có nhiều khoáng chất "đất hiếm", đúng như Dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocene khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang do phía Trung Quốc thực hiện. Cũng không phải tình cờ Trung Quốc tự nguyện hợp tác với Việt Nam hay Việt Nam mời hợp tác chống tham nhũng. Lý do của sự hợp tác này rất đơn giản : phía Trung Quốc không muốn tiến hành xây dựng hạ tầng cơ sở tại Việt Nam qua trung gian những quan chức địa phương, vì số tiền lại quả quá cao do đó sẽ đội vốn (vốn đã cao hơn giá thị trường quốc tế) gây bất mãn trong dư luận quần chúng Việt Nam. Nếu theo dõi kỹ, những quan chức tham nhũng bị truy tố và đang ngồi tù đều liên quan không nhiều thì ít tới những dự án đầu tư của Trung Quốc, từ quốc phòng, dầu khí, năng lượng, xây dựng hạ tầng cơ sở đến thuốc men, vật tư, giao thông vận tải, v.v.

Để tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa và những hậu quả cận kề của sự bối rối của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, chúng tôi cho đăng lại một bài nghiên cứu cách đây không lâu (20/6/2019) về quan hệ và sự liên đới phức tạp giữa Đảng cộng sản Việt Nam với Đảng cộng sản Trung Quốc trong những ngày đã qua và trong những ngày sắp tới. Mục đích của loạt bài viết này chỉ nhằm cung cấp cho quý độc giả những tư liệu và chứng từ do hai Đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đã chính thức công bố và những dự án đã và đang làm, để tự mỗi độc giả đánh giá và kết luận. (NVH)

vntq1

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị ngày 01/12/2023

************************

Hậu Thành Đô 3 - Trung Quốc muốn làm chủ luôn cả miền Nam

Phần 3

Muốn làm chủ luôn cả miền Nam Việt Nam

 

Triển khai chiến lược Sáng kiến Vòng Đai Con Đường của Tập Cận Bình trên toàn cõi Việt Nam

 

Theo nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung đã được ký kết từ năm 2000 trở lại đây, mốc năm 2020 đánh dấu sự kết thúc của một chu kỳ để mở ra một chu kỳ mới trong quan hệ hợp tác giữa hai Đảng và hai Nhà nước cộng sản Trung Quốc và Việt Nam.

Nhìn lại những gì mà phía Trung Quốc đã thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong suốt 20 năm qua, người Việt có lý do để lo âu về số phận và tương lai của dân tộc và đất nước.

dacquyen1

Ba đặc khu kinh tế Vân Đồn - Bắc Vân Phong và Phú Quốc - Ảnh minh họa

Tổng quát những thực hiện từ năm 2000 đến nay

1. Phía Trung Quốc

Đối với Bắc Kinh, chiến lược xây dựng "hai hành lang, một vành đai kinh tế" trên toàn lãnh thổ miền Bắc Việt Nam coi như hoàn tất. Những mục tiêu mà Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đặt ra cho Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành đúng theo những lộ trình được ghi trong từng giai đoạn của những Tuyên bố chung và Thông cáo chung.

1.1. "Hai hành lang, một vành đai kinh tế"

- Hai tuyến đường bộ và đường sắt, gọi là hành lang kinh tế : Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng đều đã hoàn tất đúng như dự định và đã đi vào hoạt động.

- Vành đai kinh tế trong Vịnh bộ, từ Móng Cái tới Đà Nẵng, đã được tăng cường và củng cố : không nơi nào, không một sinh hoạt kinh tế và dịch vụ nào dọc vùng duyên hải miền Bắc không có bóng dáng người Trung Quốc. Công ty và cơ sở kinh doanh do người Trung Quốc làm chủ mọc lên như nấm và ngày càng lấn át sinh hoạt kinh tế của những cư dân bản địa như buôn bán sỉ và lẽ, nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi heo gà công nghiệp, dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng ăn uống, giải trí, kể cả buôn lậu ma túy và thú quí hiếm.

1.2. Vịnh Bắc bộ, nỗi ám ảnh về an ninh quốc phòng của Bắc Kinh, ngày nay đã được giải quyết.

Sau những thỏa thuận với Đảng cộng sản Việt Nam, Vịnh Bắc bộ đã hầu như trở thành ao nhà của Trung Quốc. Trong suốt 20 năm qua, phía Trung Quốc không ngừng tu chỉnh, sửa đổi nội dung những thỏa thuận về hợp tác cùng phát triển, khảo sát chung, tuần tra chung, tàu hải quân hai nước thăm viếng lẫn nhau. Quan trọng nhất là qua "Thỏa thuận (nhiều lần sửa đổi) giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PetroVietnam-PVN) và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation - CNOOC) liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ", Hải quân Trung Quốc đã hoàn tất việc đo đạc và thiết đặt hệ thống phòng thủ toàn diện trên và dưới mặt biển Vịnh Bắc bộ. Tất cả mọi ra vào Vịnh Bắc bộ của tàu thuyền quốc tế đều phải xin phép Trung Quốc. Cũng nên lưu ý là tàu chiến quốc tế muốn đến thăm Việt Nam chỉ ghé các hải cảng từ Đà Nẵng trở xuống.

1.3. Một toại nguyện khác là an ninh lãnh thổ phía đông-nam của Trung Quốc đã được củng cố : khu vực trái đệm từ Việt Nam đến Myanmar không những đã được thành lập mà còn kết hợp với 4 tỉnh và khu tự trị của Trung Quốc ở vùng biên giới phía nam để thành một tổng thể mới (hiện chưa có anh xưng chính thức).

Từ sau khi trở thành cường quốc kinh tế số 2 trên thế giới, các cấp lãnh đạo Trung Quốc muốn phục hồi lại hào quang và sức mạnh văn hóa, kinh tế và quân sự của thời nha Minh trong quá khứ, đặc biệt là phục hồi lại những lãnh thổ đã mất dưới thời nhà Thanh trong thế kỷ 19.

Đối với người Hán, những sắc dân và lãnh thổ vùng cực nam của Trung Quốc trước kia là những thuộc man và thuộc quốc thần phục Thiên triều phương Bắc. Ngày nay, khi sức mạnh văn hóa, kinh tế và quân sự đã được phục hồi, việc lôi kéo những sắc dân sinh sống dọc vùng biên giới phía nam về lại mẫu quốc là lẽ tự nhiên.

Tại Việt Nam, Bắc Kinh đang tiến hành khôi phục lại khu tự trị biên giới giữa hai nước, gồm 7 tỉnh của Việt Nam : Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh và 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc : Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam và lấy đồng nhân dân tệ là kim bản vị trao đổi chính thức.

Khu tự trị này một cách gián tiếp vô hiệu hóa mọi cố gắng phân định và cắm mốc biên giới của Việt Nam, Hiệp ước biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc ký ngày 31/12/1999 do đó cũng mất hết nội dung.

2. Phía Việt Nam

Một cách khách quan, sau 20 năm thực hiện những thỏa thuận giữa hai Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam - Trung Quốc, mức sống của người dân Việt Nam tại miền Bắc đã được nâng cao so với trước năm 1990, nhiều ngành nghề thu hút đông đảo nhân công phát triển mạnh như may mặc công nghiệp, sản xuất giầy dép, du lịch, nuôi trồng thủy hải sản, chế biến thủy sản…

Danh xưng "cửu vạn" biến mất trong sinh hoạt qua lại biên giới. Vết tích chiến tranh biên giới 1979 đã gần như bị xóa bỏ trong các tỉnh, thành phố bị hư hại trong cuộc chiến như Cao Bằng, Lạng Sơn, Vị Xuyên.

Trung Quốc đã góp phần chính trong việc thay đổi bộ mặt miền Bắc Việt Nam để có dáng bề ngoài phát triển : nhà cửa ẩm mốc và rêu phong trước năm 1990 đã được thay thế bằng những ngôi nhà khang trang bằng vật liệu cứng, nhiều nhà cao tầng đã được xây dựng hàng loạt dọc theo các trục giao thông rộng rãi, hàng quán đông người, hàng hóa sung túc, đông người mua sắm... Người và hàng hóa được vận chuyển nhanh chóng trên các tuyến đường bộ và đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, đường bộ cao tốc Móng Cái - Vân Đồn, Móng Cái - Hạ Long, Lạng Sơn - Hà Nội. Trong nội thành Hà Nội, tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông đang đi vào hoạt động.

Sự sung túc này không phải do dân cư miền Bắc tạo ra, mà do Đảng cộng sản Việt Nam mượn bàn tay của Trung Quốc thực hiện, qua trung gian những thỏa thuận đã ký như được công bố trong những Tuyên bố chung.

Trong hàng trăm hải đảo dọc vùng duyên hải miền Bắc, đời sống người dân cũng đã có phần khác trước nhờ dịch vụ buôn bán, nuôi trồng thủy hải sản, du lịch khách sạn và ăn uống.

Một hiện tượng khá phổ biến là không nơi nào không có bóng dáng người Trung Quốc, dưới hình thức thương nhân, ngư dân hay khách du lịch. Chỉ riêng tỉnh Quảng Ninh thôi, sinh hoạt của người Trung Quốc đã gần như áp đảo trong thành phố Móng Cái và 49 đảo trực thuộc tỉnh. Người Trung Quốc sống tập trung trong vịnh Bái Tử Long, đặc biệt là huyện Vân Đồn, nơi có Đặc khu kinh tế Vân Đồn. Xa hơn ngoài khơi thành phố Hải Phòng, người Trung Quốc đang xây dựng những khu nghỉ dưỡng trên các đảo Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Hòn Dậu và quần đảo Long Châu. Tàu thuyền vận tài và đánh cá Trung Quốc lưu hành đông nghẹt trong Vịnh Bắc bộ và ven duyên Móng Cái - Hải Phòng.

Khống chế được những đảo lớn của Việt Nam ngoài khơi Vịnh Bắc bộ này, phía Trung Quốc coi như nắm giữ mọi cửa ngỏ ra vào Vịnh Bắc bộ nói chung và vùng duyên hải miền Bắc Việt Nam nói riêng.

Chi tiết thực hiện những thỏa thuận trong từng lãnh vực

Theo nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung đã được công bố, sau 20 năm thực hiện, hai Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam - Trung Quốc đã đạt một số thành quả như sau.

1. Cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước

1.1. Thắt chặt quan hệ giao lưu hợp tác giữa hai Đảng :

- Kế hoạch hợp tác giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc qua các giai đoạn từ 2011 đến 2015 và kế tiếp đã được thực hiện có hiệu quả ;

- Các cuộc trao đổi về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và về xây dựng Đảng, quản lý đất nước ; các cuộc Hội thảo lý luận giữa hai Đảng, trao đổi kinh nghiệm xây dựng Đảng, quản lý đất nước đã được tăng cường và tổ chức tốt ;

- Công tác hợp tác đào tạo cán bộ Đảng và chính quyền đã được mở rộng đến mọi cấp đảng ủy ;

- Các cuộc gặp gỡ cấp Trưởng ban theo cơ chế giao lưu, hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại và hai Ban Tuyên truyền hai Đảng đã được tổ chức vào những thời điểm thích hợp ;

- Các cuộc giao lưu giữa Quốc hội Việt Nam với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc đã thường xuyên hơn để thúc đẩy sự hợp tác hữu nghị tích cực ;

- Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc quy hoạch tổng thể và thúc đẩy sự hợp tác toàn diện giữa hai nước trên các lĩnh vực được hai bên nhất trí : kinh tế, thương mại, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, giáo dục ;

- Thành lập các Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng, Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ, đồng ý tăng cường điều hành, phối hợp giữa các nhóm này và Nhóm Công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển và trên các lĩnh vực phát triển toàn diện.

- Trung Quốc giúp Việt Nam đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ; thành lập cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa các bộ, ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh…

1.2. Quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai quân đội :

- Các cuộc tiếp xúc lãnh đạo cấp cao giữa quân đội hai nước đã được tăng cường cùng với việc thiết lập đường dây điện thoại trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng hai nước ;

- Các cuộc Đối thoại chiến lược cấp Thứ trưởng quốc phòng vẫn được tiếp tục ;

- Phía Trung Quốc nhận tăng cường hợp tác đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ Việt Nam ;

- Nhiều thí điểm tuần tra chung trên biên giới đất liền đã được triển khai vào thời điểm thích hợp ;

- Hải quân hai nước tăng cường hợp tác trong các mặt như tổ chức tuần tra chung trong Vịnh Bắc Bộ và tàu hải quân hai nước thăm viếng lẫn nhau.

1.3. Quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh : chuyên gia pháp luật Trung Quốc cố vấn Bộ Công an và an ninh Việt Nam soạn thảo các dự luật an ninh viễn thông (Luật An ninh mạng được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 12/06/2018), một số luật trong các lĩnh vực phòng chống tội phạm kiểu mới như lừa đảo viễn thông và sắp tới đây giúp trang bị hệ thống theo dõi định hình công dân trên khắp các thành phố lớn. 

1.4. Về ngoại giao, phía Việt Nam chính thức cam kết :

- ủng hộ lập trường của Bắc Kinh : chỉ có một nước Trung Quốc và không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan ;

- thực hiện "Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc" ;

- sử dụng các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa các ngành ngoại giao, quốc phòng, kinh tế, thương mại, công an, an ninh, báo chí của hai nước và Ban Đối ngoại trung ương, Ban Tuyên giáo của hai Đảng…

2. Trên đất liền

Chiến lược củng cố khu vực biên giới phía Nam của Trung Quốc được Bắc Kinh tiến hành với ba nước ASEAN : Việt Nam, Lào và Myanmar. Tại mỗi quốc gia, Bắc Kinh thi hành cùng một chính sách : khuyến khích hình thành một vùng trái độn, gọi là "Khu hợp tác kinh tế qua biên giới", gồm các tỉnh biên giới của quốc gia sở tại với bốn tỉnh và khu tự trị của Trung Quốc : Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Châu và Hải Nam. Với Việt Nam chính sách này mang tên "hai hành lang, một vành đai", theo đó :

2.1. Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền Việt - Trung là cơ chế thực hiện các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, như :

- tăng cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới, ngăn ngừa và chống các hành vi vi phạm pháp luật như buôn lậu, giữ gìn an ninh, trật tự khu vực biên giới ;

- tăng cường hợp tác về cửa khẩu giữa hai nước và cửa khẩu giữa các địa phương : thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cặp cửa khẩu biên giới, áp dụng các biện pháp nâng cao mức độ tiện lợi hóa thông quan, trao đổi, bàn bạc về quy phạm hoạt động mở các đường qua lại tại khu vực biên giới.

2.2. Hai bên đồng ý về phương án tổng thể chung về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới và thúc đẩy các dự án kết nối cơ sở hạ tầng một cách và thiết thực :

- Trung Quốc giúp xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới và tích cực khuyến khích giới đầu tư Trung Quốc vào hai Khu Công nghiệp Long Giang (Tiền Giang) và An Dương (Hải Phòng) ở Việt Nam ;

- xây dựng và chỉ đạo doanh nghiệp hai nước thực hiện tốt các dự án hợp tác như gang thép (Thái Nguyên, VnSteel, Hòa Phát…) và phân đạm (Ninh Bình, Hà Bắc, VinaChem…) do doanh nghiệp Trung Quốc nhận thầu xây dựng tại Việt Nam ;

- thúc đẩy hợp tác trong các ngành nghề nông nghiệp, chế tạo, dịch vụ và các lĩnh vực khoa học công nghệ, y tế, kiểm nghiệm, kiểm dịch, v.v.

2.2. Phía Trung Quốc ủng hộ doanh nghiệp Trung Quốc sang Việt Nam đầu tư phát triển và phía Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cần thiết cho các doanh nghiệp Trung Quốc sang đầu tư vào các dự án phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Phía Việt Nam tạo thuận lợi để Trung Quốc thành lập Tổng Lãnh sự quán tại Đà Nẵng, bù lại phía Việt Nam được quyền thành lập Văn phòng xúc tiến thương mại tại Hàng Châu.

Hai bên tạo điều kiện để Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) cung cấp các nguồn vốn cho các dự án đầu tư kết nối cơ sở hạ tầng, trong đó khuyến khích sự tham gia của các nhà thầu và nhà đầu tư tư nhân Trung Quốc. Phía Trung Quốc tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi của Trung Quốc và các nguồn vốn khác theo các quy định liên quan.

Đáng lo ngại nhất là, bất chấp khả năng sản xuất của Việt Nam, phía Trung Quốc sửa đổi "Hiệp định thương mại biên giới Việt - Trung", thúc đẩy thực hiện mục tiêu kim ngạch thương mại song phương đạt 100 tỷ USD vào năm 2017. Chỉ tiêu này buộc phía Việt Nam phải nhập siêu và nợ Trung Quốc ngày càng nhiều hơn.

2.3. Về văn hóa, giáo dục và du lịch :

- "Thỏa thuận trao đổi giáo dục 2011-2015" cho phép nhân rộng số lượng lưu học sinh Việt Nam sang Trung Quốc học tập.

- Hai nước đã tăng cường các hoạt động giao lưu nhân dân, như Diễn đàn Nhân dân Việt-Trung, Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung nhằm bồi dưỡng ngày càng nhiều thế hệ tiếp nối sự nghiệp hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc ; triển khai mạnh mẽ giao lưu hữu nghị giữa thanh thiếu niên, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức nhân dân ; phối hợp tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

- Ban tuyên giáo Việt Nam tăng cường định hướng dư luận và quản lý báo chí, thúc đẩy tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, giữ gìn đại cục quan hệ hữu nghị hai nước, làm cho tình hữu nghị Việt-Trung được kế thừa và phát huy rạng rỡ.

- Phía Trung Quốc đã hoàn thành việc xây dựng và đưa vào sử dụng Cung hữu nghị Việt - Trung vào năm 2017, thành lập Trung tâm văn hóa và vận hành có hiệu quả Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội.

- Hai nước đã ký "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực Thác Bản Giốc" và "Hiệp định về quy chế tàu thuyền tự do đi lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân" ; giao cho Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt - Trung quyền quyết định xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng cửa khẩu biên giới hai bên, nâng cao mức độ mở cửa hợp tác của các cửa khẩu biên giới hai nước, đặc biệt là tăng cường sự hợp tác giữa các tỉnh/khu biên giới hai bên, thúc đẩy cùng phát triển khu vực biên giới hai nước…

3. Trong Vịnh Bắc bộ

3.1. Vịnh Bắc bộ là vùng biển chiến lược :

Trong hơn 10 Tuyên bố chung và Thông cáo chung, không lần nào Vịnh Bắc bộ bị quên nhắc tới. Đối với Trung Quốc, Vịnh Bắc bộ chính là trọng tâm của sự hợp tác toàn diện giữa hai đảng và hai nước trong khuôn khổ "hai hành lang, một vành đai", vì đó là hậu cứ chiến lược bảo vệ "Vành đai và Con đường" do Tập Cận Bình phát động từ năm 2013 và chính thức thực hiện từ năm 2015.

Cũng nên biết, Vịnh Bắc bộ là nơi được Trung Quốc chọn để xây dựng căn cứ tàu ngầm chiến lược (phía tây đảo Hải Nam). Nỗi lo lắng của Bắc Kinh là Việt Nam, nếu không thuyết phục được Hà Nội trong việc phân chia quyền lợi hay quyền lực trong vùng, chiến lược phòng thủ của Trung Quốc trên Biển Đông có thể sẽ bị đe dọa vì Vịnh Bắc bộ là cửa ngỏ ra vào của tàu thuyền Trung Quốc, dân sự cũng như quân sự.

3.2. Nội dung những thỏa thuận :

Hai bên khẳng định tiếp tục phối hợp chặt chẽ, thực hiện tốt "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ" :

- kiểm tra và điều tra liên hợp nguồn lợi thủy sản trong vùng đánh cá chung , tuần tra chung giữa hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ ;

- thúc đẩy hợp tác thăm dò, khai thác cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ ;

- tiếp tục đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ (tức ngoài khơi Biển Đông, Hoàng Sa và Trường Sa) và tích cực trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển, sớm khởi động khảo sát chung ở khu vực này ;

- thực hiện các Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ ; nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocene khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.

Những hậu ý của Đảng cộng sản Trung Quốc

1. Về những thỏa thuận trên đất liền

Hiện nay có bao nhiêu người biết được việc chính thức mở cặp cửa khẩu quốc gia Hoành Mô - Động Trung để làm gì ? Có bao nhiêu người biết nội dung "Hiệp định hợp tác khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc" phân chia quyền lợi như thế nào ? Có ai hiểu được hậu ý sâu xa của việc ký kết "Hiệp định tàu thuyền qua lại tự do khu vực cửa sông Bắc Luân", việc xây dựng các cầu qua lại biên giới như cầu đường bộ Bắc Luân 2, cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu ? Có ai biết có bao nhiêu người Trung Quốc đã sang Việt Nam mua nhà và định cư ?...

Có ai biết lý do nào Đảng cộng sản Việt Nam đã thúc đẩy việc mở rộng phạm vi thanh toán bằng đồng "bản tệ" (ngôn từ do chính phía Việt Nam sử dụng, nghĩa là lấy đồng nhân dân tệ làm đồng tiền địa phương) ?... Có ai biết việc ký kết "Hiệp định thanh toán bằng đồng bản tệ song phương trong thương mại biên giới" giữa ngân hàng Trung ương hai nước năm 2003 không qua Quốc hội là vi hiến, đe dọa sự độc lập tài chính của Việt Nam ?

Có bao nhiêu người biết Khu công nghiệp An Dương ở Hải Phòng đi vào hoạt động từ lúc nào, sản xuất cái gì và ai được vào khu này đầu tư khai thác ?

Có ai biết Cung hữu nghị Việt - Trung được xây dựng trên khu đất rộng 14.000 m2, với một tổng đầu tư gần 800 tỷ đồng, do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khánh thành hôm 12/11/2017 với mục đích gì ?

Có ai biết dự án Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông, tuyến đường sắt tốc độ cao Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và tuyến đường bộ cao tốc Móng Cái - Vân Đồn đã ngốn bao nhiêu tiền ngân sách, Việt Nam đã vay mượn của Trung Quốc bao nhiêu tiền và bao nhiêu công nhân Việt Nam được quyền tham gia vào những công trình xây dựng này ?

Có ai hiểu tại sao chỉ những công ty và xí nghiệp Trung Quốc trúng thầu hầu như tất cả những đại dự án và công trình xây dựng hạ tầng cơ sở trên toàn miền Bắc Việt Nam ?

Có ai biết trong suốt gần 10 năm đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng (27/06/2006 – 7/4/2016), ông Nguyễn Tấn Dũng đã thỏa thuận những gì với Trung Quốc và bao nhiêu công ty Trung Quốc đã vào Việt Nam xây dựng cơ sở ?

Và đáng lo âu nhất là có ai biết bao nhiêu đảng viên cấp chính ủy đảng bộ trung ương và địa phương, cấp ủy đảng bộ quân đội, công an, an ninh, sĩ quan cao cấp trong các binh chủng đã được đưa sang Trung Quốc đào tạo về chính trị và đường lối hợp tác ? Có ai biết sau khi về lại Việt Nam những người này đã nắm những chức vụ gì trong những cơ quan và guồng máy đảng, chính quyền, quân đội và công an ? Mỗi năm có bao nhiêu sĩ quan trẻ trong các binh chủng, bao nhiêu thanh niên ưu tú của Việt Nam đã được sang Trung Quốc đào tạo ?

Để trả lời, sau những thỏa thuận đã ký với Trung Quốc, chỉ riêng một quyết định về đất đai do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 21/08/2006, số 1107/QĐ-TTg, dưới tên gọi "Quy hoạch phát triển của khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020", Việt Nam đã cho phép những người nước ngoài có quyền sử dụng một diện tích đất tổng cộng gần 32.400 ha, trong đó : Danh mục 1 gồm 117 khu công nghiệp (26.823 ha) dự kiến ưu tiên thành lập mới đến năm 2015 và Danh mục 1 với 27 khu công nghiệp (5.560 ha) dự kiến mở rộng để đầu tư và xây dựng cơ sở. Các danh mục này không bao gồm các khu công nghiệp thuộc các khu kinh tế đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt quy hoạch chung từ trước. Đây là một trong những cánh cửa mở ra cho doanh nghiệp Trung Quốc tràn vào Việt Nam chọn những vùng đất tốt để đầu tư và cho tham nhũng bất động sản trong nước hối mại quyền thế để ăn chia.

2. Về những thỏa thuận trong và ngoài Vịnh Bắc bộ

2.1. Trong Vịnh Bắc bộ :

Trong những Tuyên bố chung, phía Trung Quốc không ngừng nhắc nhở phía Việt Nam phải thực hiện tốt "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ".

Không chỉ riêng về nghề cá (giữ gìn trật tự sản xuất nghề cá bình thường, tích cực triển khai hợp tác nghề cá), phía Trung Quốc còn gợi ý thực hiện "Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước, nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung, phấn đấu sớm đạt kết quả thực chất trong hợp tác thăm dò, khai thác chung các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ ; bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn trên biển ở Vịnh Bắc Bộ.

Hậu ý của những đề nghị này đã quá rõ ràng :

- Nguồn cá trong Vịnh chắc chắn không còn nhiều vì tàu thuyền đánh cá của Trung Quốc được trang bị hiện đại hơn đã đánh bắt cạn kiệt, chỉ còn lý do nguồn dầu khí. Nhưng theo những khảo sát gần đây nhất, trữ lượng dầu khí dưới Vịnh Bắc bộ là không đáng kể (1), như vậy chỉ còn lý do quân sự.

- Về quân sự, lo âu của Trung Quốc là dưới lòng biển. Căn cứ tàu ngầm chiến lược của Trung Quốc nằm trong Vịnh Bắc bộ, đúng hơn là trong vịnh Bắc Hải-Thanh Bình, tỉnh Quảng Đông, chứ không phải ở đảo Hải Nam như đồn đoán. Với thỏa thuận cùng khai thác cấu tạo dầu khí vắt ngang Vịnh Bắc bộ, hải quân Trung Quốc có quyền tiến sát vào vùng bờ biển Việt Nam đặt cáp (cable) ngầm dưới dáy biển để phát hiện sự qua lại của tàu thuyền và tàu ngầm, đồng thời cũng để phát hiện thủy lôi của kẻ thù có thể lẻn đặt vào vùng biển này.

Để trấn an phía Việt Nam, Bắc Kinh gia tăng mật độ đàm phán của Nhóm công tác chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển Việt-Trung. Trong năm 2013, Trung Quốc thực hiện ba dự án tưởng như vô thưởng vô phạt, đó là Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc và Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ. Riêng dự án thứ ba, thoạt nghe tưởng như không quan trọng, là Dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocene khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang (chữ Holocene cũng bị viết sai cả lỗi chính tả). Thật ra, nghiên cứu lớp trầm tích dưới lòng đất chỉ là lý cớ, lý do ngoài mặt là dò tìm nguồn khí đốt dưới lòng đất Việt Nam, lý do thật là dò tìm những loại "đất hiếm" (vì Việt Nam đã giao cho một công ty Canada quyền khai thác đất hiếm tại Lai Châu), đó là chưa kể khả năng xây dựng một tuyến phòng thủ quân sự giữa sông Trường Giang (Trung Quốc) và sông Hồng Hà (Việt Nam) khi có chiến tranh.

2.2. Ngoài khơi Biển Đông :

Năm 2013, trong một Tuyên bố chung, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đồng ý : "Khởi động khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, sớm xác định khu vực và lĩnh vực hợp tác để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Hai bên hoan nghênh Thỏa thuận sửa đổi liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước (PVN và CNOOC), nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung đối với cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ sớm đạt được tiến triển tích cực". 

Còn giải thích gì nữa ? Chính cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng cộng sản Việt Nam đã đồng ý cùng nhau dò tìm và khai thác nguồn dầu khí ngoài khơi cửa Vịnh Bắc bộ với Trung Quốc, tức là ngoài khơi các quần đảo Hoàng sa và Trường Sa trên Biển Đông. Vụ giàn khoan dầu HD-981 hoạt động ngoài khơi Vịnh Bắc bộ từ ngày 1/5 đến 16/7/2014 gây xôn xao trong dư luận là một thử nghiêm của Trung Quốc đối với cam kết từ phía Việt Nam ; Ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam hoàn toàn im lặng trong suốt thời gian này, những phản ứng của dư luận Việt Nam chỉ là cơn bão trong ly nước. Xâu chuỗi lại những sự kiện xảy ra ngoài khơi Hoàng Sa từ năm 2014 đến nay, các loại tàu thuyền quân sự cũng như dân sự của Trung Quốc tấn công liên tục tàu cá Việt Nam "xâm phạm hải phận" của họ mà không hề gặp phản ứng mạnh nào từ phía Việt Nam, ngoài những lời lên án bâng quơ và quen thuộc của người phát ngôn Bộ Ngoại giao. Trong những ngày sắp tới, khi thời tiết trên Biển Đông ổn định, Bắc Kinh sẽ còn cho nhiều tàu thuyền thăm dò địa chất khác tiến sâu và tiến sát vào vùng biển độc quyền kinh tế của Việt Nam dò tìm và đo đạc. Những sự kiện này phù hợp với thỏa thuận duy trì trao đổi và đối thoại thường xuyên giữa hai Đảng về vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, từ tầm cao chính trị và chiến lược, kịp thời chỉ đạo xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển để bảo vệ đại cục.

Nhiều câu hỏi được đặt ra là Việt Nam đang chơi trò gì khi ủng hộ tự do hàng hải ngoài khơi Biển Đông, mời tàu chiến quốc tế đến thăm Việt Nam, mua vũ khí của Mỹ, hợp tác quân sự với Nhật Bản và Ấn Độ ? Gián diệp nhị trùng hay là chỉ giản dị là trung gian mua vũ khí của Mỹ và phương Tây để giao lại cho Trung Quốc mỗ xẻ ?

3. Về những thỏa thuận thành lập Khu tự trị vùng biên giới mở rộng

Việc tăng cường hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam đã được chuẩn bị từ năm 2000, ngay sau khi ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền với Việt Nam năm 1999, nhưng chỉ chính thức được đề cập đến trong Tuyên bố chung ngày 21/06/2013. Đây là một chủ trương lớn của Trung Quốc để củng cố an ninh vùng biên giới phía nam và mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc đến 3 quốc gia ASEAN liên quan : Việt Nam, Lào và Myanmar. Trong hợp tác này, Việt Nam là đối tác quan trọng nhất về diện tích đất và dân cư, dưới tên gọi mới là "Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt Nam-Trung Quốc".

dacquyen2

Hội nghị lần thứ 9 Ủy ban Công tác Liên hợp giữa 4 tỉnh biên giới của Việt Nam và Khu tự trị Dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc)

Theo Kế hoạch công tác năm 2013 của Ủy ban Liên hợp biên giới trên đất liền hai nước, việc điều hành định chế hành chính mới này sẽ do Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới phụ trách. Phía Việt Nam cung cấp mặt bằng, phía Trung Quốc đảm nhiệm công tác xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cơ quan hành chính và thương mại địa phương nhằm thúc đẩy các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển, cụ thể là hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế…

Các khu hợp tác kinh tế qua biên giới này làm nhớ lại Khu tự trị Thái-Mèo (1955-1962), những quan lại địa phương tự quyền ký kết những văn kiện xin sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Không hiểu bị thúc đẩy bởi động cơ nào mà Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay lại chấp nhận những thỏa thuận như loại này, một hình thức tái lập tình trạng sứ quân thời Đinh Bộ Lĩnh, mỗi thủ lãnh địa phương là một lãnh chúa độc lập với trung ương. Có thể nói đây là một hình thức sang nhượng chủ quyền lãnh đạo đất nước cho Trung Quốc, nếu không muốn nói là một hành động bán nước có chủ trương.

Một thí dụ cụ thể là ngày 22/03/2019, Thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn tổ chức đăng cai Chương trình gặp mặt đầu xuân năm 2019 và Hội nghị lần thứ 10 Ủy ban công tác liên hợp giữa bốn tỉnh biên giới Việt Nam là Cao Bằng, Hà Giang, Quảng Ninh, Lạng Sơn và Khu ủy khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) lần thứ tư. Tại hội nghị, "hai bên nhất trí" (tức hai cấp lãnh đạo địa phương chứ không phải trung ương) tiếp tục tăng cường hợp tác, giao lưu hữu nghị ; đi sâu hợp tác thiết thực các lĩnh vực trọng điểm ; tăng cường giao lưu hợp tác các cấp ủy đảng và đơn vị trực thuộc của các bên ; tăng cường giao lưu đối ngoại nhân dân để củng cố nền tảng hữu nghị và tăng cường hợp tác quản lý biên giới, cùng xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị. Ðồng thời (nên lưu ý) bốn tỉnh biên giới của Việt Nam cũng ký kết 7 thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực với Khu ủy khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Hai bên nhất trí duy trì cuộc gặp mặt đầu xuân trở thành hoạt động hằng năm ; duy trì các cơ chế giao lưu, hợp tác hiện có, tăng cường hơn nữa các hoạt động giao lưu, trao đổi đoàn các cấp, thúc đẩy quan hệ giao lưu hợp tác trên nhiều lĩnh vực giữa hai bên đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả hơn... (2).

Cho tới nay (tháng 6/2019) không ai biết phía Trung Quốc đã và đang xây dựng những gì trên toàn lãnh thổ miền Bắc. Chỉ sau khi xảy ra sự cố, dư luận trong nước mới hay biết sự thật. Thí dụ như vào cuối tháng 11/2018, báo Soha.vn loan tin "Trung đoàn 921 về Yên Bái : Su-22 đoàn Không quân Sao Đỏ rời Hà Nội, lên chốt giữ vùng Tây Bắc" (3), dư luận trong nước mới giật mình khám phá an ninh khu vực biên giới phía Bắc đang bị đe dọa. Rồi nếu không có phát biểu của Thiếu tướng Sùng Thìn Cò, Phó tư lệnh quân khu 2, tại diễn đàn Quốc hội ngày 30/05/2019 lên tiếng báo động : "Nhiều sông, suối ở biên giới đang bị ô nhiễm" (4), không ai hay biết nạn ô nhiễm môi trường trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc do nước thải độc hại từ các khu công nghiệp, chế xuất… của Trung Quốc đổ vào các sông suối xuyên biên giới chảy về Việt Nam đã nguy ngập đến dường nào. Đó là chưa kể Việt Nam đã cùng Trung Quốc thác Bản Giốc từ một vài năm trở lại đây.

Nhìn chung, quyền lãnh đạo 7 tỉnh khu vực biên giới phía Bắc đang vuột khỏi tầm tay của Đảng cộng sản Việt Nam. Nỗi lo của 20 cựu sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2014 và 97 triệu dân Việt Nam là có cơ sở : Đảng cộng sản Việt Nam đang tự nguyện hiến 7 tỉnh biên giới Việt Nam thành một khu tự trị của Trung Quốc "như Nội Mông, Tây Tạng hay Quảng Tây". Nếu vì bất cứ một lý do nào, bị xúi giục hay tự nguyện, dân cư trong 7 tỉnh này xuống đường yêu cầu tổ chức trưng cầu dân ý xin sát nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, phản ứng của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ ra sao ? (Việc Quốc hội Việt Nam trì hoãn Luật biểu tình không phải vì lo sợ sự chống đối của giới đối lập và nghiệp đoàn mà vì lo sợ những cuộc biểu tình của dân cư 7 tỉnh biên giới phía Bắc).

Cũng theo dự phóng này, cố vấn Trung Quốc trong các Nhóm công tác biên giới đang xúc tiến ráo riết để trong một tương lai không xa hội nhập các tỉnh biên giới của Việt Nam, Lào và Myanmar vào các tỉnh biên giới phía nam của Trung Quốc. Nhiều giả thuyết cho rằng Quảng Ninh có thể sẽ hội nhập vào tỉnh Quảng Đông hay Hải Nam, 3 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng và Hà Giang vào tỉnh Quảng Tây, trong khi 3 tỉnh còn lại là Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên sẽ cùng với 3 tỉnh biên giới của Lào là Phongsali, Udongsai, Luangnamtha và bang Kachin của Myanmar sẽ cùng hội nhập vào tỉnh Vân Nam.

Qua chủ trương kết hợp những tỉnh biên giới Việt Nam và Trung Quốc, chỉ tốn vài chục tỷ USD, Trung Quốc có thể thu tóm những vùng lãnh thổ chiến lược và kinh tế rộng lớn nhất và tốt nhất của Việt Nam mà không tốn một viên đạn. Cột mốc năm 2020 đang lừng thừng đi tới…

Động cơ và hệ lụy của những thỏa thuận đã ký với Trung Quốc

Ai là thủ phạm trong việc chuyển nhượng chủ quyền lãnh đạo đất nước ?

Chắc chắn không phải là Trung Quốc. Phía Trung Quốc không có gì để giấu, tất cả những việc gì họ muốn, đã đang và sẽ làm ở Việt Nam đều công khai và tuân hành đúng theo luật pháp và cách tổ chức của chế độ cộng sản Việt Nam, nghĩa là Đảng cộng sản quyết định, Quốc hội hợp thức hóa bằng luật pháp, Chính phủ thi hành. Phía Trung Quốc chỉ thực hiện đúng những gì họ đã hứa, đã ký và công bố.

Chính Đảng cộng sản Việt Nam mới là thủ phạm chuyển nhượng chủ quyền đất nước cho Trung Quốc qua việc ký kết những thỏa thuận với Trung Quốc trong âm thầm và không muốn dư luận trong nước, kể cả trong Đảng biết.

Nhưng tại sao Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam lại dễ dàng ký kết những thỏa thuận có thể dẫn đến mất chủ quyền và bất lợi cho Việt Nam ?

Có nhiều lý do để giải thích :

- Vì lo sợ mất địa vị lãnh đạo, do đó phải nhờ Trung Quốc bảo hộ. Mất quyền lãnh đạo là mất tất cả : địa vị, quyền thế và bỗng lộc do địa vị mang lại ; đáng lo nhất là mất tính mạng do trả thù báo oán.

- Vì tưởng có thể lợi dụng được sự giúp đỡ của Trung Quốc để phát triển (không cần phải bỏ công và bỏ của cũng vẫn có bộ mặt phát triển như thiên hạ), qua đó tranh thủ được niềm tin đảng viên và sự kính phục của dân chúng.

- Vì tưởng nhượng bộ và chiều lòng Trung Quốc thì sẽ không còn bị hiếp đáp và mất thêm lãnh thổ.

- Cuối cùng vì khờ khạo và lòng tham : nắm vững tâm lý và trình độ kiến thức của những đối tác Việt Nam (Bộ chính trj và Trung ương Đảng cộng sản), những cố vấn Trung Quốc đã biết khai thác bằng tiền, bằng gái đẹp, bằng hứa hẹn địa vị để khuyến dụ những người có trách nhiệm chấp thuận tất cả những điều kiện do phía Trung Quốc đưa ra.

Một vài thí dụ về sự khờ khạo : phía Trung Quốc vẽ ra bức tranh thật đẹp về phồn vinh và phát triển tại những nơi mà họ muốn đến xây dựng cơ sở và khai thác tài nguyên, như các tỉnh khu vực biên giới, thành phố dọc bờ biển Vịnh Bắc bộ, các thành phố Đà Nẵng, Nha Trang, hay tại các tỉnh trên Tây Nguyên, Đồng Nai, Tiền Giang và Kiên Giang ; họ còn đề nghị xây xa lộ cao tốc, đô thị thông minh để mời gọi những cấp lãnh đạo Việt Nam ký kết chấp thuận. Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, từ trung ương đến địa phương, đều bị mê hoặc và chấp thuận tất cả, có nhiều bộ trưởng còn sử dụng danh xưng "giữ gìn đại cục" để chỉ trích những ai chống đối.

Gần đây nhất là khu đô thị Thủ Thiêm, ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, trong một lúc cao hứng đã khai toẹc ra rằng muốn nhờ Trung Quốc biến Thủ Thiêm thành Phố Đông (Pudong như Thượng Hải). Điều này cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam đang tìm mọi cách chiếm lại Thủ Thiêm từ tay Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh để giao lại cho phía Trung Quốc thực hiện ước mơ đó, kể cả vay nợ và nhượng luôn quyền quản trị trong một thời gian dài.

Cái bẫy mà cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bị sa vào trước đó là hình ảnh "Người hùng đem lại phồn vinh cho Việt Nam" : thành lập nhiều đại công ty có tầm vóc quốc tế kiểu những chaebol của Đại Hàn, tăng vốn cho Tập đoàn PVN mở rộng tầm hoạt động ra nước ngoài (Venezuela), cho những đại gia bất động sản vay tiền từ các Ngân hàng đầu tư do Trung Quốc cung cấp vốn. Để đáp trả, Nguyễn Tấn Dũng cho phép Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác bô-xít Đắc Nông (2005) gây ô nhiễm môi trường, vào Tiền Giang lập Khu công nghiệp Long Giang (2007) gây ô nhiễm sông ngòi, Formosa Hà Tĩnh (2008) gây ô nhiễm bờ biển phía bắc miền Trung, xây dựng đường ống sông Đà (2009) liên tục bị vỡ, nhà máy đạm Ninh Bình (2011) để rồi bỏ hoang, nhiệt điện than… dọc vùng biển miền Nam gây ô nhiễm và hủy hoại môi trường... Nói chung tất cả những đại dự án chủ trương lớn của Đảng cộng sản Việt Nam đang là những tai họa về môi trường và ngân sách quốc gia.

Với những số tiền khổng lồ (hàng chục tỷ USD) được Trung Quốc cho vay, thay vì dùng vào đầu tư nghiên cứu phát triển những quan chức cao cấp trong Đảng cộng sản Việt Nam lập hồ sơ giả để rút tiền bỏ vào túi riêng. Nhưng những quan tham nhũng lại quên một điều then chốt : Trung Quốc không cho ai một cái gì và cũng không cho không một cái gì và họ cũng không có luôn sự rộng lượng của Ông già Noel. Giới đầu tư Trung Quốc không bao giờ làm từ thiện hay nghĩ tới từ thiện. Họ là những người thực dụng : bỏ tiền ra để mua một món hàng chứ không cho không hay làm từ thiện. Họ là những người chi tiền, do đó tự coi có quyền tuyệt đối trên những số tiền đã bỏ ra. Ai đánh cắp hay sử dụng sai trái những đồng tiền đó chắc chắn phải bị trừng phạt : giới giang hồ có luật Thiên địa hội, doanh nhân Trung Quốc có Ủy ban Kiểm tra trung ương do Đảng cộng sản Việt Nam chỉ đạo.

Nhìn lại những vụ án chống tham nhũng gần đây, gọi là "đốt lò", rồi những luật đất đai, luật đặc khu, luật an ninh mạng, luật lao động… tất cả đều diễn ra một cách có hệ thống, đúng theo thứ tự thời gian, và ngày càng thúc bách, cho dù ông Nguyễn Phú Trọng có bị đột quỵ hay không. Xâu chuỗi lại những sự kiện, người ta dễ dàng nhận xét những sự kiện này đang diễn ra theo một lộ trình đã được quyết định từ bên kia biên giới phía Bắc đưa sang.

Trong năm 2018 và những tháng đầu năm 2019, Đảng cộng sản đã xử nhiều vụ án lớn, trong đó có nhiều cán bộ, sĩ quan cao cấp trong Bộ Chính trị, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và nhiều bộ ngành khác bị điều tra và tống giam. Ai cũng mừng vì tưởng rằng vị Tổng bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng quyết tâm diệt trừ tham nhũng, "lò nóng lên rồi, củi tươi vào cũng phải cháy".

Nhưng ai bị cháy ? Soi kỹ lại từng vụ việc, những thanh củi bị đốt toàn là những người đã từng nắm giữ những chức vụ liên quan đến những nguồn lợi mà phía Trung Quốc đã bỏ tiền ra nhưng không được sử dụng đúng mục tiêu và nay, qua trung gian Đảng cộng sản Việt Nam, muốn thu hồi lại. Tại sao chỉ Vinashin, Vinalines, PVN, MobiFone-AVG, BIDV, Casino, bất động sản Đà Nẵng… bị truy tố mà không xảy ra ở những công ty hay cơ quan nào ở những địa phương khác ?

Kiểm điểm lại danh sách những người bị bắt, tất cả đều dính líu không nhiều thì ít đến những số tiền mà phía Trung Quốc đã đổ vào Việt Nam, đặc biệt là dưới thời nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, để xây dựng hạ tầng cơ sở chuẩn bị cho sự hiện diện lâu dài của người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam, qua các định chế ngân hàng, tập đoàn bất động sản, du lịch, khách sạn và giải trí… Đó là những Ngân hàng OceanBank, Sacombank, DAB, VNCB, BIDV, những đại công ty quốc doanh TKV, EVN, PVN, PetroLimex, VinaShin, VinaLines…

Trên đất nước này, từ Bắc vô Nam, không nơi nào không có tham nhũng qui mô ở cấp cao và nạn ăn cắp tiền công quỹ. Chỉ cần khui ra một vài dự án xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư phát triển dọc các vùng biên giới miền Bắc, miền Trung và miền Nam dư luận sẽ dựng tóc gáy nếu biết những số tiền thực sự bị biển thủ hay đánh cắp. Những quan tham rất dễ nhận diện : chỉ cần nhìn vào dinh thự, cơ ngơi địa ốc, nhà cửa, nội thất và cách ăn xài của con cháu họ là biết. Nhưng hiện nay chỉ những quan tham và những người đối lập nào động chạm đến quyền lợi của người Trung Quốc mới bị trừng trị. Một sự kiện đáng chú ý là sự giàu sang của những quan địa phương trong 7 tỉnh biên giới - thể hiện qua các dinh thự, biệt phủ được xây dựng một cách lộ liễu ở những khu đất vàng giữa thành phố hay trong những khu rừng thuộc vườn quốc gia - không hề được báo chí nhắc tới và cũng không ai dám đụng tới.

Song song với lãnh vực quốc doanh, nhiều tập đoàn tư nhân Trung Quốc đã bỏ tiền tài trợ những đại gia bất động sản ở Việt Nam như VinGroup, NovaLand, FLC Group, SunGroup… thay mặt họ chọn những vùng đất tốt, đắc địa để xây dựng cơ ngơi, nhà cửa và cơ xưởng sản xuất. Phương thức hợp tác với những đại gia Việt Nam xem ra có vẻ thành công vì những người này biết đút lót đúng người, đúng chỗ để thâu tóm những vùng đất béo bỡ cho những chủ đầu tư. Những vùng đất béo bỡ là gì ? Đó là những khu đất vàng, đất tốt giữa trung tâm thành phố, cạnh những bờ biển đẹp, những trục giao thông lớn, nhà ga, phi cảng, bến sông, bến cảng, thuận hợp phong thủy… để xây cơ sở, địa ốc, nhà cửa.

Tại sao những chủ sòng bạc, đặc biệt là sòng bài công nghệ cao cũng bị đưa vào lò ? Tại vì tổ chức casino sòng bài, cờ bạc là nghề của người Hoa ; Hồng Kong và Mã Cao trước kia là thiên đường của những sòng bạc quốc tế. Nhớ lại Mạc Cửu thế kỷ 17, một người Hoa gốc Quảng Đông chạy loạn nha Minh xuống Hà Tiên tị nạn, tại đây Mạc Cửu đã xây dựng cho mình một thế lực lớn bao gồm nhiều lãnh địa dọc bờ biển Vịnh Thái Lan nhờ tổ chức sòng bạc. Tất cả những quân cướp biển địa phương đều đến Hà Tiên tiêu xài tiền bạc trong những sòng bài do Mạc Cửu làm chủ. Ngày nay, trong những đặc khu nhượng cho Trung Quốc quyền quản lý 99 năm như Boten, Sihanoukville, sinh hoạt cờ bạc rất là năng động, những chủ sòng bài đều là người Trung Quốc. Những sòng bài ở Boten (Bắc Lào) là để thu hút nguồn tiền do buôn lậu nha phiến mang lại, tại Sihanoukville để thu hút nguồn tiền của người bản địa giàu có trong Vịnh Thái Lan. Hai ông tướng công an Việt Nam, mờ mắt trước những số tiền khổng lồ thu được, đã không biết điều đó nên đã bị bắt và bị tước đoạt hết mọi quyền lợi (chắc chắn là bị "kẻ lạ" tố cáo). Qua những vụ bắt bớ này, thông điệp của phía Trung Quốc đã rất rõ ràng : không ai có được quyền tranh giành tổ chức cờ bạc với người Trung Quốc.

Tại sao đánh lớn vụ PVN và AVG ? Rất dễ hiểu : Trong những Tuyên bố chung, Bắc Kinh muốn Việt Nam chia phần trong việc khai thác tài nguyên dầu khí dưới Biển Đông, và muốn hệ thống truyền thông Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc, qua Hoa Vi. Dưới thời "Đồng chí X", PVN đã tỏ ra cứng đầu không ăn chia với các công ty offshore Trung Quốc mà còn kết cấu với các công ty dò tìm quốc tế khác khai thác thềm lục địa. Về truyền thông trên mạng, chính Thủ tướng Việt Nam, Phúc nổ, ca ngợi kỹ thuật cao của Hoa Vi và mong muốn hợp tác để học hỏi kinh nghiệm.

Trở lại với những tập đoàn bất động sản tư nhân do tư sản Trung Quốc chống lưng, thời vàng son của tiền bạc dễ dàng đang chấm dứt. Để thực hiện chiến lược Sáng kiến vành đai con đường sau cột mốc 2020, Bắc Kinh muốn doanh nghiệp Trung Quốc trực tiếp vào Việt Nam đầu tư xây dựng cơ sở mà không cần phải qua trung gian những tập đoàn bất động sản tư nhân Việt Nam do họ cấp vốn và cấp phương tiện dựng lên như trước. Thật ra Trung Quốc không muốn Việt Nam có những đại gia đầy quyền lực, họ đang nhờ bàn tay của Đảng cộng sản để loại trừ như vụ bắt giữ Phạm Nhật Vũ (em trai đại gia Phạm Nhật Vương, VinGroup), đang điều tra những Mường Thanh, Vạn Thịnh Phát, Quốc Phương Gia Lai, FLC, SunGroup…

Đà Nẵng là một thí dụ điển hình khác, vụ bắt giữ Vũ nhôm cho thấy giới đầu tư Trung Quốc không còn muốn qua trung gian quan chức địa phương để xây dựng cơ sở khai thác dịch vụ du lịch và khách sạn, họ muốn liên lạc thẳng với những cán bộ đảng ủy địa phương. Tất cả những mục tiêu chiến lược trên địa bàn Đà Nẵng đều đã thành tựu : Tổng lãnh sự quán Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo sinh hoạt của những xí nghiệp lớn của người Trung Quốc tại Đà Nẵng vàn bán đảo Sơn Trà, trong tương lai sẽ lấn ra đảo Lý Sơn.

Có thể nói gần như toàn bộ những đảng viên có địa vị và quyền lực trong Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, từ trung ương đến địa phương là những tay sai đắc lực cho thế lực đồng tiền. Quốc hội Việt Nam chỉ là cơ quan ăn theo và có nhiệm vụ hợp thức hóa và hợp lệ hóa những quyền lợi của phía Trung Quốc tại Việt Nam.

Cái gì sẽ xảy ra sau năm 2020 ?

Đảng cộng sản sẽ tiếp tục ký thêm những thỏa mới với Trung Quốc bất lợi cho Việt Nam

Như đã nói, Sáng kiến Vành đai Con đường và Tập Cận Bình đã chính thức đi vào hoạt động năm 2015. Trong suốt giai đoạn từ 2015 đến 2018, chuyên gia Trung Quốc trong những Nhóm công tác đã ráo riết làm việc với những đối tác Việt Nam từ các cấp đảng cao nhất đến các cấp bộ, ngành liên quan, đặc biệt là những Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Giao thông và vận tải, Giáo dục…

Trước mắt có hai công tác lớn dọn đường cho những nhà đầu tư lớn của Trung Quốc đến từ Hoa Nam vào Việt Nam khai trương cơ sở kinh doanh và thương mại một cách đại trà : thuê bao dài hạn 3 đặc khu kinh tế và xây dựng đường bộ cao tốc và đường sắt Bắc-Nam. Phía Trung Quốc đã chuẩn bị sẵn tiền, phương tiện và người tham gia xây dựng ; họ đang chờ phía Việt Nam cung cấp đất và tạo điều kiện pháp lý để hợp thức hóa sự hiện diện lâu dài của người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam, qua những luật mà Quốc hội Việt Nam sắp ban hành. Thời gian thực hiện dự trù bắt đầu vào năm 2019. Vấn đề còn lại là chọn thời điểm nào để ra một Tuyên bố chung. Thời điểm đó được dự trù vào dịp Diễn đàn Sáng kiến Vành đai Con đường lần thứ hai họp tại Bắc Kinh từ ngày 25 đến 27/04/2019. Nhưng không may cho Tập Cận Bình (nhưng là cái may cho dân tộc Việt Nam) : Dự Luật đặc khu bị "dân chúng bất mãn" chống đối nên phải gác lại. Ông Nguyễn Phú Trọng, cấp lãnh đạo cao nhất Việt Nam, bị đột quỵ không thể đi phó hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đi thay nhưng không phải là cấp lãnh đạo tối cao đủ tư cách để thay mặt Tổng bí thư - Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Phú Trọng ra một Tuyên bố chung có tầm quan trọng quyết định đến tương lai Việt Nam với Tổng bí thư - Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình. Nhưng cho dù có thế nào đi chăng nữa, Bắc Kinh sẽ làm áp lực với Hà Nội để bộ Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, gọi tắt là Luật đặc khu, sớm được Quốc hội Việt Nam thông qua.

1. Ba đặc khu kinh tế

Tháng 6/2018, sau khi hay tin Quốc hội Việt Nam thảo luận về Dự Luật đặc khu kinh tế, quy định cho nhà đầu tư nước ngoài quyền thuê đất dài hạn trong 99 năm, một làn sóng phẫn nộ xảy ra tại khắp nơi, hàng chục ngàn người đã xuống đường biểu tình chống Luật đặc khu.

Theo nhận xét riêng, tin về Dự Luật đặc khu và những cuộc biểu tình đều do Đảng cộng sản tung ra và tổ chức. Ai tung tin, ai vận động tổ chức biểu tình, và nhằm mục đích gì, người đó chỉ có thể là chính quyền hay Đảng cộng sản Việt Nam. Làm sao có thể qui tụ một cách bất ngờ trong một ngày số người biểu tình đông đảo lên đến hàng chục ngàn người và xuất hiện đồng loạt tại nhiều tỉnh thành lớn với những ban rôn đã in sẵn bằng chữ lớn nếu không có chuẩn bị trước ? Có thể Đảng cộng sản muốn đo lường phản ứng của người dân trước một hành động mang tính "bán nước" quá lộ liễu đến như vậy.

Từ đó dư luận trong nước mới biết Đảng cộng sản Việt Nam muốn qua công cụ trung gian là Quốc hội để biểu quyết hợp thức hóa Dự Luật đặc khu (6 chương, 88 điều) để thỏa mãn yêu sách cho người nước ngoài thuê ba đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc trong 99 năm. Mặc dầu chính quyền cộng sản Việt Nam cứ loanh quanh, biện bạch cải chính, mọi người đều biết ba đặc khu này chỉ dành riêng cho Trung Quốc. Trong vụ việc này, cái vô lý là Dự luật đặc khu viết rất rõ ràng và chi tiết cách điều hành của đặc khu sau khi cho thuê, như thể chính quyền Việt Nam là người trực tiếp điều hành mọi sinh hoạt trong đặc khu. Vấn đề là sau khi cho thuê 99 năm, người nước ngoài có toàn quyền sử dụng vùng đất đó theo những mục tiêu đã khai báo trước, chính quyền Việt Nam lấy tư cách gì để vào can thiệp ? Cũng như chủ nhà làm sao có quyền chỉ đạo người thuê cách sử dụng điện nước, đi lại và sinh hoạt sau khi cho thuê ?

Chỉ riêng đặc khu Vũng Áng Hà Tĩnh với 228 km2 diện tích và thời hạn cho thuê 70 năm, sau khi Formosa Hà Tĩnh (33 km2) gây ra sự cố ô nhiễm, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng phải chờ hơn 10 ngày sau mới được vào tham quan, vì đây là khu công nghiệp có yếu tố nước ngoài không thuộc thẩm quyền của chính quyền Việt Nam, và khi được vào thăm ông Trọng cũng chỉ đi thăm những nơi người nước ngoài muốn cho đi thăm và không dám nhắc tới vụ cá chết hàng loạt.

Tại sao Trung Quốc chọn ba địa điểm này ? Hoàn toàn vì những mục tiêu chiến lược phục vụ cho kế hoạch Sáng kiến Vành đai Con đường của Tập Cận Bình. Kế hoạch này đã được Tổng bí thư - Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình công bố tại Kazakhstan tháng 9/2013 và chính thức khởi động năm 2015.

Hậu ý kinh tế của Trung Quốc trong những đặc khu kinh tế này là để xây dựng cơ sở và hãng xưởng với lực lượng nhân công đến trực tiếp từ Trung Quốc sản xuất hàng hóa ngay trên lãnh thổ Việt Nam, rồi sau đó xuất khẩu sang những quốc gia khác với nhãn "Made in Vietnam", như vậy Trung Quốc sẽ không còn bị chỉ trích là hàng Trung Quốc dán nhãn Việt Nam. Không một người Việt Nam nào được hưởng lợi trong những thương vụ này, kể cả chính quyền cộng sản Việt Nam, vì tất cả đều do người Trung Quốc trực tiếp quản lý và điều hành. 

1.1. Đặc khu kinh tế Vân Đồn thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, là quần đảo lớn nhất khu vực miền Bắc, diện tích 2.171,33 km2 (đất liền 581,83 km2) và mặt biển 1.589,5 km2, tập hợp hơn 600 hòn đảo lớn nhỏ. Với ưu thế, Vân Đồn được đánh giá là có những tiềm năng nổi trội để xây dựng một Đặc khu của miền Bắc.

Bộ Chính trị đã đồng ý chủ trương xây dựng Đề án thành lập đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh theo Thông báo số 108-TB/TW ngày 01/10/21012.

tuyenbo04

Từ năm 2007, Trung Quốc đã cho Việt Nam vay vốn để xây dựng Đặc khu kinh tế Vân Đồn, với mục tiêu trên danh nghĩa là thúc đẩy phát triển kinh tế ở Quảng Ninh, nhưng trong thực tế là chuẩn bị mặt bằng để giao cho Trung Quốc thuê dài hạn 99 năm. Ông Phạm Minh Chính, cựu bí thư Quảng Ninh, còn đề nghị tăng thời hạn cho Trung Quốc thuê lên 120 năm (5). Đảng cộng sản Việt Nam hy vọng qua việc cho thuê này, Trung Quốc sẽ biến Vân Đồn thành một trung tâm du lịch sinh thái biển đảo chất lượng cao và dịch vụ cao cấp, một trung tâm hàng không, đầu mối giao thương quốc tế với một khu thương mại phi thuế quan (6). Phục vụ giao thông cho Khu kinh tế Vân Đồn có Cảng Vạn Hoa và Sân bay quốc tế Vân Đồn, do Tập đoàn SunGroup xây dựng và được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khai trương ngày 31/12/2018.

Trong thực tế, đặc khu kinh tế Vân Đồn đã nằm trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc từ lâu rồi, vấn đề còn lại chỉ là hành chính, nghĩa là hợp thức hóa sự hiện diện của người Trung Quốc trên vùng đất này bằng Luật đặc khu.

Vân Đồn là nơi xuất phát bằng đường biển chiến lược Sáng kiến Vành đai Con đường và cũng là nơi gần những căn cứ hải quân chiến lược của Trung Quốc, đặc biệt là căn cứ tàu ngầm chiến lược Nam Hải (Quảng Đông). Không ai biết Trung Quốc sẽ xây dựng những gì trong đặc khu Vân Đồn sau khi được quyền sử dụng 99 năm. Nếu xảy ra xung đột trên Biển Đông, Vân Đồn chắc chắn sẽ là một căn cứ phòng thủ hỗ trợ hải quân Trung Quốc.

1.2. Bắc Vân Phong là một khu kinh tế nằm ở phía bắc Vịnh Vân Phong, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, với một diện tích rộng 1500 km², trong đó phần trên biển rộng tới 800 km². Khu này được thành lập vào năm 2006 với mục tiêu trở thành một hạt nhân tăng trưởng kinh tế, trung tâm đô thị - công nghiệp - dịch vụ - du lịch của khu vực Nam Trung Bộ, vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ và là một đầu mối giao lưu quốc tế, trung tâm du lịch quan trọng của Việt Nam.

Đây là một đặc khu kinh tế tổng hợp gồm hai khu : Khu phi thuế quan gồm : khu cảng trung chuyển container quốc tế là chính, khu hậu cần cảng và khu trung tâm thương mại – tài chính. Còn khu thuế quan gồm khu cảng trung chuyển dầu, cảng chuyên dùng, cảng tổng hợp, khu du lịch, khu công nghiệp, khu dân cư đô thị và khu hành chính.

Trung Quốc dự trù sẽ xây dựng đặc khu kinh tế này thành một biểu tượng thu hút sự nễ trọng của những quốc gia ASEAN khi hợp tác với Trung Quốc. Hiện nay hàng chục ngàn "du khách Trung Quốc" đến Nha Trang đang chờ được vào đặc khu kinh tế Bắc Vân Phong làm việc.

Về chiến lược, Bắc Vân Phong là một hải cảng ven bờ xa Trung Quốc nhất về phía nam. Nếu có xảy ra xung đột trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ biến Bắc Vân Phong thành một căn cứ tiếp liệu hậu cần ho tàu thuyền của họ hoạt động trên Biển Đông, đồng thời cũng là căn cứ do thám sự ra vào của các tàu chiến Việt Nam và quốc tế trong vịnh Cam Ranh.

1.3. Đặc khu kinh tế Phú Quốc gọi tắt là Đặc khu Phú Quốc là một huyện của tỉnh Kiên Giang ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Toàn bộ huyện đảo có tổng diện tích 589,23 km².

Khu kinh tế Phú Quốc chính thức được thành lập ngày 22/5/2013, theo quyết định số 31/2013/QĐ-TTg. Khu kinh tế Phú Quốc chính thức được thành lập khi quyết định này có hiệu lực từ ngày 10/07/2013. Khu này được quy hoạch làm một trung tâm kinh tế biển tổng hợp mạnh của cả nước và sẽ là một đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, tức chính quyền Hà Nội.

Tiềm năng kinh tế và du lịch của khu kinh tế này rất lớn nhờ có một bờ biển đẹp và nhiều hải cảng nước sâu. Trung Quốc dự trù sau khi có toàn quyền sử dụng đặc khu kinh tế này, bộ mặt của Phú Quốc sẽ được cải đổi để trở thành tụ điểm du lịch vùng biển cao cấp nhất Đông Nam Á.

Về chiến lược, đặc khu kinh tế này được Trung Quốc dành cho các mục tiêu kinh tế và dịch vụ du lịch triển khai Sáng kiến Vành đai Con đường của Tập Cận Bình, vì Sihanoukville không phải là một cảng nước sâu nên tàu thuyền lớn không thể vào neo đậu được. Hơn nữa Trung Quốc đang biến Sihanoukville thành một căn cứ quân sự.

Việc ông Nguyễn Phú Trọng xuống Kiên Giang tham quan trong tháng 4/2019 vừa qua không phải tình cờ, ông có sứ mệnh thuyết phục "lãnh chúa địa phương" Nguyễn Thanh Nghị, con trai trưởng của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chấp thuận để cho Trung Quốc thuê đảo Phú Quốc làm đặc khu kinh tế trong 99 năm, một khi luật đặc khu được Quốc hội thông qua.

1.4. Tại sao Đảng cộng sản Việt Nam muốn thỏa mãn yêu sách thuê ba đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc của Trung Quốc trong 99 năm ?

Để trả lời câu hỏi này, có lẽ cũng nên tìm hiểu cách cho vay của Trung Quốc. Khác với các định chế tài chính quốc tế, cho vay qua ngân hàng với những điều kiện và khả năng thanh khoản cùng những lãi suất rõ ràng, phía Trung Quốc cho vay theo kiểu tiệm cầm đồ hay chơi hụi. Người vay tiền phải thế chấp một món hàng tương với số tiền muốn vay, khi trả không được thì chủ nợ siết món hàng thế chấp, đó là trường hợp của Sri Lanka với cảng Hambantota nhượng cho Trung Quốc 99 năm, hay nước Tajikistan (Trung Á) với một phần lãnh hồ rộng hơn 1000 km2 trong tỉnh tự trị Gorno-Badakhshan trên cao nguyên Pamirs đã được chuyển giao cho Trung Quốc để trả các khoản nợ. Chính vì thế, phải hiểu cho Trung Quốc thuê bao 99 năm là một hình thức bị siết nợ hay cấn nợ. Việc một ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức trung ương, ông Phạm Minh Chính đề nghị cho Trung Quốc thuê 120 năm (5) là một thái độ tôi đòi, nịnh bợ đáng khinh bỉ.

Đối với Việt Nam và những quốc gia Đông Nam Á khác, Trung Quốc cho vay kiểu chơi hụi : muốn vay bao nhiêu cũng được nhưng sau khi hốt hụi rồi thì phải trả tiền lời lẫn vốn cho những người cho vay với những lãi suất rất cao cho tới khi người tới cho vay cuối cùng thu hồi vốn (hốt hụi) mới chấm dứt. Nhưng với Việt Nam, người cho vay cuối cùng này sẽ không bao giờ hết vì phía Trung Quốc luôn đẻ ra những đề án mới buộc Việt Nam phải vay thêm. Một thí dụ, sau khi "trúng thầu" tất cả những dự án xây đường bộ và đường sắt tại miền Bắc, Trung Quốc đang đề nghị qua hình thức "đấu thầu" xây dựng đường bộ và đường sắt cao tốc Bắc Nam, và những dự án đại trà kế tiếp…

Sự gian manh của phía Trung Quốc mà nhiều người tưởng là tốt bụng muốn giúp những quốc gia yếu kém hơn vay tiền bằng cách khuyến khích vay càng nhiều càng tốt, dưới hình thức thương vụ để PIB của quốc gia được vay gia tăng đáng kể. Trung Quốc khuyến khích Việt Nam gia tăng thương vụ từ 10 tỷ USD năm 2010 lên 100 tỷ USD năm 2017, sự sai biệt giữa hai con số này trong khoảng thời gian 7 năm là những khoảng nợ khổng lồ mà Việt Nam phải vay của Trung Quốc.

Nếu không trả được nợ thì sao ? Thì phải thế chấp ! Việc Tổng bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng hối thúc Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân sớm thông qua những dự luật bất lợi cho nền độc lập và chủ quyền đất nước khiến dư luận suy đoán là để khất nợ, hay trừ nợ. Chấp thuận cho Trung Quốc thuê ba đặc khu kinh tế trong 99 năm là một hình thức cấn nợ, hay bị siết nợ/ Hiện nay tổng số nợ này phải cao gấp ba lần khoảng nợ mà Sri Lanka đã vay của Trung Quốc.

Sắp tới đây dư luận Việt Nam sẽ còn sửng sốt trước những tin Trung Quốc yêu cầu Việt Nam nhường cho họ quyền xây xa lộ cao tốc Bắc Nam để vận chuyển người và hàng hóa nhanh xuống miền Nam. Những yêu cầu này chắc chắn sẽ được chấp thuận vì, như đã nói, Đảng cộng sản Việt Nam muốn nhờ Trung Quốc vẽ cho mình bức tranh phồn vinh do đó sẽ dành cho người họa sĩ toàn quyền chọn sơn và cảnh vật. Chưa hết, xây dựng xong xa lộ cao tốc, phía Trung Quốc sẽ còn đòi thêm quyền xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam, cảng sông Biên Hòa, phi cảng Long Thành, các khu đô thị thông minh Thủ Thiêm, Long Hưng, Long Tân (Biên Hòa), rồi quyền sở hữu nhà đất…

dacquyen3

Cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây đã hoàn thành đưa vào khai thác - Ảnh an toàn giao thông

Tham vọng, nếu không muốn nói âm mưu, của Trung Quốc tại Việt Nam là muốn làm chủ toàn bộ sinh hoạt kinh tế của miền Nam, loại trừ thế lực kinh tế và ảnh hưởng văn hóa của người Hoa miền Nam, Đài Loan, Nhật Bản và Đại Hàn, và làm chủ luôn vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long.Việc cố ý trì trệ thanh khoản 100 triệu USD cho nhà thầu Nhật Bản để tiếp tục công trình xây dựng hệ thống đường sắt nội thành Thành phố Hồ Chí Minh là một thí dụ. Ai cũng thấy hậu ý của Bắc Kinh, qua trung gian Đảng cộng sản Việt Nam, là muốn hất cẳng Nhật ra khỏi miền Nam để giao cho Trung Quốc quyền xây dựng độc tôn những hệ thống đường sắt nội thành Thành phố Hồ Chí Minh và trong tất cả tỉnh thành phố khác ở miền Nam Việt Nam.

2. Việt Nam sau năm 2030

Nhưng tham vọng của Bắc Kinh trên lãnh thổ Việt Nam không dừng ở đó, họ muốn chơi lá bài trường kỳ, nghĩa là đảm nhiệm luôn công tác trồng người (bách niên chi kế mạc như thụ nhân). Hiện nay Trung Quốc đang nhắm vào thế hệ thanh thiếu niên sinh sau năm 2000, tức những thế hệ không dính líu gì tới quá khứ chiến tranh và tranh chấp với Trung Quốc trong những thập niên 1970 và 1980. Một việc làm âm thầm nhưng bền bỉ của Nhóm công tác văn hóa trong Bộ giáo dục là sửa đổi lại các sách giáo khoa về phần lịch sử có tranh chấp với Bắc triều, loại bỏ tiếng Anh và thay thế bằng tiếng Quan thoại như sinh ngữ 1. Thời gian đang ưu đãi Trung Quốc vì những thế hệ Cách mạng tháng 8, chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ đang mai một dần và biến mất. Những thế hệ lớn lên trong chiến tranh Việt Nam - Hoa Kỳ và Việt Nam - Trung Quốc hiện nay đang cầm quyền không có ưu tư nào về chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc, con cháu của họ không có lý tưởng, chỉ biết tới quyền và tiền.

Có lẽ chính vì vậy, trong lần xuất hiện ngày 16/05/2019 tại Hội nghị Trung ương 10 tại Hà Nội, ngoài ba câu hỏi về định chế : "Có nên xóa bỏ thành phần kinh tế nhà nước hay không ? Đổi mới chính trị có phải là đổi mới chế độ chính trị không ? Có cần phải sửa đổi điều lệ của Đảng cộng sản Việt Nam hay không ?", ông Nguyễn Phú Trọng còn đặt thêm một hỏi có vẻ bâng quơ nhưng qua đó đã phác họa viễn ảnh của một nước Việt Nam mới : "Vậy chúng ta định hướng, hình dung ra nước ta vào năm 2030 sẽ là thế nào ? Đến năm 2045, nước ta sẽ như thế nào ?" (7).

Năm 2030 là kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 2045 là kỷ niệm 100 năm ngày cướp chính quyền trong Cách Mạng Tháng 8. Lời nói của một người biết mình đang gần đất xa trời luôn luôn thành thật. Ông Nguyễn Phú Trọng có lẽ là người thấy rõ tương lai Việt Nam qua hai mốc thời gian này. Những gợi ý kỷ niệm 100 năm chỉ là lý cớ, lý do thật sự là bước vào ngưỡng cửa hai mốc thời gian này nước Việt Nam sẽ thuộc về ai và mang tên gì.

Sự lệ thuộc vào Trung Quốc hiện nay mọi người đều rõ, từ chính trị, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh đến văn hóa và giáo dục, không có lãnh vực nào không có dấu ấn bàn tay Trung Quốc. Những cố gắng biện bạch ông Nguyễn Phú Trọng và Đảng cộng sản Việt Nam đang muốn thoát Trung để xích lại gần Mỹ chỉ xuất phát từ những người ở ngoài Đảng hay chống lại đảng cộng sản. Còn những thành phần cán bộ, đảng viên trong guồng máy cai trị, lực lượng vũ trang, kể cả những người đã về hưu hay đang ở tù về tội tham nhũng, đều răm rắp trung thành và chấp hành những mệnh lệnh của Đảng cộng sản Việt Nam.

Cũng không phải tình cờ danh xưng "tộc Kinh" được báo chí trong nước nhắc tới và đề cao từ năm 2013 (8). Gần đây, tháng 5/2018, một nhóm người Hoa lục địa âm mưu thành lập một cộng đồng tộc Kinh ở một thành phố ngoại ô phía đông Paris nhưng bị cộng đồng người Pháp gốc Việt địa phương phản đối nên đã thất bại. Rất nhiều người lo ngại nước Việt Nam sau này bị đổi tên thành "Khu tự trị người Kinh" hay "Khu hành chính đặc biệt Việt Nam".

Có lẽ phía Trung Quốc đã chuẩn bị khá kỹ càng sự hội nhập Việt Nam vào quỹ đạo ảnh hưởng của họ. Trong những lần viếng thăm Trung Quốc, ngoài Bắc Kinh các cấp lãnh đạo tối cao trong Đảng cộng sản Việt Nam đều được mời tham quan 4 tỉnh và khu tự trị dọc vùng biên giới phía nam Trung Quốc như : năm 2008 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được mời thăm tỉnh Hải Nam, nơi có một cộng đồng tộc Kinh sinh sống ; năm 2011, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được mời tham quan tỉnh Quảng Đông ; năm 2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng được mời tham quan tỉnh Quảng Đông, nơi thiết lập bản doanh của Ủy ban chỉ đạo song phương Việt Nam-Trung Quốc ; năm 2015 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đi thăm tỉnh Vân Nam ; năm 2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được mời thăm Khu tự trị người Choang (Tráng) thuộc tỉnh Quảng Tây, nơi có tộc Kinh Tam Đảo sinh sống, và Khu hành chính đặc biệt Hồng Kông ; năm 2017, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được mời tham quan tỉnh Chiết Giang thuộc vùng bờ biển phía đông Trung Quốc ; năm 2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang được mời thăm tỉnh Phúc Kiến… Khi mời tham quan những địa danh này, Bắc Kinh muốn cho những cấp lãnh đạo Việt Nam thấy tương lai của Việt Nam sẽ như thế nào khi gắn kết với Trung Quốc.

Trong viễn ảnh từ 5 năm đến 10 năm tới, nếu Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn tiếp tục cầm quyền và nếu sức mạnh kinh tế của Trung Quốc cứ vẫn như hiện nay, chủ quyền Việt Nam sẽ do Trung Quốc nắm giữ và Đảng cộng sản Việt Nam chỉ còn là một đảng thừa hành, một đảng quan lại tay sai được Bắc Kinh ủy nhiệm cầm quyền. Người Việt Nam nào chấp nhận tương lai đó ?

Phải nghĩ gì về Ban lãnh đạo Đảng cộng sản cầm quyền hiện nay ? Khôn ngoan vì biết lợi dụng Trung Quốc để tạo cho mình bộ mặt phát triển ? Khờ khạo vì bị Trung Quốc lừa đảo để chiếm đoạt hợp pháp nhiều phần lãnh thổ ? Là những hậu duệ, con cháu Hồ Quí Ly đến lúc phải dâng vùng đất đang chiếm đóng cho mẫu quốc ? Phản bội đất nước, phản lại quyền lợi của dân tộc để được Trung Quốc nuôi dưỡng và bảo vệ quyền lãnh đạo độc tôn của Đảng cộng sản ? Tự nguyện chuyển nhường quyền lãnh đạo và điều hành đất nước có phải là bán nước không ?

Phải làm gì để thay đổi số phận lệ thuộc ?

Chờ đợi Đảng cộng sản Việt Nam công bố nhân sự lãnh đạo mới sau Đại hội 13 để bình luận cho qua ngày ? Hay phải đi tìm một kết hợp chính trị mới để thay đổi nguyên trạng ?

Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (9) của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên có thể là một tài liệu xây dựng đất nước chưa hoàn hảo, nhưng ít ra cũng là những đề nghị hữu ích để những người Việt còn quan tâm đến đất nước tham khảo và đào sâu những khái niệm và biến những lý luận thành hành động.

Trái với lầm tưởng của nhiều người, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên không phải là tập hợp của những trí thức khoa bảng mà là sự kết hợp của những người còn quan tâm đến tương lai đất nước và dân tộc. Đến với Tập Hợp là đến với tình tự dân tộc trong tình anh em tìm lại để cùng nhau thực hiện Giấc mơ Việt Nam chung, trong đó mọi người và mỗi người đều có chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau.

Nguyễn Văn Huy

 

(1) "Về việc phát hiện dầu tại vịnh Bắc Bộ", Nhân Dân điện tử, 17/09/2010 

(2) PV, "Hợp tác giữa các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc", Nhân Dân điện tử, 23/03/2019

(3) Bình Nguyên, "Trung đoàn 921 về Yên Bái: Su-22 đoàn KQ Sao Đỏ rời Hà Nội, lên chốt giữ vùng Tây Bắc", Soha.vn, 24/11/2018

(4) "Tướng Sùng Thìn Cò : Nhiều sông, suối ở biên giới đang bị ô nhiễm", VnExpress, 30/05/2019

(5) Cát Linh, "Phạm Minh Chính và Đặc khu Vân Đồn", RFA tiếng Việt, 19/06/2018

(6)  Lan Hương, Hồng Nhung, "Xây dựng Đặc khu Vân Đồn : Khát vọng đổi mới", Báo Quảng Ninh, 01/06/2018

(7) Trần Đình Thu, "Ba câu hỏi, nhiều thông điệp của ông Nguyễn Phú Trọng", BBC tiếng Việt, 19/05/2019

(8) Vương Văn Quang, "Dân tộc Kinh ở Quảng Tây", Nghiên cứu lịch sử, 30/05/2013, Phạm Hoàng Quân dịch

(9) Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, "Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai", Thông Luận, 04/02/2017

 

Thời gian đang ưu đãi Trung Quốc vì những thế hệ Cách mạng tháng 8, chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ đang dần mai một và biến mất. Những thế hệ lớn lên trong chiến tranh và hiện nay đang cầm quyền không có ưu tư nào về chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc, con cháu của thế hệ này đang thay thế cha anh cầm quyền chỉ biết tới quyền và tiền.

 

---------------------------

Mc lục

Phần 0 - Tổng quan

Phần 1 - Nắm giữ miền Bắc

Phần 2 - Hai hành lang một vành đai kinh tế

Phần 3 - Muốn làm chủ luôn cả miền Nam

Phần 4 - Khu đô thị mới Thủ Thiêm

Phần 5 - Bằng chứng của một sự phản bội

Published in Tư liệu

1. Facebooker có nick Tran Thanh Chuong ngày 4/5/2019 có bài viết chạy tội cho một sự kiện đớn hèn, tội lỗi của Đảng cộng sản Việt Nam. Để tăng độ tin cậy vào những điều lừa dối trong bài viết Phải hiểu cho đúng về Hội nghị Thành Đô, dư luận viên này tự nhận là bác sĩ, nhà thơ, nhà văn và "tôi có người bạn thân làm việc ở Bộ ngoại giao từ những năm 1980. Về sau, anh là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại một nước Châu Âu. Qua anh, tôi biết được khá nhiều điều bí mật và tế nhị phía "hậu trường" liên quan đến sự kiện này"

thanhdo1

Các ông Lý Bằng và Giang Trạch Dân đóng vai trò quan trọng tại Hội nghị Thành Đô

Rồi Dư luận viên Tran Thanh Chuong lên giọng tuyên giáo cấp phường :

"Tuyệt đại đa số nhân dân trong nước tin tưởng vào lãnh đạo Đảng ta thời đó thì đánh giá : Hội nghị này đóng vai trò tích cực và có lợi cho Việt Nam".

"Theo đánh giá của tôi, Hội nghị là kết quả tất yếu đáp ứng đòi hỏi bức thiết của tình thế đất nước ta thời đó. Nó được tiến hành sòng phẳng, vị thế hai bên ngang ngửa, cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam. Vì :

- Nhờ chấm dứt chiến tranh, bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, tiến tới cắm mốc biên giới để từ đó Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế lớn nhất của nước ta.

- Phái Khmer đỏ dần dần bị loại bỏ, chính quyền của Thủ tướng Hun Sen do ta ủng hộ vẫn vững mạnh nhiều năm qua. Đất nước Campuchia hòa bình, biên giới Tây Nam ổn định.

- Hội nghị là tiền đề giúp ta thực hiện bình thường hóa quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây, sau đó tiến tới xóa bỏ hoàn toàn bao vây và cấm vận kinh tế.

- Chấm dứt chiến tranh không những quân đội ta chấm dứt đổ máu mà còn tạo điều kiện cho ta giảm quân từ 1,5 triệu xuống còn 0,5 triệu, giảm chi phí quân sự, tập trung nguồn lực xây dựng kinh tế để nước ta có được vị thế như ngày nay.

Vậy thì, có thể gọi Hội nghị Thành Đô là một Hiệp định Hòa Bình ký kết cho cả ba dân tộc Việt-Trung-Khmer. Giá trị lịch sử của nó chẳng kém gì hai Hội nghị : Giơ-ne -vơ (1954) và Pa-ri (1973). Nếu Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ lập lại hòa bình cho nước ta một thời gian ngắn, Hiệp định Pa-ri chỉ có tác dụng buộc Mỹ rút quân về nước, chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra, thì Hội nghị Thành Đô là cơ sở kiến tạo hòa bình lâu dài, bền vững cho cả ba nước đến tận bây giờ".

Suốt mấy chục năm qua, suốt mấy thế hệ người Việt bị tuyên giáo cộng sản lừa dối cho ăn bánh vẽ, nhiều người đã tỉnh ra, dễ dàng nhận ra ở bài viết Phải hiểu cho đúng về Hội nghị Thành Đô giọng tuyên giáo, giọng dư luận viên bóp méo sự thật, tuyên truyền lừa dối, răn dạy người dân như cô giữ trẻ răn dạy đám con nít ở lớp mẫu giáo. Nhưng phải ăn bánh vẽ mãi, nhiều người đã thành con nghiện, thành tín đồ bánh vẽ và Phải hiểu cho đúng về Hội nghị Thành Đô có tới hơn 2 K like, hơn 1,3 K share và tới tấp những lời tấm tắc "Một bài viết thấu đáo dù anh không là người trong cuộc. Bài viết đã làm rõ mà trên hết ta đã thấy kết quả lập lại hòa bình và những bước phát triển như ngày nay ! Một vị tướng trận mạc trong bốn cuộc chiến tranh hiểu rất rõ nên đã có những hành động đúng và đầy trách nhiệm với dân tộc" Và "Nhờ bài viết của anh mà em hiểu thêm công lao to lớn của nguyên chủ tịch nước Lê Đức Anh, ông xứng đáng được nhân dân cả nước mang ơn và ngưỡng mộ".

Đến kỉ nguyên tin học, mạng xã hội ra đời làm cho tuyên giáo cộng sản không còn độc quyền thông tin, không thể mặc sức dối trá được nữa mà một dư luận viên cấp phường vẫn nhâng nháo vào mạng xã hội, trợn trạo bịp bợm và vẫn có nhiều người háo hức, sung sướng ăn bánh vẽ cộng sản thì quá thảm hại. Thảm hại như chủ tịch hội Nhà Văn Việt Nam Hữu Thỉnh viết bài tâng bốc thứ thơ thiền ba xu của nhà thơ dỏm Hoàng Quang Thuận. Thảm hại như "Nhà báo quốc tế" dỏm Lê Hoàng Anh Tuấn được hết trường trung học nọ đến viện nghiên cứu kia rải thảm đỏ đón rước. Thảm hại đến mức từ lãnh đạo hội nhà báo quốc gia đến chủ tịch hội nhà báo tỉnh cùng hí hửng tháp tùng, cùng vênh váo công kênh đưa "nhà báo quốc tế" dỏm đi khắp nơi lừa bịp.

Vì sự thảm hại đó, dù hơn tuần sau tôi mới đọc những lời lừa dối của bài viết Phải hiểu cho đúng… tôi phải viết những dòng này.

2. Trước hết, cuộc đi đêm Thành Đô là chuyện riêng, kín mít ở cấp chóp bu của Đảng cộng sản Việt Nam. Chuyện riêng của mấy ông Bộ Chính trị Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh... và mấy ông già cố vấn Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Võ Chí Công... Chuyện riêng của hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc chứ không phải chuyện của hai nhà nước. Cơ quan đứng ra lo bảo đảm kĩ thuật cho chuyến đi đêm lén lút, tội lỗi này là ban Đối ngoại của đảng. Bộ Ngoại giao của nhà nước bị gạt ra rìa. Những người nắm giữ vị trí trọng yếu nhất ở Bộ Ngoại giao như Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Thứ trưởng Trần Quang Cơ cũng phải ngồi nhà và chỉ được chứng kiến những chuyện đã rồi. Vì đớn hèn và ô nhục, nội dung thỏa thuận Thành Đô năm 1990 đến nay vẫn phải niêm phong kín mít, chưa dám hé ra một chi tiết nhỏ. Đến những ông bà ủy viên ban chấp hành trung ương của các khóa từ 1990 đến nay còn mù tịt thì ông cán bộ vô danh những năm 1980 mới ngơ ngác về Bộ Ngoại giao làm sao có thể biết "nhiều điều bí mật và tế nhị phía "hậu trường".

Hư cấu ra nhân vật "người bạn thân làm việc ở Bộ Ngoại giao" chỉ để ông dư luận viên mang danh "bác sĩ", "nhà thơ, nhà văn" có cớ vẽ ra bức tranh "Hội Nghị Thành Đô" rực rỡ màu hồng bằng trò lừa bịp sống sượng và cũ rich của tuyên giáo cộng sản "cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam" !

3. Tháng 9/1989, trước cuộc gặp Thành Đô một năm, quân đội Việt Nam đã hoàn toàn rút hết khỏi Campuchia, kết thúc mười năm cuộc sa lầy quân sự đẫm máu ở Campuchia. Tháng 9/1989, trước cuộc gặp Thành Đô một năm, chiến sự ở biên giới Việt-Trung cũng hoàn toàn chấm dứt, kết thúc cuộc chiến tranh mười năm Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Ngày đó còn làm biên tập ở xưởng phim Quân đội Nhân dân Việt Nam, tôi đã dẫn một tổ điện ảnh mang máy quay phin Konvat của Nga đi quay phim tư liệu quân Việt Nam rút khỏi Campuchia. Đơn vị lính Quân khu V rút về nước có cả mấy người đàn bà Campuchia vợ lính ôm con theo chồng ngồi trên thùng ô tô giữa những người lính Việt. Dừng chân ở Đà Nẵng, mỗi gia đình lính, chồng Việt vợ Miên được đưa đến ở tạm trong một gian nhà khách của Bộ Tư lệnh Quân khu V ở bãi biển Mỹ Khê. Những thước phim lịch sử đó nay còn trong kho phim tư liệu của Điện ảnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Vì vậy không có chuyện "Kết quả Hội nghị gồm hai phần được ký kết :

Phần thứ nhất : Chấm dứt xung đột biên giới giữa hai nước, bình thường hóa quan hệ Việt- Trung.

Phần thứ hai gồm bảy điều khoản về vấn đề Campuchia. Chủ yếu là : Các bên ngừng bắn, chấm dứt chiến tranh. Quân đội Việt Nam rút hết về nước...

4. Trước sự sụp đổ liên hoàn của các nhà nước cộng sản Liên Xô và Đông Âu, những trái tim xơ cứng và những cái đầu tăm tối, cuồng tín giáo điều cộng sản của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam không biết đến thân phận đau thương của giống nòi Việt Nam trong nô lệ cộng sản, không biết đến đất nước Việt Nam tan hoang vì sự tàn phá của ấu trĩ, ngu dốt tham lam cộng sản, không biết đến tiến trình lịch sử của loài người đang phẫn nộ chôn vùi cái quái thai cộng sản vào hố rác lịch sử. Chỉ biết có đảng cộng sản, hốt hoảng lo mất ngai vàng vua tập thể, họ liền quên ngay tội ác của nhà nước cộng sản Trung Quốc với dân tộc, với lịch sử Việt Nam, kẻ vừa xua hơn nửa triệu quân tràn qua biên giới xâm lược Việt Nam, giết hàng chục vạn dân Việt Nam, kẻ vừa cướp toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và cướp bảy bãi đá trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Họ ảo tưởng rằng Đảng cộng sản Trung Quốc với gần trăm triệu đảng viên là một sức mạnh to lớn của lực lượng cộng sản thế giới, là một cái cọc vững chắc cho Đảng cộng sản Việt Nam bấu víu trước bão táp nhân dân khi dân nổi can qua. Với ảo tưởng đó, Lê Đức Anh đã thốt ra lời :

"Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc" (1).

Sợ cơn bão nhân dân loại bỏ cộng sản từ Liên Xô và Đông Âu sẽ lan tới Việt Nam, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã hành xử vô nguyên tắc, bỏ qua bộ máy nhà nước, phớt lờ Bộ Ngoại giao, nhân danh đảng hạ mình trực tiếp thậm thụt tiếp xúc với đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy và cùng viên đại sứ thiết kế ra cuộc đi đêm Thành Đô.

Đang trên giường bệnh nhưng khi được nghe báo cáo việc Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh hấp tấp hạ mình cầu cạnh Trương Đức Duy, cố vấn Lê Đức Thọ cũng phải thở dài :

"Việc anh Nguyễn Văn Linh và anh Lê Đức Anh gặp đại sứ Trung Quốc đã làm cho Trung Quốc cứng lên. Đáng lẽ không nên gặp" (2).

Còn cố vấn Phạm Văn Đồng thì nói rõ hơn :

"Trong cuộc họp Bộ Chính trị bàn về đàm phán với Trung Quốc, tôi đã nói tới ba lần là không được hớ, phải rất thận trọng với Trung Quốc. Đằng này các anh lại ngửa bài trước để họ biết hết... Trung Quốc họ nghĩ theo kiểu Đại Hán của họ và kết quả là họ ép mình. Ngoại giao là một vũ đài, phải giữ thế, không phải lúc nào cũng lật hết bài ra. Không thể đưa ngực ra cho nó đấm" (3).

5. Không khi nào vì đời sống nhân dân khó khăn do Mỹ cấm vận mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải vội vã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc để mở lối thoát cho nền kinh tế Việt Nam và mở cửa làm ăn cho người dân Việt Nam như sự dẫn dụ của dư luận viên cấp xã, cấp phường Tran Thanh Chuong. Với lãnh đạo cộng sản, đất nước chỉ là kho tài nguyên để họ vơ vét và nhân dân chỉ là bầy nô lệ để họ sử dụng như người nông dân sử dụng sức kéo của con trâu. Nhân dân chỉ là kho sức người để họ bóc lột và kho máu để họ làm chiến tranh củng cố và mở rộng lãnh thổ thống trị của họ mà thôi. Lịch sử cai trị của nhà nước cộng sản Việt Nam và của tất cả nhà nước cộng sản trên thế giới đã chứng minh đầy đủ điều đó. Nhà nước cộng sản Việt Nam vét của, vét máu dân ngày chiến tranh là "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", ngày nay là tăng thuế, tăng giá vô tội vạ móc túi dân, hút máu dân bù vào ngân khố trống rỗng do làm ăn kém cỏi, thua lỗ và tham nhũng.

Lịch sử cận đại của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đã khẳng định muốn phát triển kinh tế, dân giầu, nước mạnh, đất nước hóa rồng, hóa hổ thì phải thiết lập mối quan hệ làm ăn đàng hoàng, văn minh, tin cậy với Mỹ và thế giới phương Tây, một quan hệ bình đẳng, sòng phẳng có luật pháp minh bạch và nghiêm ngặt. Còn vì ý thức hệ cộng sản, vì cái ngai vàng vua tập thể mà lẻn đi vào lối mòn ô nhục của Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống sang cầu cứu Trung Quốc để giữ ngôi vua tập thể thì chỉ giơ cổ ra nhận lấy cái dây xích chư hầu và rước họa Bắc thuộc về cho giống nòi. Nếu làm việc chính đáng vì dân vì nước thì Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh đâu phải hấp tấp và lén lút tiếp xúc với Trương Đức Duy sau lưng Bộ Ngoại giao vậy.

6. Sau khi ngừng đấu súng ở biên giới Việt-Trung và sau khi quân đội Việt Nam rút hết khỏi Campuchia cũng là khi hệ thống nhà nước cộng sản Liên Xô và Đông Âu tan rã. Tình thế đó tạo ra cho hai Đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc hai mối liên quan lớn. Mối quan tâm của Đảng cộng sản Việt Nam là cần gấp gáp bình thường hóa quan hệ giữa hai nhà nước Việt-Trung để Đảng cộng sản Việt Nam tìm liên minh, tìm sự bảo kê của đảng cộng sản đàn anh Trung Quốc hòng tồn tại trước xu thế của thời đại là rũ bỏ độc tài cộng sản khỏi đời sống chính trị thế giới. Còn Đảng cộng sản Trung Quốc lại chỉ quan tâm dành cho Khmer Đỏ do Trung Quốc nuôi dưỡng đã bị quân đội Việt Nam đánh cho tan tác vẫn có được vị trí ngang bằng với ba lực lượng chính trị khác trong cơ cấu quyền lực nhà nước Campuchia sau cuộc bầu cử dân chủ năm 1991.

Cuộc đi đêm Thành Đô tháng 9/1990 là cuộc giao kèo, đổi chác hai nội dung trên. Vì đầu óc tối tăm, tâm thế thấp hèn, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã ngửa bài trước khi vào ván bài Thành Đô, đã bộc lộ sự hốt hoảng lo sợ mất ngai vàng vua tập thể, bằng mọi giá phải bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc để dựa vào Trung Quốc mà giữ ngai vàng cộng sản. Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã đưa Đảng cộng sản Trung Quốc lên vị thế cứu tinh đối với số phận Đảng cộng sản Việt Nam. Từ vị thế cứu tinh đó, Đảng cộng sản Trung Quốc ép đoàn cộng sản Việt Nam đến Thành Đô do Nguyễn Văn Linh dẫn đầu phải chấp nhận mọi đòi hỏi của họ. Và Đảng cộng sản Việt Nam đã mang độc lập của đất nước, danh dự của tổ quốc, đất đai của giang sơn, tự hào của lịch sử, khí phách của giống nòi ra đánh đổi lấy bình thường hóa quan hệ Việt-Trung. Đảng cộng sản Việt Nam phải chấp nhận để Pôn Pốt, kẻ thua trận, ở vị thế ngang hàng với Hun Sen, người thắng trận, trong cơ cấu quyền lực nhà nước Campuchia.

Vì sự đổi chác ở Thành Đô ngu xuẩn, nhục nhã như vậy nên đến nay Đảng cộng sản Việt Nam vẫn phải giấu kín nội dung cuộc đổi chác Thành Đô như mèo giấu cứt.

Trong đoàn chư hầu ô nhục đi Thành Đô có Phạm Văn Đồng, cố vấn Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và ông cố vấn tóc bạc, mắt lòa phải có người dắt đi từng bước này phải ngậm ngùi nói về ông trưởng đoàn chư hầu, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh :

"Đã hớ, đã dại rồi mà còn nói đặt sự nghiệp cách mạng lên trên hết… Người lãnh đạo không nên làm như vậy. Với Trung Quốc, vừa qua không phải là chúng ta bình thường hóa, mà là chúng ta đã bị "phụ thuộc hóa" quan hệ" (4).

Còn Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ thì nhìn nhận về cuộc gặp Thành Đô :

"Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm họa "diễn biễn hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô" và "Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thỏa thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại, thỏa thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do đó chậm việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố" (5).

Cuộc đổi chác Thành Đô buộc Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc đến mức ngày 5/8/1991, giữa cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà trưởng ban đối ngoại của đảng cộng sản cao giọng nhắc nhở cả bộ máy chính quyền :

"Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc, các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh" (6).

7. Kí văn bản giao kèo đổi chác Thành Đô, lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ có hồn cộng sản, hồn băng nhóm giang hồ cướp quyền con người, cướp quyền làm chủ đất nước của người dân, không có hồn Việt Nam, không có tư thế của lịch sử Việt Nam, của văn hóa Việt Nam :

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu"

(Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo).

Do đó đảng cộng sản vừa phải giấu kín văn bản đổi chác nhục nhã ở Thành Đô vừa phải tung đội ngũ dư luận viên đi lừa bịp "Hội nghị (Thành Đô) là kết quả tất yếu đáp ứng đòi hỏi bức thiết của tình thế đất nước ta thời đó. Nó được tiến hành sòng phẳng, vị thế hai bên ngang ngửa, cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam".

Người dân không được thấy câu chữ nhem nhuốc của văn bản bán linh hồn cho quỉ ở Thành Đô. Nhưng người dân thấy rõ thực tế ứng xử đớn hèn của nhà nước cộng sản Việt Nam với Trung Quốc từ sau Thành Đô 1990 và ứng xử đớn hèn đó đã tố cáo sự bán mình của Đảng cộng sản Việt Nam cho Đảng cộng sản Trung Quốc.

Với chính sách phụ thuộc, nô lệ vào nhà nước cộng sản Trung Quốc, với thân phận chư hầu, nhà nước cộng sản Việt Nam đã phản bội cha ông, phản bội lịch sử Việt Nam kí hiệp định biên giới 1999 dâng mười lăm ngàn cây số vuông đất biên cương cho Trung Quốc.

Từ sau 1990, tất cả bia đá, tượng đồng ghi nhớ chiến công của quân dân ta trong mười năm 1979 - 1989 chiến đấu chống quân Trung Quôc xâm lược bị đục bỏ. Bia ghi tội ác của quân Trung Quốc xâm lược bị xóa sạch. Pháo đài Đồng Đăng, Lạng Sơn lịch sử, nơi hàng trăm người dân Việt Nam chạy giặc ẩn náu đã bị quân Trung Quốc xả hơi độc, đánh thuốc nổ giết chết nay chìm trong lau lách hoang vu quên lãng

Nhà trường không được dạy học sinh, sinh viên những trang sử hào hùng của cha ông chống quân của các triều đại Trung Quốc xâm lược. Người dân tưởng niệm những người con yêu của Mẹ Việt Nam đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu giữ nước chống quân Trung Quốc xâm lược, người dân biểu tình chống những hành động Trung Quốc đang tiến hành xâm lược Việt Nam đều bị công cụ bạo lực nhà nước cộng sản Việt Nam đàn áp dã man.

Từ sau 1990, nhà nước cộng sản Việt Nam hoàn toàn bỏ ngỏ biển Việt Nam cho Trung Quốc làm chủ. Quân đội bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đã khoanh tay đứng nhìn những đoàn tàu dân đánh cá Trung Quốc nhiều như là tre tràn vào biển Việt Nam, đến nhà nước cộng sản Việt Nam cũng im lặng coi Trung Quốc làm chủ biển Việt Nam như là điều bình thường, đương nhiên. Tàu vũ trang Trung Quốc tự do ngang dọc trên biển Việt Nam, đâm chìm tàu dân Việt Nam, giết hại dân Việt Nam cũng chỉ có người phát ngôn Bộ Ngoại giao lên tiếng "quan ngại" chiếu lệ. Nhà nước Trung Quốc công bố lệnh cấm dân Việt Nam đánh cá trên biển Việt Nam, nhà nước cộng sản Việt Nam cũng câm miệng hến chấp nhận. Chỉ có hội Nghề cá của dân lên tiếng phản đối yếu ớt.

Bỏ ngỏ biển cho Trung Quốc làm chủ Biển Đông. Mở rộng cửa đón người Trung Quốc vào tàn phá đất nước Việt Nam, đón hàng hóa Trung Quốc vào giết chết nền công nghiệp sản xuất hàng hóa Việt Nam, đón văn hóa Trung Quốc vào thiết lập trong tâm hồn người Việt Nam nền văn hóa chư hầu. Sách Vòng tròn bất tử ghi nhận ý chí chiến đấu của những người lính Việt Nam giữ đảo Gạc Ma bị cấm phát hành. Nhưng lại cho dịch, in ấn số lượng lớn và phát hành rộng rãi trên cả nước hàng loạt sách ca ngợi Đặng Tiểu Bình kẻ phát động cuộc chiến tranh biên giới 1979 giết hại hàng vạn người Việt Nam.

Những sĩ quan cao cấp của quân đội, của công an phải lần lượt nối nhau sang Trung Quốc ăn cơm Tàu, học sách Tàu, thay máu Đại Việt bằng máu chư hầu. Sĩ quan cấp tướng chỉ bộc lộ lòng yêu nước, bộc lộ ý chí giữ nước chống quân Trung Quốc xâm lược liền lập tức phải rời quân ngũ như đại tướng Đỗ Bá Tỵ.

Nhà nước cộng sản Việt Nam luôn chấp hành mọi đòi hỏi, luôn thực hiện mọi dự án chỉ mang lại lợi ích cho Trung Quốc và gây thiệt hại to lớn, nhiều mặt cho Việt Nam. Dự án cho Trung Quốc vào khai thác bô xít ở Tây Nguyên, dự án cho Trung Quốc xây dựng nhà máy điện than ở Bình Thuận, dự án cho Trung Quốc trúng thầu thi công đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông, dự án mở những con đường thông thống từ Trung Quốc thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam, dự án cho Trung Quốc xây dựng nhà máy đạm Ninh Bình, những đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc chỉ nhằm "đón đại bàng Trung Quốc vào làm tổ", chỉ để biến những thế đất hiểm yếu của Việt Nam thành đất sang nhượng cho Trung Quốc được Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam sốt sắng thảo ra... Đất nước Việt Nam đang nguy khốn, nền kinh tế thoi thóp, què quặt, không thể phát triển. môi trường sống của thiên nhiên, của con người đang bị đầu độc, văn hóa chư hầu đang xâm nhập tâm hồn con người, đang tràn ngập trong đồi sống xã hội Việt Nam, an ninh quốc phòng bị bỏ ngỏ bởi những nhượng bộ, những chính sách phụ thuộc đó.

Với giao kèo Thành Đô năm 1990, sẽ còn nhiều chủ trương, chính sách, nhiều dự án lớn nhỏ trên đất nước Việt Nam tiếp tục ra đời chỉ vì lợi ích của Trung Quốc và gây nguy khốn đất nước, cho giống nòi Việt Nam.

Phạm Đình Trọng

(15/05/2019) 

(1) Trần Quang Cơ, Hồi ức và suy nghĩ, tr 88

(2) Trần Quang Cơ, sách đã dẫn, tr 77

(3) Trần Quang Cơ, sách đã dẫn, tr 77

(4) Trần Quang Cơ, sách đã dẫn, tr 93

(5) Trần Quang Cơ, sách đã dẫn, tr 94

(6) Trần Quang Cơ, sách đã dẫn, tr 109

********************

Phải hiểu cho đúng về Hội nghị Thành đô

Trần Thanh Chương, vdaily.fu, 05/05/2019

Sau khi tôi đăng bài viết về Đại tướng Lê Đức Anh, có người nhắn tin hỏi tôi về vai trò của ông trong Hội nghị Thành Đô thế nào. Đây là sự kiện trọng đại thuộc hai lĩnh vực : quân sự và ngoại giao liên quan đến Trung Quốc khi Đại tướng Lê Đức Anh đương chức Bộ trưởng Bộ quốc phòng.

thanhdo2

Giang Trạch Dân đón tiếp Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh tại Hội nghị Thành Đô - Ảnh minh họa

Tôi không phải nhà ngoại giao hoặc chuyên gia quân sự, mà chỉ là sỹ quan quân y, làm thơ, viết văn. Tuy nhiên từ lâu, Hội nghị Thành Đô là chủ đề tôi rất quan tâm nên đã cố gắng tìm hiểu qua các kênh truyền thông đại chúng hoặc không chính thức. Đặc biệt, tôi có người bạn thân làm việc ở Bộ ngoại giao từ những năm 1980. Về sau, anh là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại một nước châu Âu. Qua anh, tôi biết được khá nhiều điều bí mật và tế nhị phía "hậu trường" liên quan đến sự kiện này.

Đúng là Đại tướng Lê Đức Anh có vai trò rất lớn trong Hội nghị Thành Đô, mặc dù ông không tham gia Hội nghị. Thành viên tham dự gồm có :

Phía Việt Nam :

- Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam

- Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Thủ tướng)

- Phạm Văn Đồng, Cố vấn cấp cao

- Hồng Hà, Chánh văn phòng Trung ương Đảng

- Hoàng Bích Sơn, Trưởng ban đối ngoại trung ương Đảng

- Đinh Nho Liêm, Thứ trưởng Bộ ngoại giao

Phía Trung Quốc:

- Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc

- Lý Bằng, Thủ tướng Chính phủ

- và các cán bộ chuyên ngành

Hội nghị diễn ra trong hai ngày từ 3 đến 4/9/1990 tại thành phố Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên.

Tại sao lại tổ chức ở Thành Đô mà không phải Bắc Kinh ? Vì hai bên xác định đây là hội nghị bí mật, không muốn cho dư luận biết, bởi lúc đó Bắc Kinh đang chuẩn bị cho Á vận hội 1990 sẽ được tổ chức vào cuối tháng 9. Đã có rất nhiều nhà báo đến đây.

Tại sao lại phải bí mật ? Bởi Hội nghị này chủ yếu bàn về "chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Campuchia" mà không có các phái Campuchia tham dự. Đây là điều hết sức tế nhị và phức tạp trong một sự kiện ngoại giao lớn. Chính vì vậy, cho đến tận bây giờ, cả hai bên vẫn chưa chính thức công bố nội dung của Hội nghị. Điều đó gây nên những nghi ngờ thậm chí suy luận không tốt về Hội nghị cũng như đối với các nhà lãnh đạo nước ta, trong đó có Đại tướng Lê Đức Anh. Muốn đánh giá đúng vai trò và giá trị lịch sử to lớn của Hội nghị này, ta phải trở lại bối cảnh của Việt Nam và thế giới vào thời điểm đó.

Năm 1990, năm thứ tư của công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta có phần khởi sắc nhưng tiến triển rất chậm chạp, thậm chí nhiều ngành đang trên đà suy thoái, đời sống nhân dân vẫn rất khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu do Mỹ bao vây, cấm vận kinh tế, nước ngoài không thể đầu tư vào Việt Nam. Lúc này, hệ thống Xã hội chủ nghĩa trên đà tan rã, viện trợ của các nước anh em không còn. Đặc biệt, do hơn chục năm chiến tranh biên giới, chúng ta không thể yên ổn tập trung xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, chi phí cho chiến tranh quá lớn với 1,5 triệu quân dàn trải hai đầu chiến tuyến Bắc, Nam.

Về mặt quân sự, tại biên giới phía Bắc vẫn còn xung đột nhỏ lẻ xảy ra. Trên mặt trận Campuchia, mặc dù ta đã truy đuổi tàn quân Polpot lên sát biên giới Thái Lan, nhưng lực lượng của chúng còn khá mạnh, trong khi Quân đội của Thủ tướng Hun Sen lại rất yếu. Chúng ta đã rút phần lớn Quân tình nguyện Việt Nam về nước, nhưng không dám rút hết vì bạn không đủ sức đơn độc chống lại lực lượng Khmer đỏ đang được hậu thuẫn mạnh mẽ từ Trung Quốc và phương Tây. Mặt khác, suốt 10 năm bố trí lực lượng trên vùng rừng núi hiểm trở, "rừng thiêng nước độc" dọc biên giới Campuchia-Thái Lan, bộ đội ta không những thương vong lớn trong chiến đấu mà còn hy sinh quá nhiều do mìn, sốt rét ác tính và bao căn bệnh kỳ lạ khác. Những người lính quân y tiền phương chúng tôi biết quá rõ và rất đau đớn về tổn thất lớn lao này.

Trước tình thế đó, lãnh đạo nước ta rất muốn có một hiệp ước hòa bình cho đất nước Campuchia để quân đội Việt Nam rút hoàn toàn về nước mà chính quyền của bạn do ta hậu thuẫn vẫn đứng vững. Tuy nhiên, ta không thể đàm phán trực tiếp với Khmer đỏ và các phái đối lập được. Con đường duy nhất là phải qua Trung Quốc bởi Khmer đỏ là "con bài" nằm trong tay họ.

Lúc này, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đang ở những năm cuối cùng của nhiệm kỳ lãnh đạo. Ông muốn sớm chấm dứt chiến tranh để tập trung tiềm lực xây dựng đất nước theo cương lĩnh đổi mới mà Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra. Nguyện vọng của ông được Đại tướng Lê Đức Anh khi đó đang là Bộ trưởng Bộ quốc phòng hoàn toàn ủng hộ. Lê Đức Anh từng có 5 năm là Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Hơn ai hết, ông hiểu rất rõ những gian nan và tổn thất của bộ đội ta trên mặt trận đặc biệt này. Và có lẽ, ông cũng là người muốn chấm dứt chiến tranh hơn tất cả.

Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh quyết định gặp Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam lúc bấy giờ là Trương Đức Duy.

Lần thứ nhất ông gặp tại Văn phòng Trung ương Đảng, tuy chỉ mang tính chất xã giao, nhưng đã phát đi tín hiệu là : "ta muốn có một hội nghị với lãnh đạo Trung Quốc để đàm phán về bình thường hóa quan hệ Việt - Trung và lập lại hòa bình ở Campuchia". Lãnh đạo Trung Quốc sau đó đã nhanh chóng đồng ý. Họ đồng ý là điều dễ hiểu. Chế độ diệt chủng do họ dựng nên và nuôi dưỡng bị thế giới lên án, chỉ còn một nhóm tàn quân có nguy cơ bị tiêu diệt, trong khi xung đột biên giới Việt - Trung đã gây tổn thất nhiều sinh mạng cho quân đội nước họ. Lãnh đạo Trung Quốc bị mất lòng dân và suy giảm uy tín trên thế giới. Lúc này, họ đang ở thế bí và cũng muốn có hòa bình, ổn định như ta.

Lần thứ hai, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương Đức Duy tại Bộ quốc phòng để bàn về nội dung cụ thể chương trình Hội nghị. Tại sao lại ở Bộ quốc phòng mà không phải ở Bộ ngoại giao theo như thông lệ ? (sự kiện này liên quan chủ yếu đến các chuyên gia ngoại giao). Nguyên nhân chính là do phía Trung Quốc không có thiện cảm với Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Họ cho rằng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch có thái độ chống Trung Quốc và chỉ có Lê Đức Anh là một trong số lãnh đạo của ta muốn bình thường hóa quan hệ với họ mà thôi.

Và chẳng bao lâu sau, lãnh đạo Trung Quốc đã mời đích danh Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, Cố vấn Phạm Văn Đồng sang dự Hội nghị Thành Đô.

Kết quả Hội nghị :

Gồm hai phần được ký kết :

1/ Phần thứ nhất : Chấm dứt xung đột biên giới giữa hai nước, bình thường hóa quan hệ Việt- Trung.

2/ Phần thứ hai gồm bảy điều khoản về vấn đề Campuchia. Chủ yếu là :

- Các bên ngừng bắn, chấm dứt chiến tranh,

- Quân đội Việt Nam rút hết về nước,

- Thành lập Hội đồng hòa giải dân tộc do Norodom Shihanouk làm chủ tịch,

- Tiến tới tổng tuyển cử, thành lập chính quyền mới.

Giá trị lịch sử của Hội nghị Thành Đô : Dù đã gần ba chục năm trôi qua, người ta vẫn chưa thôi bàn tán, tranh luận về Hội nghị này với những đánh giá khác nhau thậm chí là trái chiều. Một phần do tiến trình và nội dung Hội nghị không được công khai, nhưng chủ yếu là do những người đánh giá về nó đứng trên quan điểm, nhận thức khác nhau hoặc trên trận tuyến đối lập.

- Tuyệt đại đa số nhân dân trong nước tin tưởng vào lãnh đạo Đảng ta thời đó thì đánh giá : Hội nghị này đóng vai trò tích cực và có lợi cho Việt Nam.

- Một số ít cho rằng tại Hội nghị này ta bị lép vế, xuống nước trước Trung Quốc. Có lẽ do số này không nắm rõ nội dung của Hội nghị.

- Đặc biệt, khá nhiều người (chủ yếu ở nước ngoài) kết tội lãnh đạo Việt Nam đã đầu hàng Trung Cộng. Thậm chí họ còn tung tin là trong Hội nghị, lãnh đạo ta xin cho Việt Nam trở thành một tỉnh tự trị của Trung Quốc. Thật lố bịch và nực cười.

Theo đánh giá của tôi, Hội nghị là kết quả tất yếu đáp ứng đòi hỏi bức thiết của tình thế đất nước ta thời đó. Nó được tiến hành sòng phẳng, vị thế hai bên ngang ngửa, cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam. Vì :

- Nhờ chấm dứt chiến tranh, bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, tiến tới cắm mốc biên giới để từ đó Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế lớn nhất của nước ta.

- Phái Khmer đỏ dần dần bị loại bỏ, chính quyền của Thủ tướng Hun Sen do ta ủng hộ vẫn vững mạnh nhiều năm qua. Đất nước Campuchia hòa bình, biên giới Tây Nam ổn định.

- Hội nghị là tiền đề giúp ta thực hiện bình thường hóa quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây, sau đó tiến tới xóa bỏ hoàn toàn bao vây và cấm vận kinh tế.

- Chấm dứt chiến tranh không những quân đội ta chấm dứt đổ máu mà còn tạo điều kiện cho ta giảm quân từ 1,5 triệu xuống còn 0,5 triệu, giảm chi phí quân sự, tập trung nguồn lực xây dựng kinh tế để nước ta có được vị thế như ngày nay.

Vậy thì, có thể gọi Hội nghị Thành Đô là một Hiệp định Hòa bình ký kết cho cả ba dân tộc Việt-Trung-Khmer. Giá trị lịch sử của nó chẳng kém gì hai Hội nghị Giơ-ne -vơ (1954) và Pa-ri (1973). Nếu Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ lập lại hòa bình cho nước ta một thời gian ngắn, Hiệp định Pa-ri chỉ có tác dụng buộc Mỹ rút quân về nước, chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra, thì Hội nghị Thành Đô là cơ sở kiến tạo hòa bình lâu dài, bền vững cho cả ba nước đến tận bây giờ.

Trở lại với vai trò của Đại tướng Lê Đức Anh. Chúng ta phải mang ơn ông. Chính ông cùng với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là hai nhân vật chủ chốt kiến tạo nên thành công của Hội nghị này. Nếu không có Hội nghị Thành Đô, chiến tranh sẽ kéo dài thêm nhiều năm nữa, biết bao nhiêu chiến sỹ sẽ hy sinh và vận mệnh của nước ta sẽ đi về đâu ?

Hình như có một danh nhân nào đó từng nói, đại ý : Một vị tướng tài ba là vị tướng biết phát động chiến tranh và cũng biết kết thúc chiến tranh đúng lúc. Đại tướng Lê Đức Anh không phải là người phát động cuộc chiến tranh biên giới, nhưng ông đã biết kết thúc cuộc chiến này một cách ngoạn mục. Chỉ riêng điều này thôi, ông cũng đã trở thành một vị tướng tài ba rồi…

Hôm nay, Nhà nước ta đang tổ chức lễ tang cấp Quốc gia cho Nguyên chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Viết về Hội nghị Thành Đô, tôi muốn mọi người hiểu thêm về ông và cũng như là nén tâm nhang tỏ lòng thành kính, ghi nhận công lao to lớn của một vị tướng suốt đời chiến đấu cho độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc Việt Nam.

Nhắc đến Hội nghị Thành Đô, tôi lại nhớ đến lời của người bạn :

- Nghề ngoại giao của chúng tôi không thẳng băng, sòng phẳng như nghề y của các anh. Nó lắt léo, tế nhị và phức tạp lắm. Có những điều nói mà không làm, hoặc làm mà không nói. Có những sự kiện phải hàng chục, thậm chí hàng trăm năm sau mới hiểu hết giá trị lịch sử của nó. Có lẽ Hội nghị Thành Đô là một trong những sự kiện như thế.

Cần Thơ 3/5/2019

Trần Thanh Chương

Published in Diễn đàn
dimanche, 02 septembre 2018 08:57

Xin hỏi hai ông Tư Sang và Ba Dũng

Cách đây 4 năm, trước việc các lực lượng vũ trang (gồm quân đội và công an) bị huy động tùy tiện và trái pháp luật vào các cuộc cưỡng chế, giải tỏa đất đai bất hợp pháp, và nhất là vào việc ngăn chặn, cản trở các cuộc biểu tình yêu nước của toàn dân phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo Tổ quốc, ngày 2/9/2014, hai mươi (20) cựu sĩ quan Quân đội và Công an chúng tôi đã cùng nhau ký kiến nghị gửi tới Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (sau đây gọi tắt là "Kiến nghị 20").

batu1

Ông Tư Sang (ông Trương Tấn Sang - nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và Ba Dũng (ông Nguyễn Tấn Dũng - nguyên Thủ tướng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Kiến nghị nêu 4 yêu cầu rất cụ thể. Tôi xin đề cập 2 trong 4 đòi hỏi của "Kiến nghị 20" này như sau :

Kiến nghị 1 nêu rõ : "Không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho nhân dân. Quân đội có nhiệm vụ Hiến định là "Bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm", do vậy tuyệt đối không được huy động Quân đội vào những việc mang tính đối kháng với nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa... Công an có nhiệm vụ Hiến định là "Bảo vệ An ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm", do vậy tuyệt đối không lạm dụng Lực lượng Công an vào việc đàn áp những người dân vô tội đấu tranh đòi giải quyết những quyền lợi hợp pháp của mình !" (hết trích 1).

Kiến nghị 4 nêu cụ thể : "Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và lực lượng vũ trang Việt Nam phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ với nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung, và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo... Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo đã công bố nội dung thỏa thuận giữa hai bên, trong đó trích dẫn : "Việt Nam mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng và Quảng Tây... Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận yêu cầu nói trên, và cho Việt Nam thời hạn 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa". Chúng tôi không rõ thật giả thế nào, yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại Thành Đô năm 1990" (hết trích 2).

Kiến nghị trên được gửi ông Tư Sang và Ba Dũng đã tròn 4 năm. Đến nay cả hai ông đều đã nghỉ hưu để "ráng làm người tử tế" ! Song rất buồn và đáng trách, giống hệt như các Lãnh đạo cao cấp khác, hai ông Tư và Ba này đã không trả lời "Kiến nghị 20" một câu ! Phải chăng trong đầu và trái tim họ đã mất hết suy nghĩ về nghĩa vụ và trách nhiệm của người lãnh đạo đối với công dân, mà trong trường hợp này lại là đồng đội, đồng chí của mình ? Đây quả là cách ứng xử lạ lùng và kỳ cục nếu không nói là thiếu chuẩn mực đạo đức và luật pháp, mà chỉ duy nhất thấy ở lãnh đạo các quốc gia theo thể chế độc tài, toàn trị ! 

Trong số 20 cựu sĩ quan lực lượng vũ trang ký tên, người trẻ nhất nay cũng đã 77 tuổi, còn người cao tuổi nhất đã bước sang tuổi đại thượng thọ : 103 tuổi ! Đó là lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc. Tướng Vĩnh vào Đảng năm 1939, được phong hàm Thiếu tướng năm 1959 ! Trong tất cả sĩ quan cấp tướng do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh tấn phong, cụ là người duy nhất còn sống cho đến nay ! Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh kể lại cho tôi chuyện sau : Lúc đương chức, cả hai ông Tư Sang và Ba Dũng đều cử phái viên đến thăm cụ. Một lần ông Ba Dũng cử một vị tướng đến thăm với mục đích thẳng băng là yêu cầu cụ bớt phê phán và lên án ông ta ! Ông tướng này (chỉ bằng tuổi con cụ) nói : "Bác nguyên là Trung ương Ủy viên, tôi cũng là nguyên Ủy viên Trung ương. Bác là sĩ quan cấp tướng, tôi cũng cấp tướng !" Nghe đến đây, cụ bèn ngắt lời khách : "Không dám ! Tôi vào Đảng khi anh còn chưa sinh. Còn khi tôi được phong hàm tướng và tham gia Ban chấp hành trung ương, có lẽ lúc đó anh mới chỉ học cấp 1. Anh so sánh như vậy là khập khiễng ! Vả lại khi tôi được phong tướng và được bầu vào Trung ương, thời kỳ ấy Đảng ta còn rất trong sạch, chứ đâu như bây giờ ! Nay tất cả là do đồng tiền chi phối và quyết định, khác hẳn trước đây" ! Biết là thất thố và không thể đối đáp tiếp, ông tướng nọ vội vàng cáo lui, lẳng lặng ra về ! 

Đến nay có 1/5 số ký "Kiến nghị 20" đã rời cõi tạm về nơi vĩnh hằng ! Đó là Thiếu tướng Lê Duy Mật và 4 đại tá : Bùi Văn Bồng, Phạm Hiện, Nguyễn Thế Trường và Lê Hồng Hà ! Xin mạn phép hỏi ông Tư Sang và Ba Dũng : Vì lý do gì mà các ông không phúc đáp và trả lời 4 vấn đề nêu trong "Kiến nghị 20" gửi các ông 4 năm trước ? Thực sự là do đâu ? Chắc ở dưới suối vàng, 5 sĩ quan quá cố và khả kính kia sẽ không tha thứ cho hai ông về tội đã phớt lờ bổn phận và đạo lý của mình !

Bốn yêu cầu trong "Kiến nghị 20" đâu phải là những đòi hỏi vô lý, ngược lại đấy là những vấn đề rất thiết thực, nằm trong khuôn khổ và phù hợp với Hiến pháp ! Trong số ký "Kiến nghị 20" có nhiều người đáng tuổi cha chú hai ông, họ góp phần xương máu trong 3 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để các ông được cơ cấu "làm đày tớ của dân" (lời Chủ tịch Hồ Chí Minh) ! Đảng bố trí các ông ngồi vào 2 trong 4 ghế tứ trụ triều đình để phục vụ ai ? Các ông đã coi khinh, không lên tiếng trả lời, vậy lương tâm các ông còn không ? Các ông hành xử bất tín, bất nghĩa, vô chính trị như vậy là ý muốn cá nhân hay theo chỉ đạo của ai đó, thưa hai ông ? 

Mong rằng cách ứng xử thiếu văn hóa, khiếm nhã và vô đạo lý nói trên sẽ không bao giờ lặp lại trong sinh hoạt chính trị, nhất là trong tư duy của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta !

Hà Nội, ngày 2/9/2018

Trần Thành

Nguồn : VNTB, 02/09/2018

----------------

KIẾN NGHỊ

của 20 cựu sĩ quan lực lượng vũ trang gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Ngày 2 tháng 9 năm 2014

Kính gửi :

- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thống lĩnh các Lực lượng Vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh

- Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng

Chúng tôi là những người lính trọn đời "Trung với Nước, Hiếu với Dân", luôn trăn trở với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân. Đứng trước tình hình nghiêm trọng, đe dọa an ninh, chủ quyền và sự phát triển của Quốc gia, chúng tôi vô cùng lo lắng và thấy cần phải kiến nghị với Lãnh đạo Nhà nước một số điểm như sau.

1. Lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân phải luôn luôn vì Nhân dân, nên không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho Nhân dân. Sức mạnh của Lực lượng vũ trang chỉ có được khi dựa vào Nhân dân, nên không được đánh mất tín nhiệm đối với Nhân dân. Vì vậy, để bảo vệ uy tín của Quân đội là lực lượng có nhiệm vụ hiến định "quốc phòng", tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào những sự vụ mang tính đối kháng với Nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa… Để khôi phục uy tín của Công an, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ hiến định "bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm", tuyệt đối không lạm dụng lực lượng Công an vào việc đàn áp những người dân vô tội, chỉ yêu cầu giải quyết quyền lợi hợp pháp của mình.

2. Các chiến sĩ Lực lượng vũ trang chỉ có thể yên tâm rèn luyện và sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc khi tin tưởng rằng cống hiến của họ luôn được Nhà nước ghi nhận thỏa đáng và gia đình của họ sẽ được Nhà nước chăm sóc chu đáo. Việc cố tình phớt lờ cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 và mấy trận chiến bảo vệ biển đảo không chỉ phủ nhận lịch sử, xúc phạm đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới tinh thần và quyết tâm chiến đấu của Lực lượng vũ trang. Đó là sai lầm không được phép tái phạm. Để khắc phục hậu quả, phải nhanh chóng giải quyết những cách cư xử không đúng đối với với thương binh và gia đình liệt sĩ. Đặc biệt, phải sớm khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt sĩ và thương binh đã hy sinh xương máu trong chiến tranh biên giới phía bắc và ngoài biển đảo, gấp rút tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ dọc biên giới phía Bắc đã bị bỏ bê hơn hai chục năm qua.

3. Lực lượng vũ trang cần được xác định rõ ràng và chính xác đối thủ, không thể mơ hồ biến thù thành bạn hoặc coi bạn là thù. Đối tượng tác chiến của Quân đội phải là những thế lực có thể đe dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong hiện tại và tương lai, chứ không thể là những đối thủ đã thuộc về quá khứ. Đối tượng khống chế của Công an phải là những kẻ tội phạm và các hành vi vi phạm hiến pháp, pháp luật, dù ở trong hay ngoài bộ máy cầm quyền, chứ không thể là những người dân vô tội. Lịch sử đã chỉ ra rằng Nhân dân ta phải thường xuyên đề cao cảnh giác trước nguy cơ ngoại xâm từ nước láng giềng phương Bắc. Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trên vùng đặc quyền kinh tế của của chúng ta, tuy nay đã tạm rút đi, nhưng vẫn cho thấy họ không hề từ bỏ quyết tâm bá chiếm Biển Đông. Lịch sử cũng cho thấy, sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước cựu thù đã hợp tác với nhau rất hiệu quả và bền vững, ví dụ như mối quan hệ giữa Cộng hòa liên bang Đức và ba nước Mỹ, Anh, Pháp, giữa Nhật Bản và Mỹ, giữa Việt Nam và hai nước Pháp, Nhật Bản. Do đó, không thể vì những quan niệm bảo thủ, giáo điều mà đánh mất các cơ hội hợp tác với các cường quốc tiên tiến văn minh, nhằm phát triển kinh tế, công nghệ, nâng cao sức mạnh quốc phòng và tăng cường sự ủng hộ quốc tế trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

4. Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và lực lượng vũ trang phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của Quốc gia. Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói rằng Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đã công bố nội dung thỏa thuận giữa hai bên, trong đó trích dẫn : "Việt Nam mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây... Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc". Chúng tôi không biết thật giả thế nào, yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại Hội nghị Thành Đô năm 1990. Chuyến đi thăm Trung Quốc gần đây của đặc phái viên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã thỏa thuận với phía Trung Quốc về ba nguyên tắc chỉ đạo phát triển quan hệ Việt-Trung mà nội dung chỉ nhắc lại những câu sáo ngữ, không nói gì tới thực trạng và các biện pháp chấm dứt các hành động ngang ngược của thế lực bành trướng Trung Quốc xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta trong mưu đồ bá chiếm Biển Đông. Chưa biết bên trong còn có những thỏa thuận cụ thể gì, nhưng toàn dân và toàn quân yêu cầu lãnh đạo Đảng và Nhà nước có đối sách đúng đắn trước mưu đồ và hành vi xâm lược của thế lực bành trướng Trong Quốc, không thể chấp nhận thái độ thể hiện sự thần phục họ, và càng đòi hỏi phải công khai, minh bạch thực trạng quan hệ giữa hai bên.

Trên đây là mấy đòi hỏi cấp bách, nhằm khôi phục uy tín của Quân đội và Công an trong Nhân dân, đồng thời tăng cường sức chiến đấu của Lực lượng vũ trang, để có thể đáp ứng được những thách thức to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Danh sách ký tên :

1. Lê Hữu Đức, Trung tướng, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu.

2. Trần Minh Đức, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh hậu cần Mặt trận Trị Thiên - Huế.

3. Huỳnh Đắc Hương, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào.

4. Lê Duy Mật, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 2, cựu Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang) 1979-1984.

5. Bùi Văn Quỳ, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh chính trị Binh chủng Tăng-Thiết giáp.

6. Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng, nguyên Chính ủy Quân khu 4.

7. Bùi Văn Bồng, Đại tá, nguyên Trưởng Đại diện báo Quân đội Nhân dân tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

8. Phạm Quế Dương, Đại tá, nguyên Tổng bí thư tạp chí Lịch sử Quân sự.

9. Nguyễn Gia Định, Nghệ sĩ ưu tú Điện ảnh quân đội.

10. Lê Hồng Hà, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Công an, Ủy viên Đảng đoàn Bộ Công an.

11. Phạm Hiện, Đại tá, nguyên Chánh Văn phòng B.68 Đoàn chuyên gia giúp Campuchia.

12. Phạm Xuân Phương, Đại tá, nguyên chuyên viên Cục Nghiên cứu Tổng cục Chính trị.

13. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an.

14. Đào Xuân Sâm, Cựu chiến binh Hà Nội, nguyên Chủ nhiệm khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

15. Tạ Cao Sơn, Đại tá, nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2.

16. Đoàn Sự, Đại tá, nguyên Phó Cục trưởng Cục Xuất bản Tổng cục Chính trị.

17. Lê Văn Trọng, Đại tá, nguyên Trưởng Ban lịch sử Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu.

18. Nguyễn Thế Trường, Đại tá, nguyên Tổng bí thư báo Quân giải phóng Trung Trung bộ.

19. Nguyễn Văn Tuyến, Đại tá, cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên cán bộ Viện Lịch sử Quân sự.

20. Nguyễn Huy Văn (tức Kim Sơn), Đại tá, cán bộ lão thành cách mạng, nguyên Phó Trưởng phòng Sở chỉ huy Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu.

Published in Diễn đàn

Hội nghị Thành Đô (3-4/9/1990) và các thỏa thuận ký kết giữa lãnh đạo hai Đảng và Nhà nước Việt Nam - Trung Quốc đến nay đã đúng 38 năm, song vẫn là một bí mật lạnh lùng ! Không chỉ nhân dân thế giới mà ngay cả người dân Việt Nam cũng như người dân Trung Quốc đều bị lãnh đạo của họ dấu tiệt, không hé lộ một lời về những gì họ đã thỏa thuận với nhau tại Hội nghị này cách đây 38 năm về trước ! 

thanhdo1

Giang Trạch Dân và Lý Bằng hồ hởi chào đón các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chiều 3/9/1990. Nguồn : Internet

Cách đây hơn 4 năm, ngày 28/7/2014, 61 đảng viên tâm huyết của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ký "Thư ngỏ gửi BCH Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam", gọi tắt là "Thư ngỏ 61" (1).

"Thư ngỏ 61" kiến nghị Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện hai yêu cầu cấp thiết và trọng yếu của đất nước :

Một : "Đảng Cộng sản Việt Nam cần thay đổi cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa".

Hai : "Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như Thỏa thuận Thành Đô 1990, các thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và trên Vịnh Bắc bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v...".

Trong 61 đảng viên ký Thư ngỏ này có một quân nhân kỳ cựu, một "anh bộ đội cụ Hồ" đích thực, đó là Thiếu tướng Lê Duy Mật (1927-2015), cựu Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, cựu Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang (1979-1984). Tướng Lê Duy Mật là người rất cương trực, tính khí khẳng khái, là một vị tướng can trường trận mạc, trải khắp các chiến trường A,B,C,K qua 3 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và Tầu xâm lược ! Một chi tiết không phải ai cũng biết, một tuần trước khi đấy, ngày 20/7/2014, ông đã gửi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư một Tâm thư với nội dung rất mạnh mẽ và quyết liệt, đó là yêu cầu Đảng phải công khai hóa Thỏa hiệp Thành Đô, đồng thời phải cho Tổng kết cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược (2).

Đặc biệt, trong Tâm thư trên, tướng Lê Duy Mật đã trích dẫn nguyên văn một Điều khoản trong Thỏa hiệp Thành Đô do Tân Hoa xã và Hoàn Cầu Thời báo của Trung Quốc tiết lộ :

"Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai Đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp trong quá khứ. Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây... Phía Trung Quốc đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa".

(hết trích)

Ông nêu nghi vấn việc này có hay không, thực hư ra sao, Đảng phải làm rõ ! Và rồi ông yêu cầu Bộ Chính trị và Ban Bí thư phải công bố các văn bản đã thỏa thuận ký kết giữa hai Đảng trong Hội nghị Thành Đô cho toàn Đảng, toàn dân biết để chứng minh hư thực. Nếu Thỏa hiệp Thành Đô là đúng như Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đưa tin, thì rõ ràng đấy là bản thỏa hiệp rất nguy hiểm cho đất nước, chẳng khác nào là phản bội Tổ quốc ! Tiếp ngay sau đấy, ông kiến nghị Trung ương xem xét ra tuyên bố phản bác bản Thỏa hiệp đó, chấn chỉnh lại tổ chức, kỷ luật những người đã ký và cả những người thực hiện sau này ! 

Tôi quen biết Tướng Lê Duy Mật trong những dịp bàn thảo và ký "Thư ngỏ 61". Tất cả 61 đảng viên ký tên đều nhất trí cao về nội dung, câu chữ và đặc biệt là về hai vấn đề trọng yếu và cấp thiết của đất nước. Riêng tướng Lê Duy Mật và một vài anh muốn "Thư ngỏ 61" đề cập thêm Điều khoản mà Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo đã tiết lộ, nhưng khi cân nhắc, ý kiến trên không được chấp thuận, đa số cho rằng cần phải rất thận trọng, để theo dõi thêm, chưa khẳng định vội. Sau này mỗi khi gặp nhau, tướng Mật nói vui, bảo tôi là "Ồ đây rồi, ông bạn hăng hái nhất chặn tớ đây rồi !". 

Khi gửi Tâm thư và ký vào "Thư ngỏ 61", tướng Mật ở tuổi 87, sức khỏe đã yếu. Không lâu sau ông phải vào Quân y viện 108 điều trị bệnh hiểm nghèo. Mỗi lần vào thăm ông, tôi nhận thấy, dù đang nằm trên giường bệnh, nhưng ông luôn đau đáu, trăn trở với hiện tình đất nước, nhất là về mối nghi ngờ của ông đối với Hội nghị Thành Đô. Ông hỏi tôi lý do vì sao không đồng tình với ông về Điều khoản mà ông gọi là "bán nước", tôi đáp :

"Thưa anh, tất cả bọn họ đều u mê về ý thức hệ, họ sẵn sàng đặt quyền lợi của họ lên trên lợi ích quốc gia. Song có lẽ họ chưa ngu muội đến mức có thể bán rẻ Tổ quốc !".

Tôi phân tích thêm :

"Vả lại, kẻ thù của ta, chắc anh không xa lạ và còn biết rõ hơn em, chúng là bậc thày trong các quỷ kế gây chia rẽ, ly dán và phân hóa nội bộ ta ! Do vậy chúng ta cần hết sức tỉnh táo, thận trọng và cảnh giác để khỏi xa vào mưu đồ xấu xa, hiểm độc của chúng !".

Ông im lặng, tay vỗ nhẹ vào vai tôi, không rõ ông đồng tình hay phản đối ? Thế rồi hơn một tháng sau, ngày 20/10/2015, tôi lặng người khi nghe tin ông mất, mang sang thế giới bên kia mối nghi ngờ rất lớn mà ông chưa được Đảng giải đáp !

2thanhdo2

Nỗi u buồn và vẻ mặt trầm tư của tướng Lê Duy Mật trước ngày ra đi. Ảnh : PVĐ

"Tâm thư" của tướng Mật và "Thư ngỏ 61" của các đảng viên gửi Đảng Cộng sản Việt Nam đã hơn 4 năm rồi mà chẳng có ai hồi âm. Tính đến nay, ngoài tướng Lê Duy Mật, có 4 người khác ký "Thư ngỏ 61" đã ra đi mãi mãi cùng ông ! Không rõ Đảng muốn đợi những đảng viên ký "Thư ngỏ 61" ra đi bớt rồi mới trả lời hay là Đảng đợi hai năm nữa, đúng ngày 4/9/2020, mới chính thức công bố cho toàn dân biết ? Những điều họ kiến nghị, hoặc những vấn đề họ yêu cầu làm rõ đều nằm trong quy định những quyền đảng viên được biết và bổn phận Đảng phải làm (Điều 3 Điều lệ Đảng và Điều 4 Hiến pháp). Hơn nữa, câu hỏi mà tướng Mật yêu cầu Đảng làm rõ đâu có phải là của "thế lực thù địch" bịa đặt ra, mà đây là sự tiết lộ của "các đồng chí 4 tốt" của Đảng ! Sự việc ở đây thật đơn giản : Nếu CÓ thì bảo là CÓ. Nếu KHÔNG thì bảo là KHÔNG, uẩn khúc ghê gớm gì đâu mà Đảng không dám trả lời ?

Trong bài viết ngày 3/8/2014 với nhan đề : "Phải công bố các thỏa thuận ở Thành Đô cho nhân dân biết" (3), người viết bài này kiến nghị :

"Xung quanh Hội nghị thượng đỉnh và các thỏa thuận mà Việt Nam đã ký với Trung Quốc ở Thành Đô, có nhiều phân tích, đánh giá, nhận định và thông tin trái chiều, thậm chí cả những đồn thổi nguy hiểm, bất lợi về mặt dư luận... làm người dân hoang mang, bán tín bán nghi, không biết đâu là hư, đâu là thực ! Mọi hiện tượng trên sẽ chấm dứt một khi Đảng và Nhà nước báo cáo cho toàn dân biết sự thật về mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, đặc biệt là các thỏa thuận mà lãnh đạo ta đã ký với Trung Quốc ở Thành Đô". 

Nhà thơ thế sự nổi tiếng Thái Bá Tân mới đây post lên FB của mình bài thơ "Đề nghị Đảng giải thích" (4) nói về việc tướng Lê Duy Mật gửi Tâm thư chất vẩn Đảng mà không được trả lời. Xin mạn phép trích dẫn 4 khổ trong bài thơ nói trên để chia xẻ cùng bạn đọc : 

"Thiếu tướng Lê Duy Mật,

Không phải người hồ đồ,

Vừa tiết lộ một ý

Trong Thỏa hiệp Thành Đô.

"Rằng vì lợi ích đảng,

Đảng ta đã tự mình

Xin làm Khu tự trị

Của chính quyền Bắc Kinh.

"Không thể nào tin nổi.

Nhưng nếu đúng, thì đây

Là tội ác cực lớn,

Loại ngựa xéo, voi dày !

"Tôi là con dân Việt,

Có quyền biết thật hư.

Yêu cầu Đảng giải thích,

Không một phút chần chừ !

Vâng, thưa nhà thơ Thái Bá Tân, nói rõ thật hư, công khai, minh bạch, không chỉ là trách nhiệm mà còn là nghĩa vụ của Đảng cầm quyền đối với 4 triệu đảng viên của mình và 90 triệu con dân đất Việt ! Nếu cứ lặng thinh, từ chối trách nhiệm thì Đảng không xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như đã ghi trong Điều 4 Hiến pháp 2013 !

Ghi chú của người viết :

Bài viết này chắc chắn sẽ không có nếu Đảng không giữ im lặng trong suốt 4 năm qua. Đúng ra, theo lẽ thường tình, khi nhận được "Tâm thư" của tướng Lê Duy Mật và "Thư ngỏ" của 61 đảng viên tâm huyết, Đảng nên có hồi âm hoặc đối thoại dưới hình thức nào đó. Nhưng rất tiếc những điều này không diễn ra, mà là những việc làm ngược lại !

Nếu vì lý do gì đó, Đảng không thể công khai cho nhân dân biết về mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc, đặc biệt là các thỏa thuận đã ký với Trung Quốc ở Hội nghị Thành Đô, thì ít ra, Đảng cũng nên lên tiếng phủ nhận và bác bỏ nguồn tin (Điều khoản) do Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo tiết lộ, đồng thời lệnh cho 700 báo đài ở Trung ương và địa phương phản bác, lên án và tố cáo nguồn tin xấu độc này ! Và, cũng thật lạ, là tại sao Đảng không chỉ thị cho Ban Đối ngoại hay Người phát ngôn Bộ Ngoại giao hoặc TTXVN lên tiếng yêu cầu phía Trung Quốc có biện pháp chấm dứt, không để lặp lại những trường hợp tương tự ! 

Vậy, vì sao Đảng cứ im lặng mãi, không lên tiếng, và cũng chẳng giải thích để yên lòng dân, mà cứ để ai muốn hiểu sao thì hiểu, muốn nghĩ sao thì nghĩ ? Đây chính là nguyên nhân gây nên sự nghi ngờ ngày một lớn trong dư luận người dân, kể cả trong nội bộ Đảng ! Lỗi này không phải của ai mà chính là của Lãnh đạo và các cơ quan tham mưu của Đảng ! 

Nguyễn Đăng Quang

Nguồn : VNTB, 20/08/2018

(1) https://anhbasam.wordpress.com/2014/07/29/thu-ngo-gui-bch-trung-uong-va-toan-the-dang-vien-dang-csvn/.

(2) https://bongbvt.blogspot.com/2014/08/thieu-tuong-le-duy-mat-co-hay-khong-mot.html

(3) http://boxitvn.blogspot.com/2014/08/phai-cong bo cac thoa thuan o thanh do cho nhan dan biet)

(4) https://www.facebook.com/ThaiBaTan02/posts/517370198724875)

Published in Diễn đàn