Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

vendredi, 06 octobre 2017 16:35

Ai cần ‘khai dân trí’ ?

Đa số người Việt đều biết đến câu nói nổi tiếng của nhà cách mạng Phan Châu Trinh :  ‘Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh’. Trong ba mục tiêu đó có lẽ việc ‘khai dân trí’ là quan trọng nhất và tâm đắc nhất của ông.

khai1

Khai dân trí để đất nước Việt Nam trường tồn và xinh đẹp hơn

Hơn 90 năm sau ngày mất của ông người dân Việt Nam vẫn tiếp tục công cuộc khai dân trí vĩ đại đó. Có lẽ phải đến hơn 90% những người trí thức hoặc có hiểu biết tham gia trên mạng xã hội đều nói rằng họ đang làm tiếp công trình dang dở của Phan Chu Trinh.

Nếu nhìn vào cuộc sống hàng ngày hoặc theo dõi trên các mạng xã hội thì có người sẽ phân vân tự hỏi hình như là ‘dân trí’ của Việt Nam có vấn đề ? Các chủ đề chính trị liên quan trực tiếp đến muôn mặt của cuộc sống thì luôn bị tránh né trong khi những vấn đề ‘tào lao’ thì lại được đón nhận cuồng nhiệt.

Một lý luận được nhiều người chia sẻ và hưởng ứng đó là hãy tập trung ‘khai dân trí’ cho người dân trước, khi người dân khôn ra và hiểu biết hơn thì họ sẽ đứng lên để thay đổi xã hội ? Nếu điều này đúng thì có lẽ là Phan Châu Trinh đã thất bại. Ông đã thất bại lúc đương thời khi mà người dân Việt Nam không ‘chọn’ con đường canh tân đất nước ôn hòa của ông mà đã chọn con đường cách mạng bạo lực và vũ trang của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản. Giờ đây, sau gần một thế kỷ thì công cuộc ‘khai dân trí’ của ông vẫn không tiến triển được bao nhiêu vì không những chính quyền mà một bộ phận người dân Việt Nam cũng đều cho rằng ‘dân trí người Việt còn thấp nên chưa thể có dân chủ’, và thực tế là đến bây giờ Việt Nam vẫn chưa có dân chủ.

Vậy dân trí của người Việt là thấp hay cao ? Có cần tiếp tục khai dân trí nữa không ? Bao giờ Việt Nam mới có dân chủ ? Ai mới là người cần ‘khai trí’ ? Khai trí là khai cái gì ?

Khai dân trí có thể hiểu là ‘sự mở mang trí tuệ, đầu óc nhằm mang lại sự hiểu biết cho người dân’. Đã là trí tuệ và sự hiểu biết thì nội dung của chúng vô cùng rộng lớn, bao la và cần cập nhập thường xuyên. Phan Châu Trinh là một nhà cách mạng và có thể xem ông như là ‘một nhà dân chủ đầu tiên của Việt Nam’. Mục đích chính của ông khi đưa ra đề nghị ‘khai dân trí’ là để mở mang sự hiểu biết về chính trị cho người dân và nhất là trí thức nho học thời đó nhằm thoát ra khỏi sự mê muội và tăm tối của tư tưởng Nho giáo (Khổng giáo) để đón nhận và học hỏi nền dân chủ và văn minh của phương Tây.

Bài viết này chỉ bàn về sự khai dân trí trong lãnh vực chính trị chứ không bao gồm các lĩnh vực khác như kiến thức xã hội hay văn hóa vì phạm vi của chúng quá lớn như đã trình bày, hơn nữa người viết cho rằng khai mở về ‘chính trị’ mới là mục đích lớn nhất của Phan Châu Trinh. Ngay cả trong lĩnh vực chính trị thì các đối tượng cũng chia thành hai thành phần, thành phần dấn thân chính trị chuyên nghiệp (là một thiểu số nhỏ) bao gồm các nhà tư tưởng chính trị, các nhà cách mạng và các chính trị gia. Thành phần thứ hai là đa số người dân Việt Nam bao gồm những người có ‘thái độ chính trị’ rõ ràng và những người không quan tâm đến chính trị. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu.

1. Các nhà tư tưởng chính trị

Đây là những người quan trọng nhất để khơi nguồn và dẫn dắt cho nền văn minh và các cuộc cánh mạng của các dân tộc trên thế giới. Các nhà tư tưởng là những người uyên bác và viễn kiến. Trí tuệ của họ vượt qua thời gian và vượt lên trên đồng bào của mình. Họ là những người mở mang trí tuệ cho tầng lớp trí thức tinh hoa rồi từ tầng lớp trí thức tinh hoa đó sẽ lan tỏa ra đến mọi người. Không phải dân tộc nào cũng có các nhà tư tưởng chính trị. Có thể thấy các nhà tư tưởng đều ở Châu Âu và thế kỷ 18 là thời kỳ nở rộ các trào lưu tư tưởng với nhiều nhà tư tưởng kiệt xuất. Thế kỷ Ánh sáng đó đã tạo ra cuộc cách mạng Pháp 1789 và Cách mạng Mỹ 1775. Lịch sử thế giới cận đại thay đổi từ đó. Nhật bản may mắn có được một nhà tư tưởng vĩ đại là Fukuzawa Yukichi với tác phẩm bất hủ ‘Khuyến học’. Ông được người dân Nhật tôn vinh là ‘khai quốc công thần’ vì đã tạo nguồn cảm hứng và trí tuệ để nước Nhật hùng mạnh như ngày hôm nay. Việt Nam không có được may mắn đó. Văn hóa Khổng giáo được các triều đại phong kiến Việt Nam du nhập từ Trung Quốc và tiếp thu một cách máy móc rập khuôn nên đã triệt tiêu mọi sự tiếp cận với các luồng tư tưởng tiến bộ của khác.

Theo ý kiến chủ quan của người viết thì hiện nay Việt Nam đang có một nhà tư tưởng chính trị nổi bật là ông Nguyễn Gia Kiểng với tác phẩm ‘Tổ Quốc Ăn Năn’. Ông không chỉ uyên bác, viễn kiến mà có một cái nhìn và phân tích rất sâu sắc về chính trị mà không ai có được.

2. Các nhà cách mạng

Nếu không có các nhà cách mạng, là những người theo đuổi một tư tưởng chính trị và chủ trương thay đổi xã hội theo tư tưởng đó thì cũng không có các cuộc cách mạng. Thời nào cũng có rất nhiều các nhà cách mạng và họ có thể thành công hoặc không. Những người cách mạng thành công là do hiểu rõ thời thế và nắm bắt được xu thế của thời đại. Những nhà cách mạng cộng sản là trường hợp ngoại lệ vì họ không có tư tưởng tiến bộ mà chỉ khai thác các bất mãn xã hội đương thời để cướp chính quyền. Lê-nin, người sáng lập ra nhà nước cộng sản đầu tiên trên thế giới chỉ là một nhà cách mạng không có tư tưởng. Lê-nin đã vay mượn chủ nghĩa cộng sản của Marx và Engels (là hai triết gia hoang tưởng người Đức). Nếu không có Lê-nin thì chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể nằm trên giấy, trong các thư viện cũ ở Châu Âu. Các nước cộng sản tồn tại một thời gian ngắn rồi kết thúc vì tư tưởng dẫn đường của nó là độc hại, hoang tưởng và chống lại con người. Phan Châu Trinh là một nhà cách mạng vĩ đại của Việt Nam, rất tiếc là ông đã không vượt qua được bức tường tâm lý nô lệ của văn hóa Khổng giáo đã ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam.

3. Các chính trị gia

Là những người hoạt động chính trị chuyên nghiệp theo một tư tưởng hay đường lối nào đó. Họ có thể thuộc đảng cầm quyền hoặc có thể thuộc các đảng đối lập trong một quốc gia. Nhiệm vụ của họ là nắm vững tư tưởng của tổ chức để thuyết phục người dân ủng hộ các đề nghị về cách thức quản trị quốc gia mới mà đảng của họ đưa ra để dành chiến thắng trong các cuộc bầu cử và cuối cùng là thực thi những lời hứa mà họ đã đề nghị trước đó. Chính trị gia là những người làm chính trị chuyên nghiệp thuộc một đảng chính trị nên cần có chuyên môn và sự hiểu biết cao hơn người dân thường, ngoài ra họ còn cần có khả năng hùng biện để thuyết phục người dân. Hiện tại Việt Nam rất thiếu tầng lớp này vì các đảng đối lập đang còn trong giai đoạn hình thành và phát triển còn quan chức của đảng cộng sản thì không phải là các chính trị gia mà chỉ là ‘những kẻ cai trị’. Kiến thức của họ còn tệ hơn cả dân thường, nói năng hàm hồ và thiếu trí tuệ.

4. Những người dân có thái độ chính trị rõ ràng

Đa số họ là những người có hiểu biết trên trung bình, quan tâm đến chính trị và ủng hộ cho một đảng chính trị nào đó. Họ đồng ý và chia sẻ với những đề nghị cụ thể và rõ ràng của một đảng chính trị mà họ tin là sẽ mang lại quyền lợi cho họ và cho đất nước. Họ không thể tham gia vào các tổ chức chính trị vì công việc và nghề nghiệp của họ đã chiếm hết thời gian. Đây là lực lượng dân chúng quyết định cho sự thành bại của các đảng chính trị. Thuyết phục được tầng lớp này thì cơ hội trở thành đảng cầm quyền gần như là chắc chắn.

5. Những người dân không quan tâm đến chính trị

Thành phần này chiếm đa số trong xã hội và có thể lên tới 50-60%. Đây là thực tế mà xã hội nào cũng có kể cả ở các nước dân chủ lâu đời ở Châu Âu. Ví dụ, tại nhiều quốc gia có qui định rằng một cuộc bầu cử chỉ hợp lệ khi số cử tri đi bầu trên 60% chẳng hạn. Những người này có nhiều lý do để không quan tâm đến chính trị, ví dụ như những người có tâm lý nổi loạn hay cực hữu, họ chống tất cả các đảng phái chính trị. Cũng có người vì không tin vào bất cứ chính trị gia nào nên không ủng hộ ai… Đó chính là hệ quả của tính đa nguyên trong mọi xã hội. Đừng quên rằng tại các quốc gia dân chủ và văn minh nhất trên thế giới như Mỹ, Nhật vẫn có đảng cộng sản tồn tại và hoạt động. Mọi cố gắng để ‘thuyết phục’ tầng lớp này đều vô ích và không cần thiết.

Nhìn vào 5 thành phần nói trên thì có thể thấy được rằng gần như mọi suy nghĩ của những người Việt Nam đang tranh đấu cho dân chủ cho rằng đối tượng cần ‘khai dân trí’ nhất là thành phần thứ 5, tức là những người không quan tâm đến chính trị. Đáng buồn thay, thành phần này lại là thành phần không cần ai khai trí cho họ cả vì họ không có nhu cầu đó. Từ lúc Phan Châu Trinh đưa ra lời kêu gọi ‘khai dân trí’ đến nay ngót ngét đã gần một thế kỷ mà thành phần này chỉ có tăng lên chứ không hề giảm xuống. Ví dụ dễ thấy nhất là những câu chuyện tào lao trên mạng hay những câu phát biểu vu vơ của một ngôi sao nào đó thì có hàng trăm ngàn lượt thích (like) và chia sẻ trong khi những bài viết về thời sự hay chính trị quan trọng chỉ có vài chục người thích.

Không thể trách người dân vì rằng làm chính trị luôn là quan tâm của một thiểu số nhỏ.

Quay trở lại câu hỏi ‘dân trí người Việt cao hay thấp ?’, nếu chúng ta tạm không tính đến thành phần thứ năm (là những người hoàn toàn không quan tâm đến chính trị) thì có thể khẳng định rằng dân trí Việt Nam đủ cao để chuyển hóa Việt Nam về hướng dân chủ. Vậy tại sao Việt Nam vẫn chưa có dân chủ ? Có lẽ nguyên nhân là do chúng ta đã nhầm lẫn trong tư duy của mình. Thành phần cần ‘khai trí’ là tầng lớp ‘có hiểu biết’ chứ không phải thành phần ‘thiếu hiểu biết’. Thành phần đó gồm thành phần thứ 2 (các nhà cách mạng), thứ 3 (các chính trị gia) và 4 (những người dân có thái độ chính trị rõ ràng). Thành phần thứ nhất (các nhà tư tưởng) và thứ 5 (những người không quan tâm chính trị) không cần khai sáng.

Câu hỏi quan trọng nhất để kết thúc bài viết là ‘khai cái gì ?’ Vấn đề quan trọng và cấp thiết nhất với Việt Nam trong lúc này là các vấn đề liên quan đến thể chế chính trị và vì thế chỉ có các giải pháp chính trị mới tạo ra được sự thay đổi. Việc cách chức ông Đinh La Thăng hay Nguyễn Xuân Anh không giải quyết được vấn đề gì. Chính trường cũng như thương trường, phải có sự cạnh tranh mới có sự tiến bộ. Phải có các đảng chính trị mới xuất hiện công khai để cạnh tranh với đảng cộng sản thì mới có thể tạo ra được sự thay đổi.

‘Khai trí’ quan trọng và cần thiết nhất trong lúc này là thuyết phục những người quan tâm đến chính trị thay đổi tư duy của mình bằng cách ủng hộ cho các đảng chính trị đã có hoặc thành lập ra các đảng chính trị mới để cùng nhau cạnh tranh với đảng cộng sản. Đấu tranh chính trị là phải có tổ chức và một tổ chức chính trị thì phải có ‘tư tưởng chính trị’ và ‘đội ngũ chính trị’.

Khi nào người Việt hiểu ra điều đó thì Việt Nam sẽ có sự thay đổi. Mọi đề nghị, yêu cầu hay tuyên bố này nọ đều vô ích vì sẽ bị chính quyền ném vào sọt rác. Không có lực lượng hậu thuẫn thì mọi kiến nghị đều vô ích và vô nghĩa.

Các nghiên cứu cho thấy rằng chỉ cần 3 đến 3,5% dân chúng ủng hộ cho một cuộc cách mạng là cuộc cách mạng đó có thể thành công. Việt Nam có thừa những người khao khát dân chủ như vậy, tiếc rằng cách vận động và tiếp cận của chúng ta bấy lâu nay là chưa đúng hướng.

Tầng lớp trí thức tranh đấu và dấn thân cho dân chủ Việt Nam cần xác quyết với nhau rằng đấu tranh chính trị luôn là đấu tranh giữa các tổ chức chính trị với nhau chứ không phải giữa các cá nhân. Vấn đề khai dân trí quan trọng nhất bây giờ là hãy đồng thuận và xác quyết với nhau rằng : Phải tranh đấu có tổ chức. Nếu có được một tổ chức chính trị dân chủ đối lập hùng mạnh thì chúng ta nhất định sẽ buộc được đảng cộng sản Việt Nam ngồi vào bàn đàm phán để chuyển hướng Việt Nam về dân chủ.

Việt Hoàng

(06/10/2017)

Published in Quan điểm

Những năm đầu thế kỉ XX báo hiệu một bước ngoặt lớn của lịch sử nước nhà về mọi mặt : chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội do tác động trực tiếp và sâu bền của công cuộc duy tân mà cụ Phan và các bạn đồng chí hướng cùng gây thành một phong trào quần chúng sâu rộng.

pct0

Phan Chu Trinh là lãnh tụ tiên phong của phong trào duy tân Việt Nam

Phong trào duy tân dấy lên sôi động trong một thời gian ngắn, từ năm 1905 đến 1908. Dù nhìn từ những góc độ nào, các nhà bình luận đều công nhận cụ Phan là lãnh tụ tiên phong của phong trào duy tân Việt Nam (chẳng hạn, ý kiến của học giả Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Xuân) (1). Từ ngày cụ Phan qua đời đến nay đã 88 năm rồi mà xem chừng hậu thế vẫn chưa khép lại những lời cái quan định luận. Bao nhiêu giấy mực xem ra vẫn chưa đủ nói về một con người đã nằm xuống, bao nhiêu lời tranh luận phát xuất từ nhiều góc nhìn xem chừng vẫn chưa ngã ngũ. Các nhà bình luận có thể đồng ý với nhau đến chừng mức như vậy, sau đó thì các ý kiến có vẻ phân tán : người thì bảo rằng chủ trương của cụ Phan là không tưởng (Phạm Văn Sơn) (2), người thì cho rằng cụ Phan đã thất bại trong việc lãnh đạo phong trào duy tân đến đích sau cùng của nó là làm thay đổi đất nước sang bước ngoặt mới (Huỳnh Lý)(2).

pct1

Từ ngày cụ Phan qua đời đến nay đã 88 năm rồi mà xem chừng hậu thế vẫn chưa khép lại những lời cái quan định luận.

Xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng về mọi mặt : (a) về mặt chính trị, đất nước dần mất chủ quyền vào tay thực dân Pháp. Công cuộc cần vương và văn thân đã bị đàn áp và tiêu trầm ; (b) về mặt kinh tế thì thực dân Pháp bắt đầu khống chế và khai thác thuộc địa ; (c) về mặt văn hoá, Nho học bị mất dần vai trò ý thức hệ chủ đạo. Chính trong thời gian này, làn sóng "tân thư" từ Trung Hoa tràn qua đã góp phần thức tỉnh một số nhà nho có ý thức cấp tiến. Kết quả là tại kinh đô Huế những năm ấy đã chuyền tay nhau bản luận văn "Thiên hạ đại thế luận" do nhà nho Nguyễn Lộ Trạch biên soạn. Năm 1903, khi vào kinh nhận chức quan thừa biện bộ Lễ tại Huế, cụ Phan đã sớm được đọc và tâm đắc với những luận điểm mới mẻ của thiên đại luận này. Những tư tưởng mới do tân thư đem lại đã sớm đưa cụ Phan và những nhà nho cấp tiến cùng thế hệ dứt khoát từ bỏ quan trường của chế độ phong kiến đương thời và đề xướng con đường duy tân mà các cụ tin tưởng sẽ đem lại tương lai mới cho đất nước.

Thế là cụ Phan và hai người bạn đồng chí hướng là hai ông nghè Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp lên đường hô hào duy tân. Cơ duyên đầu tiên để phát động phong trào là tại trường thi khảo hạch Bình Định. Ba nhà trí thức trẻ học vấn uyên thâm đã làm kinh động quan khảo hạch cùng sĩ tử trong trường thi khi được nghe đọc quyển văn gồm có bài thơ "Chí thành thông thánh" và bài phú "Danh sơn lương ngọc" do chính ba nhà khoa bảng trẻ giả dạng làm một nho sinh vào trường khảo hạch. Quyển văn của ba vị khoa bảng thác danh là Đào Mộng Giác này đã công khai hô hào cảnh tỉnh học trò sĩ tử còn mê muội với từ chương thi phú, ham công danh quên đất nước đang chìm trong vòng nô lệ. Khi chính quyền địa phương truy lùng tác giả các bài trên thì các cụ đã rời trường thi mà tới Nha Trang trong nỗ lực tổ chức những hoạt động duy tân.

Sau chuyến nam du ấy, các cụ Phan, Huỳnh và Trần đã liên lạc với một số nhà nho trẻ và tiến bộ tại các nơi ba vị qua, nhằm mục đích thành lập các cơ sở doanh nghiệp, mở trường học chú trọng thực nghiệp, và tổ chức các nền nếp sinh hoạt theo tinh thần mới. Cơ sở nước mắm Liên Thành ra đời tại Phan Thiết, hàng loạt các cơ sở làm kinh tế hợp tác ra đời tại Quảng Nam : các thương hội, dệt các thứ vải dày có thể may âu phục. Cụ Phan đích thân làm gương cắt may, mặc bộ đồ tây bằng vải nội, hàng vải tơ lụa nội hóa được cải tiến. Lúc đó, làng Bảo An (Ðiện Bàn) nổi tiếng dệt đẹp, có thể cạnh tranh với tơ lụa Trung Hoa. Lần lượt các nông hội phát triển tại Yến Nê (Ðiện Bàn) rộng chừng 20 mẫu, trồng khoai, sắn, bắp, cho trồng cây dương liễu để cản gió theo hai bên bờ sông. Mỹ Sơn (Duy Xuyên) rộng khoảng 40 mẫu trồng hoa màu và cấy lúa, Bửu Sơn (Ðại Lộc) khai phá nông trường để trồng lúa.

Các thương hội lần lượt được tổ chức có phương pháp đã đạt những thành quả tốt, như thương hội Phong Thử (Ðiện Bàn) do Phan Thúc Duyện trông coi, địa điểm thuận lợi cho việc giao thông bằng đường thủy ghe lớn có thể cập bến được, tấp nập người đến buôn bán. Hội An thương cuộc do ông bang Kỳ Lam phụ trách bán đủ loại sĩ và lẻ các mặt hàng vải, gạo, đường, quế. Đặc biệt là các cơ sở thương nghiệp này cũng làm ăn theo cung cách mới : trên các món hàng bày bán đều có định giá rõ ràng, người bán hàng lịch sự tiếp khách… Phong trào duy tân tại Quảng Nam những năm ấy đã xây dựng được một cơ sở điển hình làm ngọn cờ đầu tại Phú Lâm (Tiên Phước) do Lê Cơ (1870-1918) tổ chức chương trình khuyến kích công thương nghiệp, chỉnh đốn cơ sở chính quyền, cơ sở giáo dục và sinh hoạt xã hội theo hướng duy tân.

Những thành tựu đầu tiên tại Quảng Nam đã từ từ ảnh hưởng đến thay đổi sinh hoạt khắp nơi. Tại Nghệ An lúc ấy cũng đã hình thành cơ sở duy tân với những thương hội do các nhà nho cấp tiến như ông nghè Ngô Đức Kế dẫn đầu. Các nhà nho tiến bộ tại Hà Nội đứng ra khuếch trương thương nghiệp là ông Ðỗ Chân Thiết mở hiệu Ðồng Lợi Tế ở phố Mã Mây, mở tiệm thuốc Bắc Tụy Phương ở phố Hàng Cỏ, Hoàng Tăng Bí mở hiệu Ðông Thành Xương ở Hàng Gai. Tại Sài Gòn có Minh Tân Khách Sạn của ông Phủ Chiếu.

Ngoài các cơ sở nông hội và thương nghiệp, phong trào duy tân còn là cuộc cách mạng lớn trên mọi lãnh vực đầu thế kỉ 20. Các trường dạy thêm chương trình chữ quốc ngữ lan rộng trên khắp nẻo đường đất nước. Cao điểm của hoạt động văn hóa giáo dục duy tân là việc mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội năm 1907.

Sau chuyến bắc du ra Nghệ An và Hà Nội, cụ Phan đã sang Nhật qua đường dây Đông du để đích thân điều nghiên tình hình công cuộc Đông du cầu ngoại viện của cụ Phan Bội Châu. Từ chuyến Nhật du trở về, cụ Phan đã gửi một bức thư dài đề ngày 01/10/1906, gửi Toàn quyền Beau, nội dung phê phán đường lối cai trị cùa nhà đương cục. Cụ Phan nêu ra ba nguyên nhân dẫn đến tình cảnh bi đát của nước nhà buổi ấy, ấy là : (a) chính phủ Bảo hộ dung túng quan lại Việt Nam thành ra cái tệ "cô tức" ; (b) chính phủ khinh rẻ dân Việt Nam thành ra cái tệ xa cách ; (c) các quan lại Việt Nam nhận ra cái tệ xa cách ấy mà thành ra cái tệ hà hiếp dân. Bức thư này thường được sách vở gọi là "Đầu Pháp chính phủ thư", đưa ra một số đề nghị cải cách lề lối cai trị theo hướng khai hóa dân trí, mở mang giáo dục và chấn chỉnh chế độ quan lại. Bức thư này có thể xem là mở đầu cho hàng loạt nỗ lực nêu cao chủ trương "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" mà cụ Phan bền bỉ theo đuổi suốt đời. Bức thư năm 1906 của cụ Phan sau đó cũng được chuyền tay khắp nơi, đã gây chấn động trong công chúng cũng như giới quan lại.

Chỉ trong một thời gian ngắn, ba năm (1905-1907), các cơ sở công thương và nông nghiệp, trường học đã dấy lên làn sóng duy tân cao độ, khiến nhà nước bảo hộ lo ngại. Khi phát khởi phong trào nông dân biểu tình kháng thuế tại Trung kì năm 1908, nhà nước bảo hộ đã nhân cơ hội này ra tay trấn áp dữ dội, bắt bớ các nhà nho bị xếp vào sổ đen những người cầm đầu phong trào dân chúng có hành vi bạo động phản kháng chính quyền bảo hộ qua cuộc biểu tình rầm rộ mà sử sách gọi là cuộc "Trung Kì Dân Biến". Cụ Phan và hàng loạt các nhà nho lãnh đạo phong trào duy tân mới dấy khởi lần lượt bị bắt bớ, và xử án rất nặng, hoặc là đày ra Côn Đảo (cụ Phan và rất đông các vị lãnh đạo phong trào tại khắp nơi), hoặc bị xử chém (cụ nghè Trần Quý Cáp, Trần Thuyết, Ông Ích Đường...). Sau đợt bắt bớ tù đày đó là cuộc khủng bố toàn diện nhằm mục đích xóa bỏ mọi dấu vết của phong trào duy tân vừa phát khởi và còn non trẻ.

Dầu vậy, ngọn lửa duy tân không hề tắt. Do kết quả của các vận động trong công luận Pháp thông qua các nhà trí thức hoạt động trong Hội Nhân Quyền Pháp, cụ Phan và các vị lãnh đạo phong trào duy tân lần lượt được trở về đất liền. Cụ Phan đã chọn con đường sang Pháp đấu tranh tại chính xứ sở của cuộc cách mạng dân quyền. Từ đây cụ Phan bắt đầu những ngày tháng hoạt động duy tân tại đất Pháp.

pct3

Cụ Phan và hàng loạt các nhà nho lãnh đạo phong trào duy tân lần lượt bị bắt nhưng ngọn lửa duy tân không hề tắt

Ngay từ những buổi đầu tại Paris, cụ Phan liên kết được với một số nhà trì thức Việt Pháp để cùng hoạt động. Cụ Phan cùng Phan Văn Trường trở thành cột trụ của phong trào Việt Kiều tại Pháp trong buổi đầu. Hai vị soạn các bản điều trần gởi cho chính phủ Pháp, nêu rõ tình cảnh Việt Nam dưới chế độ bảo hộ Pháp : không có tự do, bị bắt bớ tù đày... Cụ Phan soạn "Trung Kỳ Dân Biến Thỉ Mạt Kí", Jules Roux dịch sang Pháp văn để đệ trình chính phủ Pháp nhằm kêu oan cho Trần Quý Cáp và nỗi oan ức của người Việt bị trấn áp sau đợt dân chúng biểu tình xin giảm sưu thuế tại Trung kì, gửi thư phản đối chính sách bảo hộ tại Việt Nam.

Trong 14 năm hoạt động tại Pháp, cụ Phan không ngừng vận động trong giới kiều bào tại Pháp cùng dư luận bản xứ trong nỗ lực vận động duy tân cho nước nhà. Cụ Phan cùng các bạn Việt Pháp dùng phương tiện báo chí, diễn thuyết để hoạt động liên tục trong thời gian này. Lần lượt, cụ Phan và nhóm bạn kiều bào trong Hội đồng bào thân ái tại Paris đã liên tục có những hoạt động theo chủ trương duy tân. Năm 1913, cụ viết báo phản đối việc làm thiếu đạo đức của Khâm sứ Mahé trong việc đào lăng vua Tự Ðức tìm vàng, đi diễn thuyết trong tập thể kiều bào, kêu gọi lòng yêu nước hướng về quê hương và thường tiếp xúc với người Pháp có lòng nhân đạo bác ái, bày tỏ nguyện vọng của mình và chỉ trích chính sách cai trị tàn ác của Pháp ở Ðông Dương...

Năm 1919, Cụ Phan và luật sư Phan Văn Trường đưa ra bản yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Versailles năm 1919 mà yêu sách thứ 3 có liên quan đến quyền tự do báo chí và tự do tư tưởng.

Suốt đời, cụ Phan cho rằng quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận là tiền đề để thực hiện các quyền tự do căn bản khác của người dân. Ta biết rằng khi về nước diễn thuyết về "Đạo đức và luân lý Đông Tây", cụ có nói thế này : "…chí như đời bây giờ được tự do ngôn luận, được tự do xuất bản, được tự do diễn thuyết thì những người ra lo việc nước, việc đời bên họ biết là bao nhiêu."

Một chi tiết khác dưới đây cũng cho thấy thêm niềm xác tín của cụ Phan về quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng : khoảng những năm 1922-1923, cụ Phan và một bạn Việt kiều tên là Trần Lê Luật có ý định thành lập một "diễn đàn" của người Việt tại Paris. Bản kế hoạch lập "Việt kiều diễn đàn" cho rằng : "Diễn thuyết không bằng cách ‘định luận’, nghĩa là lời diễn thuyết dù phải dù chẳng (phải) không ai được cãi lại, nhưng dùng cách ‘nghịch luận’ để ai nấy được tự do biện luận cho xác lẽ phải chăng". Điều này cho thấy cụ Phan đã đi sớm trước thời đại mình và xây dựng một quan niệm về đa nguyên tư tưởng rất phù hợp với phương pháp tư duy khoa học hiện đại.

Nhân chuyến du hành của vua Khải Định sang Pháp dự cuộc đấu xảo tại Marseilles năm 1922, cụ Phan biện soạn một bức thư dài mà về sau được gọi là "Thư thất điều", gửi cho vua, trong đó cụ hài ra bảy tội lớn của ông vua bù nhìn này : (1) tôn quân quyền, (2) thưởng phạt không công bình, (3) chuộng sự quỳ lạy, (4) xa xỉ vô đạo, (5) phục sức không đúng phép, (6) du hạnh vô độ, (7) sự ám muội trong việc Pháp du. Kết thư, cụ Phan cho rằng không những vua xứng đáng bị phế truất mà chính cái chế độ "quân chủ hiện tại phải truất, mà xét đến nguồn gốc nguyên nhân sâu xa, thời quân chủ các thời đã qua cũng không tránh khỏi búa rìu công luận của quốc dân vậy".

Bức thư dài này sẽ hô ứng rất nhịp nhàng với những luận đề chính mà cụ Phan nêu ra trong hai bài diễn thuyết tại Sài Gòn năm 1925, khi cụ về tới Sài Gòn : "Đạo đức và luân lý Đông Tây" và "Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa".

Trong những công trình biên soạn thời gian 14 năm tại Pháp và thời gian về tại Sài Gòn, cụ Phan đã lần lượt đưa ra những nét lớn về quan niệm đầy đủ của mình về công cuộc duy tân đất nước toàn diện và triệt để. Công cuộc ấy vẫn thuỷ chung như nhất với chủ trương ban đầu từ những năm xưa, khi vừa dấy khởi phong trào duy tân : "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh".

Thật vậy, nếu trong những năm đầu khi mới phát động duy tân ở quê nhà, cụ Phan chỉ mới kịp đưa ra những tuyên cáo cùng quốc dân về những tệ trạng của đất nước trong chế độ bảo hộ thuộc địa Pháp, và hô hào duy tân cải cách để phế bỏ nguyên do đầu tiên và cuối cùng của tệ trạng ấy (là văn hóa ngu dân nấp dưới vỏ Nho học suy đồi, chế độ quan trường hủ lậu), thì trong thời gian 14 năm tại Pháp, cụ Phan đã có nhiều dịp khai triển rõ thêm những quan niệm chủ trương lớn, làm nên một cương lĩnh chính trị mà cụ theo đuổi cho đến cuối đời. Bàng bạc trong một loạt các công trình biên soạn trong thời gian này, gồm có "Tỉnh quốc hồn ca" (bài 2), Yêu sách 8 điểm gửi hội nghị Versailles, "Thư thất điều", "Pháp Việt liên hợp hậu chi Tân Việt Nam", "Đông dương chính trị luận", "Đạo đức và luân lý Đông Tây" và "Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa", có thể nói cụ Phan đã đề ra những chủ trương lớn cho một khung chính trị tương lai cho một nước Việt Nam thời duy tân. Trong một nỗ lực nhận diện bước đầu, một nhà hoạt động dân quyền thời hiện đại đã nêu lên những nét chính của cương lĩnh chính trị duy tân này (3). Đáng chú ý là những nét lớn về một cương lĩnh chính trị như kể trên, đặt vào thời điểm những thập niên đầu thế kỉ XX, khi mà cả nước đang chìm đắm trong màn đêm phong kiến & thuộc địa, có thể nhận ra tính chất cách mạng của chủ trương chính trị duy tân do cụ Phan đề ra. Rồi đây, khi cụ Phan qua đời, những trí thức trẻ về sau như Nguyễn An Ninh và Phan Khôi... tiếp tục cổ vũ trên các diễn đàn báo chí trong Nam do các vị này bỉnh bút.

Chúng ta cũng lại biết rằng, bánh xe lịch sử đã ngăn trở việc thực hiện rốt ráo những chủ trương chính trị duy tân. Khi đất nước giành lại được độc lập từ tay Pháp, năm 1945, nhà nước dân chủ cộng hoà đã thiết lập một chế độ chính trị khác với giấc mơ duy tân Việt Nam mà cụ Phan và các bạn đồng chí đề ra từ những năm đầu thế kỉ.

Theo quan điểm của nhà nước dân chủ nhân dân tại miền Bắc trong giai đoạn 1945 trở về sau, quan điểm duy tân của cụ Phan và các nhà nho cấp tiến đầu thế kỉ XX bị xem là chủ trương chính trị ảo tưởng (vì muốn đòi được tự trị trong tay thực dân Pháp), cải lương nửa vời theo chủ nghĩa dân chủ tư sản dân quyền Pháp trong khi thời đại đã tiến qua kỉ nguyên dân chủ vô sản (4). Tại miền Nam, trong thời kì chia cắt 1954-1975 cũng có những nhà phê bình cho rằng chủ trương chính trị của cụ Phan là không tưởng (2).

Tuy nhiên, lí luận dù được mệnh danh là khoa học đến đâu thì cũng không qua được thực tiễn cuộc sống. Kể từ khi phong trào duy tân dấy khởi đến nay đã hơm 100 năm, đất nước chúng ta đã trải qua bao nhiêu biến chuyển. Các chế độ cộng hoà nối tiếp nhau trên đất nước ta từ 1945 đến nay không những đã không tạo lập được những chế độ xã hội theo ước nguyện của thế hệ những nhà nho duy tân, mà ngược lại, có thể nói không ngoa rằng cho đến ngày nay, đất nước chúng ta vẫn nguyên vẹn là một xã hội chìm đắm trong đêm trước của một cuộc duy tân đúng nghĩa.

Nói như nhà văn Nguyên Ngọc khi dẫn lại một nhận định của một nhà sử học Pháp, những nan đề xã hội Việt Nam vẫn như còn nguyên vẹn sau hơn trăm năm nay (5). Có thể thay nhóm từ nói về chế độ quân chủ hủ bại và chế độ thực dân thuộc địa Pháp trong các tác phẩm của cụ Phan bằng các từ ngữ liên quan đến xã hội hiện tại, chúng ta có thể vẫn nhận ra những nét tương đồng khá lớn của xã hội Việt Nam cách nhau hàng trăm năm. Vẫn là xã hội nhiều tệ nạn, giới cầm quyền ham mê quyền chức mà không vì dân vì nước, vẫn là một nền giáo dục giáo điều, nhồi nhét xa rời thực tiễn...

Sau những năm tháng dài sống trong chế độ toàn trị, ngày hôm nay, thế hệ thanh niên sinh viên Việt Nam đã và đang trui rèn để vượt qua nỗi sợ mà giúp nhau chấn dân khí trong thời đại mới. Nhưng như thế vẫn chưa nói đủ bức tranh duy tân của thời đại hôm nay, nếu chúng ta dừng lại ở đấy. Không, cụ Phan đã một đời dấn thân hoạt động nhiều mặt, từ viết sách, diễn thuyết, vận động chính trị, xây dựng tổ chức hoạt động chính trị duy tân bất bạo động. Chính cụ đã không ngần ngại tự nhận mình là một "nhà hoạt động chính trị ở vương quốc An Nam". Cuộc vận động chính trị duy tân ngày hôm nay đang diễn ra dưới dạng thức cập nhật của thời đại. Cũng vẫn là chủ trương khai dân trí và chấn dân khí, các nhóm bạn blogger, những hội quần chúng tại khắp nơi nơi đang xây đắp nền móng cho hoạt động xã hội dân sự. Thế hệ hôm nay đang học tập để vận dụng những sách lược đấu tranh đa dạng mà thế hệ cụ Phan đã từng vận dụng, để thích ứng với hoàn cảnh đất nước hiện tại. Nhà nước toàn trị hiện nay cũng như chính phủ bảo hộ trăm năm trước, ra sức trấn áp hoạt động xã hội dân sự, cũng vì họ rất lo ngại tầm ảnh hưởng của những "diễn biến hoà bình" theo tinh thần duy tân mà cụ Phan đề xướng từ trăm năm trước.

Xem vậy thì những gì cụ Phan ấp ủ trăm năm trước đến nay vẫn còn tính cách rất mới, rất bức thiết, đòi hỏi quốc dân phải suy ngẫm lại để tiếp tục con đường duy tân ngõ hầu đưa đất nước đi đến phồn vinh và văn minh thật sự. Ngày nay, trên khắp vùng đất nước cũng như tại hải ngoại, phương tiện truyền thông hiện đại đang góp phần của nó trong việc phát huy chủ trương khai dân trí và chấn dân khí, giúp cho thế hệ trẻ tuổi nắm bắt đúng mạch đập của thời đại để nhận ra những gì cụ Phan và thế hệ duy tân đầu tiên đưa ra đến nay vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự của nó. Đây chính là những dấu hiệu đáng mừng cho công cuộc duy tân dở dang mà cụ Phan còn để lại cho thế hệ chúng ta.

Đoàn Xuân Kiên

Chú thích :

(1) Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh Nghĩa Thục. Nxb. Lá Bối, 1967 ; Nguyễn Văn Xuân, Phong trào duy tân. Nxb. Lá Bối, 1971

(2) Xem : Huỳnh Lý, mục từ Phan Châu Trinh trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004 ; Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Q. 5, tập Trung). Tác giả tự xuất bản, 1963.

(3) Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975, trang 120.

(4) Xem : Mai Thái Lĩnh, "Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh", Talawas, 02/11/2010

(5) Nguyên Ngọc, "Xây dựng con người tự chủ, để dân tộc tự chủ, chương trình vĩ đại bị dở dang của Phan Châu Trinh", Diễn Đàn, 22/03/2011.

Published in Văn hóa